MỤC LỤC
MỤC LỤC……………………………………………………………….
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT…………………………………….
DANH MỤC CÁC BẢNG……………………………………………...
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………...
1
4
6
7
1.Tính cấp thiết của đề tài 7
2.Mục đích nghiên cứu 8
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
4.Phương pháp sử dụng nghiên cứu 8
5.Kết cấu đề tài 9
Chương I: Tổng quan về suy thoái kinh tế toàn cầu và những ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu nông sản 10
I. Vài nét về suy thoái kinh tế toàn cầu 10
Lý luận chung về suy
78 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1502 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thoái kinh tế 10
Thực trạng suy thoái kinh tế toàn cầu 12
Tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu vào Việt Nam 14
II. Những ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu đến hoạt động xuất khẩu nông sản 17
Đối với các yếu tố cung 17
Đối với các yếu tố cầu 18
III. Kinh nghiệm của một số quốc gia về hoạt động xuất khẩu nông sản trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu. 19
Thái Lan 19
Ấn Độ 19
Các nước Mỹ La tinh 20
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu 23
Đặc trưng của nông sản Việt Nam 23
Thực trạng hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu. 25
Tình hình xuất khẩu nông sản nói chung 25
Xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu. 30
Vị thế của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới. 33
Đánh giá thực trạng về hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu 40
Những thành tựu đạt được 40
Những hạn chế 45
Nguyên nhân 48
Nguyên nhân của những thành công 48
Nguyên nhân của những hạn chế 50
Chương III: Một số giải pháp phát triển xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu. 53
Dự báo xuất khẩu nông sản Việt Nam giai đoạn 2010- 2020 53
Quan điểm phát triển xuất khẩu nông sản Việt Nam giai đoạn 2010-2020 55
Một số giải pháp phát triển xuất khẩu nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu 57
Xây dựng cơ sở pháp lý và chính sách phát triển thương mại nông sản 57
Nghiên cứu và đề xuất các chính sách và chương trình phát triển xuất khẩu nông sản trong phạm vi ngành nông nghiệp 59
Hoàn thiện kết cấu hạ tầng hỗ trợ phát triển xuất khẩu nông sản 59
Tăng cường hệ thống thu thập, xử lý thông tin thương mại 60
Tăng cường năng lực bộ máy phân tích và dự báo ngắn hạn và trung hạn thương mại và thị trường nông sản 62
Đẩy mạnh và phát huy hiệu quả hợp tác quốc tế trong phát triển thương mại nông nghiệp 62
Các giải pháp khác 64
Kết luận 73
Danh mục các tài liệu tham khảo………………………………………
74
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
AGROINFO
:
Trung tâm Thông tin phát triển nông nghiệp – nông thôn
AFTA
:
Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN
APEC
:
Tổ chức Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á- Thái Bình Dương
ATVSTP
:
An toàn vệ sinh thực phẩm
Bộ NN&PTNT
:
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
CEPAL
:
Ủy ban Kinh tế Mỹ Latinh
CIS
:
Trung tâm tin học và thống kê
Cục CB TM NLTS&NM
:
Cục Chế biến Thương mại Nông-lâm-thủy sản và Nghề Muối
FAS
:
Hiệp hội Khoa học gia Hoa Kỳ
FDI
:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FPI
:
Đầu tư gián tiếp nước ngoài
EU
:
Liên minh châu Âu
HTX
:
Hợp tác xã
GDP
:
Tổng sản phẩm quốc nội
NBER
:
Cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia của Hoa Kỳ
OECD
:
Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển
RCA
:
Revealed comparative advantage – Lợi thế so sánh biểu hiện
TTCKVN
:
Thị trường chứng khoán Việt Nam
TCHQ
:
Tổng cục Hải quan
Trung tâm Thông tin PT NNNT
:
Trung tâm Thông tin Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
UN
:
Liên hợp quốc
USDA
:
Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ
VICOFA
:
Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam
Viện CS&CL PT NNNT
:
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn
WB
:
Ngân hàng thế giới
WTO
:
Tổ chức Thương mại Thế giới
XTTM
:
Xúc tiến Thương mại
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu năm 2009 so với năm 2008 26
Bảng 2.2: Xuất khẩu nông sản chủ yếu của Việt Nam 29
Bảng 2.3: Xuất khẩu gạo của các nước xuất khẩu chính 34
Bảng 2.4: Sản lượng cà phê thế giới đến năm 2009 35
Bảng 2.5: Sản xuất cao su tự nhiên của một số nước sản xuất chủ yếu 37
Bảng 2.6: Kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu sang 15 thị trường Chính
năm 2008 38
Bảng 2.7: Một số các mặt hàng nông sản có kim ngạch lớn trong giai đoạn
2001-2008. 41
Bảng 3.1: Dự báo xuất khẩu một số mặt hàng nông sản giai đoạn
2010-2020…………………………………………………………………..
54
LỜI MỞ ĐẦU
Đặt vấn đề
Trong thời đại ngày nay, các nước trên thế giới có những cơ chế, chính sách tạo điều kiện nhằm khuyến khích xuất khẩu, từ đó tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Hoạt động xuất khẩu chính là một phương tiện để thúc đẩy phát triển kinh tế, là một vấn đề quyết định và không thể thiếu được của mỗi quốc gia trong sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Đối với Việt Nam hoạt động xuất khẩu thực sự có ý nghĩa chiến lược trong công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Bởi vậy, trong chính sách kinh tế Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của hoạt động xuất khẩu và coi đó là một trong ba chương trình kinh tế lớn cần tập trung thực hiện.
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, là một nước nông nghiệp trên 60% lực lượng lao động hoạt động trong ngành nông nghiệp, vì thế Đảng và Nhà nước ta đã xác định nông sản là mặt hàng xuất khẩu chiến lược nhằm sử dụng lực lượng lao động rất lớn trong nông nghiệp, phân công lại lực lượng lao động và tạo nguồn ban đầu cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu đã có những tác động mạnh đến nền kinh tế thế giới, khu vực cũng như Việt Nam, do vậy đòi hỏi Việt Nam phải có những điều chỉnh về bộ máy tổ chức, cơ chế vận hành và hệ thống chính sách cho phù hợp với tình hình kinh tế nhằm mở rộng thị trường cũng như giảm thiểu các rủi ro do khủng hoảng đem lại.
Cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới bắt đầu từ cuối năm 2007 vẫn đang diễn ra phức tạp, khiến cho xu hướng phát triển của kinh tế trong nước và thế giới trở nên khó dự đoán hơn. Kinh tế trong nước và thế giới bị suy giảm tăng trưởng, nhu cầu tiêu dùng hàng nông sản giảm sút. Do vậy, thị trường xuất khẩu và thị trường trong nước của hàng nông sản tiềm ẩn nhiều rủi ro, thách thức.
Nắm bắt được các thách thức của phát triển thương mại trong giai đoạn phát triển mới, sự phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu cũng như đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện hiệu quả của hoạt động xuất khẩu, với sự giúp đỡ của thầy Nguyễn Quang Hiệp em mạnh dạn lựa chọn đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu" làm luận văn tốt nghiệp.
Mục đích nghiên cứu
Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu nhằm
Tình hình tăng hay giảm xuất nhập khẩu nông sản ở Việt Nam
Những thành công và hạn chế
Vị thế của nông sản Việt Nam trên thế giới
Nêu ra một số giải pháp phát triển xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu như
Dự báo xuất khẩu nông sản Việt Nam giai đoạn 2010- 2020
Quan điểm phát triển xuất khẩu nông sản Việt Nam giai đoạn 2010-2020
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong năm 2007-2009
Một số mặt hàng nông sản chủ yếu như gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu…
4. Phương pháp sử dụng nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu qua các phương pháp thống kê, so sánh, thay thế liên hoàn, quan điểm của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới và trên thực tiễn tình hình xuất khẩu nông sản Việt Nam, nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
5. Kết cấu của đề tài
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về suy thoái kinh tế toàn cầu và những ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu nông sản
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu
Chương III: Một số giải pháp phát triển xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ SUY THOÁI KINH TẾ TOÀN CẦU VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN
I. VÀI NÉT VẾ SUY THOÁI KINH TẾ TOÀN CẦU
1. Lý luận chung về suy thoái kinh tế
1.1. Khái niệm:
Suy thoái kinh tế toàn cầu là cuộc suy thoái kinh tế và suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế diễn ra đồng thời ở nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới. Nó có nguồn gốc từ suy thoái kinh tế Hoa Kỳ cuối thập niên 2000 và khủng hoảng tài chính 2007-2010. Mức độ và quy mô của đợt suy thoái này lớn đến mức nhiều người gọi nó Đại Suy thoái.
Suy thoái kinh tế được định nghĩa trong kinh tế học vĩ mô là sự suy giảm của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực trong thời gian hai hoặc hơn hai quý liên tiếp trong năm (hay nói cách khác là tốc độ tăng trưởng kinh tế âm liên tục trong hai quý). Tuy nhiên, định nghĩa này không được chấp nhận rộng rãi. Cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia (NBER) của Hoa Kỳ đưa ra định nghĩa về suy thoái kinh tế còn mập mờ hơn “là sự tụt giảm hoạt động kinh tế trên cả nước, kéo dài nhiều tháng”. Suy thoái kinh tế có thể liên quan sự suy giảm đồng thời của các chỉ số kinh tế của toàn bộ hoạt động kinh tế như việc làm, đầu tư và lợi nhuận doanh nghiệp. Các thời kỳ suy thoái có thể đi liền với hạ giá cả (giảm phát), hoặc ngược lại tăng nhanh giá cả (lạm phát) trong thời kỳ đình lạm.
