Thực trạng và giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật Bản

MỤC LỤC CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VÀ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU , XUẤT KHẨU THỦY SẢN ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU 1.1.1. Khái niệm xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu đối với một quốc gia 1.1.1.1 Khái niệm xuất khẩu Theo nhà kinh tế học Adam Smith, phân công lao động xã hội dẫn đến chuyên môn hoá sản xuất, sẽ tạo ra một khối lượng hàng hoá lớn đáp ứng không chỉ đủ nhu cầu trong nước mà còn có thể xuất khẩu ra nước ngoài để trao đổi với hàng h

doc66 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1398 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oá mà trong nước sản xuất không hiệu quả. Còn theo học thuyết “lợi thế so sánh” của David Ricardo thì khi một quốc gia sản xuất mặt hàng có lợi thế so sánh và trao đổi nó với quốc gia khác thì vẫn đem lại lợi nhuận cho cả hai quốc gia. Như vậy, xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động tất yếu xảy ra khi phân công lao động xã hội đạt được một trình độ nhất định. Ta có nhiều cách hiểu khác nhau về xuất khẩu như: Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động đưa hàng hoá ra khỏi một nước (từ nước này sang nước khác) để bán trên cơ sở dùng tiền làm phương tiện thanh toán (tiền ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia) hoặc trao đổi lấy một hàng hoá khác có giá trị tương đương. Theo điều 2 NĐ57/1998 của Chính phủ Việt Nam: Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là hoạt động bán hàng của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo các hợp đồng mua bán hàng hoá, bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu hàng hoá. Tóm lại, xuất khẩu nói một cách đơn giản nhất là việc bán một sản phẩm hay một dịch vụ ra thị trường nước ngoài để thu ngoại tệ. Xuất khẩu thuần tuý là một chức năng của hoạt động thương mại. Hoạt động xuất khẩu có thể đem lại những lợi nhuận lớn cho nền sản xuất trong nước, tuy nhiên cũng có thể gặp nhiều rủi ro. 1.1.1.2 Vai trò của xuất khẩu đối với một quốc gia Cùng với chiến lược hội nhập và phát triển, thương mại quốc tế là một bộ phận quan trọng, gắn liền với tiến trình hội nhập và có vai trò quyết định đến lợi thế của một quốc gia trên thị trường khu vực và thế giới. Vì vậy việc đẩy mạnh giao lưu thương mại quốc tế nói chung và thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nói riêng là mục tiêu phát triển kinh tế hàng đầu của mỗi quốc gia, đóng vai trò vô cùng quan trọng. Những vai trò của xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế đó là: Thứ nhất, xuất khẩu tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so sánh của mình. Trong xu thế thế giới đang dần tiến tới quá trình chuyên môn hoá thì việc tận dụng được lợi thế so sánh của riêng mình đóng vai trò tiên quyết quyết định đến vị trí của từng quốc gia trên thị trường quốc tế. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì lợi thế so sánh chính là điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, giá nhân công rẻ..v..v..Dựa trên những lợi thế so sánh này, sản xuất ra những sản phẩm xuất khẩu nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới, từ đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao vị thế của quốc gia trên trường quốc tế. Thứ hai, hoạt động xuất khẩu tạo nguồn dự trữ ngoại tệ quan trọng và tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu công nghệ, máy móc và những nguyên nhiên vật liệu cần thiết phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Ngày nay, việc dự trữ ngoại tệ nhất là các ngoại tệ mạnh là điều rất quan trọng, vì trong quan hệ mua bán trên thị trường thế giới hiện nay các nước đều sử dụng các ngoại tệ mạnh trong giao dịch để đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Dự trữ ngoại tệ dồi dào còn là điều kiện cần thiết để giúp cho quá trình ổn định nội tệ và chống lạm phát. Ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu sẽ là nguồn tăng dự trữ ngoại tệ chủ yếu. Bên cạnh đó, hoạt động xuất khẩu còn kích thích các ngành kinh tế phát triển, góp phần tạo nguồn vốn để các quốc gia có thể nhập khẩu máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá đất nước. Thứ ba, hoạt động xuất khẩu góp phần định hướng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngày này, quá trình phân công lao động quốc tế ngày càng phát triển đã thúc đẩy hoạt động chuyên môn hoá, hợp tác hoá ở tầm quốc tế, điều này đòi hỏi mỗi quốc gia cần lựa chọn mặt hàng xuất khẩu sao cho đạt hiệu quả kinh tế cao nhất, từ đó sẽ giúp các quốc gia có định hướng chiến lược đối với các ngành sản xuất trong nước. Đây là một điều có ý nghĩa quan trọng vì việc định hướng các ngành sản xuất trong nước là một điều không dễ làm và không ít các quốc gia đã có những bước đi sai lầm trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế. Định hướng vào các ngành sản xuất có lợi thế sẽ dần dẫn tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao dần tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến phục vụ xuất khẩu mang lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước từ hoạt động xuất khẩu. Thứ tư, hoạt động xuất khẩu góp phần giải quyết công ăn việc làm, tạo thu nhập và nâng cao mức sống của nhân dân. Xuất khẩu tác động tới đời sống con người trên rất nhiều mặt. Đầu tiên, sản xuất hàng xuất khẩu sẽ là nơi thu hút rất nhiều lao động vào làm việc với thu nhập cao. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu những sản phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ cho đời sống và nhu cầu ngày càng phong phú của nhân dân. Đồng thời xuất khẩu còn góp phần thay đổi thói quen làm việc và nâng cao tay nghề cho những người lao động sản xuất hàng xuất khẩu. Cuối cùng, hoạt động xuất khẩu góp phần mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại, nâng cao uy tín hàng hoá trong nước trên thị trường thế giới, nâng cao vị thế của một quốc gia trên trường quốc tế. Trong quá trình hội nhập quốc tế, hoạt động giao lưu buôn bán ngày càng phát triển đã góp phần thặt chặt quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia, giúp các quốc gia ngày càng hiểu rõ hơn về nhau. Bên cạnh đó, để có thể không ngừng nâng cao tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu đòi hỏi các nhà sản xuất luôn phải tận dụng được lợi thế so sánh của mình đồng thời phải đầu tư đổi mới điều kiện sản xuất để từ đó nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước trên thị trường thế giới. Việc các sản phẩm xuất khẩu có một vị thế nhất định trên thị trường, chiếm được lòng tin của khách hàng cũng là một hình thức chúng ta quảng cáo về quốc gia mình, từ đó góp phần nâng cao được vị thế của quốc gia trên trường quốc tế. 1.1.2. Các hình thức xuất khẩu Hoạt động xuất khẩu hàng hoá diễn ra vô cùng phong phú và đa dạng, những hình thức xuất khẩu hàng hoá chủ yếu là: * Xuất khẩu trực tiếp Là hình thức xuất khẩu, trong đó người bán (người sản xuất, người cung cấp) và người mua quan hệ trực tiếp với nhau (bằng cách gặp mặt, qua thư từ, điện tín) để bàn bạc thoả thuận về hàng hoá, giá cả và các điều kiện giao dịch khác. * Xuất khẩu qua trung gian: Là hình thức mua bán quốc tế được thực hiện nhờ sự giúp đỡ của trung gian thứ ba, và người thứ ba này sẽ được hưởng một khoản tiền nhất định. Người trung gian phổ biến trong các giao dịch quốc tế là đại lý và môi giới. * Xuất khẩu