Thực trạng và giải pháp phát triển bền vững ngành nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Thủy sản Việt nam trong hơn 10 năm qua đã có những bước phát triển vượt bậc, trở thành một trong những nước có tốc độ phát triển thủy sản nhanh trên thế giới. Trong đó, ngành nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam được coi là tiến bộ nhanh nhất, bất chấp sự khởi đầu muộn và hiện chiếm khoảng 1/3 tổng sản lượng thuỷ sản của cả nước, góp phần quan trọng trong việc nâng cao sản lượng và giá trị xuất khẩu và tạo công ăn việc làm cho nhiều người dân, đặc biệt là vùng dân nghèo ven biển, vùng sâu v

doc109 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp phát triển bền vững ngành nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ùng xa, hải đảo…Từ đó tiến tới sụ ổn định các mặt của xã hội. NTTS đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong các hoạt động kinh tế thế giới, và thể hiện vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế -xã hội nhất là với một nước nghèo đi lên từ nền sản xuất nông nghiệp như Việt Nam. Việc phát triển mạnh mẽ NTTS thay thế cho khai thác hải sản đã phần nào giảm áp lực khai thác quá mức đối với vùng biển Việt Nam, tiến tới bảo tồn nguồn tài nguyên biển tự nhiên của đất nước. Tuy nhiên, ngành nuôi trồng thủy sản vẫn còn không ít những bất cập và phải đối mặt với hàng loạt thách thức như: công tác quy hoạch chưa không theo kịp với tốc độ phát triển, đầu tư còn dàn trải, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, hàm lượng khoa học công nghệ còn thấp, nguồn lợi thuỷ sản đang có xu hướng giảm , sự phát triển còn mang tính nhỏ lẻ, tự phát, không theo kịp quy hoạch dẫn đến môi trường một số nơi có dấu hiệu suy thoái, dịch bệnh phát sinh và có sự mất cân đối giữa cung và cầu... Do đó, để khắc phục những tồn tại nêu trên, đáp ứng được những biến đổi về khí hậu, các yêu cầu của hội nhập kinh tế toàn cầu, sự suy thoái môi trường, sự đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như theo kịp sự tiến bộ của khoa học công nghệ hiện đại thì rất cần một chiến lược phát triển tổng thể nhằm mục tiêu phát triển ngành “ nuôi trồng thủy sản “ một cách bền vững, góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, đáp ứng thị trường trong nước và phục vụ xuất khẩu. Phát triển bền vững NTTS là sự phát triển có sự kết hợp hài hoà của ba mặt: tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Đặc biệt sự phát triển bền vững không chỉ thoả mãn nhu cầu hiện tại của con người mà còn phải đảm bảo một cơ sở tài nguyên phong phú, bảo tồn các giống loài thúy sản quý hiếm, một môi trường trong sạch không ô nhiễm, một xã hội tiến bộ cho người dân trong tương lai. Trong thời gian thực tập ở Vụ KTNN của Bộ KH & ĐT em đã nhận thức được sự cần thiết của sự phát triển bền vững cũng như thực trạng của ngành NTTS ở Việt Nam, vì thế em đã lựa chọn đề tài: “ Thực trạng và giải pháp phát triển bền vững ngành nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam” Mặc dù đã có sự cố gắng nhưng do kiến thức và thời gian còn hạn chế nên bài viết của em vẫn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý, phê bình của thầy giáo, cũng như sự giúp đỡ tận tình của các cô chú trong Vụ kinh tế nông nghiệp (Bộ KH- ĐT) để em hoàn thành bài báo cáo được tốt hơn. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy giáo T.S Nguyễn Ngọc Sơn cùng các chuyên viên Vụ KTNN (Bộ KH – ĐT ) đã giúp em hoàn thành bài viết này. 1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài. - Mục đích nghiên cứu đề tài: + Hệ thống các vấn đề lý luận chung về ngành Nuôi trồng thuỷ sản. + Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam. + Đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam trong thời gian tới. - Nhiệm vụ: + Lựa chọn những vấn đề lý luận và thực tiễn hiện nay liên quan đến vấn đề nghiên cứu. + Phân tích, đánh giá tình hình nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam. + Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam. 2. Phạm vi nghiên cứu đề tài. Tình hình nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, nước ngọt, nước lợ ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 đến nay. Đánh giá hoạt động nuôi trồng thuỷ sản từ đó rút ra vấn đề cần giải quyết. 3. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu. - Quan điểm: phát triển bền vững ngành NTTS. - Phương pháp nghiên cứu: trên cơ sở thu thập được những số liệu thực tế của ngành NTTS những năm qua, bài viết của em tiến hành phân tích những kết quả đạt được, so sánh đối chiếu với những nguyên tắc, mục tiêu về sự phát triển bền vững, từ đó đánh giá sự phát triển của ngành NTTS đã đạt tiêu chuẩn hay chưa, còn những tồn tại, bất cập gì để từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm khắc phục và phát trỉên hơn nữa ngành NTTS Việt Nam. 4. Kết cấu đề tài: Phần I: Cơ sở lý luận về vấn đề phát triển bền vững ngành NTTS. Phần II: Thực trạng phát triển bền vững nuôi trồng thuỷ sản ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 đến nay. Phần III: Giải pháp phát triển bền vững nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2020. PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN I – Khái niệm, đặc điểm của ngành nuôi trồng thủy sản. 1. Khái niệm ngành nuôi trồng thủy sản. Ngành thuỷ sản xuất hiện và có quá trình phát triển từ rất lâu đời với xuất phát điểm là đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản (NTTS). Thời kỳ đầu đánh bắt thuỷ sản được coi là ngành quan trọng chủ yếu cấu thành nên ngành Thuỷ sản. Vì vậy, ở thời điểm đó NTTS chưa phát triển và con người chưa ý thức được việc tái tạo nguồn lực và đảm bảo môi trường cho sự phát triển của các loài thuỷ sản. Những thập kỷ gần đây, khi sản phẩm thuỷ sản tự nhiên ngày càng có nguy cơ sụt giảm và cạn kiệt vì đánh bắt quá nhiều, tràn làn trong điều kiện nguồn lực có hạn thì NTTS ngày càng phát triển và trở nên quan trọng. Chính vì thế ngành NTTS được nhìn nhận trên nhiều quan điểm như sau: - Theo giáo trình kinh tế thuỷ sản: NTTS là một bộ phận sản xuất có tính nông nghiệp nhằm duy trì bổ sung, tái tạo, và phát triển nguồn lợi thuỷ sản, các sản phẩm thuỷ sản được cung cấp cho các hoạt động tiêu dùng và chế biến xuất khẩu. Hoạt động nuôi trồng diễn ra trên nhiều loại hình mặt nước với nhiều chủng loại khác nhau, bên cạnh đó sự phát triển của khoa học kỹ thuật phục vụ cho hoạt động NTTS. - Quan điểm của các nhà kinh tế học: NTTS là một hoạt động sản xuất tạo ra nguyên liệu thuỷ sản cho qúa trình tiêu dùng sản phẩm hoạt động xuất khẩu và nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. - Quan điểm của các nhà sinh học: NTTS là hoạt động tạo ra các điều kiện sinh thái phù hợp với sự trưởng thành và phát triển của các loại thủy sản để thúc đẩy chúng phát triển qua các giai đoạn của vòng đời. - Theo quan điểm của FAO: NTTS là các hoạt động canh tác trên đối tượng sinh vật thủy sinh như nhuyễn thể, giáp xác, thực vật thủy sinh…quá trình này bắt đầu từ khi thả giống, chăm sóc nuôi lớn cho tới khi thu hoạch xong. 2. Đặc điểm ngành nuôi trồng thủy sản. 2.1. Nuôi trồng thủy sản phát triển rộng khắp đất nước và tương đối phức tạp so với các ngành sản xuất vật chất khác. Ở đâu có nước là ở đó có nuôi trồng thủy sản.Vì vậy, nuôi trồng thủy sản phát triển rộng khắp tại mọi vùng địa lý từ miền núi xuống miền biển. Thủy sản nuôi rất đa dạng, nhiều giống loài mang tính địa lý rõ rệt, có quy luật riêng của từng khu hệ sinh thái điển hình. Do vậy, công tác quản lý và chỉ đạo sản xuất của ngành cần chú ý đến các vấn đề như: xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch, triển khai thực hiện các chính sách… phải phù hợp với từng khu vực lãnh thổ hay từng vùng khác nhau. 2.2. Số lượng, chất lượng nguồn nước và nguồn lợi thủy sản rất khác nhau. Mỗi mặt nước nuôi trồng thủy sản có độ màu mỡ khác nhau phụ thuộc vào thổ nhưỡng vùng đất và nguồn nước, nguồn cung cấp. Vật nuôi trong ao hồ rất khó quan sát trực tiếp được như trên cạn vì thế rủi ro trong sản xuất lớn hơn nhiều. Người nuôi cần có kinh nghiệm và kiến thức kỹ thuật cần thiết về vấn đề thuỷ lợi, bởi vì thuỷ lợi như chìa khoá để mở ra cánh cửa cho người làm thuỷ sản có thể đạt được những thành tựu to lớn. 2.3. Hoạt động nuôi trồng thủy sản có tính mùa vụ rõ nét. Nuôi trồng thủy sản mang tính mùa vụ vì thủy sản có quy luật sinh trưởng và phát triển riêng. Theo Lenin, tính mùa vụ thể hiện ở chỗ thời gian lao động không ăn khớp với thời gian sản xuất. Thời gian lao động là thời gian tác động tới sự hình thành của sản phẩm, còn thời gian sản xuất kéo dài hơn vì bao gồm cả thời gian lao động không tác động đến sản phẩm. Ví dụ : thời gian sản xuất kéo dài từ A đến B, nhưng thời gian lao động chỉ bao gồm: thời gian cải tạo ao (phơi đáy ao 2 tuần lễ), thả giống, chăm sóc (cho ăn 2 lần/ ngày), thu hoạch. Như vậy, rõ ràng người nuôi phải tuân theo quy luật sinh trưởng và phát triển của thuỷ sản. A B Cải tạo Thả giống Chăm sóc Thu hoạch Trong NTTS phải lưu giữ và chăm sóc đặc biệt đối với đàn vật nuôi bố mẹ (đàn cá bố mẹ, tôm bố mẹ…) để sản xuất con giống cho các vụ nuôi tiếp theo. Đây là tài sản sinh học đặc biệt của doanh nghiệp, việc lựa chọn đàn tôm, cá bố mẹ phải tuân theo quy trình khoa học – công nghệ của hệ thống quốc gia. Tính thời vụ trong NTTS đã dẫn đến tình trạng người lao động có lúc rất bận rộn còn có những lúc lại nhàn rỗi. Đặc điểm này đòi hỏi trong NTTS một mặt phải tôn trọng tính thời vụ, mặt khác phải giảm bớt tính thời vụ bằng cách: Đối với NTTS phải cần tập trung nghiên cứu các giống loài thuỷ sản có thời gian sinh trưởng ngắn để có thể sản xuất nhiều vụ trong năm. 2.4. Nuôi trồng thuỷ sản có từ rất lâu đời nhưng đi lên từ điểm xuất phát rất thấp: nhỏ bé, manh mún và phân tán. Ngành thuỷ sản xuất hiện và có quá trình phát triển từ rất lâu đời với xuất phát điểm là đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản (NTTS). Thời kỳ đầu đánh bắt thuỷ sản được coi là ngành quan trọng chủ yếu cấu thành nên ngành Thuỷ sản. Vì vậy, ở thời điểm đó NTTS chưa phát triển và con người chưa ý thức được việc tái tạo nguồn lực và đảm bảo môi trường cho sự phát triển của các loài thuỷ sản. Vì thế có thể nói ngành NTTS là một ngành tuy có từ lâu đời nhưng đi lên từ điểm xuất phát thấp, nhỏ bé, manh mún. Trong thời gian gần đây nhờ có sự quan tâm và nhận thức đúng đắn về ngành thuỷ sản nên đã có những bước phát triển đột phá nhất định. Trong năm 2000 có 7 quốc gia Châu Á có tên trong số 10 nước có sản lượng nuôi trồng thuỷ sản cao nhất thế giới, đó là : Băng La Đét, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia, Nhật Bản, Thái Lan và Việt Nam. Châu Á đóng góp 90% tổng sản lượng NTTS của thế giới. NTTS theo hướng thân thiện với môi trường, công nghệ NTTS không có chất thải sẽ phát triển trên thế giới. Ở Việt Nam NTTS trong hệ VAC đáp ứng yêu cầu này. 3. Các hình thức nuôi trồng thủy sản. 3.1. Các phương thức nuôi lấy thịt điển hình. - Nuôi quảng canh: : hay còn gọi là nuôi truyền thống: là hình thức nuôi bằng nguồn thức ăn tự nhiên trong các ao hồ, đầm ở nông thôn và các vùng ven biển. - Nuôi quảng canh cải tiến: là hình thức nuôi chủ yếu bằng nguồn giống và thức ăn tự nhiên, nhưng bổ sung them giống nhân tạo ở mức độ nhất định, đồng thời có đầu tư cải tạo thủy vực nhằm tăng sản lượng. - Nuôi bán thâm canh: : là hình thức nuôi chủ yếu bằng giống nhân tạo và thức ăn nhân tạo, nhưng kết hợp nguồn thức ăn tự nhiên trong thủy vực. Ngoài ra, hệ thống hồ ao nuôi còn được đầu tư cơ sở hạ tầng như điện, thiết bị cơ khí, thủy lợi…nhất là chủ động về nguồn nước cung cấp. Có khả năng xử lý và khống chế môi trường bằng hệ thống máy bơm sục khí. - Nuôi thâm canh: : là