Một sự suy thoái trầm trọng và lâu dài được goi là khủng hoảng kinh tế. Sự tan vỡ tàn phá nền kinh tế là suy sụp hay đổ vỡ kinh tế.
Các nền kinh tế theo định hướng thị trường có đặc điểm là tăng giảm theo chu kỳ kinh tế, nhưng sự suy giảm thực tế (suy giảm các hoạt động kinh tế) không thường xảy ra. Nhiều tranh luận về việc chính phủ có nên can thiệp để điều hòa kinh tế (học thuyết kinh tế vĩ mô của Keynes), khuyếch đại chu kỳ kinh tế (lý thuyết chu kỳ kinh tế thực), hoặc thậm chí là tạo ra chu kỳ kinh tế (chủ nghĩa tiền tệ).
Một số đặc điểm thường gặp của suy thoái kinh tế là:
Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong các doanh nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả là GDP thực tế giảm sút.
Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm xuống tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm bởi nguyên nhân cầu sút kém. Giá cả dich vụ khó giảm nhưng tăng không nhanh trong giai đoạn kinh tế suy thoái.
Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán thường giảm theo khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh. Cầu về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất cũng giảm xuống trong thời kỳ suy thoái.
1.2. Nguyên nhân của suy thoái kinh tế:
Những nguyên nhân đích thực của suy thoái kinh tế là đối tượng tranh luận sôi nổi giữa các nhà lý thuyết và những người làm chính sách mặc dù đa số thống nhất rằng các kỳ suy thoái kinh tế gây ra bởi sự kết hợp của các yếu tố bên trong (nội sinh) theo chu kỳ và các cú sốc từ bên ngoài (ngoại sinh). Ví dụ, những nhà kinh tế học chủ nghĩa Keynes và những lý thuyết gia theo lý thuyết chu kỳ kinh tế thực sẽ bất đồng về nguyên nhân của chu kỳ kinh tế, nhưng sẽ thống nhất cao rằng các yếu tố ngoại sinh như giá dầu, thời tiết, hay chiến tranh có thể tự chúng gây ra suy thoái kinh tế nhất thời, hoặc ngược lại, tăng trưởng kinh tế ngắn hạn. Trường phái kinh tế học Áo giữ quan điểm rằng lạm phát bởi cung tiền tệ gây ra suy thoái kinh tế ngày nay và các thời kỳ suy thoái đó là động lực tích cực theo nghĩa chúng là cơ chế tự nhiên của thị trường điều chỉnh lại những nguồn lực bị sử dụng không hiệu quả trong giai đoạn “tăng trưởng” hoặc lạm phát. Phần lớn học giả theo thuyết tiền tệ tin rằng những thay đổi triệt để về cơ cấu kinh tế không phải là nguyên nhân chủ yếu; nguyên nhân của các thời kỳ suy thoái ở Mỹ là bởi quản lý tiền tệ yếu kém.
2. Thực trạng suy thoái kinh tế toàn cầu.
Các cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới đã đẩy nền sản xuất bị sa sút nhanh chóng; vốn đầu tư cơ bản bị rút bớt; nạn thất nghiệp tràn lan, nguồn nhân lực bị xáo trộn, rối loạn; đời sống của những người lao động bị xuống cấp; số công ty, hãng, doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, bị phá sản ngày càng nhiều; thị giá cổ phần sụt xuống; lạm phát tăng lên; thị trường chứng khoán rơi tự do, không ít thị trường chứng khoán mất tới 50% giá trị; nguồn dự trữ của nhà nước bị cạn kiệt vì phải bơm tiền vào thị trường; đồng tiền của nhiều quốc gia bị mất giá, phải cầu cứu IMF; bất động sản bị chao đảo; những biến động kinh tế liên tục diễn ra tại nhiều nước, đẩy nền kinh tế của nhiều nước rơi vào suy thoái. Mỹ, Anh, Nhật, Đức,... đều phải gánh chịu hậu quả.
Dư luận Đức hiện nay đang nóng lòng vì cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động khá mạnh đến hệ thống ngân hàng, trong đó, Deutsche Bank, ngân hàng lớn nhất của Đức tuyên bố quý 4-2008, đã lỗ 4,8 tỷ euro. Royal Bank của Scotlen, là một trong 5 ngân hàng lớn nhất thế giới, đã chịu mức thua lỗ 39 tỷ USD lớn nhất trong lịch sử Anh quốc. Nhiều ngân hàng nước ngoài do cần tiền đã bán bớt cổ phần cho các ngân hàng Trung Quốc. Tổng giá trị tài chính toàn cầu giảm 50 nghìn tỷ USD. Trị giá tài sản "tài chính" của châu á đã bị mất đi 9.600 tỷ USD, một khoản tiền cao hơn một năm GDP của toàn châu á. Đồng tiền Hàn Quốc giảm 35% giá trị so với mức bình quân của năm 2006-2007.
Các ngân hàng liên tục bị phá sản. Đến nay, thế giới mất gần 400 tỷ phú USD, từ 1.125 người của năm 2008, đến đầu năm 2009 chỉ còn 793 người. Với 332 người bị loại ra khỏi làng tỷ phú (trong đó có 18 người chết) đã làm cho danh sách các nhà tỷ phú vơi đi tới 30%. Đây là lần đầu tiên, số lượng các nhà tỷ phú lừng danh trên thế giới bị giảm nhanh. Tổng tài sản của các nhà tỷ phú cũng giảm tới 2 nghìn tỷ USD. Điều này, tác động mạnh tới mọi lĩnh vực kinh doanh, từ cổ phiếu, thị trường nguyên liệu, bất động sản, nhà đất, công nghệ, tín dụng đóng băng, sức mua yếu. Có người cho rằng, sự phá sản của các nhà tỷ phú là sự mở đầu của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính lần này.
Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, thế giới đã xảy ra 13 cuộc khủng hoảng (crisis) kinh tế - tài chính lớn vào các năm 1892-1893, 1902-1903, 1916-1921, 1929-1933 (nặng nhất), 1944-1947, 1955-1956, 1961-1962, 1973-1975, 1980-1982, 1990-1992, 1997- 1998, 2000-2001. Cuộc khủng hoảng lần này phát sinh từ cuối năm 2007 và đang còn có những diễn biến hết sức phức tạp.
Đặc điểm của cuộc khủng hoảng lần này là bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính và nó đánh vào tất cả các nước với mức độ cao, thấp khác nhau. Những nước rất ổn định về kinh tế - xã hội như Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Đan Mạch, Na Uy, Phần Lan,..., sự khủng hoảng nhẹ hơn so với các nước khác. Nặng nhất vẫn là những nước phát triển, trong đó phải kể đến Mỹ, Anh, Đức, kế đó là những nước đang phát triển. Nền kinh tế Anh tăng trưởng -1,3%, Đức - 0,8%, Mỹ- 0,7%, Tây Ban Nha - 0,7%,...
Theo Ngân hàng thế giới (WB), có tới 94/116 nước đang phát triển bị ảnh hưởng bởi sự suy thoái kinh tế. Những nước này đang phải đương đầu với sự sụt giảm nghiêm trọng của kim ngạch xuất khẩu; giá nguyên liệu sa sút; đầu tư nước ngoài đi xuống và tín dụng bị hao hụt. Khoảng 46 triệu người bị đẩy vào cảnh nghèo đói trong năm 2009 bởi mất việc làm. WB dự đoán sẽ có 53 triệu người tái nghèo, làm tăng vọt con số 155 triệu người hiện nay đang sống với thu nhập ít hơn 2 USD/ ngày. 2,8 triệu trẻ em sẽ bị chết trong giai đoạn từ nay đến năm 2015, vì suy dinh dưỡng và thiếu thuốc men cứu chữa. Tỷ lệ tử vong đối với trẻ sơ sinh tăng do khủng hoảng kinh tế - tài chính. Một số nước ở châu Âu, như Ba Lan, Hunggari, Czech đang chịu tác động nghiêm trọng do kim ngạch xuất khẩu sang Tây Âu sụt giảm và tình trạng thắt chặt tín dụng tại các ngân hàng lớn của châu Âu sau khi các ngân hàng đó bị thua lỗ nghiêm trọng. Các nước Đông Á và Đông Nam Á bị ảnh hưởng nặng từ sự sụt giảm của thương mại toàn cầu, trong đó, nhu cầu thương mại từ Mỹ giảm mạnh.
Tình hình kinh tế thế giới theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) và bình luận của các nhà khoa học kinh tế thế giới, thì năm 2009, sản lượng công nghiệp thế giới thấp hơn tới 15% so với cùng kỳ năm 2008, trong khi giá trị thương mại sẽ giảm mạnh nhất trong vòng 80 năm trở lại đây. Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính lần này sẽ gây thiệt hại cho cả nước giàu lẫn nước nghèo, trong đó, các nước đang phát triển có thể đối mặt với các khoản thâm hụt tài chính lên tới 700 tỷ USD. Giá trị thương mại tại khu vực Đông Á sẽ suy giảm mạnh nhất, vì đây là khu vực có nhiều nước xuất khẩu lớn.
3. Tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu vào Việt Nam
Kinh tế thế giới năm 2009 với nhiều lo âu và thấp thỏm. Đầu tầu kinh tế toàn cầu sau khi lên dốc không thành vào quý III/2008, đã trượt dốc không phanh. Các kế hoạch cứu trợ khẩn cấp liên tiếp được đưa ra, mà riêng ở Hoa Kỳ đã lên tới hơn 2.000 tỷ USD, nhưng không làm sao ngăn được sự bốc hơi của lượng tài sản tài chính (bao gồm cả bất động sản đã tiền tệ hóa) lên tới hơn 30.000 tỷ USD.
Toàn thế giới đã rung động. Sốt lạm phát. Giá hàng hóa vật tư sản xuất tăng cao. Giá dầu ngự trị trên 149 USD, và đã từng được tiên đoán có thể vượt 200 USD. Rồi co rút tín dụng và mất thanh khoản dòng vốn toàn cầu. Giá dầu tụt xuống ngưỡng 40 USD chẳng bao lâu sau cái đỉnh suýt 150 kia.
ND - Theo số liệu Tổng cục Thống kê công bố tại cuộc họp báo ngày 31-12, kinh tế Việt Nam năm 2009 đạt mức tăng trưởng 5,32% . Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 thấp hơn tốc độ tăng 6,18% năm 2008. Ngoài ra, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2009 tăng 6,88% so với năm 2008, thấp nhất trong vòng sáu năm trở lại đây.
Năm 2010 với diễn biến mới này, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 5 tháng đầu năm ước đạt 25,83 tỷ USD, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm 2009 và bằng 42,7% kế hoạch cả năm, trong đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 13,8 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu (đã bao gồm dầu thô), tăng 25,9% so với cùng kỳ
Đóng góp vào kết quả trên, kim ngạch xuất khẩu của nhóm nông, lâm, thuỷ sản tăng 7% so với cùng kỳ. Một số mặt hàng xuất khẩu tăng mạnh về kim ngạch như: cao su tăng 85,3%, hạt tiêu (54,9%), nhân điều (24,7%), chè ( 19,7%)
Đáng chú ý, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến tăng bình quân tới 11,6%. Đặc biệt, thép và hoá chất cùng tăng hơn 3,4 lần; dây điện và cáp điện tăng gấp 2 lần, sản phẩm từ cao su tăng 91,6%, giấy và sản phẩm từ giấy, máy vi tính và linh kiện tăng hơn 30 %, dệt may tăng 17%...Trong các nguyên nhân làm tăng kim ngạch xuất khẩu, đáng lưu ý là giá cả một số mặt hàng đã hồi phục khá tốt. Hầu hết các mặt hàng nông sản đều tăng về giá, trừ cà phê. Ngoài ra còn phải kể đến giá dầu thô và than đá cũng
Tăng so với cùng kỳ năm 2009
Theo tính toán của Bộ Công Thương, giá hàng hóa xuất khẩu 5 tháng tăng bình quân trên 8% so với cùng kỳ năm 2009, làm cho kim ngạch xuất khẩu
Chung tăng thêm 1,77 tỷ USD
Ở chiều ngược lại, do một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực giảm mạnh về lượng như cà phê giảm 15,2%, gạo giảm 10,5%, sắn các loại giảm 51,3%, dầu thô giảm 49,8%, than đá giảm 12,3%.... đã làm giảm kim ngạch khoảng gần 1,5 tỷ USD.
Mặt bằng lãi suất đã được điều chỉnh giảm dần suốt sáu tháng cuối năm 2008 nhưng trên thị trường tín dụng, ngân hàng và doanh nghiệp vẫn chưa tìm được tiếng nói thống nhất. Quá trình tự điều chỉnh sẽ dẫn tới điểm chung. Vấn đề của hệ thống ngân hàng là sàng lọc tốt và lựa chọn các dự án thực sự có chất lượng, chỉ cần được tiếp đủ vốn là sẽ đạt tới qui mô sản xuất kinh doanh hiệu quả. Trong thời gian TTCKVN tăng trưởng đầy hào hứng kể từ giữa 2006 đến hết 2007, nhiều dự án đầu tư mở rộng hoặc phát triển mới đã được triển khai mà không có các đánh giá đầy đủ và cẩn trọng về mức độ khả thi thương mại. Đa phần các ngân hàng hiện này đều có qui trình tín dụng với nhiều thủ tục nhằm đảm bảo mức độ an toàn cao cho các khoản vay. Tuy nhiên, phần cơ bản nhất là đánh giá tín nhiệm để phân cấp tín dụng, làm căn cứ xác định lãi suất và hạn mức cho từng khách hàng hay nhóm khách hàng thì vẫn chưa hoàn chỉnh.
Tỷ giá USD/VND diễn biến phức tạp và khó lường, tâm lý găm giữ ngoại tệ của các tổ chức và doanh nghiệp khiến cho cung cầu USD trở nên căng thăng.
Do suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng, nhu cầu tiêu dùng trong năm 2009 giảm mạnh. Từ đó, có thể nhận định nhiều khó khăn cho xuất khẩu Việt Nam đang ở phía trước. Mặc dù giá nhập khẩu cũng có xu thế giảm nhưng muốn đảm bảo nhập siêu ở mức an toàn, cần tiếp tục kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu và cổ vũ thực hành tiết kiệm trong tiêu dùng và đầu tư.
II. NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA SUY THOÁI KINH TẾ TOÀN CẦU ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN
Đối với các yếu tố cung
Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm thuỷ sản năm 2009 đạt khoảng 15,3 tỷ USD. Mặc dù so với năm 2008, con số này giảm 8% nhưng vẫn vượt dự kiến xuất khẩu hồi đầu năm (12 tỷ USD) và chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao (14 tỷ USD).
Lượng tăng, giá giảm
Theo thống kê sơ bộ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt trên 8 tỷ USD
Có thể nói, tổng thể “bức tranh” xuất khẩu nông sản năm 2009 là sự đan xen giữa các “gam màu” sáng tối, đó là bên cạnh sự vượt trội về lượng của một số mặt hàng (đơn cử như gạo, xuất khẩu trong 11 tháng đã vượt hơn cả năm 2008), là sự sụt giảm đáng kể về kim ngạch của nhóm hàng nông sản chủ lực.
Đây là lý do xuất khẩu năm 2009 tăng mạnh về lượng, nhưng giá trị kim ngạch tăng không tương xứng.
Có mấy nguyên nhân dẫn đến tình trạng giảm sút kim ngạch xuất khẩu:
Thứ nhất, nhu cầu các mặt hàng liên quan đến công nghiệp chế biến hoặc bất động sản giảm nhanh như cao su.
Thứ hai, tiêu thụ các mặt hàng nông sản thực phẩm phục vụ nhóm tiêu dùng thu nhập cao gặp khó khăn do thu nhập giảm và trở ngại về rào cản kỹ thuật như cà phê.
Thứ ba, việc Việt Nam chưa đa dạng hóa nhiều sản phẩm trong một ngành hàng và phụ thuộc lớn vào một số phân khúc của các thị trường truyền thống như Hoa Kỳ, EU hoặc Trung Quốc nên dễ gặp rủi ro khi các thị trường này suy thoái.
Năm 2009, chúng ta đẩy mạnh xuất khẩu nhiều mặt hàng chủ lực, trong đó có thủy sản, tuy nhiên, mặt hàng này chỉ tăng về lượng còn giảm về giá trị. Kim ngạch xuất khẩu nông sản nước ta suy giảm chủ yếu do giá cả giảm mạnh, hoặc sản xuất công nghiệp suy thoái.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo, kinh tế thế giới đang có những dấu hiệu phục hồi, mức tăng trưởng chung của năm 2010 sẽ đạt 3,2% và tốc độ tăng trưởng có vẻ sẽ khả quan hơn ở những nền kinh tế đang phát triển, đặc biệt là khu vực châu Á. Tuy nhiên, sự tăng trưởng này chủ yếu được hỗ trợ mạnh từ chính phủ hơn là sự hồi phục thực sự của sản xuất và tiêu dùng, trong khi người dân các nước, đặc biệt là Hoa Kỳ, có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn. Do vậy, chúng ta chưa thể kỳ vọng vào sự tăng trưởng nhanh của xuất khẩu nông sản trong năm 2010.
Đối với mặt hàng gạo: Nhu cầu nhập khẩu gạo của Philippines và Ấn Độ đang là yếu tố thuận lợi của xuất khẩu gạo Việt Nam. Tuy nhiên, Thái Lan có thể đẩy mạnh xuất khẩu, vì vậy, Việt Nam cần theo dõi sát sao động thái của đối thủ để đưa ra những bước đi kịp thời nhằm xuất khẩu gạo đạt được kết quả tốt nhất.
Đối với ngành cao su: Cung cao su thiên nhiên thế giới đang trong xu hướng giảm do thiếu hụt nguồn cung từ Thái Lan (nước sản xuất cao su lớn nhất thế giới). Dự báo mới nhất của Tổ chức Nghiên cứu cao su thế giới (IRSG) cho thấy, sản lượng cao su thiên nhiên ở Thái Lan năm 2009 giảm 6,5% (đạt 2,9 triệu tấn) so với năm 2008. Nguồn cung giảm trong khi nhu cầu cao su đang hồi phục bởi những tín hiệu hồi phục của nền kinh tế thế giới. Dựa trên cân đối cung - cầu, biến động của thị trường dầu mỏ, thời gian tới giá cao su có thể sẽ tăng.