tại chỗ: Là hình thức xuất khẩu ngay tại đất nước mình để thu ngoại tệ. Đó là việc bán hàng và thực hiện các dịch vụ cho người nước ngoài,và thanh toán bằng ngoại tệ. Hàng xuất khẩu tại chỗ có thể dùng ngay tại chỗ hoặc được người mua đem ra nước ngoài. * Hình thức tái xuất khẩu Là hình thức thực hiện xuất khẩu trở lại sang các nước khác những hàng hoá đã mua ở nước ngoài nhưng chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Mục đích của thực hiện giao dịch tái xuất khẩu là mua rẻ hàng hoá ở nước này bán đắt hàng hoá ở nước khác và thu số ngoại tệ lớn hơn số vốn bỏ ban đầu. Hoạt động tái xuất khẩu có thể chia làm hai hình thức: hình thức tạm nhập - tái xuất và hình thức chuyển khẩu, trong đó: Hình thức tạm nhập – tái xuất được hiểu là việc mua hàng của một nước để bán cho nước khác trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương, làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá vào, rồi sau đó làm thủ tục xuất khẩu mà không qua gia công chế biến. Hàng hoá chuyển khẩu được chia thành hai loại. Một là, hàng hoá sau khi nhập cảnh xin với hải quan cho vận chuyển đến một địa điểm hải quan khác để làm thủ tục hải quan nhập khẩu. Hai là, hàng hoá ở nơi vận chuyển ban đầu đã làm thủ tục hải quan xuất nhập khẩu vận chuyển đến một nơi xuất cảnh, do hải quan nơi xuất cảnh giám sát quản lý cho qua. * Gia công xuất khẩu Là phương thức sản xuất hàng xuất khẩu, trong đó người đặt hàng gia công ở nước ngoài cung cấp: máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu hoặc bán thành phẩm theo mẫu và định mức cho trước. Người nhận gia công trong nước tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của khách. Toàn bộ sản phẩm làm ra người nhận gia công sẽ giao lại cho người đặt gia công để nhận tiền công. 1.1.3 Các công cụ và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu 1.1.3.1 Các công cụ và biện pháp của Nhà nước a. Trợ cấp xuất khẩu Là hình thức khuyến khích xuất khẩu bằng cách Nhà nước giành sự ưu đãi về mặt tài chính cho xuất khẩu thông qua trợ cấp trực tiếp hoặc gián tiếp. Mục đích của trợ cấp là giúp các nhà kinh doanh giảm được chi phí hàng hoá xuất khẩu, để bán hàng với giá hạ, tăng cường sức cạnh tranh cho sản phẩm. * Trợ cấp trực tiếp: Là thực hiện sự ưu đãi cho các nhà kinh doanh sản xuất hàng xuất khẩu được sử dụng đầy đủ với giá hạ các công trình hạ tầng (điện, nước, phương tiện thông tin liên lạc, phương tiện vận tải..) cũng như thực hiện bù giá (trợ giá) xuất khẩu. * Trợ cấp gián tiếp: Là hình thức Nhà nước sử dụng các biện pháp kinh tế vĩ mô kết hợp với bảo hộ bằng các biện pháp quản lý hành chính để hỗ trợ cho xuất khẩu. Ví dụ ở các nước trong vùng Đông Nam Á (như: Malaysia, Indonesia, Thái Lan…), Chính phủ sử dụng biện pháp gián tiếp như điều hoà cung cầu bằng cách hỗ trợ về tài chính và thông qua hệ thống kho đệm của Chính phủ, đẩy mạnh việc mua hàng vào lúc giá rẻ….Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng các biện pháp giảm hoặc miễn thuế xuất khẩu, giúp các nhà xuất khẩu tìm kiếm thị trường, đầu tư vào khoa học kỹ thuật… Trong quá trình tự do hoá thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vai trò của trợ cấp trực tiếp ngày càng bị thu hẹp và vai trò của trợ cấp gián tiếp đối với các nhà xuất khẩu ngày càng gia tăng. Trợ cấp trực tiếp bị thu hẹp như vậy một mặt do cuộc đấu tranh quyết liệt giữa các Chính phủ. Ví dụ như Mỹ đòi EC phải giảm mạnh trợ cấp nông sản cho nông dân ở EC từ 30%-50% trong 15 năm tới nếu không Mỹ sẽ áp dụng biện pháp trả đũa cứng rắn. Mặt khác, trợ cấp trực tiếp bị thu hẹp còn là để đảm bảo có sự cạnh tranh công bằng giữa nhà sản xuất trong nước và các nhà sản xuất nước ngoài. b. Chính sách tỷ giá hối đoái để thúc