hình thức nuôi hoàn toàn bằng con giống và thức ăn nhân tạo, được đầu tư cơ sở hạ tầng đầy đủ (quy hoạch hệ thống ao hồ, thủy lợi, giao thông, điện nước, cơ khí ), có thể chủ động khống chế các yếu tố môi trường. Mật độ giống thả dầy, năng suất cao. - Nuôi công nghiệp: (nuôi siêu thâm canh) là hình thức nuôi hoàn toàn bằng con giống và thức ăn nhân tạo với mật độ rất cao. Sử dụng các máy móc và thiết bị nhằm tạo cho vật nuôi một môi trường sinh thái và các điều kiện tối ưu, sinh trưởng tốt nhất, không phụ thuộc vào thời tiết và mùa vụ, trong thời gian ngắn nhất đạt các mục tiêu sản xuất và lợi nhuận. Một số nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Đức, Nhật…có trình độ nuôi thủy sản công nghiệp tương đối cao và phổ biến, mỗi năm đạt tời hàng ngàn tấn sản phẩm. 3.2. Các hình thức nuôi năng suất cao ở Việt Nam. Các hình thức nuôi năng suất cao ở Việt Nam. Tại Việt Nam trong hơn 40 năm qua từng bước hình thành và phát triển các hình thức nuôi trồng thủy sản năng suất cao, đa dạng về giống loài và các loại thủy vực. 3.2.1. Nuôi cá nước ngọt ở các loại hình mặt nước. - Nuôi cá nước tĩnh: để đạt năng suất cao, người ta thường nuôi ghép nhiều loại có tập tính ăn khác nhau. Trong ao nuôi truyền thống, nuôi ghép: mè, trôi ta, trắm đen, chép. Sau này nuôi trồng thủy sản phát triển người ta đưa ra một vài công thức nuôi ghép với quy trình kỹ thuật lấy một loài chủ rồi ghép với các loài khác, ví dụ như: + Ao nuôi cá mè làm chủ (tính cho 1 ha): Mè trắng: 60%, mè hoa: 5%, trắm cỏ: 3%, cá trôi (ta): 25%, chép: 7%. + Ao nuôi trắm cỏ làm chủ (tính cho 1 ha): Trắm cỏ: 50%, mè trắng: 20%, mè hoa: 2%, cá trôi: 18%, chép: 4%, rô phi: 6%. + Ao nuôi cá rô phi làm chủ (tính cho 1 ha) : Rô phi: 45%, mè trắng: 20%, mè hoa: 5%, cá trôi: 20%, trắm cỏ: 4%, chép: 6%. + Ao nuôi cá trên làm chủ nên ghép với rô phi, khoảng 10% - Nuôi cá nước chảy của các hộ gia đình ở miền núi: Tận dụng các khe suối, kênh rạch có nước chảy làm ao nuôi, hoặc đào ao nuôi rồi dẫn dòng chảy qua đường ống vào ao. Cách làm rất đa dạng sáng tạo, quy mô ao nhỏ bé, nhưng tổng diện tích rất rộng có khi cả xã cũng có ao như Sơn La, Bình Liêu (Quảng Ninh), Mai Châu (Hoà Bình), Cẩm Thủy (Thanh Hóa)..do đó có ý nghĩa kinh tế - xã hội to lớn. Đối tượng nuôi chủ yếu là cá trắm cỏ, có thể nuôi ghép một ít cá chép, cá rô phi… Vật liệu làm lồng đa dạng như tre, luồng, hóp, gỗ, sắt, lưới, ni lông… Nuôi cá bè trên sông rất phát triển ở miền Tây Nam Bộ, mạnh nhất là ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, đối tượng chính là cá basa, cá tra. Nhà ở làm ngay trên lồng bè nuôi cá, có bố trí chỗ ăn ở hợp lý và phòng chống ô nhiễm nước vùng nuôi cá. - Nuôi cá nước thải sinh hoạt ở ngoại vi thành phố, thị xã: Nuôi cá nước thải đã có từ thập niên 60 của thế kỷ trước. Hợp tác xã Yên Duyên, Thanh Trì – Hà Nội là lá cờ đầu vào thời gian đó. Có thể nuôi trên diện rộng từ 5-10 ha, phải quy hoạch bờ vùng, mương tưới, cống tiêu, và trạm bơm, xử lý nước thải cho phù hợp với điều kiện nuôi, ngăn ngừa vi khuẩn gây bệnh và các kim loại nặng như chì, thủy ngân… có trong nước thải. Đối tượng nuôi chủ yếu là các loại ăn tạp, mùn bã hữu cơ như rô phi, chép, trôi Ấn Độ và cá mè…vùng nuôi cá nước thải ở ven đô thị cung cấp một lượng thủy sản tươi sống cho dân sống trong thành phố. - Nuôi cá ruộng trũng: Nghề nuôi cá ruộng có lịch sử phát triển từ lâu đời ở nước ta và các nước Đông Nam Ấ. Hiện nay, có các loại hình nuôi cá ruộng phổ biến là xen canh và luân canh. Ở các tỉnh phía Bắc kết hợp trồng lúa – nuôi cá ở các chân ruộng trũng hoặc luân canh một vụ lúa, một vụ cá. Đối tượng nuôi chủ yếu là cá chéo, rô phi, các ruộng nuôi cá phải được quy hoạch, có bờ vùng, bờ thửa. Bờ phải cao hơn mức nước cao nhất hàng năm là 0.5m. Mặt bờ rộng 0.7- 0.8m để có thể trồng cây ăn quả và lấy bong râm. Trong ruộng phải có mương, chuôm cho cá trú nắng khi nhiệt độ cao. Tại nhiều tỉnh miền Tây Nam Bộ như Bạc Liêu, Cà Mau, Cần Thơ, Kiên Giang…nuôi xen canh lúa – cá, lúa –tôm nước mặn hoặc nuôi luân canh một vụ lúa, một vụ tôm. Ở nước ta hiện nay có những vùng ruộng trũng rộng lớn, tập trung mang ý nghĩa kinh tế - sinh thái quan trọng cho sự phát triển lâu dài và bền vững. 3.2.2. Nuôi cá nước lợ và cá biển. Nuôi cá nước lợ và cá biển phát triển rất chậm, mới được tập trung chủ đạo vào cuối những năm cuối thế kỷ 20. Nuôi cá nước lợ có hiệu quả kinh tế khá cao, tỷ suất lợi nhuận đạt 60 - 90%. Hình thức nuôi phổ biến trong đầm, eo vịnh và lồng bè. Hiện nay, các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định, Bà Rịa –Vũng Tàu đã có nghề nuôi phát triển ổn định. 3.2.3. Nuôi tôm và các thủy sản khác. Giống như các hình thức nuôi cá nước ngọt Nuôi tôm nước ngọt có tôm càng xanh, chủ động được giống bằng cho đẻ nhân tạo thành công. Chủ yếu phát triển mạnh nuôi tôm sú nước lợ và một số loài tôm khác như tôm rảo, tôm thẻ. Kết quả nuôi tôm sú cho hiệu quả kinh tế cao ở nhiều tỉnh. Năng suất ở một số địa phương như sau : Nuôi tôm thâm canh: đạt từ 2.5-5 tấn/ ha (Quảng Nam – Đà Nẵng, Bến Tre, Bạc Liêu) Nuôi tôm bán thâm canh: đạt từ 1.2 -2.5 tấn/ha (Phú Yên, Bình Thuận, Thừa Thiên Huế). Nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến, luân canh: đạt từ 0.6 – 0.87 tấn/ha. 4. Vai trò của ngành nuôi trồng thuỷ sản. 4.1. Ngành nuôi trồng thuỷ sản có vai trò quan trọng trong việc duy trì, tái tạo các nguồn lợi thuỷ sản. Các nguồn lợi thủy sản là nguồn lợi tự nhiên với tính chất có hạn, khan hiếm khi khai thác đánh bắt một cách tràn lan không có kế hoạch thì nguồn lợi này lại càng trở nên khan hiếm, thậm chí một số loài gần như tuyệt chủng. Chính vì vậy, để đảm bảo nguồn lợi này được duy trì và tiếp tục mang lại lợi ích cho con người thì cần có những kế hoạch khai thác hợp lý, khai thác kết hợp với việc bảo vệ, bổ sung tái tạo một cách thường xuyên thông qua hoạt động đánh bắt và NTTS là 2 bộ phận cấu thành nên ngành thuỷ sản nhưng mang 2 sắc thái hoàn toàn khác nhau, bổ sung lẫn nhau tạo nên sự phát triển chung của toàn ngành. 4.2. Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thuỷ sản và thương mại quốc tế thuỷ sản. Nuôi trồng thuỷ sản là nghề mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn một số ngành nghề sản xuất nông nghiệp khác, sản phẩm không chỉ tiêu dùng nội địa mà một số đối tượng thuỷ sản nuôi trồng còn là nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu. Trong nhiều năm liền, Ngành Thuỷ sản luôn giữ vị trí thứ 3 hoặc thứ 4 trong bảng danh sách các ngành có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất đất nước. Ngành Thuỷ sản Việt Nam là ngành đứng thứ 6 trong 10 nước xuất khẩu thuỷ sản mạnh có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD trên thế giới. Tính chung năm năm 2001 - 2005, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt trên 11 tỉ USD, chiếm khoảng 9% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Năm 2000, Việt Nam xuất khẩu thủy sản vượt ngưỡng 1 tỉ USD và đến năm 2002 kim ngạch xuất khẩu thủy sản đã đạt hơn 2 tỉ USD. Năm 2005 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt gần 2,7 tỷ USD. Với con số này, Việt Nam đã trở thành một nước xuất khẩu thủy sản lớn trong khu vực Đông Nam á. Có được kết quả này là nhờ trong những năm qua, ngành Thủy sản đã tích cực đẩy mạnh công tác nuôi trồng, chế biến thủy sản. Trong những năm qua, sản lượng NTTS liên tục tăng năm 2002 là 976.100 tấn, trong đó khoảng 40% dành cho công nghiệp chế biến xuất khẩu. Đến năm 2005, nhu cầu nguyên liệu cho chế biến thủy sản là 2.030.000 tấn và năm 2010 là 2.650.000 tấn. Để đáp ứng đủ nhu cầu, ngành Thủy sản phải chủ động được nguồn nguyên liệu. Bởi nguyên liệu là khâu rất quan trọng trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh thủy sản. Có một nguồn nguyên liệu ổn định, giá cả có sức cạnh tranh thì ngành công nghiệp chế biến thủy sản mới có cơ hội phát triển. Trong xu thế ngày càng hạn chế khai thác thủy sản nhằm bảo vệ môi trường như hiện nay thì NTTS đóng vai trò chủ đạo trong việc cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Việc cung cấp từ NTTS cũng đảm bảo ổn định và phù hợp với nhu cầu của thế giới nhờ thực hiện tốt công tác khuyến ngư và phát triển giống mới. Nuôi trồng thủy sản đã tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho công nghiệp chế biến, nhất là chế biến xuất khẩu và đã đóng góp phần quan trọng vào việc tăng kim ngạch xuất khẩu thủy sản. Trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu thủy sản Việt Nam, tôm chiếm tỉ trọng giá trị kim ngạch xuất khẩu là 43,7% (năm 2001), 46,9% (năm 2002), trong đó tôm nuôi chiếm phần lớn. 4.3. Giải quyết việc làm và tăng thu nhập. NTTS là một ngành kinh tế tạo cơ hội công ăn việc làm cho nhiều cộng đồng nhân dân, đặc biệt ở những vùng nông thôn và vùng ven biển. Những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2001 đến năm 2004, công tác khuyến ngư đã tập trung vào hoạt động trình diễn các mô hình khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, hướng dẫn người nghèo làm ăn. Hiện tại, mô hình kinh tế hộ gia đình được đánh giá là đã giải quyết cơ bản công ăn việc làm cho ngư dân ven biển. Bên cạnh đó, mô hình kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đã góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động ở các vùng, nhất là lao động nông nhàn ở các tỉnh Nam Bộ và Trung Bộ. Nghề NTTS ở sông Cửu Long được duy trì đã tạo công ăn việc làm cho 48.000 lao động ở ven sông. Đến năm 2005 do chuyển đổi diện tích sang nuôi trồng thuỷ sản đã góp phần đưa số lao động nuôi trồng thuỷ sản là 2.550.000 lao động (bao gồm cả lao động thời vụ). Bên cạnh đó, do hiệu quả của NTSS cao hơn nhiều so với các lĩnh vực nông nghiệp khác, nên cùng với việc thực hiện chuyển đổi kỹ thuật sản xuất, chuyển đổi diện tích từ trồng lúa sang NTTS đã tạo ra nguồn thu nhập lớn góp phần nâng cao mức sống cho người dân. 4.4. Cung cấp thực phẩm đáp ứng nhu cầu nội địa. Cùng với mức sống của người dân dần được cải thiện, nhu cầu về thực phẩm chất lượng cao, giàu protein ngày một tăng thì ngành NTTS ngày càng trở thành nguồn cung cấp nguyên liệu quan trọng cho thị trường nội địa. Ngành NTTS là một trong những ngành tạo ra lương thực, thực phẩm, cung cấp các sản phẩm tiêu dùng trực tiếp. Ở tầm vĩ mô, dưới giác độ ngành kinh tế quốc dân, Ngành NTTS đã góp phần đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm, đáp ứng được yêu cầu cụ thể là tăng nhiều đạm và vitamin cho thức ăn. Có thể nói Ngành NTTS đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho người dân. 4.5. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp. Ngày nay, xu hướng chuyển đổi diện tích trồng kém hiệu quả như trồng lúa ruộng trũng 1 vụ bấp bênh, năng suất thấp, đất trồng cói, làm muối kém hiệu quả và đất cát, đất hoang hoá sang sử dụng có hiệu quả hơn cho ngành NTTS . Nguyên nhân của hiện tượng này là do giá thuỷ sản trên thị trường thế giới những năm gần đây tăng đột biến, trong khi giá các loại nông sản xuất khẩu khác của Việt Nam lại bị giảm sút dẫn đến nhu cầu chuyển đổi cơ cấu diện tích giữa nuôi trồng thủy sản và nông nghiệp càng trở nên cấp bách. Quá trình chuyển đổi diện tích, chủ yếu từ lúa kém hiệu quả, sang nuôi trồng thuỷ sản diễn ra mạnh mẽ nhất vào các năm 2000-2002: hơn 200.000 ha diện tích được chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản hoặc kết hợp nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, từ 2003 đến nay ở nhiều vùng vẫn tiếp tục chuyển đổi mạnh, năm 2003 đạt 49.000 ha và năm 2004 đạt 65.400 ha. Có thể nói NTTS đã phát triển với tốc độ nhanh, thu được hiệu quả kinh tế - xã hội đáng kể, từng bước góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế ở các vùng ven biển, nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo và làm giàu cho nông dân. Hơn nữa, NTTS cũng đã thu hút sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế như Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp TNHH, doanh nghiệp cổ phần ...NTSS phát triển cũng kép theo sự phát triển của các ngành Dịch vụ – Công nghiệp. Vì vậy, phát triển NTSS đã góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển nhanh và bền vững. III. Các nhân tố tác động đến sự phát triển bền vững ngành nuôi trồng thuỷ sản. 1. Đối tượng nuôi trồng thủy sản. Cũng giống như sản xuất nông nghiệp, đối tượng của NTTS là các cơ thể sống. Chúng phát triển theo quy luật sinh học nhất định (sinh trưởng, phát triển và diệt vong). Các cơ thể sống rất nhạy cảm với những điều kiện ngoại cảnh, chỉ một sự biến động nhỏ của môi trường sống cũng dễ gây ảnh hưởng đến bản thân các vật nuôi này. Các ảnh hưởng của điều kiện bên ngoài như : gió, mưa, bão, lũ, hạn hán… đều ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của chúng. - Nguồn lợi cá nước ngọt: Việt Nam đã thống kê được 544 loài trong 18 bộ, 57 họ, 228 giống. Với thành phần giống loài phong phú, nước ta được đánh giá có đa dạng sinh học. Trong 544 loài đó có nhiều loài có gía trị kinh tế cao. - Nguồn lợi cá nước lợ, mặn: Theo số liệu được thống kê, hiện nay nước ta có 186 loài chủ yếu. Một số loài có giá trị kinh tế như: Cá song, cá hồng, cá tráp, cá vựợc, cá măng, cá cam… - Nguồn lợi tôm: Hiện nay, Việt Nam đã thống kê được 16 loài chủ yếu . - Về nhuyễn thể: Có một số loài chủ yếu: trai, hầu, điệp, nghêu, sò , ốc… - Về rong tảo: Với 90 loài có giá trị kinh tế, trong đó đáng kể là rong câu (11 loài), rong mơ, rong sụn… 2. Điều kiện tự nhiên về mặt nước. Có thể nói nguồn nước là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công của ngành NTTS. Môi trường nước được phân thành ba loại: nước ngọt, nước mặn, nước lợ. Đối với mỗi loại nước có một đối tượng nuôi trồng phù hợp. Đặc biệt nguồn nước phục vụ NTTS yêu cầu khá khắt khe nghiêm ngặt về chất lượng: nước không bị ô nhiễm, độ đục thấp, hàm lượng các chất độc trong nước thấp hoặc không có. Để sử dụng nguồn nước mặt cho NTTS đạt hiệu quả cao và phát triển bền vững phải đặc biệt chú ý giải pháp quản lý, giải pháp kỹ thuật, giải pháp công cộng …làm cơ sở. Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển nuôi trồng thủy sản. Bờ biển dài hơn 3.260 km với 112 cửa song, lạch và 12 đầm phá, eo vịnh, có khả năng phong phú nuôi thủy sản lợ, mặn. Hệ thống sông ngòi, kênh rạch của Việt Nam rất đa dạng và chằng chịt có tới 15 con sông có diện tích lưu vực từ 300 km2 trở lên. Ngoài ra, còn hàng nghìn đảo lớn nhỏ nằm rải rác dọc theo đường biển là những khu vực có thể phát triển nuôi trồng thủy sản quanh năm. Trong vùng viển có 4.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có những đảo lớn có dân cư như Vân Đồn, Cát Bà, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc, có nhiều vịnh, vũng, eo ngách, các dòng hải lưu, vừa là ngư trường khai thác hải sản thuận lợi, vừa là nơi có nhiều điều kiện tự nhiên để phát triển nuôi biển và xây dựng các khu căn cứ hậu cần nghề cá. Bên cạnh điều kiện tự nhiên vùng biển, Việt Nam còn có nguồn lợi thuỷ sản nước ngọt ở trong 2.860 con sông lớn nhỏ, nhiều triệu hecta đất ngập nước, ao hồ, ruộng trũng, rừng ngập mặn, đặc biệt là ở lưu vực sông Hồng và sông Cửu Long, v.v… đó là nguồn thực phẩm chính hằng ngày của hầu hết ngư dân vùng nông thôn Việt Nam. Ở đất nước này, có lẽ không có một gia đình nông dân nào mà ở đó người ta không thấy có một loại dụng cụ đánh bắt cá, chí ít cũng có một cần câu. Trong nội địa hệ thống sông ngòi chằng chịt ở phía Bắc là hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, phía Nam là đồng bằng sông Cửu Long với hệ thống kênh rạch liên hoàn. Ngoài ra, còn có các đầm hồ thủy lợi, thủy điện đã tạo ra một tiềm năng to lớn về diện tích mặt nước. Theo thống kê của Bộ Thủy sản tổng diện tích có khả năng nuôi trồng thủy sản là khoảng 1.7 triệu ha gồm : 120.000 ha hồ chứa mặt nước lớn: 446.000 ha ruộng úng trũng, nhiễm mặn, cấy lúa một vụ hoặc hai vụ bấp bênh: 635.000 ha vùng triều. Ngoài ra, còn phải kể đến khoảng trên 100.000 ha eo vịnh, đầm phá ven biển đang được quy hoạch nuôi trồng thủy sản 3. Những thuận lợi về khí hậu, thủy văn và lao động. - Về khí hậu: Các điều kiện thời tiết, khí hậu có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động NTTS nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát sinh và lan tràn dịch bệnh cho vật nuôi. Việt Nam là một nước nằm trong vùng nhiệt đới pha trộn tính ôn đới, vì vậy mà điều kiện thời tiết khí hậu có ảnh hưởng sâu sắc đến ngành NTTS. Nuôi trồng thủy sản ở nước ta tiến hành được cả từ Bắc vào Nam nhờ khí hậu Á nhiệt nóng ẩm và một số vùng pha chút khí hậu ôn đới. Tài nguyên khí hậu thực sự quan trọng, đã trở thành một yếu tố đầu vào thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh thủy sản, giống như một món quà tặng của tự nhiên cho con người. Chế độ thủy văn ở hầu hết các sông vùng đồng bằng, đặc biệt là vùng hạ lưu sông đều thích hợp cho nhiều loài thủy sản sinh sống và phát triển, tạo thành một vùng sinh thái đặc trưng về nhiệt độ, dòng chảy, tính chất thủy lý hóa và nguồn thức ăn tự nhiên cho thủy sinh vật. Bên cạnh những yếu tố thuận lợi giúp cho sự phát triển của ngành NTTS thì cũng có nhiều yếu tố ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của ngành như: lũ lụt, hạn hán , bão…gây thiệt hại nghiêm trọng cho NTTS, từ đó làm cho ngành thuỷ sản có tính bấp bênh, không ổn định. Nhiệt độ đóng một vai trò quan trọng cho quá trình sinh trưởng của sinh vật nói chung và các loài thuỷ sản nới riêng. Khả năng chống chịu của chúng nằm trong khoảng giới hạn nhất định. Sự tăng nhiệt độ có thể làm suy giảm sản lượng thuỷ sản trong các ao hồ. Thay đổi nhiệt độ còn là điều kiện phát sinh của nhiều loài dịch bệnh xảy ra cho các loài nuôi. Nhiệt độ tăng cao làm cho sức khoẻ của các loài nuôi, môi trường nước xấu đi, là điều kiện thuận lợi cho các loài vi sinh vật gây hại. Đối với nghề NTTS nước mặn, lợ thì độ mặn là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh trưởng và phát triển của loài nuôi. Khi xảy ra mưa lớn độ mặn trong các ao nuôi giảm đi đột ngột vượt ra khỏi khả năng chịu đựng làm cho tôm, cá bị sốc, sặc bùn chết hoặc chậm lớn. - Về thủy văn: độ phì nhiêu kinh tế của các loại hình thủy vực, ao, hồ, ruộng…ở các vùng đồng bằng và ven biển là khá cao, có thể phát triển nuôi trồng thủy sản. Độ phì nhiêu kinh tế bao gồm độ phì tự nhiên do đất phong hòa lâu đời mà có và độ phì nhiêu nhân tạo do con người tạo ra khi cải tạo vùng nước, bón them các loại phân xanh, phân chuồng, phân vô cơ… làm tăng hàm lượng chất hữu cơ, các thức ăn tự nhiên cho nuôi trồng thủy sản. - Về nguồn nhân lực: người lao động ở nông thôn và các vùng ven biển đều biết nuôi trồng thủy sản như một nghề truyền thống và hơn nữa, trong những năm gần đây nuôi trồng thủy sản đã được coi như một nghề chính, có khả năng làm giàu ở nhiều địa phương. Lao động nông ngư dân với kinh nghiệm và kiến thức nuôi trồng thủy sản của mình đang là yếu tố thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản. 4. Nhân tố tiến bộ khoa học – công nghệ kỹ thuật Cùng với sự phát triển của xã hội thì những tiến bộ kỹ thuật của ngành NTTS ra đời cùng với sự phát triển đó của con người. Tiến bộ khoa học ra đời đã làm thay đổi đời sống con người trong mọi lĩnh vực, trong đó có ngành NTTS. Khách hàng của ngành này thường khó tính, đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm và một hệ thống quản lý nghiêm ngặt theo chuẩn quốc tế. Bởi vậy, ứng dụng KH - CN–KH - CN phục vụ công tác quản lý trong ngành thủy sản đang và sẽ là một đòi hỏi tất yếu. Đối với ngành NTTS nói riêng, nhờ áp dụng những tiến bộ này mà người ta đã có thể sản xuất ra những giống thuỷ sản mới, chất lượng cao, sinh trưởng nhanh, có khả năng chống chịu với những điều kiện ngoại cảnh tốt…Ngoài ra, nhờ áp dụng những tiến bộ khoa học – kỹ thuật mà người ta có thể kiểm soát và phòng trừ dịch bệnh trong NTTS, phát triển và mở rộng ứng dụng các kỹ thuật hiện đại chẩn đoán và xử lý kịp thời bệnh nguy hiểm ở động vật thuỷ sản. 5. Vốn đầu._. tư đối với phát triển bền vững NTTS Như chúng ta đã biết ngành NTTS có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân trong tương lai ngành sẽ là một nghề có lợi và phát triển mạnh. Với những điều kiện thuận lợi về diện tích mặt nước, khí hậu, nguồn nhân lực dồi dào, nguồn lợi giống loài phong phú, đa dạng... chúng ta còn thấy được sự cần thiết của việc tăng cường và phát triển đầu tư vào lĩnh vực này hơn nữa.. Vốn đầu tư cho chương trình nuôi trồng thủy sản được huy động từ các nguồn: - Vốn ngân sách nhà nước (kể cả vốn vay và vốn viện trợ chính thức của Chính phủ các nước, tài trợ của các tổ chức Quốc tế). - Vốn tín dụng trung hạn và dài hạn, Vốn tín dụng ngắn hạn. - Vốn huy động từ các tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư. - Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các Bộ, ngành liên quan có giải pháp cân đối các nguồn vốn và bố trí theo kế hoạch hàng năm trình Chính phủ quyết định để đầu tư theo dự án thực hiện chương trình. 6. Công tác quản lý và chỉ đạo của Nhà nước. Do đặc điểm của ngành nuôi trồng thủy sản là nhỏ bé, manh mún và phân tán nên ngoài việc tăng nguồn vốn đầu tư để để phát triển giống, xây dựng trang trại nuôi trồng quy mô, đầu tư kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực… thì vai trò của Nhà nước trong việc quản lý, chỉ đạo là vô cùng cần thiết để những đồng vốn đầu tư đó được sử dụng đúng mực đích và hiệu quả. Có thể nói vai trò của Nhà nước như kim chỉ nam trong công tác quy hoạch nhằm khắc phục những vấn đền còn tồn tại, yếu kém trong quá trình hoạt động và phát triển của ngành NTTS như: nạn ô nhiễm môi trường, dịch bệnh đang có nguy cơ bùng nổ, cơ sở hạ tầng yếu kém, nguồn nhân lực, khả năng ứng dụng KH –CN còn thấp...Vì thế, nhà nước cần có những chính sách và thiết chế tổ chức có hiệu lực để khắc phục những tình trạng còn tồn tại trên.. II – Sự cần thiết phải phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản. Khái niệm về phát triển bền vững: Theo Uỷ ban Môi trường và Phát triển thế giới: Phát triển bền vững là sự phát triển để đáp ứng những nhu cầu của ngày hôm nay mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của các thế hệ tương lai. Như vậy, phát triển bền vững ngành Thuỷ sản nói chung và ngành NTTS nói riêng đó là sự phát triển toàn diện, hợp lý và lâu dài trên cả 3 lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường. Khái niệm phát triển bền vững trong nuôi trông thuỷ sản có thể được khái quát theo bốn tiêu thức : - Tốc độ tăng trưởng về giá trị sản xuất, doanh thu và lợi nhuận ổn định qua các năm. - Quy trình sản xuất ngày càng hiện đại, áp dụng kỹ thuật tiên tiến vào nuôi trồng thuỷ sản, năng suất ngày càng cao. Hình thức sản xuất chuyển từ nuôi trồng nhỏ lẻ, tự phát sang nuôi trồng tập trung theo qui mô lớn. - Giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống cho người lao động - Bảo vệ môi trường sinh thái biển, bảo tồn và phát huy được các giống thuỷ sản. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển bền vững của ngành nuôi trồng thủy sản. 2.1. Về mặt kinh tế: Sự phát triển bền vững của ngành nuôi trồng thuỷ sản thể hiện ở sự tăng trưởng cả về mặt chất và mặt lượng của ngành. 