Đối với các yếu tố cầu
Tương tự như xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá 8 tháng đầu năm chỉ đạt gần 41,8 tỷ USD, giảm 29% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, những tháng cuối năm kinh tế thế giới có sự phục hồi nên một số mặt hàng đã tăng giá; mặt khác, kinh tế trong nước đạt tốc độ tăng trưởng khá, nhu cầu hàng hoá phục vụ sản xuất và đời sống cũng tăng lên nên kim ngạch nhập khẩu hàng hoá tháng 9, tháng 10, tháng 11 và tháng 12 liên tục tăng so với cùng kỳ năm trước với tốc độ tăng lần lượt là: 13,9%, 14,5%, 44,5% và 15,7%. Do vậy, tính chung cả năm 2009, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá ước tính đạt 68,8 tỷ USD, giảm 14,7% so với năm 2008, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 43,9 tỷ USD, giảm 16,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 24,9 tỷ USD, giảm 10,8%.
Mặc dù kim ngạch nhập khẩu hàng hoá có tốc độ giảm nhanh hơn kim ngạch xuất khẩu nhưng nhập siêu hàng hoá năm 2009 ước tính vẫn ở mức 12,2 tỷ USD, tuy giảm 32,1% so với năm 2008 nhưng đã bằng 21,6% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cả năm 2009.
Theo số liệu thống kê, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam từ Ấn Độ trong tháng 12/2009 đạt 166,9 triệu USD, tăng 17,6% so với tháng trước và tăng 13,1% so với cùng tháng năm ngoái, nâng tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam từ Ấn Độ năm 2009 đạt 1,6 tỉ USD, giảm 22% so với cùng kỳ năm ngoái.
Dẫn đầu về kim ngạch nhập khẩu từ Ấn Độ trong năm 2009 là: mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu đạt 470 triệu USD, giảm 40,7%, chiếm 28,8%;
Mặt hàng có tốc độ tăng kim ngạch mạnh nhất trong năm 2009 là: phân bón các loại đạt 17,5 triệu USD, tăng 86%, chiếm 1% trong cơ cấu kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam từ Ấn Độ
Trong năm 2009, mặt hàng có tốc độ suy giảm về kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam từ Ấn Độ là: dầu mỡ động thực vật đạt 3 triệu USD, giảm 59%, chiếm 0,2%; bông các loại đạt 41 triệu USD, giảm 48,7%, chiếm 2,5%; sau cùng là thức ăn gia súc và nguyên liệu đạt 470 triệu USD, giảm 40,7%, chiếm 28,8%...
Năm 2010 Mặt hàng nông sản có giá trị nhập khẩu tăng mạnh nhất là cao su và bông, đều tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm trước. Đáng lưu ý, trong bốn tháng qua đã có 636.000 tấn lúa mì được nhập về Việt Nam với giá trị 155 triệu USD, tăng 61% về lượng và 56% về giá trị.
Số liệu thống kê tháng 4 cho thấy, nhập khẩu nhiều loại nông sản, thực phẩm tiếp tục tăng. Trước đó, một báo cáo chi tiết hơn của Bộ Công Thương cho biết, hai tháng đầu năm nay, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng nông sản và thực phẩm chủ yếu đạt khoảng 280 triệu USD, tăng 56% so với cùng kỳ năm ngoái
Trong đó mặt hàng tăng nhiều nhất là gạo tăng 152%; rau, củ tăng 127%; dầu mỡ động thực vật đã tinh chế tăng 96%; chế phẩm từ ngũ cốc, tinh bột, sữa (bánh kẹo, sữa đóng hộp…) tăng 99%; sản phẩm thịt cá, động vật tăng 79% và chế phẩm ăn được khác tăng 84%. Năm 2009, tổng kim ngạch nhập khẩu các nhóm hàng là 1,5 tỷ USD.
III. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN TRONG BỐI CẢNH SUY GIẢM KINH TẾ TOÀN CẦU
Thái Lan
Thái Lan là một trong những nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu gạo. Nhưng cũng không tránh khỏi tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu, Thái Lan cũng phải chịu ảnh hưởng không nhỏ, cụ thể là giá gạo xuất khẩu năm 2009 cũng bị giảm mạnh.
Theo Vụ Ngoại thương thuộc Bộ Thương mại Thái Lan cho biết, giá gạo xuất khẩu của Thái Lan năm 2009 chỉ còn 530 – 540 USD/tấn, giảm mạnh so với mức 1.080 USD/tấn hồi tháng 4 năm 2008.
Xuất khẩu gạo của nước này năm 2009 có thể đạt từ 8,5 – 9,5 triệu tấn. Tháng 1 năm 2009, xuất khẩu gạo của Thái là 628.792 tấn gạo, đạt 331 triệu USD, giảm mạnh so với 1,02 triệu tấn, tương đương 421 triệu USD hồi cùng kỳ năm 2008. Theo bà Apiradi Tantraporn, Vụ trưởng Vụ Ngoại thương cho biết, xuất khẩu gạo của Thái Lan năm 2008 là một hiện tượng lạ khi những nỗi lo về thiếu hụt gạo đã khiến cho các nhà nhập khẩu nhập nhiều gạo để tích trữ. Thêm vào đó, vài nước xuất khẩu gạo lớn như Ấn Độ và Việt Nam đã áp dụng những biện pháp hạn chế hoặc cấm xuất khẩu, điều này đã tạo điều kiện cho các nhà xuất khẩu gạo của Thái. Do đó, xuất khẩu gạo của Thái năm 2008 đạt 10,02 triệu tấn, tăng mạnh so với 9,5 triệu tấn năm 2007. Tuy nhiên, năm 2009 với tình trạng khủng hoảng kinh tế thế giới lan rộng đã khiến thị trường gạo trên thế giới thắt chặt hơn, hợp đồng mua bán gạo giảm mạnh. Thái Lan có thể sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt khi chính phủ Ấn Độ gỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo. Ấn Độ là một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới đã ban hành lệnh cấm xuất khẩu gạo năm 2008 do lo sợ về tình trạng thiếu hụt gạo tại thị trường trong nước.
Ấn Độ
Mặc dù ngoại thương Ấn Độ chịu sự ảnh hưởng của suy giảm kinh tế toàn cầu, nhưng xuất khẩu nông sản vẫn tăng hơn 24% trong năm 2008-2009, chủ yếu là do nhu cầu tăng cao đối với hoa quả, rau và gạo Basmati. Theo số liệu của Cục phát triển xuất khẩu sản phẩm nông sản và thực phẩm chế biến, xuất khẩu Ấn Độ tăng từ 317.712.000 Rupees lên 394.610.000 Rupees trong năm 2008-2009.
Sau khi Chính phủ Ấn Độ cấm xuất khẩu gạo thường vào năm trước, đã có lo ngại tình hình xuất khẩu gạo sẽ bị ảnh hưởng nhưng thực tế xuất khẩu vẫn tăng do nhu cầu lớn về các loại gạo thơm Pusa 1121, loại gạo thơm khác của gạo Bastima.
Hoa quả và rau tươi xuất khẩu của Ấn Độ trong năm tài chính trước tăng 128%, đạt 355,2 triệu Rupees, so với mức 152, 5 triệu Rupees của năm trước đó.
Các nước Mỹ Latinh
Sau 6 năm tăng trưởng liên tục với mức tăng bình quân 5,36% năm, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới diễn ra từ cuối năm 2008, kinh tế các nước khu vực Mỹ latinh bị tác động tiêu cực trong năm 2009 do giá cả thị trường quốc tế giảm, nhất là đối với các sản phẩm nguyên vật liệu, hàng hoá . GDP toàn khu vực Mỹ La tinh chỉ đạt mức tăng trưởng âm 1,8 % trong năm 2009.
Đến nửa cuối năm 2009, kinh tế Mỹ La tinh có dấu hiệu phục hồi dần dần. Các chỉ số sản xuất công nghiệp và xuât khẩu có chiều hướng đi qua điểm đáy. Hoạt động kinh tế và thương mại quốc tế đã thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ hàng hoá, nhu yếu phẩm, giá nâng cao dần, quy mô trao đổi thương mại mở rộng. Một trong những nguyên nhân giúp kinh tế Mỹ la tinh kháng cự khá tốt với cuộc khủng hoảng, sớm hồi phục kinh tế hơn dự báo trước đây là do : a) Các nước đầu tầu có quy mô GDP lớn như Brazil (37% GDP Mỹ la Tinh), Achentia, Colombia…đã đúc rút bài học kinh nghiệm từ các cuộc khủng khoảng tài chính quốc tế và khu vực trước đây, có đối sách ứng phó kịp thời. b). Một số chính phủ kịp thời điều chỉnh chính sách vĩ mô hợp lý đối với các diễn biến của khủng hoảng nhằm ổn định hệ thống tài chính, tiền tệ, phát huy vài trò hệ thống ngân hàng trung ương đáp ứng nhu cầu cốt yếu của thị trường tài chính, hỗ trợ cho khu vực ngân hàng tư nhân vốn còn mỏng yếu nhằm tăng cường khả năng thanh toán, ổn đình tỷ giá hồi đoá._.i.
C). Đổi mới việc tiếp cận với nguồn vốn tài chính quôc tế, phục hồi thị trường chứng khoán, củng cố niềm tin các nhà đầu tư và khu vực sản xuất tư nhân
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH SUY GIẢM KINH TẾ TOÀN CẦU.
ĐẶC TRƯNG CỦA NÔNG SẢN VIỆT NAM.
Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới có 2 mùa nắng mưa rõ rệt. Việt Nam được coi là nước có đIều kiện khí hậu thuận lợi cho việc trồng các cây nông sản. Do điều kiện khí hậu 2 mùa rõ rệt nên đã tạo nên ngành nông nghiệp Việt Nam 2 mùa thu hoạch: vụ mùa và vụ chiêm. Do nông sản có tính thời vụ vì vậy quá trình sản xuất, buôn bán nông sản Việt Nam cũng mang tính thời vụ. Từ đó tạo nên sự cung theo mùa có nghĩa là khi chính vụ thì hàng nông sản dồi dào, chủng loại đa dạng, chất lượng tốt, giá bán rẻ (cung >cầu) nhưng khi trái vụ nông sản lại trở nên khan hiếm, số lượng ít, chất lượng không cao, giá lại cao (cung<cầu).
Nông sản Việt Nam khi thu hoạch thường có chất lượng cao nhưng do không được bảo quản dự trữ và chế biến đúng quy cách, kỹ thuật nên khi xuất khẩu thì thường xuất khẩu hàng thô hoặc qua sơ chế hay có được chế biến thì chất lượng sản phẩm không cao, không đạt các tiêu chuẩn do vậy thường bán với giá rẻ.
Hàng nông sản phụ thuộc rất lớn vào thời tiết, khí hậu, địa lý… Năm nào có mưa thuận gió hoà thì cây cối phát triển, năng suất cao, hàng nông sản được bày bán tràn ngập trên thị trường. Năm nào thời tiết khắc nghiệt, bão, lũ lụt, hạn hán xảy ra thường xuyên nông sản mất mùa lúc đó thì hàng nông sản khan hiếm, chất lượng lại không cao, do không có hàng bán nên cung < cầu, lúc này giá bán lại rất cao. Hàng nông sản chủ yếu là phục vụ nhu cầu ăn uống của người tiêu dùng cuối cùng vì thế chất lượng của nó tác động trực tiếp tới tâm lý, sức khoẻ người tiêu dùng trong khi đó khâu bảo quản, dự trữ chế biến hàng nông sản của nước ta vừa thiếu lại vừa yếu nên hàng nông sản của Việt Nam khi bán trên thị trường thì giá thường thấp hơn các nước trong khu vực và thế giới.
Với điều kiện khí hậu nước ta rất phù hợp với nhiều loại cây trồng do đó chủng loại hàng nông sản của nước ta rất đa dạng, phong phú, một số loại cây trồng cho năng suất rất cao tạo ra chất lượng hàng hoá cũng phong phú và đa dạng. Nước ta là nước nông nghiệp với hơn 70% dân số là làm nông nghiệp do vậy cây nông sản được trồng ở khắp mọi nơi trên đất nước nhưng do khác nhau về tự nhiên, địa lý mỗi vùng thích hợp cho một hoặc một vài loại cây trồng khác nhau, mỗi vùng sử dụng một phương thức sản xuất khác nhau và trồng những giống cây khác nhau. Do vậy tạo nên những loại hàng hoá khác nhau và chất lượng hàng hoá khác nhau.
Tóm lại, nông sản Việt Nam rất đa dạng, phong phú về chủng loại, chất lượng cao được rất nhiều nước trên thế giới và khu vực ưa chuộng. Nhưng do nền kinh tế của nước ta chưa phát triển nên khâu bảo quản, dự trữ rất yếu kém và ngành chế biến chưa được đầu tư đúng mức. Do đó hầu hết hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường khu vực và thế giới chủ yếu là hàng thô và thường bị ép giá nên giá trị xuất khẩu không cao.
Do vậy, vấn đề bảo quản, dự trữ, chế biến là rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Với đặc tính khó bảo quản, dễ bị ẩm mốc, biến chất của hàng nông sản, vì vậy trong quá trình tổ chức xuất khẩu nông sản các doanh nghiệp phải rất quan tâm đến đIều khoản giao hàng, đIều khoản chất lượng… để tổ chức thực hiện một cách nhanh chóng song vẫn đảm bảo được các điều khoản đã ký kết.
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH SUY GIẢM KINH TẾ TOÀN CẦU.
Tình hình xuất khẩu nông sản nói chung.
Theo kế hoạch năm 2008, xuất khẩu sẽ đạt kim ngạch 58,6 tỷ USD, tăng 22% so với năm 2007. Trên thực tế, xuất khẩu năm 2008 đạt kim ngạch 62,7 tỉ USD, vượt 4,7 tỷ USD so với kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu năm 2009 không có nhiều khởi sắc như kết quả đã đạt được của các năm trước. Tính đến hết tháng 12 năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 56,58 tỷ USD, giảm 9,7% so với cùng kỳ năm trước, không đạt mục tiêu đã đề ra trong Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2009 với kim ngạch xuất khẩu là 71 tỷ USD. Bảng 1 cho thấy dưới tác động của khủng hoảng kinh tế, phần lớn các ngành hàng xuất khẩu đều bị ảnh hưởng, thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu giảm tương đối nhiều so với cùng kỳ năm 2008, cụ thể đối với một số mặt hàng nông sản chủ yếu như gạo giảm 8%, cao su giảm 25,2% và cà phê giảm 19%. Ngoài tác động trực tiếp của khủng hoảng kinh tế dẫn tới nhu cầu sụt giảm, thì một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực gặp khó khăn do phải đối mặt với những rào cản thương mại mới do các nước đưa ra để hạn chế nhập khẩu trong tình hình nền kinh tế của họ đang gặp khó khăn. Một điều nhận thấy là các hành vi bảo hộ thương mại ngày càng tinh vi, nhất là tại các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam.
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu năm 2009 so với năm 2008
Giá trị xuất khẩu 2008 (triệu USD)
Giá trị xuất khẩu 2009 (triệu USD)
Giá trị xuất khẩu 2009 so với 2008 (%)
Tổng giá trị xuất khẩu
62.685
56.584
90,3
Dầu thô
10.357
6.210
60
Dệt may
9.120
9.004
98,7
Giày dép
4.768
4.015
84,2
Thủy sản
4.510
4.207
93,3
Gạo
2.894
2.662
92
Gỗ và sản phẩm gỗ
2.829
2.550
90,1
Cao su
1.603
1.199
74,8
Cà phê
2.111
1.710
81
Điện tử, máy tính và linh kiện
2.638
2.774
105,1
Máy móc thiết bị và dụng cụ phụ tùng
1.860
2.028
109,1
Nguồn: Tổng Cục Thống Kê (2009)
Một điều hiển nhiên là ngoài việc tăng số lượng xuất khẩu thì việc tăng giá trị xuất khẩu còn phụ thuộc một phần vào giá thế giới và những thị trường xuất khẩu lớn. Do đó khi những thị trường này có biến động thì kim ngạch xuất khẩu bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu không chỉ đơn thuần là do các khó khăn khách quan mà đồng thời cũng cho thấy sức cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu còn hạn chế, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp chưa cao. Nền kinh tế Việt Nam tham gia vào nền kinh tế thế giới với tư cách là một nền kinh tế nhỏ, có trình độ phát triển thấp, do đó phần lớn các mặt hàng xuất khẩu đều mới chỉ dừng lại ở dạng thô, sơ chế, ít giá trị gia tăng (gạo, cà phê,…), do đó sẽ chịu nhiều biến động trước diễn biến bất lợi của nền kinh tế thế giới. Các mặt hàng xuất khẩu chưa đa dạng, phong phú, số lượng các mặt hàng xuất khẩu mới có kim ngạch lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh chưa nhiều. Xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn. Không những thế, Việt Nam vẫn chưa tận dụng triệt để lợi ích từ việc gia nhập WTO, các hiệp định thương mại song phương và khu vực đã ký kết giữa Việt Nam và các đối tác để khai thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc.
Tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu hiện chiếm khoảng 30 - 35% khối lượng hàng nông sản thực phẩm làm ra, trong đó lúa gạo chiếm khoảng 20%, cà phê: 95%, cao su: 85%, hạt điều: 90%, chè: 80%, hạt tiêu: 95%… Một số nông sản của Việt Nam đã khẳng định được vị thế trên thị trường thế giới (gạo, cà phê, hạt điều, hạt tiêu). Ngoài các khu vực tiêu thụ truyền thống nông sản của Việt Nam, như Trung Quốc, ASEAN, Nga và các nước Đông Âu, nông sản Việt Nam cũng đã bước đầu thâm nhập thị trường Trung Đông, EU, Mỹ và châu Phi.
Trong năm 2008, mặc dù phải đối mặt với tình trạng khủng hoảng kinh tế thế giới nhưng xuất khẩu nông sản Việt Nam vẫn có được bước phát triển vững chắc với kim ngạch năm 2008 lên tới trên 8,5 tỷ USD, tăng tới 36,7% về giá trị xuất khẩu, trong đó, các mặt hàng xuất khẩu chính như cà phê, cao su, gạo là các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao trên 1 tỷ USD: cà phê là 2,11 tỷ USD (chiếm 24% tổng kim ngạch xuất khẩu các nông sản chủ yếu), cao su với 1,6 tỷ USD (chiếm 18,7%) và gạo là 2,9 tỷ USD (chiếm 33,8% tổng kim ngạch). Có thể nói đây là các mặt hàng thế mạnh của Việt Nam và sản phẩm Việt Nam đã được thị trường thế giới chấp nhận rộng rãi và là các sản phẩm có khả năng cao nhất tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu do cả thế mạnh trong điều kiện sản xuất và kinh nghiệm sản xuất - kinh doanh - xuất khẩu của doanh nghiệp và chính sách của Nhà nước.