đẩy xuất khẩu Tỷ giá là giá cả của đơn vị tiền tệ của một quốc gia tính bằng tiền tệ của một nước khác, đó là quan hệ so sánh sức mua giữa hai đồng tiền của hai quốc gia khác nhau. Tỷ giá hối đoái thường xuyên biến động do nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng. Nếu tỷ giá hối đoái giảm tức là sức mua của đồng tiền nội tệ so với ngoại tệ bị giảm. Khi ấy, nếu như các điều kiện khác thay đổi giá cả hàng hoá sản xuất trong nước chuyển đổi ra ngoại tệ sẽ thấp hơn trước, tức là trở nên rẻ đi một cách tương đối. Điều đó sẽ làm cho sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu tăng lên. Như vậy tỷ giá hối đoái giảm sẽ làm cho hoạt động xuất khẩu trở lên thuận lợi hơn. Và ngược lại, nếu tỷ giá hối đoái tăng sẽ làm cho hoạt động xuất khẩu trở lên khó khăn hơn. Tuy nhiên, tỷ giá chỉ giảm đến một mức độ nào đó thì mới có lợi cho nhà xuất khẩu vì nhà xuất khẩu cũng sẽ đồng thời là nhà nhập khẩu nguyên vật liệu. Tỷ giá hối đoái tăng sẽ khiến giá sản phẩm nhập khẩu tăng lên gây ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh sản xuất. Vì vậy để kinh doanh xuất nhập khẩu hiệu quả, doanh nghiệp phải quan tâm đến hai loại tỷ giá, đó là tỷ giá xuất khẩu và tỷ giá nhập khẩu. Tỷ giá xuất khẩu: Được xác định bằng tỷ số giữa giá bán buôn công nghiệp cộng với thuế xuất khẩu bằng tiền nội tệ và giá bán hàng xuất khẩu theo điều kiện FOB tính bằng ngoại tệ. Tỷ giá nhập khẩu: Được xác định bằng tỷ số giữa giá bán buôn hàng nhập khẩu tại cảng bằng tiền nội địa và giá nhập khẩu theo điều kiện CIF tính bằng ngoại tệ. Nhà kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ có lợi khi tỷ giá hối đoái công bố trên thị trường hối đoái nhỏ hơn tỷ lệ giá nhập khẩu và lớn hơn tỷ giá xuất khẩu. c. Tín dụng xuất khẩu * Nhà nước là người đảm bảo tín dụng xuất khẩu: Là hình thức khuyến khích xuất khẩu bằng cách Nhà nước đứng ra lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu, quỹ này thực hiện việc gánh vác mọi rủi ro, mạo hiểm cho các nhà xuất khẩu bán hàng hoá cho nước ngoài với phương thức thanh toán trả chậm hoặc tín dụng dài hạn. Tác dụng của hình thức đảm bảo tín dụng xuất khẩu là: - Khi khả năng thanh toán ngay đối với hàng nhập khẩu có giá trị lớn bị hạn chế thì việc bán chịu hay bán trả chậm với lãi suất nhẹ cho phép tăng khả năng cạnh tranh cho hàng xuất khẩu. Việc Nhà nước lập ra các quỹ bảo hiểm xuất khẩu cho phép thương nhân mạnh dạn bán chịu cho khách hàng nhờ vậy mà gia tăng kim ngạch xuất khẩu. - Nâng được giá trị hàng xuất khẩu vì giá bán chịu hàng hoá bao gồm: giá bán trả tiền ngay cộng với phí tổn trả chậm. Hiện nay hình thức Nhà nước đảm bảo tín dụng xuất khẩu được thực hiện khá phổ biến ở nhiều nước nhằm mở rộng xuất khẩu, xâm chiếm thị trường mới. Đặc biệt việc xuất khẩu máy móc thiết bị với thời hạn đảm bảo tín dụng có khi tới 15-20 năm. * Nhà nước thực hiện tín dụng xuất khẩu: Là hình thức mở rộng xuất khẩu bằng cách Nhà nước cho bên nước ngoài vay vốn với quy mô lớn (lãi suất ưu đãi) để bên nước vay sử dụng số tiền đó mua hàng hoá của nước cho vay. Nguồn vốn vay thường lấy từ ngân sách Nhà nước và việc cho vay thường kèm với các điều kiện kinh tế - chính trị có lợi cho nước cho vay. Tác dụng của hình thức là giúp cho thương nhân đẩy mạnh xuất khẩu vì có sẵn thị trường tiêu thụ hàng hoá, đồng thời giúp cho việc mở rộng các quan hệ về kinh tế và văn hoá giữa nước cho vay và nước được vay. d. Chính sách thuế quan Thuế quan là một khoản tiền mà người chủ hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu hoặc quá cảnh phải nộp cho hải quan là cơ quan đại diện cho nước chủ nhà. Thuế quan có tác dụng điều tiết khối lượng xuất khẩu và nhập khẩu. Bởi lượng hàng hoá xuất nhập khẩu nhiều