2.1.1. Về mặt lượng: - Tăng trưởng về diện tích nuôi trồng. Sự tăng trưởng diện tích nuôi trồng thuỷ sản thể hiện khả năng khai thác điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển ngành. - Tăng trưởng về sản lượng nuôi trồng: thể hiện khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường. - Tăng trưởng về giá trị sản xuất, doanh thu và lợi nhuận: thể hiện hiệu quả của hoạt động nuôi trồng thuỷ sản. Đây là yếu tố quan trọng để thu hút vốn đầu tư vào ngành - Đóng góp của ngành thuỷ sản vào tăng trưởng kinh tế và kim ngạch xuất khẩu: thể hiện tầm quan trọng của ngành nuôi trồng thuỷ sản đối với nền kinh tế. - Tỷ lệ vay vốn/ tổng vốn đầu tư. 2.1.2. Về mặt chất: - Hình thức nuôi trồng thuỷ sản của các hộ gia đình: ảnh hưởng quan trọng tới chất lượng, sản lượng của ngành, đảm bảo vệ sinh môi trường. - Năng suất lao động: giúp tiết kiệm chi phí, tăng sản lượng đầu ra, tăng thu nhập cho người lao động. 2.2. Về mặt xã hội: Sự phát triển bền vững về mặt xã hội của ngành nuôi trồng thuỷ sản Được đánh giá qua một số tiêu chí như chỉ số phát triển con người (HDI), chỉ số phát triển giới (GDI), hệ số bình đẳng thu nhập, các tiêu chí giá dục, dịch vụ y tế, hoạt động văn hoá, khả năng giải quyết công ăn việc làm nâng cao đời sống cho người dân được thể hiện ở 1 số chỉ tiêu cụ thể sau - Số lượng lao động tham gia nuôi trồng thủy sản - Tỷ lệ vay nợ trong tổng số hộ nuôi trồng thủy sản - Tỷ lệ vùng nuôi có sự tham gia của cộng đồng - Tỷ lệ vùng nuôi áp dụng phương pháp nuôi sạch - Tỷ lệ đối tượng nuôi được kiểm soát dịch bệnh hàng năm 2.3. Về mặt môi trường – sinh thái: Sự phát triển bền vững về mặt môi trường được thể hiện ở việc đảm bảo môi trường sinh thái: ao hồ, đầm, kênh, rạch…ngăn ngừa dịch bệnh. Ngoài ra, còn được thể hiện ở việc bảo vệ và phát huy các giống thuỷ sản. Một số chỉ tiêu đánh giá sự phát triển bền vững về mặt môi trường. - Tỷ lệ hệ thống quan trắc dịch bệnh, cảnh báo môi trường so với nhu cầu. - Tỷ lệ sử dụng nước ngầm cho nuôi trồng thủy sản, tính theo ha nuôi trồng thủy sản. - Diện tích rừng ngập mặn bị chặt phá (được phục hồi, trồng mới hàng năm). - Số trại sản xuất giống được tập huấn GAP - Tỷ lệ trại giống có tôm bố mẹ được thuần hóa - Tỷ lệ diện tích vùng nuôi có nước đạt tiêu chuẩn - Tỷ lệ protein từ thực vật trong khẩu phần thức ăn - Tỷ lệ diện tích nuôi trồng thủy sản trên cát có hệ thống thủy lợi cung cấp đủ nước ngọt cho nuôi trồng thủy sản. Sự cần thiết phải phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản. 3.1. Về mặt kinh tế: Phát triển nuôi trồng thuỷ sản bền vững sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng hàng hoá thuỷ sản, từ đó đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thị trường trong nước và thoả mãn đòi hỏi khắt khe của thị trường nước ngoài. Tạo ra nguồn cung ổn định, khắc phục biến động thất thường của giá cả trên thị trường . - NTTS theo quy mô lớn giúp nâng cao năng suất, đảm bảo phát triển bền vững môi trường, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. - NTTS góp phần tăng doanh thu và đóng góp to lớn vào sự tốc độ tăng GDP của toàn ngành. 3.2. Về mặt xã hội - Nuôi trồng thuỷ sản phát triển rộng khắp, tới tận các vùng sâu vùng xa, góp phần chuyển đổi cơ cấu thực phẩm trong bữa ăn của người dân Việt Nam, cung cấp nguồn dinh dưỡng dồi dào. Từ các vùng đồng bằng đến trung du miền núi, tất cả các ao hồ nhỏ đều được sử dụng triệt để cho các hoạt động NTTS. Ngành NTTS là một trong những ngành tạo ra lương thực, thực phẩm, cung cấp các sản phẩm tiêu dùng trực tiếp. Theo số liệu thống kê hàng năm có khoảng 50 % sản lượng đánh bắt hải sản ở vùng biển Bắc Bộ, Trung Bộ và 40% sản lượng đánh bắt ở vùng biển Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ được dùng làm thực phẩm cho nhu cầu của người dân Việt Nam. Ở tầm vĩ mô, dưới giác độ ngành kinh tế quốc dân, Ngành NTTS đã góp phần đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm, đáp ứng được yêu cầu cụ thể là tăng nhiều đạm và vitamin cho thức ăn. Có thể nói Ngành NTTS đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho người dân. Trong thời gian tới, các mặt hàng thủy sản sẽ ngày càng có vị trí cao trong tiêu thụ thực phẩm của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam. - Ngoài ra, sự bền vững về mặt xã hội còn được thể hiện ở khía cạnh khắc phục tình trạng làm ăn theo mùa vụ, đảm bảo đầu ra cho thủy sản được ổn định, đảm bảo công ăn việc làm, góp phần xoá đói giảm nghèo, tăng thêm thu nhập cho hàng triệu người dân, phát triển kinh tế xã hội nhất là đối với địa phương vùng ven biển, hải đảo. Ngành Thuỷ sản đã lập nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo bằng việc phát triển các mô hình nuôi trồng thuỷ sản đến cả vùng sâu, vùng xa, không những cung cấp nguồn dinh dưỡng, đảm bảo an ninh thực phẩm mà còn góp phần xoá đói giảm nghèo. Tại các vùng duyên hải, từ năm 2000, nuôi thuỷ sản nước lợ đã chuyển mạnh từ  phương thức nuôi quảng canh sang quảng canh cải tiến, bán thâm canh và thâm canh, thậm chí nhiều nơi đã áp dụng mô hình nuôi thâm canh theo công nghệ nuôi công nghiệp. Các vùng nuôi tôm rộng lớn, hoạt động theo quy mô sản xuất hàng hoá lớn đã hình thành, một bộ phận dân cư các vùng ven biển đã giàu lên nhanh chóng, rất nhiều gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo nhờ nuôi trồng thuỷ sản.  Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản ở các mặt nước lớn như nuôi cá hồ chứa cũng đã phát triển, hoạt động này luôn được gắn kết với các chương trình phát triển trung du miền núi, các chính sách xoá đói giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa. 3.3. Về mặt môi trường: Môi trường trong nuôi trồng thuỷ sản có ý nghĩa to lớn bởi nuôi trồng thuỷ sản sản xuất trực tiếp trên môi trường, tận dụng và phát huy những lợi thế của môi trường để nâng cao năng suất và chất lượng ngành là tiêu điểm của sự phát triển bền vững ngành NTTS hiện nay. Hiện nay, vấn đề môi trường đang nhận được rất nhiều sự quan tâm của cộng đồng thế giới. Như chúng ta đã biết môi trường trong NTTS có ý nghĩa to lớn bởi NTTS là ngành có quan hệ sản xuất trực tiếp với môi trường để nâng cao năng suất. Các yếu tố của môi trường như : nguồn nước, các khu rừng sinh thái...được ngành NTTS tận dụng như những đối tượng sản xuất và tư liệu sản xuất. Ngoài ra, việc sử dụng thức ăn và chất hoá học trong quâ trình nuôi trồng cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng môi trường. Môi trường sẽ bị ô nhiễm và nguy hại khi NTTS chỉ hướng tới sự phát triển về kinh tế. Vì thế mục tiêu bảo vệ môi trường sẽ được đặt ngang bằng với mục tiêu phát triển kinh tế. Mặt khác, phát triển bền vững NTTS hướng tới môi trường làm cho chất lượng môi trường được cải thiện, nâng cao sẽ là nền tảng vững chắc, lâu dài cho sự phát triển của NTTS . Vì thế, bảo vệ môi trường và sự phát triển ngành NTTS phải có sự kết hợp hài hoà và có mối quan hệ thân thiện. Chất lượng các yếu tố môi trường sống như: môi trường nước, không khí, đất, không gian vật lý…đúng quy định của Nhà nước và đặc biệt cần có sự kết hợp hài hoà giữ khai thác, sử dụng với việc gìn giữ,bảo vệ môi trường, đó là việc làm rất cần thiết và vô cùng quan trọng. Trong quá trinh sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên quý hiếm đó con người cần đặc biệt quan tâm đến việc đảm bảo an toàn và cân bằng môi trường sinh thái. III – Kinh nghiệm một số nước về phát triển bền vững ngành nuôi trồng thủy sản. 1. Kinh nghiệm của Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc là nhà cung cấp thủy sản lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 35% tổng sản lượng thủy sản toàn cầu. Trung Quốc cũng là nước duy nhất trên thế giới có sản lượng nuôi trồng vượt quá sản lượng khai thác. Năm 2004, tổng sản lượng thủy sản của Trung Quốc đạt 49 triệu tấn, trong đó 64% là thủy sản nuôi. Thủy sản nước mặn chiếm 56% tổng thủy sản nuôi, trong đó phần lớn là thủy sản có vỏ; thủy sản nước ngọt chiếm 44%, chủ yếu là họ cá chép. Dự báo, tiêu thụ thủy sản bình quân trong nước của Trung Quốc sẽ tăng mạnh trong thời gian tới, từ 25 kg/người năm 2004 lên 36 kg/người vào năm 2020. Việc Trung Quốc đầu tư mạnh vào sản xuất cá rô phi cũng góp phần phát triển ngành thủy sản trong nước, đưa Trung Quốc trở thành nhà sản xuất cá rô phi hàng đầu thế giới. Sự phát triển nhanh của ngành thuỷ sản không chỉ đáp ứng nhu cầu thị trường và cải thiện đời sống dân cư, mà còn tạo ra nhiều cơ hội việc làm và góp phần cơ cấu lại ngành nông nghiệp. Từ năm 1979 – 1996, ngành thủy sản đã tạo thêm khoảng 9 triệu việc làm cho người lao động. Năm 1999, số lao động tham gia sản xuất thuỷ sản là 12,57 triệu người, trong đó lao động nuôi trồng thuỷ sản chiếm tới 70%. Đời sống của ngư dân cũng được cải thiện rõ rệt, thu nhập của lao động nghề cá từ 126 RMB năm 1979, tăng lên 4.474 RMB năm 1999, nghĩa là gấp 35 lần sau 20 năm. Mức thu nhập của lao động thuỷ sản gấp gần 2 lần so với thu nhập bình quân đầu người của dân cư nông thôn. Đồng thời ngành thuỷ sản cũng tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các ngành liên quan như chế biến, vận chuyển, thương mại, v.v… Tuy nhiên, trong suốt quá trình phát triển cho đến nay, ngành thuỷ sản phải thường xuyên đối mặt với những vấn đề ngày càng lớn lên, như suy giảm nguồn lợi tự nhiên, suy thoái môi trường, dư thừa lao động… Bên cạnh những ưu đãi về điều kiện tự nhiên để phát triển ngành NTTS, Chính phủ Trung Quốc còn có nhiều biện pháp khuyến khích phát triển NTTS và tăng cường mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế tham gia hoạt động thuỷ sản (ngư dân, nông dân, hợp tác xã, công ty). Các biện pháp này góp phần quan trọng đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngành thuỷ sản Trung Quốc trong tương lai. Vì vậy đã tạo nên một sức mạnh mới cho ngành NTTS Trung quốc phát triển mạnh mẽ sau này. Các biện pháp quan trọng có thể kể đến là: - Tăng cường cung cấp các dịch vụ tiền sản xuất và hỗ trợ sau thu hoạch thông qua việc đầu tư xây dựng nhiều trại sản xuất giống, các trạm kiểm soát dịch bệnh thuỷ sản, phổ biến kỹ thuật cho ngư dân. Bên cạnh đó chính phủ còn đề ra các chính sách ưu đãi về đầu tư, thuế và tín dụng cho các hộ gia đình nuôi trồng thuỷ sản ở nông thôn. - Ưu tiên thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ thuỷ sản, chú trọng ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất. Thông qua các chính sách ưu đãi của chính phủ, nhiều nhà khoa học được khuyến khích làm việc cùng ngư dân và người nuôi thuỷ sản. Ước tính đóng góp của khoa học và công nghệ trong giá trị gia tăng của sản suất thuỷ sản đã tăng từ 30% vào đầu những năm 1980 lên 47% năm 1996. Ví dụ, nhờ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, năng suất nuôi cá thương phẩm trong ao từ mức bình quân 724kg/ha năm 1979, đã tăng 4,7 lần, đạt 4.097kg/ha năm 1996. Sự phát triển của công nghệ nuôi lồng và nuôi rào chắn đã giúp tăng diện tích mặt nước có thể sử dụng để nuôi thuỷ sản. Sự thành công của công nghệ nuôi và sản xuất giống nhân tạo các loài có giá trị cao như tôm, bào ngư, điệp, hải sâm, cá rô mo thân cao, cua đồng, đã làm tăng thu nhập cho người nuôi và mở rộng thị trường xuất khẩu. - Tăng cường hiệu lực hệ thống pháp luật thuỷ sản và quản lý nguồn lợi thuỷ sản: Để bảo vệ và sử dụng nguồn lợi thuỷ sản hợp lý, chính phủ Trung Quốc đã chú trọng đến việc xây dựng Luật Thuỷ sản. Ngay từ năm 1979, Hội đồng Nhà nước đã thông qua “Quy định về bảo vệ và nhân giống nguồn lợi thuỷ sản”. - Mở rộng hợp tác quốc tế: đến năm 1996, Trung Quốc đã tiến hành nhiều hoạt động hợp tác thuỷ sản với hơn 60 quốc gia và các tổ chức quốc tế. Những hoạt động này đã mang đến cho Trung Quốc một triển vọng mới trong nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó, Trung Quốc đã tạo ra một môi trường đầu tư tốt để thu hút ngày càng nhiều nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản của nước này. 2. Kinh nghiệm NTTS của Thái Lan. Nuôi trồng