Bảng 2.2: Xuất khẩu nông sản chủ yếu của Việt Nam
Đơn vị tính: Lượng (1.000 tấn), giá trị (triệu USD)
Năm 2007
Năm 2008
Lượng
Giá trị
Lượng
Giá trị
Nông sản chủ yếu
6,274
8,580
1
Cà phê
1,229
1,911
1,060
2,111
2
Cao su
715
1,393
658
1,604
3
Gạo
4,558
1,490
4,742
2,894
4
Chè
114
131
104
147
5
Hạt điều
153
654
165
911
6
Lạc nhân
37
31
14
14
7
Hạt tiêu
83
271
90
311
8
Hàng rau quả
0
306
186
407
9
Đường
12
5
13
5
10
Sữa & sản phẩm sữa
0
35
0
77
11
Dầu mỡ động, thực vật
0
48
0
100
(Nguồn: Báo cáo tình hình xuất khẩu nông lâm thủy sản và các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu năm 2009 – Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.)
2. Xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ ra từ quý IV năm 2008 đã tác động mạnh tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Tính đến hết năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt kim ngạch 56,58 tỉ USD, giảm 9,7% so với năm trước. Trong những tháng cuối năm 2009, nền kinh tế thế giới đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đã tăng nhẹ về lượng xuất khẩu nhưng do giá trên thị trường thế giới biến động theo hướng bất lợi, thấp hơn so với giá trước khủng hoảng, do đó dẫn đến kim ngạch xuất khẩu giảm rõ rệt. Dưới đây là tổng quan về tình hình xuất khẩu của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2008-2009.
Mặt hàng gạo: Theo số liệu của Tổng Cục Thống Kê, trong năm 2008, xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng so với năm 2007, đạt 4,6 triệu tấn với giá trị thu được là 2,6 tỉ USD (tính theo giá FOB), lượng xuất khẩu tăng 3,3% và giá trị thu được tăng 99% (tính theo giá FOB) so với năm 2007. Tính đến hết năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt 2,662 tỉ USD, giảm 6,7% so với năm trước2008. Philippin là thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam, chiếm trên 40% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam; Indonesia đứng thứ hai với tỷ trọng 25,44% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam; tiếp theo là Malaysia (7,83%); Singapo (1,74%) và Nhật Bản (1,26%). Năm 2005 Việt Nam xuất khẩu gạo tới 40 thị trường, năm 2006, 2007 và 2008 con số này đã là 41 thị trường. Đặc biệt trong năm nay, tổng lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang châu Phi và Trung Đông tăng mạnh.
Mặt hàng cà phê: Kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam tăng mạnh từ 735 triệu USD năm 2005 lên 1.911,5 triệu USD năm 2007 và đạt 2.111 triệu USD năm 2008. Trong tháng 12 năm 2009, lượng cà phê xuất khẩu đạt 182 nghìn tấn, đem lại tổng kim ngạch cho cả năm 2009 là 1.710 triệu USD, giảm 19% so với cùng kỳ năm 2008. Các nước nhập khẩu chính của cà phê Việt Nam là Đức, Ý, Tây Ban Nha, Bỉ, Đức, Hoa Kỳ….. Đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam là Braxin, Colombia và Indonesia. Xét về giá trị, kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam từ năm 2001 đến nay tăng trung bình khoảng 30%/năm, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, theo thống kê của hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam (VICOFA), kim ngạch xuất khẩu tăng tới 53%. Việt Nam trong nhiều năm liền là một trong các nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới. Việt Nam đã xuất khẩu cà phê sang 74 nước trên thế giới, thị trường xuất khẩu ngày càng mở rộng đã hình thành một số thị trường lớn, ổn định.
Mặt hàng cao su: Năm 2007, Việt Nam là nước xuất khẩu cao su tự nhiên lớn thứ tư trên thế giới sau Thái Lan, Indonesia và Malaysia. Kim ngạch xuất khẩu cao su tự nhiên của Việt Nam tăng từ 804,1 triệu USD năm 2005 lên 1.392,8 triệu USD năm 2007 và đạt 1.604 triệu USD trong năm 2008. Tính đến hết tháng 12 năm 2009, lượng giá trị cao su xuất khẩu là 1199 nghìn tấn, giảm 25,2% so với cùng kỳ năm 2008. Theo dự đoán của các nhà kinh tế học, giá cả trên thị trường cao su nói riêng và nhóm thị trường nguyên liệu thô nói chung sẽ hồi phục trước khi kinh tế toàn cầu hồi phục, do hoạt động của các quỹ đầu cơ trên thị trường tương lai (future market) đối với nguyên liệu thô. Thị trường xuất khẩu cao su tự nhiên chủ yếu của Việt Nam là Trung Quốc (chiếm 60% tổng giá trị xuất khẩu). Tuy nhiên, do thuế xuất khẩu mặt hàng này từ Việt Nam vào Trung Quốc tương đối cao nên xuất khẩu cao su qua các kênh chính thức còn rất hạn chế, chủ yếu được buôn bán qua biên giới. Ngoài Trung Quốc, những thị trường xuất khẩu lớn của cao su tự nhiên Việt Nam là: Malaysia (5,0%), Đài Loan (4,9%), Hàn Quốc (4,8%) và Đức (4,3%).
Mặt hàng hạt tiêu: Kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam đã tăng từ 150 triệu USD năm 2005 lên 300 triệu USD năm 2007 và đạt 311 triệu USD năm 2008. Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, trong tháng 6/2009, cả nước ta đã xuất khẩu được 15.276 tấn, với kim ngạch 35,52 triệu USD, giảm 4,4 % về kim ngạch, nhưng lại tăng 44,1% về lượng so với cùng kỳ năm 2008. Như vậy, tổng lượng hồ tiêu xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm 2009 đạt 67.998 tấn, trị giá 158,17 triệu USD, giảm 5,12% về kim ngạch và tăng 44,42% về lượng so với cùng kỳ năm 2008. Hạt tiêu Việt Nam hiện đã có mặt tại trên 50 thị trường trên thế giới. Các thị trường xuất khẩu chính của hạt tiêu Việt Nam là Hoa Kỳ, Đức, Ấn Độ, Hà Lan, Ucraina, Singapore, Pháp, Ba Lan… Ba thị trường lớn như Đức, Hà Lan, Tiểu Vương quốc Arập đều có kim ngạch xuất khẩu trên 10 triệu USD trong 6 tháng đầu năm 2009.
Mặt hàng hạt điều: Kim ngạch xuất khẩu hạt điều của Việt Nam đã tăng từ 502 triệu USD năm 2005 lên 640 triệu USD năm 2007 và đạt 911 triệu USD năm 2008. Năm 2009, xuất khẩu hạt điều đạt 177.154 tấn, trị giá 846,7 triệu USD, tăng 7,15% về lượng nhưng giảm 7,06% về trị giá so với cùng kỳ năm 2008. Sản phẩm điều nhân Việt Nam đã xuất khẩu sang 52 nước trên thế giới, chiếm khoảng 20% thị phần xuất khẩu điều thế giới. Nhân điều Việt Nam được thế giới đánh giá thuộc loại tốt, có chất lượng cao. Các nước Hoa Kỳ, Australia, Anh, Hà Lan và Trung Quốc là những thị trường nhập khẩu lớn của Việt Nam.
Mặt hàng chè: Kim ngạch xuất khẩu chè của Việt Nam đã tăng từ 97 triệu USD năm 2005 lên 130 triệu USD năm 2007 và đạt 147 triệu USD năm 2008. Năm 2009, lượng chè xuất khẩu của Việt Nam đạt 134.000 tấn với kim ngạch là 179,5 triệu USD, tăng 28,4% về lượng và tăng 22,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2008. Thị trường xuất khẩu chè của Việt Nam năm 2009 có tốc độ tăng trưởng mạnh là Ấn Độ đạt 8.371 tấn với kim ngạch 9,6 triệu USD, tăng 142% về lượng và tăng 181,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2008; Hoa Kỳ đạt 5.353 tấn với kim ngạch 5,7 triệu USD, tăng 42,3% về lượng và tăng 89,5% về trị giá; Indonesia đạt 6.000 tấn với kim ngạch 5,7 triệu USD, tăng 68,7% về lượng và tăng 72,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2008… Trước đây, sản phẩm chè của Việt Nam chỉ được xuất khẩu sang 3 nước thì nay đã có 110 nước biết đến sản phẩm này.
Mặt hàng rau quả: Những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu rau quả có tốc độ tăng trưởng khá ổn định, bình quân khoảng 20%/năm. Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam đã tăng từ 235 triệu USD năm 2005 lên 300 triệu USD năm 2007 và đạt 407 triệu USD trong năm 2008. Năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả đạt 439 triệu USD. Rau quả Việt Nam đã có mặt tại 50 quốc gia, vùng lãnh thổ. Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu rau quả chính của Việt Nam.
3. Vị thế của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới.
3.1. Mặt hàng gạo
Trong những năm gần đây, Việt Nam luôn xếp vị trí thứ hai trên thế giới sau Thái Lan trong những nước xuất khẩu gạo với 5,5 triệu tấn gạo xuất khẩu niên vụ 2009/2010 chiếm tới 17,1% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới. Trong khi đó, Thái Lan là nước dẫn đầu thế giới về lượng gạo xuất khẩu với tổng khối lượng xuất khẩu niên vụ 2009/2010 lên tới 10,5 triệu tấn, chiếm 32,7% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới. Trong số các nước xuất khẩu gạo chính trên thế giới còn lại thì có Mỹ, Ấn Độ và Pakixtan là các nước có lượng gạo xuất khẩu tương đối lớn, chiếm tỷ lệ khoảng 10% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới, các nước còn lại chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn chỉ từ 1 đến 6%. Khác với nhiều nông sản khác, gạo là mặt hàng lương thực thiết yếu với nhiều nước, đặc biệt là các nước ở châu Á và châu Phi nên nhu cầu gạo là khá ổn định, việc này khiến cho giá gạo phụ thuộc rất nhiều vào nguồn cung trong đó biến động về sản lượng gạo xuất khẩu của các nước xuất khẩu chính như Thái Lan, Việt Nam, Mỹ hay Ấn Độ, Pakixtan làm cho giá gạo trên thị trường thế giới biến động lớn.