thủy sản ở Thái Lan đã góp một phần lớn vào sự gia tăng sản xuất của nước này. Một báo cáo của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của LHQ dự báo rằng nuôi trồng thủy sản sẽ đóng góp được gần một nửa tổng sản lượng sản xuất của đất nước này vào năm 2010, so với chỉ một vài phần trăm vào năm 1990. Thái Lan được xem như bắt đầu phát triển từ đầu thế kỉ 19. Nghề nuôi trồng thủy sản nước ngọt đã phát triển trước đó trong một thời gian dài, nhưng nghề nuôi thủy sản nước mặn ngày càng mở rộng trong thời gian gần đây. Trong năm 2003, sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt khỏang 1.064 triệu tấn và đạt giá trị 1.46 tỉ USD được tính trên 1 quý của tổng sản phẩm thủy sản. Sự họat động của nghành nuôi trồng thủy sản ở Thái Lan có thể được chia thành hai nhóm: thủy sản nước ngọt và nước mặn. Nghề nuôi trồng thủy sản nước ngọt, chủ yếu là trong các ao, hồ và trên cánh đồng lúa, đã tồn tại ở Thái Lan trên 80 năm. Sự phát triển nghề nuôi thủy sản nước ngọt bắt đầu vào năm 1922 sau khi sự nhập khẩu cá chép Trung Quốc để làm cá nuôi lan rộng toàn Bangkok. Năm 1951, bộ thủy sản đã thiết lập một chương trình quảng bá nghề nuôi trồng thủy sản. Hiện nay, có hơn 50 loài thủy sản nước ngọt đã và đang được nuôi trồng. Có 5 loài quan trọng, nuôi hàng năm thu sản phẩm có giá trị cao: cá rô sông Nile, cá trê lai, cá ngạch bạc, tôm càng xanh, cá rô phi. Gần gây, nghề nuôi trồng thủy sản ven biển bắt đầu được phổ biến với kỹ thuật thâm canh và bây giờ đã trở nên rất thành công cho những vụ nuôi. Nó cũng được khuyến khích bởi vì nó hạn chế sự khai thác quá mức nguồn lợi ven biển và sự ô nhiễm môi trường. Một trong những loài thủy sản nước mặn quan trọng là: cá vược, cá mú, tôm he, nghêu, sò, cua, ghẹ. Nó bao gồm hai hệ thống nuôi cá giống từ cá bột ở biển và những con đang thành thục mắc trong bẫy nhưng là trường hợp của loài cua bùn. Nghề nuôi trồng nghêu, sò và tôm mang lại hiệu quả cao nhất. Thái Lan tiếp tục triển khai Dự án “Phát triển nuôi trồng hải sản và đánh giá nguồn lợi thủy sản tại biển Andaman, Thái Lan nhằm giúp người Thái có thể tự nuôi thuỷ sản theo kỹ thuật hiện đại. Viện Nghiên cứu Biển (IMR) là nhà tư vấn chính của dự án. Dự án này bao gồm hai phần “Phát triển nuôi trồng hải sản ” và “Đánh giá nguồn lợi thuỷ sản ở biển Andaman”. Hai phần dự án sẽ đuợc thực hiện cho đến hết năm 2009. IMR và Bộ Nghề cá Thái Lan (DOF) cùng tham gia thực hiện dự án này. Theo mong muốn của các nhà chức trách Thái, trọng tâm của dự án là phát triển cơ sở “nuôi lồng thử nghiệm”. Mục tiêu của IMR là truyền đạt cho người nuôi kiến thức về nuôi trồng thuỷ sản và việc áp dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động nuôi. Cá giò là loài mà DOF chọn để thí điểm. Đây là loại cá biển sống ở vùng nước ấm nhiệt đới, thịt ngon và lớn rất nhanh, rất quen thuộc với ngư dân. Loài cá này cũng đã từng đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển những loài nuôi mới ở Đài Loan, Việt Nam và các nước Mỹ La tinh. Dự án cũng tập trung vào điều chỉnh kích cỡ lồng nuôi. Thái Lan đã ưu tiên thành lập một trung tâm nuôi trồng thuỷ sản tại Phuket để sản xuất con giống hàng loạt . Ba lồng nuôi ở Phuket là các lồng nuôi lớn lần đầu tiên được sử dụng trong nuôi trồng thuỷ sản tại Thái Lan. Sự kiện này đã thu hút được rất nhiều mối quan tâm từ ngành thuỷ sản và nhiều đối tượng khác. Một hội thảo khác được tổ chức tại Songkhla, Thái Lan tập trung thảo luận các loại bệnh và kí sinh trùng thường thấy ở cá giò, những biện pháp phòng và trị bệnh tại các lồng nuôi lớn. Dự án nuôi cá lồng sẽ được tiếp tục cho đến hết năm 2009. Sản lượng và kết quả dự án nuôi hải sản và trại sản xuất giống sẽ là nền tảng để xây dụng kế hoạch chiến lược cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản giai đoạn 2009-2013. 3. Bài học kinh nghiệm cho VN. Là 1 trong 10 nước NTTS đứng đầu thế giới nên Việt Nam phải không ngừng học hỏi kinh nghiệm của các nước bạn cả về kỹ thuật cũng như phương pháp nuôi trồng: Phải chuyển từ nuôi trồng nhỏ lẻ, tự phát sang nuôi tập trung, quy mô lớn, ưu tiên ứng dụng và phát triển khoa học kỹ thuật vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Chú trọng đầu tư con giống, đào tạo nhân lực, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước phát triển trên thế giới. Đặc biệt Việt Nam cần chú trọng tăng cường hệ thống pháp luật thủy sản, nâng cao vai trò quản lý của nhà nước. Để giữ được vị thế là một trong số những nước đứng tốp đầu về xuất khẩu NTTS đó là thành quả của cả một quá trình học hỏi, nghiên cứu ứng dụng một cách sáng tạo, hợp lý đường lối cũng như chủ trương phát triển của các nước bạn vào điều kiện cụ thể của nước mình. Trên đây là một số kinh nghiệm quý báu của những nước đã đạt được những thành tựu to lớn về NTTS. Có thể nói đó là những bài học quý báu và phù hợp khi chúng ta biết áp dụng một cách hợp lý vào hoàn cảnh đất nước cụ thể của Việt Nam. PHẦN II – THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH BỀN VỮNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 -2008 I - Lịch sử phát triển ngành thủy sản nói chung và NTTS nói riêng. 1. Ngành thuỷ sản được ra đơi từ rất sớm, trải qua các giai đoạn sau: 1.1. Từ sau những năm 1950: Đánh giá được vị trí ngày càng đáng kể và sự đóng góp mà nghề NTTS có thể mang lại cho nền kinh tế quốc dân, cùng với quá trình khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã bắt đầu quan tâm phát triển nghề NTTS và hình thành các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Từ đó, NTTS - ngành Thuỷ sản - đã dần hình thành và phát triển như một ngành kinh tế - kỹ thuật có vai trò và đóng góp ngày càng lớn cho đất nước. 1.2. Giai đoạn 1954 – 1960: Là thời kỳ kinh tế thuỷ sản bắt đầu được chăm lo phát triển để manh nha một ngành kinh tế kỹ thuật. Đây là thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc. Điểm mới của thời kỳ này là sự hình thành các tổ chức nghề NTTS công nghiệp . 1.3. Trong những năm 1960 – 1980: Thuỷ sản có những giai đoạn phát triển khác nhau với diễn biến của lịch sử đất nước. Những năm 1960 - 1975, đất nước có chiến tranh, cán bộ và ngư dân ngành thuỷ sản “vững tay lưới, chắc tay súng”, hăng hái thi đua lao động sản xuất với tinh thần “tất cả vì miền Nam ruột thịt”, cùng cả nước thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược “Xây dựng CNXH ở miền Bắc và đánh thắng giặc Mỹ, giải phóng miền Nam”. Thực hiện 10 năm Di chúc Bác Hồ, ngành đã phát động thành công phong trào “Ao cá Bác Hồ” rộng khắp trong cả nước, đem lại tác dụng rất lớn. Mặc dù tổ chức quản lý ngành được thành lập (Tổng cục thuỷ sản năm 1960, Bộ Hải sản năm 1976, Bộ Thuỷ sản năm 1981), nhưng do đất nước có chiến tranh và sau đó là những năm khôi phục hậu quả nặng nề của chiến tranh và phần nào hậu quả cơ chế quản lý chưa phù hợp nên vào cuối giai đoạn này, kinh tế thuỷ sản lâm vào sa sút nghiêm trọng. 1.4.Giai đoạn từ 1981 đến nay: Thời kỳ này, trong chiến lược phát triển của ngành, các lĩnh vực khai thác và nuôi trồng thuỷ sản được định hướng phát triển phục vụ xuất khẩu. Ngành đã chủ động đi trước trong hội nhập quốc tế, đẩy mạnh việc áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, gắn sản xuất nguyên liệu với chế biến, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu. Năm 1981 sự phát triển vượt bậc của ngành được đánh dầu bằng sự ra đời của Công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Seaprdex Việt Nam. Ngành thuỷ sản đã vận dụng sáng tạo, có hiệu quả các cơ chế tiên tiến của các nước đi trước trên thế giới bước đầu đã đem lại những thành công nhất định, tạo ra bước ngoặt quyết định cho sự phát triển của kinh tế thuỷ sản, mở đường cho sự tăng trưởng liên tục suốt hơn 23 năm qua. Năm 1993, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khoá VII đã xác định xây dựng thuỷ sản thành ngành kinh tế mũi nhọn. Trong xu thế mở cửa hội nhập của đất nước ngành luôn coi XK là mục tiêu hướng tới và cũng là động lực để đưa nền kinh tế nước nhà ngày một phát triển bền vững. Đặc biệt, từ giữa những năm 1990 đã tập trung đổi mới phương thức quản lý chất lượng và an toàn sản phẩm, tiếp cận để đáp ứng những đòi hỏi cao nhất về lĩnh vực này của các thị trường lớn, nhờ đó đứng vững được trên các thị trường thuỷ sản lớn nhất trên thế giới 2. Quá trình phát triển của ngành NTTS nói riêng: Nghề nuôi trồng thuỷ sản từ chỗ là một nghề sản xuất phụ, mang tính chất tự cấp tự túc đã trở thành một ngành sản xuất hàng hoá tập trung với trình độ kỹ thuật tiên tiến, phát triển ở tất cả các thuỷ vực nước ngọt, nước lợ, nước mặn theo hướng bền vững, bảo vệ môi trường, hài hoá với các ngành kinh tế khác. Năm 1981: Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tăng đều đặn theo từng năm suốt từ 1981 tới nay, từ 230 nghìn ha năm 1981 lên 384,6 nghìn ha năm 1986, đến nay đã đạt hơn 1 triệu ha. Điều căn bản là khi tỷ trọng diện tích nuôi mặn, lợ tăng lên, nhất là nuôi tôm thì sản lượng nuôi, nhất là sản lượng nuôi đưa vào xuất khẩu đã tăng nhanh chóng và hiệu quả kinh tế có bước nhảy vọt. Thời kỳ này thuỷ sản đã trở thành ngành sản xuất hàng hoá đã được khẳng định từ giữa những năm 80 và gặt hái thành quả. Từ năm 1990 trở lại đây: với tôm nuôi cho xuất khẩu là mũi đột phá quan trọng. Năm 1991, diện tích nuôi trồng thuỷ sản mới đạt 520.000 ha, sản lượng đạt 335.910 tấn. Đến năm 1996 diện tích nuôi trồng thuỷ sản là 585.000 ha, sản lượng nuôi trồng đạt 411.000 tấn, năm 2000, diện tích nuôi là 652.000 ha, sản lượng đạt 723.110 tấn, năm 2003 sản lượng nuôi trồng đã đạt hơn 1 triệu tấn. Nuôi trồng thuỷ sản đang từng bước trở thành một trong những ngành sản xuất hàng hoá chủ lực, phát triển rộng khắp và có vị trí quan trọng và đang tiến đến xây dựng các vùng sản xuất tập trung. Các đối tượng có giá trị cao có khả năng xuất khẩu đã được tập trung đầu tư, khuyến khích phát triển, hiệu quả tốt. Phát huy được tiềm năng tự nhiên, nguồn vốn và sự năng động sáng tạo trong doanh nghiệp và ngư dân, đồng thời góp phần hết sức quan trọng cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp cũng như cho xoá đói giảm nghèo. II – Thực trạng phát triển bền vững ngành nuôi trồng thủy sản từ năm 2000 đến nay. 1. Về quy mô, sản lượng và diện tích ngành NTTS : Trong thời giàn vừa qua ngành NTTS phát triển một cách mạnh mẽ và đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao vị thế của đất nước. Minh chứng cho điều đó là ngành đã luôn tăng mạnh cả về diện tích và sản lượng nuôi trồng cũng như giá trị xuất khẩu, đồng thời ngành còn giải quyết việc làm cho một số lượng lớn lao động nghèo ven biển. Từ chỗ chỉ có 262.000 ha mặt nước được đua vào NTTS, cho sản lượng chưa đầy 200.000 tấn năm 1980, đến nay diện tích NTTS đã được mở rộng lên trên 1.000.000 ha và sản lượng thuỷ sản nuôi trồng của VN năm 2007 đã đạt 2.100.000 tấn, tăng gấp hơn 10 lần so với năm 1980. Với sự đóng góp chủ yếu của sản phẩm từ NTTS, giá trị xuất khẩu TS của VN năm 2007 đã lên tới 3.762 triệu USD, đứng thứ tư trong những ngành hàng có XK cao nhất của cả nước. Bảng 1: Các chỉ tiêu cơ bản đạt được năm 2007 Nội dung các chỉ tiêu ĐVT 2010 Đã đạt được 2007 2007 so với 2010(%) 1.Diện tích nuôi, trồng ha 1.000.000 1.065.000 106.5 2.Sản lượng nuôi trồng, trong đó: tấn 2.000.000 2.093.000 104.66 - Tôm nước lợ tấn 360.000 375.000 104.16 - Cá biển tấn 200.000 15.000 7.50 - Nhuyễn thể tấn 380.000 230.000 60.52 - Rong biển tấn 50.000 25.000 50.000 -Tôm càng xanh tấn 60.000 22.000 36.67 - Thuỷ sản nước ngọt tấn 870.000 1.316.220 152.28 - Thuỷ sản khác tấn 110.000 120.000 109.1 3.Giá trị kim ngạch xuất khẩu 1.000USD 2.500.000 2.500.000 96.0 4. Lao động Người 2.000.000 Theo: Báo cáo số 206/BCKH –NTTS của các Cục Nuôi trồng thuỷ sản Số liệu trung tâm tin học và thống kê. - Về diện tích: Việt Nam có diện tích mặt nước lớn, kể cả nước ngọt, lợ và mặn, đây là một lợi thế cho việc phát triển nuôi trồng thủy sản và cũng là một trong những lý do dẫn tới sự thành công của ngành trong thời gian qua. Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng dần qua các năm từ 755 nghìn ha năm 2001, lên 906 nghìn ha năm 2004 và 952.6 nghìn ha năm 2005, năm 2006 diện tích đạt 976.5 nghìn ha (tăng 2.5%). Năm 2007 ngành đã đạt mức trên 1 nghìn ha (1008 nghìn ha) tăng gần 1.66 lần so với năm 2000. Theo Vụ Nuôi trồng Thuỷ sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, diện tích nuôi trồng thuỷ sản ở Việt Nam hiện đạt 1,05 triệu ha, tăng khoảng 10.000ha so với cuối năm 2008. Biểu đồ 1: Diện tích nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2000 - 2007 Diện tích NTTS tăng nhanh và tăng đều qua các năm nhất là diện tích nước mặn, lợ, còn diện tích nước ngọt có tăng nhưng chậm hơn . Diện tích nuôi trồng thuỷ sản cả nước năm 1999 (năm trước khi thực hiện chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản) là 524.619 ha, năm 2000 là 640.495 ha (tăng 22,3%), năm 2001 tăng lên 755.178 ha (tăng 17,6%), năm 2002 tăng lên 797.744 ha (tăng 5,6%), năm 2003 tăng lên 867.613 ha (tăng 8,7%), năm 2004 tăng lên 920.088 ha (tăng 6%), trong đó diện tích nuôi thuỷ sản nước mặn, lợ là 642.200 ha, nuôi nước ngọt là 277.800 ha. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản của các tỉnh miền núi phía Bắc là 50.345 ha, các tỉnh khu vực đồng bằng sông Hồng là 90.215 ha, các tỉnh Bắc Trung bộ là 45.593 ha, các tỉnh ven biển Nam Trung bộ là 24.086 ha, các tỉnh Tây Nguyên là 6.955 ha, các tỉnh miền Đông Nam bộ là 57.501 ha. Khu vực có diện tích nuôi trồng thuỷ sản lớn nhất cả nước là Đồng bằng sông Cửu Long . Năm 2005 diện tích nuôi trồng là 952.600 ha (tăng 3.5%), năm 2006 là 976.500 ha ( tăng 2.5%), năm 2007 là 1008.000 ha (tăng 3.22%) gấp 1.92 lần so với năm 1999(năm trước khi thực hiện chương trình phát triển NTTS đến năm 2020). Trong đó, NTTS nước mặn là 702.500 ha gấp 2.2 lần so với diện tích nước ngọt (305.500 ). Bảng 2: Diện tích mặt nước NTTS. Đơn vị: nghìn ha Năm DT NTTS 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 1. Diện tích nuôi nước mặn, lợ 379.1 502.2 556.1 612.8 642.3 661.0 683.0 702.5 - Nuôi cá 50 24.7 14.3 13.1 11.2 10.1 17.2 26.4 - Nuôi tôm 324.1 454.4 509.6 574.9 598.0 528.3 612.1 625.6 - Nuôi hỗn hợp và TS khác. 22.5 22.4 31.9 24.5 32.7 122.2 53.4 50.2 - Ươm giống TS 0.5 0.2 0.3 0.3 0.4 0.4 0.3 0.3 2. Diện tích nuôi nước ngọt 244.8 253.0 241.6 254.8 277.8 291.6 293.5 305.5 -Nuôi cá 225.4 228.9 232.3 245.9 267.4 281.7 283.8 295.7 -Nuôi tôm 16.4 21.8 6.6 5.5 6.4 4.9 4.6 .4.7 -Nuôi hỗn hợp và TS khác 2.2 0.5 0.4 1.0 1.1 1.6 1.7 1.6 -Ươm giống TS 0.8 1.8 2.3 2.4 2.9 3.5 3.4 3.5 Nguồn: Niên giám thống kê 2006, 2007 Chúng ta có thể thấy được rằng: Nuôi trồng thuỷ sản phát triển mạnh mẽ khắp các vùng trong cả nước kể cả các tỉnh Tây Nguyên, các tỉnh miền núi phía Bắc… trên cả 3 loại hình nước ngọt, nước lợ và nước mặn và đang vươn ra biển. Điều đó chứng tỏ trong suốt thời gian qua nước ta đã có những chính sách, biện pháp quy hoạch đất, từng bước chuyển đổi vùng trũng, vùng trồng lúa, vùng trồng cói, các cây công nghiệp năng suất thấp, làm muối kém hiệu quả sang NTTS. - Sản lượng: Sản lượng NTTS liên tục tăng và ổn định qua các năm. Năm 2005, sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 1.400.000 triệu tấn, tăng 16,4% so với năm 2004 và tăng hai lần năm 2001 (709 nghìn tấn). Năm 2006, sản lượng thủy sản nuôi trồng của Việt Nam đạt 1,67 triệu tấn. Thuỷ sản của Việt Nam năm 2007 đạt được là 4.160.000 tấn, gấp 6 lần so với năm 1980, trong đó từ nuôi trồng thuỷ sản là 2.100.000 tấn, gấp hơn 10 lần so với 1980 và so với năm 1999 ( là 480.767 tấn) thì tăng gấ._.hế phẩm sinh học và các sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường. - Quy hoạch NTTS hài hoà với các quy hoạch phát triển nông, lâm, thuỷ lợi, thống nhất phương án sử dụng có hiệu quả các loai hùnh mặt nước NTTS: đất ngập mặn, ruộng trũng cấy lúa kém hiệu quả...Từ đó, tiến hành quy hoạch tổng thể, bố trí cơ sở hạ tầng cho từng vùng nuôi. - Rà soát lại toàn bộ các khu vực NTTS thâm canh, bán thâm canh có tính công nghiệp đã có, lên phương án cải tạo các hệ thống nuôi theo các phương pháp hiện đại, xác định các nhu cầu đầu tư cải tạo các khu vực này từ phía NN. - Quy hoạch tổng thể và chi tiết các khu NTTS có tính công nghiệp mới , thiết kế các vùng nuôi công nghiệp. - Quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết các khu vực nuôi biển trên cở sở đáng giá sức tải của môi trường. - Lập hồ sơ thiết kế chi tiết cho tất cả các vùng nuôi tập trung. - Quy hoạch và thiết kế chi tiết thuỷ lợi phục vụ NTTS ở các vùng nuôi tập trung. - Quy hoạch mạng lưới chế biến và thương mại các sản phẩm thuỷ sản 1.2. Nhóm giải pháp về chính sách phát triển nuôi trồng thủy sản. Phát triển NTTS đặt dưới sự giám sát của luật pháp và quản lý có hệ thống. NTTS phải tuân theo những quy định nghiêm ngặt của thị trường các nước nhập khẩu. - Rà soát chỉnh sửa và xây dựng chính sách sử dụng đất, mặt nước NTTS. Giao mặt nước các sông ngòi, hồ chứa, đầm phá, eo vịnh, mặt biển để NTTS ít nhất là 30 năm. Cơ chế chuyển, chính sách tiếp tục đổi các loại đất ruộng trũng, ruộng nhiễm mặn, đất ngập úng sản xuất nông nghiệp kém hiệu quả, đất làm muối hiệu quả thấp, đất hoang hoá sang NTTS. - Xây dựng chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng về thuỷ lợi, giao thông, đương điện ..cho các khu NTTS thâm canh tập trung, các khu công nghiệp sản xuất giống tập trung. - Xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ, đền bù để xây dựng hệ thống xử lý nước thải cho các khu nuôi trồng, sản xuất giống nhỏ lẻ hiện đang nằm trong các khu quy hoạch, các hộ nuôi, sản xuất giống nhỏ lẻ nằm ngoài khu quy hoạch bắt buộc phải chuyển đổi mục đích sử dụng. - Xây dựng, rà soát chỉnh sửa các cơ chế chính sách huy động vốn, vay vốn dài hạn, ngắn hạn với lãi suất thích hợp để đầu tư phát triển thuỷ sản, chính sách miễn trừ thuế và phí thuỷ lợi có thời hạn đối với những vùng mới chuyển đổi, khai hoang lấn biển, NTTS trên biển, hồ chứa, sông ngòi được áp dụng chính sách như đối với việc khai hoang phục hoá. - Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển NTTS theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước và các quy định hiện hành, dân nghèo được vay vốn không thế chấp tài sản, ngư dân vùng sâu, vùng xa, hải đảo vay vốn phát triển NTTS được hưởng các quy chế ưu đãi, hỗ trợ nông dân nghèo và ngư dân nghề cá quy mô nhỏ gần bờ chuyển sang NTTS. - Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư xây dựng vùng NTTS tập trung, cơ sở sản xuất giống, thức ăn, chế phẩm sinh học, các sản phẩm xử lý cải tạo môi trường, cơ sở hậu cần dịch vụ NTTS. - Trợ giá và khen thưởng cho các tổ chức, cá nhân có công lai tạo, thuần hoá, nhập nội các giống loài thuỷ sản cho các mục đích an ninh thực phẩm và an sinh xã hội. - Cấp kinh phí cho duy trì đàn giống gốc một cách dài hạn và liên tục. - Xây dựng chính sách hỗ trợ rủi ro cho những thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh, xây dựng quỹ bình ổn giá đối với cơ sở hạ tầng các vùng nguyên liệu sản xuất thức ăn cho NTTS ở trong nước. - Tiếp tục thực hiện Quyết định số 80/2002/QĐ –TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ sản phẩm thông qua hợp đồng. Với hai đối tượng nuôi xuất khẩu chủ lực tôm và các tra, phải tổ chức tốt mối liên kết ngang với người nuôi và dọc giữa người nuôi với doanh nghiệp,khép kín quá trình nuôi –chế biến –xuất khẩu, chia sẻ rủi ro, hài hoà lợi ích kinh tế để cùng phát triển sản xuất, ngân hàng, các cơ sở nghiên cứu trong phát triển nuôi trồng đầu tư và kinh doanh sản phẩm NTTS, định hướng và khuyến khích đầu tư phối hợp một cách chặt chẽ và được hoạch định trước, từ khu vực Nhà nước đến khu vực tư nhân với lực lượng nghiên cứu được xã hội hoá cao. - Có chính sách hỗ trợ việc hình thành các tổ hợp và các hợp tác xã NTTS trên cơ sở mô hình đồng quản lý cà quản lý trên cơ sở cộng đồng trong NTTS. - Khuyến khích việt kiều và người nước ngoài đầu tư phát triển nuôi biển (cho thuê vùng biển 50 năm, miễn giảm thuế tài nguyên 5 năm giảm thuế 5 năm tiếp theo), đầu tư sản xuất giống, thức ăn, hoá chất, thuốc thú y, các chất vi sinh phục vụ NTTS. 1.3. Giải pháp về giống nuôi trồng thủy sản. Để đảm bảo đủ giống, đảm bảo chất lượng, giá cả hợp lý, đáp ứng kịp thời vụ nuôi trồng thuỷ sản cần thực hiện các giải pháp sau : - Nâng cao nguồn lực nghiên cứu và sản xuất của hệ thống giống Quốc gia, các trung tâm giống vùng, trung tâm giống của tỉnh, hệ thống sản xuất để đủ điều kiện nghiên cứu tuyển chọn, lai tạo giống mới, nhập giống mới đáp ứng cho việc bảo tồn giống gốc, sản xuất giống có chất lượng cao để cung cấp cho các địa phương và xuất khẩu. . Hoàn thiện các Trung tâm giống thuỷ sản quốc gia, Trung tâm giống thuỷ sản cấp I, các Trung tâm giống tỉnh, các khu sản xuất giống thuỷ sản tập trung; sớm đưa các Trung tâm giống vào hoạt động, đồng thời tăng cường trang thiệt bị hiện đại, tăng cường đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sản xuất giống để tiến tới có thể xuất khẩu giống cho một số nước trong khu vực. - Phát triển hệ thống nghiên cứu, tuyển chọn giống, lai tạo giống mới, nhân giống, nuôi vỗ giống bố mẹ, sản xuất và ương giống một số đối tượng chủ lực như cá tra, tôm sú, tôm he chân trắng, tôm càng xanh và các loài cá bản địa, nhuyễn thể, từng bước thực hiện xã hội hoá việc nghiên cứu và sản xuất thuỷ sản, công nghệ sản xuất giống sạch bệnh, có sức đề kháng cao, cung cấp cho nhu cầu nuôi thương phẩm; công nghệ sản xuất giống có chất lượng cao; công nghệ tạo tôm càng xanh toàn đực, công nghệ tạo rô phi đơn tính đực bằng lai khác loài. - Triển khai các dự án phát triển giống thuỷ sản được xác định trong Chương trình phát triển giống thuỷ sản đến năm 2010. - Tăng cường quản lý chất lượng con giống, xây dựng tiêu chí chất lượng con giống, nhất là giống chủ lực tiến tới có thương hiệu giống. - Đẩy nhanh các hoạt động chọn giống, tạo giống chất lượng cao, có sức đề kháng chống chịu bệnh cao. - Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng các trung tâm giống lớn và sản xuất giống thuỷ sản nhất là các giống phục vụ nuôi biển, đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia sản xuất, dịch vụ cung ứng con giống cho người nuôi thuỷ sản, thực hiện xã hội hoá trong sản xuất giống thuỷ sản. - Nghiên cứu và chuyển giao công nghệ lưu giữ giống qua đông, đồng thời xây dựng các trung tâm lưu giữ qua đông một số loài thuỷ sản không chịu được lạnh ở các vùng gần các suối nước nóng. - Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ chi phí vận chuyển giống thuỷ sản tới các vùng núi, vùng sâu, vùng xa. 1.4 .Nhóm giải pháp về khoa học công nghệ và khuyến ngư. - Phát triển công nghệ về NTTS theo hình thức thâm canh và công nghiệp, nuôi biển các nhóm đối tượng chủ lực. - Phát triển nhanh công nghệ sản xuất giống, nâng cao chất lượng giống mới các nhóm đối tượng chủ lực như cá Tra, tôm sú, tôm he chân trắng nhuyễn thể, cá biển. - Công nghệ xử lý nước thải của cơ sở/vùng nuôi thuỷ sản tập trung, xử lý và tái sử dụng nền đáy ao nuôi tôm độc canh lâu ngày bị suy thoái, xử lý nguồn nước cấp và giảm thiểu môi trường nước ao nuôi, công nghệ sản xuất thức ăn, chế phẩm sinh học và sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường. - Ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học trong việc chọn, tạo giống mới và nuôi thương phẩm các đối tượng chủ lực, cải tạo môi trường, xử lý nước