Bảng 2.3: Xuất khẩu gạo của các nước xuất khẩu chính
Các nước xuất khẩu
2006/2007
2007/2008
2009/2010
Khối lượng (triệu tấn)
Tỷ lệ (%)
Khốilượng (triệu tấn)
Tỷ lệ (%)
Khối lượng (triệu tấn)
Tỷ lệ (%)
Tổng xuất khẩu
28,65
100
29,69
100
32,13
100
Australia
0,2
0,7
0,02
0,1
0,03
0,1
Arhentina
0,45
1,6
0,45
1,5
0,48
1,5
EU
0,15
0,5
0,15
0,5
0,16
0,5
Trung Quốc
1,3
4,5
1,6
5,4
1,9
5,9
Ấn Độ
4,2
14,7
3,4
11,5
3,45
10,7
Pakixtan
3
10,5
3,2
10,8
3,4
10,6
Thái Lan
8,5
29,7
9
30,3
10,5
32,7
Việt Nam
4,6
16,1
5
16,8
5,5
17,1
Ai Cập
1
3,5
1,1
3,7
0,91
2,8
Mỹ
2,94
10,3
3,42
11,5
3,45
10,7
Các nước khác
1,17
4,1
1,04
3,5
1,03
3,2
(Nguồn: USDA Long- term Projections, 2008)
3.2. Mặt hàng cà phê
Hiện nay, 10 nước xuất khẩu cà phê lớn nhất trên thế giới lần lượt là : Braxin, Việt Nam, Colombia, Indonesia, Ấn Độ, Mêhico, Êtiopia, Guatemala, Pêru, Hondurat. Mười nước này có sản lượng chiếm tới 81.77% sản lượng cà phê toàn thế giới niên vụ 2007/2008. Trong đó, Việt Nam là quốc gia đứng thứ 2 về sản lượng với 17,500 triệu bao (chiếm 14,3% sản lượng cà phê thế giới), chỉ sau Braxin với sản lượng 37,600 triệu bao, chiếm 30,7% sản lượng cà phê thế giới, tiếp sau Việt Nam là các quốc gia Columbia, Indonesia, Ấn Độ… Như vậy, hiện nay, Việt Nam và Braxin là hai quốc gia sản xuất chủ yếu sản lượng cà phê của thế giới với tổng cộng khoảng 45% sản lượng cà phê toàn thế giới và vì vậy có khả năng gây ảnh hưởng rất lớn đến sản lượng cũng như giá cà phê trên thế giới.
Bảng 2.4: Sản lượng cà phê thế giới đến năm 2009
Đơn vị tính: Triệu bao
2005/2006
2006/2007
2007/2008
2008/2009
Thế giới
111,708
133,482
122,415
140,568
Braxin
36,100
46,700
37,600
51,100
Việt Nam
13,666
21,250
17,500
21,500
Colombia
11,953
12,164
12,400
12,200
Indonesia
6,750
6,665
6,650
6,600
Ấn Độ
4,617
4,800
4,367
4,750
Mêhicô
4,000
4,200
4,500
4,500
Etiopia
4,000
4,636
5,733
6,000
Guatemala
3,605
4,050
3,800
3,800
Pê ru
2,420
4,550
3,950
4,300
Hondurat
3,204
3,207
3,600
3,600
(Nguồn: FAS, USDA, 2008)
3.3. Mặt hàng cao su
Cao su cũng là một mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh và có vị thế trong các nước xuất khẩu, năm 2007, Việt Nam sản xuất được 577 nghìn tấn sản phẩm cao su, chiếm 6,3% sản lượng cao su thế giới và đứng thứ 6 trong những nước sản xuất cao su trên thế giới. Đứng đầu trong các nước xuất khẩu cao su trên thế giới hiện vẫn là Thái Lan với 3056 nghìn tấn (năm 2007) chiếm tới 31,6% sản lượng cao su toàn thế giới. Tiếp đó là Indonesia, Malaysia, Ấn Độ và Trung Quốc, tuy nhiên cũng cần phải lưu ý rằng Trung Quốc và Ấn Độ sản xuất được cao su nhưng lại là những nước tiêu thụ cao su lớn của thế giới, phần lớn cao su sản xuất ra là để phục vụ tiêu thụ trong nước và vì vậy, thực sự Việt Nam có vai trò khá quan trọng trong thị trường cao su quốc tế.
Bảng 2.5: Sản xuất cao su tự nhiên của một số nước sản xuất chủ yếu
Đơn vị tính: 1000 tấn
Năm 2005
Năm 2007
Năm 2008
Sản lượng (nghìn tấn)
Tỷ trọng(%)
Sản lượng (nghìn tấn)
Tỷ trọng(%)
Sản lượng (nghìn tấn)
Tỷ trọng(%)
Thế giới
8882
100,00
9685
100,00
9942
100,00
Thái Lan
2937
33,07
3056
31,55
3020
30,38
Inđônêxia
2271
25,57
2791
28,82
2824
28,40
Malaixia
1067
12,01
1215
12,55
1078
10,84
Ấn Độ
771
8,68
767
7,92
880
8,85
Trung Quốc
510
5,74
577
5,96
638
6,42
Việt Nam
468
5,27
608
6,28
663
6,67
SriLanca
104
1,17
120
1,24
-
-
( Nguồn: International Rubber Study Group)
Mặt hàng hạt tiêu
Năm 2008, xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam đạt gần 90.000 tấn, với kim ngạch 310 triệu đô la Mỹ. Thị trường chủ yếu vẫn là Mỹ, Đức, các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất... Hiện nay, hồ tiêu Việt Nam đã có mặt ở 73 nước trên thế giới. Sản lượng xuất khẩu của Việt nam chiếm khoảng 50% lượng hồ tiêu xuất khẩu toàn cầu, khẳng định vị trí số 1 trên thị trường quốc tế.
Năm 2009, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu khủng hoảng, những thị trường quan trọng có xu hướng giảm nhập khẩu, thì việc khai thác các thị trường mới rất có ý nghĩa đối với ngành hồ tiêu của Việt Nam.
Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hồ tiêu sang 15 thị trường lớn nhất đạt 226,04 triệu đô la, chiếm 72,91% tổng kim ngạch xuất khẩu hồ tiêu của cả nước. So với năm 2007, kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường này tăng 57,69%.
Theo báo cáo thường niên ngành hàng hồ tiêu Việt Nam năm 2008 và triển vọng năm 2009 của Trung tâm Thông tin phát triển nông nghiệp - nông thôn (AGROINFO), hầu hết các nước nằm trong nhóm 15 thị trường nhập khẩu hồ tiêu lớn của Việt Nam đều là những bạn hàng truyền thống trong những năm trước đây
Bảng 2.6: Kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu sang 15 thị trường Chính năm 2008
Đơn vị tính: triệu USD
STT
Thị trường
Kim ngạch
1
Mỹ
46,75
2
Đức
25,38
3
Ả rập Thống nhất
22,27
4
Hà Lan
18,37
5
Ai Cập
16,68
6
Singapore
13,44
7
Nga
13,29
8
Tây Ban Nha
11,27
9
Pakistan
10,26
10
Ba Lan
9,65
11
Ấn Độ
8,97
12
Anh
8,06
13
Ucraina
7,86
14
Nhật
7,53
15
Hàn Quốc
6,08
Năm 2008, Mỹ là thị trường có tăng trưởng nhập khẩu hồ tiêu lớn nhất từ Việt Nam với mức 130,3%, vươn từ vị trí thứ 3 trong năm 2007 lên vị trí thứ nhất.
Kim ngạch xuất khẩu hồ tiêu sang thị trường Mỹ năm 2008 đạt 46,75 triệu đô la, chiếm 15,08% tổng kim ngạch xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam. Xuất khẩu hồ tiêu sang Anh, Tây Ban Nha và Hàn Quốc cũng tăng trưởng khá tốt, trên 45%.
Hàn Quốc từ vị trí 17 năm 2007 nhảy lên vị trí 15 năm 2008, Anh từ vị trí 14 lên vị trí 12 và Tây Ban Nha từ 12 lên thứ 8.
Trong khi đó, xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam năm 2008 sang một số thị trường như Đức, các Tiểu vương quốc Ảrập Thống nhất, Pakistan, Ấn Độ và Ukraine lại giảm so với năm 2007.
Thị trường Pakistan giảm nhập khẩu hồ tiêu nhiều nhất từ Việt Nam (-42,82%) trong khi Ấn Độ giảm 32,57%, còn Đức và các Tiểu vương quốc Ảrập Thống nhất có mức giảm tương ứng là 10,5% và 12,03%.
III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH SUY GIẢM KINH TẾ TOÀN CẦU
1. Những thành tựu đạt được
1.1. Kết quả phát triển hoạt động xuất khẩu nông sản trong bối cảnh suy giảm kinh tế tế toàn cầu.
Quy mô thương mại nông sản ngày càng được mở rộng cả về thị trường lẫn mặt hàng, nhiều mặt hàng xuất khẩu đạt vị trí cao trên thị trường thế giới.