thải, chất rắn, phòng trị bệnh và phát triển nhanh các công nghệ lưu giữ tinh trùng, trứng và phôi để chủ động vận chuyển và sản xuất con giống theo ý muốn ở các vùng miền. - Nghiên cứu xây dựng các mô hình nuôi luân canh và nuôi kết hợp nhiều đối tượng, hoàn thiện mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến sinh thái nhằm đảm bảo an toàn về môi trường sinh thái. - Phát triển nhanh công nghệ trồng các loài rong, tảo ở vùng ven triều, trên biển, eo vụng và vùng đất cát . - Tổng kết và nhân rộng các mô hình tiên tiến cá tra, tôm he chân trắng, tôm hùm, các loài nhuyễn thể và nuôi biển. - Đánh giá các nhân tố kinh tế, kỹ thuật, nhân lực và xã hội nhằm chọn lựa các mô hình NTTS hợp lý và tối ưu cho các vùng miền và hệ sinh thái khác nhau. Lựa chọn công nghệ tốt nhất cho NTTS quy mô nhỏ của các hộ nghèo ở vùng nông thôn là cần ít vốn đầu tư, rủi ro thấp và hoàn vốn nhanh. - Hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu cơ bản, cơ sở và nghiên cứu ứng dụng nhằm phát triển NTTS đa dạng và công nghệ cao. - Tăng cường nghiên cứu hoàn thiện công nghệ mới về xử lý môi trường, chẩn đoán bệnh các biện pháp phòng trừ dịch bệnh, công nghệ sản xuất thức ăn, chế phẩm sinh học, thuốc thú y, các hoá chất dùng trong NTTS và xử lý môi trường, công nghệ lưu giữ, bảo quản sống, vận chuyển sống, công nghệ bảo quản sau thu hoạch, chế biến các sản phẩm thuỷ sản nuôi trồng. - Chuyển đổi, nâng cấp các tiêu chuẩn ngành về các đối tượng nuôi thành tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn quốc gia để phù hợp với yêu cầu quản lý, xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn, quy trình kỹ thuật mới trong NTTS, xây dựng quy chế công nhận tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ trong NTTS, đẩy nhanh việc ứng dụng kỹ thuật tiến bộ, sản xuất nhiều sản phẩm giá trị gia tăng, tạo khả năng cạnh tranh của hàng hoá thuỷ sản Việt Nam trên thị trường thế giới. - Hỗ trợ nghiên cứu và thực hành, truyền bá các hình thức tổ chức sản xuất NTTS mới nhằm giảm thiểu rủi ro và phù hợp với khả năng đầu tư cùa nông dân. - Khuyến khích hình thành các trang trại cổ phần NTTS cơ sở góp vốn bằng đất đai, kiến thức khoa học, giống hoặc trang thiết bị cho NTTS. Tăng cường năng lực khuyến ngư và thông tin. - Tổ chức lại hệ thống khuyến ngư và nâng cao năng lực hoạt động khuyến ngư từ Trung ương đến cơ sở. - Đổi mới việc xây dựng kế hoạch khuyến ngư hàng năm, xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn sản xuất để nâng cao hiệu quả đầu tư. - Tăng cường năng lực, cập nhật và nâng cao kiến thức thường xuyên cho cán bộ khuyên ngư cấp cơ sở,bổ sung cán bộ kỹ thuật, xây dựng mạng lưới cộng tác viên khuyến ngư, đầu tư và nâng cấp trang thiết bị phục vụ công tác khuyến ngư. - Xây dựng mạng lưới khuyến ngư để cập nhật và trao đổi thông tin về kỹ thuật, công nghệ, quản lý, dịch bệnh…về NTTS. - Hỗ trợ phát hành các tờ tin NTTS, tạp chí thuỷ sản của hội nghề cá đến các cơ sở và địa phương trong cả nước. 1.5 Giải pháp về sản xuất thức ăn, công nghiệp chế biến - Xây dựng và thực hiện chiến lược xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam vào các thị trường trọng điểm. - Xây dựng thương hiệu cho một số sản phẩm chủ lực, trước hết là tôm sú và cá tra, tiếp sau sẽ đến thương hiệu của các đối tượng khác theo giá trị xuất khẩu, tạo thêm sức hấp dẫn cho sản phẩm. - Phát triển các nhà máy chế biến có công nghệ hiền đại, công suất lớn để chế biến các mặt hàng thuỷ sản nuôi trồng theo nhu cầu thị trường. - Chủ động tổ chứ các hoạt động xúc tiến thương mại, chú trọng các thị trường có sức mua lớn, mở thêm thị trường mới, thường xuyên tìm hiểu chu cầu, bám sát quy định mới của thị trường để sản xuất các mặt hàng phù hợp, đáp ứng yêu cầu chất lượng, vượt qua rào cản kỹ thuật. - Xây dựng hệ thống phân phối sản phẩm thuỷ sản tại nước ngoài, xây dựng các mối quan hệ kinh doanh hợp tác với các nhà phân phối lớn để tiêu thụ sản phẩm. - Hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu áp sụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, hệ thống truy xuất nguồn gốc, đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị, công nghệ, cơ giới hoá, tự động hoá dây chuyền sản xuất, nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm, tạo khả năng cạnh tranh cao, tăng cường năng lực kiểm soát dư lượng hoá chất, kháng sinh trong nguyên liệu thuỷ sản, mở rộng chủng loại và sản lượng các mặt hàng thuỷ sản chế biến có giá trị gia tăng. 1.6. Giải pháp về vốn đầu tư. 1.6.1. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. a. Tiếp tục đầu tư, hoàn thiện và xây dựng mới cơ sở hạ tầng đồng bộ phục vụ NTTS. - Vùng nuôi thâm canh cá Tra, tôm sú, tôm he chân trắng và tôm càng xanh ở các tỉnh thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long,vùng NTTS ven biển miền Trung, ven biển đồng bằng miền Bắc. - Hệ thống nghiên cứu, lưu giữ giống gốc và sản xuất giống thuỷ sản ở 3 miền: Bắc, Trung, Nam. Các trung tâm giống cấp 1 và trung tâm giống của tỉnh, cơ sở hạ tầng cho các vùng sản xuất giống tập trung, hệ thống xử lý nước thải cho vùng sản xuất giống và nuôi nhỏ lẻ nằm trong quy hoạch. - Hệ thống quan trắc cảnh báo môi trường bệnh từ cấp trung ương đến vùng và các tỉnh. b. Xây dựng hệ thống Trung tâm kiểm nghiệm, khảo nghiệm và thử nghiệm ở 3 miền: Bắc – Trung – Nam nhằm tham chiếu và tham gia các hoạt động quan trắc, cảnh báo môi trường , kiểm tra, giám sát chất lượng và điều kiện sản xuất kinh doanh về giống, vùng nuôi tập trung, thức ăn và chế phẩm sinh học. c. Hoàn thiện các phòng thí nghiệm ở các Chi Cục thuỷ sản ở các tỉnh để tham gia các hoạt động quan cảnh báo môi trường, kiểm tra, giám sát chất lượng và điều kiện sản xuất kinh doanh về giống, vùng nuôi tập trung, thức ăn và chế phẩm sinh học. d. Phát triển hệ thống phòng thí nghiệm đủ mạnh để tham gia các hoạt động kiểm tra chất lượng con giống, thức ăn và chế phẩm sinh học theo cơ chế xã hội hoá. đ. Cơ sở hạ tầng phục vụ nghiên cứu và sản xuất thức ăn, chế phẩm sinh học, các chất xử lý và cải tạo môi trường, nâng cấp cơ sở hạ tầng cho hệ thống nghiên cứu và chế tạo các hệ thống thiệt bị đồng bộ phục vụ NTTS. f. Đầu tư cơ sở hạ tầng các khi bảo tồn, nhân giống các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ ở Tiền Giang, Bến Tre…bãi ngao giống Thái Bình, giống cá chình, tôm hùm ở miền Trung. 1.6.2. Đầu tư từ vốn ngân sách các địa phương. - Vốn ngân sách địa phương sẽ đầu tư vào việc xây dựng Trung tâm giống thuỷ sản của tỉnh, hỗ trợ hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ về giống, hỗ trợ tài chính cho sản xuất giống gốc, đàn bố mẹ, đào tạo nguồn nhân lực về lĩnh vực giống thuỷ sản ở địa phương. - Hỗ trợ các chương trình khuyến ngư. - Hỗ trợ lập và hoạt động của các tổ chức cộng đồng, các đoàn thể và hiệp hội NTTS của các địa phương. - Hỗ trợ công tác kiểm dịch thuỷ sản. -Hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động lễ hội thả giống thuỷ sản ra các mặt nước công cộng. 1.6.3. Các nguồn vốn khác. - Tín dụng thương mại đáp ứng đủ nhu cầu vay của các thành phần kinh tế thực hiện các dự án phát triển các khu NTTS tập trung, vốn vay sản xuất cho phát triển NTTS, sản xuất và kinh doanh giống, sản xuất kinh doanh thức ăn và các loại hoa chất, vi sinh, thuốc ngư y phục vụ NTTS. - Ưu tiên vốn tín dụng lãi suất thấp từ các quỹ xoá đói giảm nghèo, từ ngân hàng chính sách cho các hội quần chúng, phụ nữ tham gia phát triển NTTS ở các hồ chứa, trên sông suối, NTTS ở các ao hồ nhỏ gia đình, làm giống thuỷ sản quy mô nhỏ, làm cá cảnh thương mại nhỏ. - Lập quỹ hỗ trợ các gia đình nghèo phát triển NTTS. -Vốn đầu tư nước ngoài: thông qua các dự án trực tiếp đầu tư nước ngoài FDI vào lĩnh vực NTTS và sản xuất giông, các dự án hỗ trợ phát triển ODA và các dự án AIT..tư vấn trợ giúp kỹ thuật, tư vấn đào tạo, nhập các công nghệ mới, chuyển giao công nghệ về NTTS. -Vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế để phát triển các ao nuôi, mua sắm và các trang thiết bị kỹ thuật, các chi phí thường xuyên và lưu động, đầu tư kinh doanh các dịch vụ và thương mại phục vụ NTTS. Nhóm giải pháp về xã hội: 2.1.Giải pháp về tăng cường thể chế quản lý, hoàn chỉnh bộ máy tổ chức và tổ chức sản xuất NTTS. - Lấy quy hoạch là công cụ chủ yếu để quản lý sự phát triển của NTTS. - Thực hiện việc xây dựng quy hoạch nuôi thuỷ sản gắn kết với quy hoạch phát triển các hệ thống canh tác nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp và phát triển các vùng lưu vực sông, vùng bờ biển, các hồ chứa trong một phương thức quản lý chung gọi là quản lý tổng hợp vùng. - Tăng cường hiệu lực của việc tuân thủ các luật lệ, các tiêu chuẩn về kỹ thuật, công nghệ và quản lý về NTTS và môi trường thông qua việc tổ chức các hình thức tự quản lý, tăng cường đội ngũ thang tra và kiểm soát viên và hệ thống quan trắc NTTS. - Tăng cường kiểm soát dịch bệnh và việc sử dụng các loại thuốc ngự y, đặc biệt là các loại kháng sinh, các chất vi sinh…dùng trong NTTS. Xây dựng và thực hành rộng rãi tiêu chuẩn nuôi sạch bệnh. - Thực hiện triệt để việc áp dụng vùng nuôi tập trung thâm canh có điều kiện, các cam kết chấp hành quy hoạch và quy định về vệ sinh môi trường vùng nuôi trồng. - Thực hiện và kiểm soát chặt chẽ việc đánh giá tác động môi trường các vùng, các dự án phát triển NTTS, thực hiện nghiêm các quy định về khảo/thử nghiệm khi nhập và phát triển các loài ngoại lai vào VIệt Nam. - Hoàn thiện các chế tài xử lý vi phạm trong việc thực hiện các quy định đảm bảo vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi trường. - Nhanh chóng áp dụng và thực hiện việc truy xuất nguồn gốc và phát triển thương hiệu cho hoạt động NTTS, áp dụng luật chi trả chi phí sử dụng nguồn nước và môi trường đối với NTTS. - Thực hiện chính sách, chế độ đãi ngộ hợp lý, khuyến khích cán bộ kỹ thuật NTTS yên tâm công tác ở vùng sâu, vùng xa. - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước về NTTS: Kiện toàn tổ chức Chi cục NTTS ở cấp tỉnh,huyện tổ chức cán bộ quản lý phát triển NTTS, cấp xã có cán bộ theo dõi thuỷ sản. - Trên cơ sở chiến lược phát triển ngành và quy hoạch phát triển NTTS của từng tỉnh, các Sở Nông nghiệp và PTNT tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát việc thực hiện theo quy hoạch, các quy chế quản lý, quy định các điều kiện phát triển NTTS của địa phương, quản lý tốt chất lượng con giống, thức ăn, chế phẩm sinh học, kêu gọi đầu tư phát triển, thông tin nhiều chiều về NTTS., chế biến XK, giá cả thị trường và xu thế phát triển, thực hiện công khai minh bạch tới các cộng đồng để người dân chủ động trong phát triển NTTS. - Phát triển các tổ chức : Chi hội nghề cá, Chi hội Nuôi thuỷ sản, nâng cao vai trò quản lý cộng đồng để có thể huy động sức dân giúp đỡ nhau trong sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm, góp phần tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với thuỷ sản ở địa phương. - Khuyến khích sản xuất theo quy mô trang trại, xây dựng Tổ hợp tác xã, doanh nghiệp sản xuất, xây dựng mới liên kết quản lý sản xuất kinh doanh, chế biến xuất khẩu. - Tăng cường năng lực và hiệu lực quản lý nhà nước về lĩnh vực thuỷ sản bằng biện pháp bổ sung và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật cho ngành. Củng cố và nâng cao năng lực hoạt động quản lý nhà nước của Sở NN&PTNN và các đơn vị trực thuộc . Tăng cường cán bộ quản lý cho cấp huyện, mỗi huyện, thành phố ven biển cần bố trí 3 cán bộ phụ trách thuỷ sản, các huyện miền núi bố trí 1-2 cán bộ NTTS. - Tăng cường phối hợp đồng bộ trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác phát triển NTTS với các lĩnh vực hoạt động khác của kinh tế nông nghiệp nông thôn. 2.2. Các giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực. Lực lượng cán bộ kỹ thuật có chuyên môn cao hiện nay của ngành NTTS còn thiếu nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển trong thời gian tới vì vậy việc đào tạo cán bộ kỹ thuật nhất là cán bộ có chuyên môn cao là một trong những giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả và chất lượng của phát triển. Việc đào tạo cán bộ kỹ thuật cần tập trung vào các hướng sau: - Đào tạo cán bộ trên đai học gồm tiến sỹ, thạc sỹ có chuyên môn sâu về các lĩnh vực phục vụ phát triển NTTS, hình thức đào tạo có thể là ở trong nước hoặc nước ngoài. Chương trình cần có các biện pháp hỗ trợ và tạo kinh phí đào tạo chuyên gia về lĩnh vực này. - Tăng cường năng lực các trường đào tạo nhân lực các cấp về NTTS, cả về phương diện dạy học, đào tạo nâng cao năng lực giáo viên, cơ sở hạ tầng trước lớp, thí nghiệm, thực tập và điều kiện ăn ở của sinh viên. - Hỗ trợ ngân sách đào tạo người địa phương thành các cán bộ kỹ thuật NTTS về làm công tác khuyến ngư hoặc phát triển và quản lý NTTS tại địa phương đối với các vùng sâu, vùng xa. - Đào tạo ngắn hạn và đào tạo lại đề cập nhật kiến thức cho cán bộ kỹ thuật nuôi trồng tại cơ sở. Hình thức đào tạo lại nên theo hướng đào tạo ngắn hạn và trung hạn tuỳ theo đối tượng đào tạo. Ngoài ra, cần tổ chức thêm các khoá tập huấn ngắn ngày cho người dân về kỹ thuật sản xuất giống, năng cao ý thức bảo vệ môi trường và nguồn lợi. 2.3. Mở rộng quan hợp tác quốc tế. - Mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực về trao đổi nguồn gen, công nghệ nuôi và sản xuất giống, nhập những công nghệ sản xuất giống tiên tiến, nhập đối tượng nuôi mới, ứng dụng công nghệ sinh học trong lai tạo giống mới, xử lý chất thải, cải tạo môi trường, và phòng ngừa dịch bệnh, nâng cao nguồn lực cho phát triển NTTS. -Khuyến khích việc liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư NTTS, sản xuất giống thuỷ sản, sản xuất thức ăn công nghiệp, đổi mới công nghệ nuôi, công nghệ chế biến thuỷ sản xuất khẩu. - Khuyến khích người nước ngoài đầu tư phát triển NTTS ở Việt Nam và người Việt Nam đầu tư phát triển NTTS ở nước ngoài. - Tranh thủ nguồn tài trợ của nước ngoài và tổ chức quốc tế để có thêm nguồn vốn đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp phát triển NTTS, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ trên các lĩnh vực: sinh sản nhân tạo, di truyền, chọn giống, chuyển đổi giới tính một số giống loài quý, phòng ngừa dịch bệnh và xử lý môi trường và tăng cường năng lực cho ngành NTTS. Nhóm giải pháp về bảo vệ môi trường: Để nuôi trồng thủy sản phát triển bền vững thì công tác bảo vệ môi trường, xây dựng các biện pháp, các quy chế kiểm soát sự ô nhiễm môi trường ... cần phải đặt ra hàng đầu. Một số giải pháp môi trường như sau: 3.1. Công tác quy hoạch: Các địa phương cần quy họach vùng nuôi tôm thịt, tôm giống và các động vật thủy hải sản khác, nhằm bảo vệ sinh thái và môi trường ven biển, chống ô nhiễm môi trường và quản lý bệnh dễ dàng. 3.2. Công tác quản lý : Thực hiện phân cấp quản lý các cấp: Tỉnh - Huyện, Xã – Thôn - Hội... nuôi trồng thủy sản và xây dựng quy chế cùng nhau quản lý giữa người dân và Nhà nước nguồn tài nguyên và môi trường ngay tại địa phương. - Xây dựng các trạm quan trắc biển, môi trường nuôi trồng thủy sản thường xuyên. Tiến hành liên tục việc đánh giá tác động môi trường cho từng cơ sở sản xuất, dịch vụ để từ đó kịp thời đề ra biện pháp xử lý môi trường thích hợp. - Đẩy mạnh công tác thú y phòng chống dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản. - Tăng cường công tác đánh giá, kiểm tra, phân loại các trại sản xuất, có bể xử lý nước thải. - Đẩy mạnh nghiên cứu các lĩnh vực thuộc môi trường nuôi trồng thủy sản, nghiên cứu cải tiến công nghệ sản xuất NTTS, công nghệ NTTS ít rủi ro... - Tăng cường công tác giáo dục môi trường, nâng cao nhận thức về môi trường cho cộng đồng. - Tăng cường công tác khuyến ngư, cập nhật các kỹ thuật mới, công nghệ mới cho ngư dân. - Tăng cường công tác kiểm dịch, dự báo dịch bệnh, phòng trừ dịch bệnh. - Ra sức bảo vệ, khôi phục và tái tạo lại rừng nhập mặn ven biển, tái tạo sinh thái ven biển. - Đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, cán bộ điều hành sản xuất có năng lực, đào tạo công nhân lành nghề cho các cơ sở sản xuất bằng hình thức dài hạn, ngắn hạn, tập trung, không tập trung ... một cách có hệ thống. 3.3. Bảo vệ môi trường nước: Tập trung quan tâm đến bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản nước ngọt, bảo vệ môi trường nuôi trồng thủy sản nước mặn ven biển, bảo vệ môi trường trong các trang trại vùng sản xuất nuôi trồng kinh tế hộ, bảo vệ môi trường nuôi thủy sản trên sông rạch... nhằm giải quyết vấn đề cấp và thoát nước trong nuôi trồng thủy sản. Quản lý và xử lý chất thải nuôi trồng thủy sản, các vật tư hóa chất, các chế phẩm hóa học và sinh học sử dụng trong các mô hình canh tác ở các vùng kinh tế đáp ứng tiêu chuẩn môi trường và hạn chế dịch bệnh nuôi trồng thủy sản lây nhiễm để phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản. Đối với nuôi trồng thủy sản nước ngọt: cần tập trung quản lý chất lượng nước nuôi trồng thủy sản, quản lý các mô hình phát triển nuôi trồng gắn liền với nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Ứng dụng các mô hình công nghệ xử lý chất thải nuôi trồng thủy sản thích hợp như: xử lý chất thải bùn thải, xử lý khử trùng nước thải trước lúc thải ra... đáp ứng tiêu chuẩn môi trường. Tập trung xử lý chất thải triệt để ở các mô hình nuôi thâm canh, nuôi công nghiệp, nuôi cá bè trên sông rạch, quản lý chặt chẽ dịch hại tổng hợp trong nuôi trồng thủy sản. Đối với nuôi trồng thủy sản nước mặn: ven biển cần tập trung giải quyết: Tập trung cần có giải pháp quản lý cộng đồng đối với vấn đề ngăn chặn các hành vi thải chất thải nước thải nhiễm bệnh trong các ao nuôi có dịch bệnh ra môi trường nước sông rạch làm tổn thất cộng đồng ngườidân NTTS trong khu vực Tăng cường giám sát chất lượng môi trường nước để dự báo diễn biến môi trường cũng như dịch bệnh có thể phát sinh. Từ đó, có các giải pháp xử lý kịp thời khi có sự cố xảy ra. Quản lý chặt chẽ nguồn vật tư hóa chất cung ứng trên thị trường phục vụ cho nuôi trồng thủy sản theo quy định của nhà nước. Quản lý chất lượng sản phẩm nuôi trồng cung ứng cho thị trường chế biến sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm. IV – Một số kiến nghị đề xuất Chính phủ. 1. Cần có sự thống nhất chỉ đạo của Chính phủ tới các Bộ, ngành có liên quan có trách nhiệm trong việc thực hiện mục tiêu Chương trình phát triển ngành nuôi trồng thủy sản. 2. Cho chủ trương để Bộ Thuỷ sản chủ trì phối hợp với Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn và các Bộ, ngành liên quan xây dựng Chương trình thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng thuỷ sản và có kế hoạch đầu tư từng bước các dự án thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng thuỷ sản. 3. Tăng tổng mức vốn để xây dựng hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản, hạ tầng sản xuất giống thuỷ sản, hạ tầng vùng chuyển đổi, hạ tầng các vùng sản xuất giống và hạ tầng các vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung tạo sản phẩm hàng hoá lớn cho phù hợp tiến độ của Chương trình làm cơ sở để nuôi trồng thuỷ sản phát triển hiệu quả, bền vững... 4. Tăng nguồn vốn đầu tư cho khoa học công nghệ, đặc biệt cho ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ chọn tạo và sản xuất giống, công nghệ sản xuất thức ăn, công nghệ nuôi thuỷ sản hàng hoá, xử lý môi trường và các sản phẩm thải, phòng bệnh cho thuỷ sản nuôi... 5. Có chính sách hỗ trợ vay vốn, đặc biệt là nuôi biển và nuôi hàng hoá; tăng mức vay không phải thế chấp, tăng thời hạn vay vốn theo chu kỳ sản xuất KẾT LUẬN Nuôi trồng thuỷ sản ở Việt Nam trong những năm qua đã phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu, trở thành một ngành mũi nhọn của nền kinh tế nước nhà, hoạt động có hiệu quả, đem lại thu nhập và việc làm cho rất nhiều người dân. Việc phát triển đa dạng hoá các hình thức NTTS thực hiện chuyển đổi nghề nghiệp cho ngư dân khai thác hải sản đã góp phần chuyển dịch kinh tế thuỷ sản sang một trạng thái ổn định hơn, kết hợp hài hoà giữa khai thác và bảo vệ nguồn lợi tự nhiên có tác động sâu sắc đến sự bền vững của ngành NTTS nói riêng, ngành thủy sản nói chung. Ngành NTTS những năm qua đã có những bước phát triển tương đối ổn định, gặt hái được nhiều thành quả to lớn. Với những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế và xã hội như: nâng cao sản lượng và kim ngạch xuất khẩu, đóng góp vào sự gia tăng GDP, góp phần tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho người dân ven biển và hải thì ngành NTTS đã từng bước hướng tới sự phát triển bền vững. Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển đó là sự mất cân đối giữa ba mặt: kinh tế, xã hội và môi trường. Qua thực tế có thể thấy tình hình phát triển của ngành NTTS nay còn rất tự phát, quá coi trọng mục tiêu kinh tế mà quên đi sự mất cân bằng sinh thái, nguy cơ cạn kiệt một số giống loài thủy sản quý hiếm. Hơn nữa, tồn tại mà ngành đang phải đối mặt đó là sự không bền vững về môi trường, Qua việc tìm hiểu nghiên cứu thực trạng nuôi trồng thủy sản hiện nay của Việt Nam để đưa ra những giải pháp nhằm tiến tới một sự phát triển hoàn toàn cân bằng và bền vững. Hy vọng bài viết sẽ có giá trị nho nhỏ trong quá trình phát triển của ngành NTTS Việt Nam. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo T.S Nguyễn Ngọc Sơn cùng các cô chú trong Vụ kinh tế Nông nghiệp đã giúp đỡ em hoàn thành bài báo cáo này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình kinh tế phát triển tác giả: GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng. NXB Thống kê. 2. Kinh tế thủy sản Việt Nam tác giả: Vũ Đình Thắng NXB Lao động. 3. Đánh giá tác động của ngành Thuỷ sản đối với nền kinh tế quốc dân tác giả PGS.TS Hà Xuân Thông 4. Quy hoạch tổng thể ngành Thủy sản Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Viện kinh tế và quy hoạch thủy sản - Bộ Thuỷ sản. 5. Báo cáo tổng kết ngành Thủy sản giai đoạn 2000 – 2008, Bộ Thủy sản. 6. Tạp chí thủy sản số tháng 5, 10 năm 2007, số tháng 1 năm 2008 7. Thời báo kinh tế năm 2008. 8. Các trang web: http:// www.vnn.vn http:// www.mofi.gov.vn http:// www.mofa.gov.vn DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Tên Chú thích 1 SLTS Sản lượng thủy sản 2 SLKT Sản lượng khai thác 3 SLNT Sản lượng nuôi trồng 4 KTTS Khai thác thủy sản 5 NTTS Nuôi trồng thủy sản 6 XK Xuất khẩu 7 KNXK Kim ngạch xuất khẩu 8 NSSNN Ngân sách nhà nước MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Trang Bảng Bảng 1: Các chỉ tiêu cơ bản đạt được năm 2007 35 Bảng 2: Diện tích mặt nước NTTS. 37 Bảng 3: Số liệu kết quả sản xuất, kinh doanh NTTS ( 2000 – 2008 ).............40 Bảng 4 : Mười nước nuôi trồng thuỷ sản hàng đầu thế giới năm 2000 46 Bảng 5: Kết quả thực hiện vốn đầu tư NTTS thời kỳ 2001 - 2005 57 Bảng 7 : Dự báo về sự thay đổi giá các mặt hàng thuỷ sản trên thế giới năm 2020 so với năm 1997. 81 Bảng 6: Các chỉ tiêu phát triển NTTS của Việt Nam đến năm 2020. 78 Biểu Biểu đồ 1: Diện tích nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2000 - 2007 36 Biểu đồ 2: Sản lượng NTTS so với tổng sản lượng của toàn ngành 41 Biểu đồ 3: Tốc độ tăng trưởng về SL ngành NTTS qua các năm...................43 Biểu đồ 4: Giá trị sản xuất của ngành NTTS theo giá thực tế 44 Biểu đồ 5: Kim ngạch XK ngành TS 47 Biểu đồ 6 : Thu nhập bình quân hàng tháng của lao động ngành TS so với các ngành kinh tế khác thuộc khu vực Nhà nước. 62 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2034.doc
Tài liệu liên quan