Mặc dù cũng chịu tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam vẫn có được vị trí cao trên thị thế giới về khối lượng xuất khẩu như gạo (thứ 2), cà phê (thứ 1 về cà phê robusta), hạt tiêu (thứ 1), hạt điều (thứ 2), cao su tự nhiên (thứ 5), v.v… Phạm vi thị trường của hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam cũng từng bước được mở rộng, hiện có mặt tại khắp các châu lục (Châu Âu, Châu Á, Bắc Mỹ và Mỹ Latinh, Châu Phi, Úc và Newzeland).
Xuất khẩu nông sản đạt mức tăng trưởng cao và liên tục xuất siêu mặc dù thương mại chung trong tình trạng nhập siêu.
Do chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế nên nhu cầu nhập khẩu của các nước giảm, tuy nhiên xuất khẩu nông sản của Việt Nam vẫn đạt mức cao về sản lượng.
Xuất khẩu những mặt hàng nông sản chủ lực
Xuất khẩu nông sản đã xây dựng được nhiều mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao, hình thành được cơ cấu thị trường xuất khẩu tương đối ổn định.
Những mặt hàng nông sản có kim ngạch xuất khẩu lớn của nước ta trong những năm vừa qua là gạo, cà phê, cao su, điều, tiêu, chè. Những mặt hàng này trung bình chiếm khoảng gần 60% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản giai đoạn 2001-2008.
Bảng 2.7: Một số các mặt hàng nông sản có kim ngạch lớn trong
giai đoạn 2001-2008.
Thứ tự về kim ngạch
Thứ tự về tăng trưởng
Tên mặt hàng
Mã HS
Trung bình 2001-2008
Kim ngạch (triệu USD)
Tăng trưởng (%)
1
24
Gạo
1006
1024019702.0
17.0
2
16
Cà phê
901
794628973.0
35.3
3
12
Cao su
4001
631497336.0
41.8
4
15
Điều
801
378584114.0
36.8
5
22
Tiêu
904
152505463.0
20.9
6
28
Chè
902
93357047.5
12.0
(Nguồn: Tính toán từ số liệu của TCHQ)
Các thị trường chính của xuất khẩu nông sản Việt Nam
Thị trường chính về xuất khẩu nông sản của Việt Nam là Châu Á và một số nước Châu Mỹ, Châu Âu.
Những thị trường xuất khẩu nông sản chính của Việt Nam xét theo kim ngạch là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Philippine, Đức, Đài Loan, Anh, Irắc, Hàn Quốc và Malaysia. Những thị trường này trung bình chiếm trên 55% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2009.
Các thị trường có tiềm năng cho xuất khẩu nông sản Việt Nam
Các thị trường tiềm năng cho xuất khẩu nông sản nằm ở Châu Phi, Trung Đông.
Những thị trường mà trong những năm gần đây có tốc độ nhập khẩu cao hàng nông sản của Việt Nam như ở khu vực Châu Phi (Cote’Ivoire, Algeria, Ghana, Ai Cập, Nam Phi), Châu Mỹ (Mexico, Canada), Châu Á (Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Pakistan, các tiểu Vương quốc Ả rập thống nhất, Israel), Châu Âu (Thụy Sĩ, Hi Lạp, Phần Lan) dường như chưa thực sự được chú ý trong các chương trình xúc tiến thương mại quốc tế.
1.2. Sức cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản
Xuất khẩu nông sản nhìn chung có lợi thế so sánh cao đối với các sản phẩm trồng trọt, thủy sản.
So sánh chỉ số RCA của các mặt hàng nông sản của Việt Nam với một số đối thủ cạnh tranh trực tiếp trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Indonexia, Malaixia, Philippine cho thấy Việt Nam có lợi thế cạnh tranh cao ở các mặt hàng như cà phê, cao su nguyên liệu.
So sánh về hiệu quả sản xuất một số ngành hàng nông sản của Việt Nam với các đối thủ cạnh tranh: Về diện tích gieo trồng, Việt Nam có lợi thế trong các ngành hồ tiêu và điều, diện tích trồng hồ tiêu của Việt Nam đứng thứ 4 thế giới và đứng diện tích trồng hồ tiêu đứng thứ 3. Về năng suất, Việt nam có lợi thế trong hai ngành hàng cà phê và hạt điều so với các nước xuất khẩu cạnh tranh khác như Brazil, Indonesia, Ấn Độ. Về sản lượng sản xuất, Việt Nam có lợi thế về sản lượng đối với hai ngành hàng điều và hồ tiêu. Về sản lượng xuất khẩu, điều và tiêu là những mặt hàng xuất khẩu đứng đầu thế giới của Việt Nam.
So sánh về hiệu quả xuất khẩu: Tính theo chỉ số kim ngạch xuất khẩu nông sản/lao động nông nghiệp thì Việt Nam cao hơn một số nước, cụ thể là Trung Quốc và Indonexia: Kim ngạch xuất khẩu nông sản/lao động nông nghiệp của Việt Nam đạt 290 USD/lao động (2005) và 355,7 USD/lao động (2006), Indonesia đạt 208 USD, Trung Quốc chỉ đạt 17 USD (2005). Cao nhất vẫn là Hoa Kỳ đạt 49270 USD (2006) và thứ hai là Thái Lan - 1218 USD (2005).
Chuỗi giá trị thương mại xuất khẩu
Kênh xuất khẩu qua các khâu từ Người sản xuất (chủ yếu là nông hộ nhỏ lẻ; trang trại, HTX) qua các nấc trung gian là thương lái, doanh nghiệp kinh doanh thực hiện sơ chế và xuất khẩu. Ở khâu xuất khẩu chủ yếu là xuất khẩu tại cảng Việt Nam, chưa thiết lập được hệ thống phân phối đến thị trường quốc tế. Các Doanh nghiệp mới chủ yếu tập trung vào thu mua và xuất khẩu hàng hóa nông sản thô, chưa qua chế biến, không có thương hiệu nên giá trị thấp. Ít có doanh nghiệp tập trung đầu tư vào sản xuất, bảo quản, chế biến và xây dựng thương hiệu.
Đối với hoạt động xuất khẩu, hiện nay hầu hết các loại hàng hóa nông sản chính do các công ty nhà nước thực hiện và các công ty này buôn bán theo hai cơ chế chính:
+ Xuất khẩu gián tiếp nông sản (cà phê, cao su, điều, tiêu, v.v…) qua trung gian (là các công ty nước ngoài, các đại lý ủy thác của các công ty nước ngoài tại Việt Nam hoặc các đầu nậu tại biên giới);
+ Xuất khẩu trực tiếp theo hợp đồng chính phủ (gạo, chè, v.v)
+ Nâng cấp và xây dựng mới cơ sở hạ tầng và thông tin;
+ Đào tạo nguồn nhân lực bao gồm cả tuyên truyền giáo dục pháp lý, đào tạo và tập huấn chuyên môn kinh doanh thương mại thích hợp với từng nhóm tác nhân, bồi dưỡng tổ chức và chuyên gia giao dịch, môi giới;
+ Phát huy vai trò tư vấn của Sở Nông nghiệp -PTNT, Sở Thương mại cho UBND tỉnh và Thành phố trong công tác qui hoạch và định hướng phát triển vùng nguyên liệu, xây dựng chương trình đào tạo chuyên môn thương mại nông sản, chỉ đạo công tác khuyến nông v.v.
+ Từng bước tiêu chuẩn hóa và minh bạch hóa các tiêu chuẩn (tiêu chuẩn chất lượng nông sản, thủ tục,mẫu hợp đồng chuẩn, phương pháp đánh giá, phân loại nông sản .v.v). Nghiên cứu hình thành cơ quan quản lý nhà nước về công tác hợp đồng và quản lý tiêu chuẩn chất lượng nông sản.
Sự phát triển của một ngành hàng gắn liền với quá trình tạo ra giá trị mới nhiều hơn hay còn gọi là giá trị gia tăng. Trong quá trình phát triển của ngành hàng, sự tạo ra giá trị mới, chia sẻ lợi ích giữa các chủ thể trong ngành hàng sẽ quyết định chất lượng của mối quan hệ giữa các chủ thể và trình độ phát triển của ngành hàng đó theo hướng chuỗi giá trị truyền thống hoặc chuỗi giá trị hiện đại.
Trong “chuỗi giá trị nông sản truyền thống” diễn ra sự cạnh tranh mạnh giữa các chủ thể, thường kết quả là “thắng-thua”, hiện tượng phổ biến là các chủ thể bằng mọi giá hướng đến mục tiêu mua rẻ nhất và bán đắt nhất. Trong kênh cung ứng này, người nông dân thường ở vào thế yếu, bị thua thiệt.
Giá trị gia tăng từ sản phẩm cuối cùng không có sự phân bổ công bằng giữa các chủ thể, những doanh nghiệp xuất khẩu, chế biến - với vị trí áp đảo trong chuỗi giá trị - sẽ giành lấy lợi ích nhiều nhất.
Đối với “chuỗi giá trị nông sản hiện đại”, các thành quả và lợi ích của việc bán sản phẩm cuối cùng được chia sẻ một cách hợp lý. Mối quan hệ trong chuỗi được xây dựng dựa trên các mối quan hệ mật thiết theo dạng đối tác và gắn kết chặt chẽ dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau và “chữ tín”, các chủ thể gắn chặt với lợi ích của toàn bộ chuỗi ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai sua lai.doc