hay ít phụ thuộc vào sức tiêu thụ hàng hoá, yếu tố này bị phụ thuộc vào giá cả. Một bộ phận quan trọng tạo thành giá cả hàng hoá ngoại thương đó chính là thuế quan. Thuế quan đánh thấp hay cao sẽ ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá từ đó ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Như vậy, bằng cách cắt giảm các loại thuế giá trị gia tăng và thuế quan xuất khẩu, Chính phủ đã tạo điều kiện khuyến khích các nhà xuất khẩu xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài để từ đó ổn định kim ngạch xuất khẩu. 1.1.3.2 Các biện pháp của doanh nghiệp Các công cụ và biện pháp của Nhà nước đóng vai trò như những điều kiện nền tảng giúp tạo môi trường thuận lợi để các nhà xuất khẩu thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, để sản phẩm có một chỗ đứng bền vững trên thị trường nước ngoài, giá trị xuất khẩu ngày càng tăng thì ngay trong các doanh nghiệp cũng phải thực hiện những biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá. Các biện pháp đó là: a. Nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm Nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm là một trong những biện pháp quan trọng để thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp. Tính cạnh tranh của sản phẩm sẽ quyết định khả năng thâm nhập thị trường quốc tế, vị trí và thị phần của doanh nghiệp trên thị trường này. Tính cạnh tranh của sản phẩm biểu hiện ở các mặt như: chất lượng sản phẩm, giá cả, thương hiệu, đóng gói bao bì, mức độ vệ sinh công nghiệp và an toàn sinh thái của sản phẩm. Vì vậy, một doanh nghiệp muốn tăng cường thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá sang thị trường nước ngoài, đặc biệt là những thị trường khó tính, phải đầu tư nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm đáp ứng những tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, đồng thời vẫn phải đảm bảo có một mức giá cạnh tranh trên thị trường thế giới. Tiếp đến, doanh nghiệp cần phải xúc tiến xây dựng thương hiệu của riêng mình, đây là một yếu tố rất quan trọng để xúc tiến xuất khẩu bởi có nhiều thị trường yếu tố đầu tiên để người tiêu dùng quyết định mua sản phẩm chính là thương hiệu chứ không phải giá cả (ví dụ như người tiêu dùng của thị trường EU). Bên cạnh đó, ngày nay người tiêu dùng còn rất quan tâm đến vấn đề sinh thái và bảo vệ môi trường của sản phẩm. Những sản phẩm không gây ô nhiễm môi trường sẽ nhận được sự ưu ái nhiều hơn của Chính phủ và người tiêu dùng nước nhập khẩu. Tập trung vào yếu tố bảo vệ môi trường của sản phẩm cũng là một phương thức nhằm thúc đẩy xuất khẩu. b. Xúc tiến thương mại Xúc tiến thương mại là một trong các biện pháp chủ yếu mà doanh nghiệp áp dụng để thúc đẩy xuất khẩu. Hoạt động chủ yếu của công tác xúc tiến thương mại là doanh nghiệp tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế. Tại đây các doanh nghiệp giới thiệu, quảng bá, tiếp thị sản phẩm của mình với khách hàng quốc tế. Để hoạt động xúc tiến thương mại có hiệu quả, các doanh nghiệp cần phải tham gia hội chợ, triển lãm một cách bài bản. Một số công việc phải làm khi tham gia hội chợ, triển lãm đó là: lựa chọn hội chợ triển lãm, lựa chọn những mẫu trưng bày phù hợp với thị trường, chuẩn bị đầy đủ catalogue, quà tặng, các tài liệu quảng bá..v..v.. Bênh cạnh đó, doanh nghiệp có thể thực hiện một số biện pháp xúc tiến thương mại khác như: đa dạng hoá các hoạt động quảng cáo sản phẩm, thực hiện Marketing qua mạng, thiết lập và sử dụng trang web trong kinh doanh..v..v… c. Đào tạo đội ngũ cán bộ tham gia hoạt động xuất khẩu Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động phức tạp, đòi hỏi đội ngũ cán bộ tham gia hoạt động này phải có trình độ cao. Một doanh nghiệp muốn thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách xuất khẩu có chuyên môn cao, nghiệp vụ tốt, am hiểu việc kinh doanh, giỏi ngoại ngữ. Để làm được điều này, các doanh nghiệp phải dành nguồn đầu tư để đào tạo các cán bộ xuất khẩu. Cử các cán bộ có liên quan tới hoạt động xuất khẩu tham gia các khoá đào tạo ngắn hạn về nghiệp vụ xuất khẩu, các lớp học ngoại ngữ, các lớp chuyên ngành về kinh tế có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp còn có thế mời các chuyên gia tham gia tư vấn cho đội ngũ cán bộ công ty. Bên cạnh đó, doanh nghiệp có thể phối hợp với các trường học đào tạo các học viên, sinh viên là cán bộ tương lai của công ty mình. d. Doanh nghiệp mở rộng việc liên doanh liên kết Đối với mỗi doanh nghiệp, thị trường thế giới là thị trường rộng lớn và có sự cạnh tranh gay gắt. Khách hàng nước ngoài có thế đặt những đơn hàng với khối lượng và giá trị vượt quá khả năng cung cấp của doanh nghiệp. Vì vậy, để đáp ứng khách hàng quốc tế, thúc đẩy xuất khẩu các doanh nghiệp cần không ngừng mở rộng liên doanh, liên kết. Các doanh nghiệp trong nước hoạt động trong cùng lĩnh vực kinh doanh có thể liên kết với nhau tạo thành các hiệp hội ngành hàng. Các thành viên của hiệp hội cùng sản xuất sản phẩm hoặc tham gia các khâu khác nhau trong quá trình sản xuất. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nội địa có thể liên doanh với các doanh nghiệp của nước mà mình xuất khẩu sang. Điều này giúp cho các doanh nghiệp nội địa dễ dàng thâm nhập thị trường nước ngoài, tận dụng kênh phân phối của doanh nghiệp ở nước sở tại. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. 1.2. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 1.2.1 Vai trò của xuất khẩu hàng hóa đối với nền kinh tế Việt Nam Xuất khẩu là hàng hoá sản xuất trong nước được mang ra nước ngoài tiêu thụ.Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại cơ bản ,thúc đẩy nền kinh tế phát triển.Xuất khẩu có cai trò cực kỳ quan trọng trong sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế . Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu :Để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ,cần phải có một nguồn vốn lớn để nhập khẩu máy móc ,thiết bị ,công nghệ hiện đại .Nguồn vốn ngoại tệ chủ yếu từ các nguồn :xuất khẩu ,đầu tư nước ngoài ,vay vốn ,viện trợ ,thu từ hoạt động du lịch ,các dịch vụ có thu ngoại tệ ,xuất khẩu lao động ...Xuất khẩu là nguồn vốn chủ yếu để nhập khẩu. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế ,thúc đẩy sản xuất phát triển . Xuất khầu tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển . Xuất khẩu không chỉ tác động làm gia tăng nguồn thu ngoại tệ mà còn giúp cho việc gia tăng nhu cầu sản xuất ,kinh doanh ở những ngành liên quan khác.Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ ,giúp cho Sản xuất ổn định và kinh tế phát triển.vì có nhiều thị trường => Phân tán rủi ro do cạnh tranh . Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất ,nâng cao năng lực sản xuất trong nước.Thông qua cạnh tranh trong xuất khẩu ,buộc các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến sản xuất ,tìm ra những cách thức kinh doanh sao cho có hiệu quả ,giảm chi phí và tăng năng suất . Xuất khẩu tích cực giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống người dân. Xuất khẩu làm tăng GDP,làm gia tăng nguồn thu nhập quốc dân,từ đó có tác động làm tăng tiêu dùng nội địa => nhân tố kích thích nền kinh tế tăng trưởng .Xuất khẩu gia tăng sẽ tạo thêm công ăn việc làm trong nền kinh tế ,nhất là trong ngành sản xuất cho hàng hoá xuất khẩu ,xuất khẩu làm gia tăng đầu tư trong ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu => Là nhân tố kích thích nền kinh tế tăng trưởng . 1.2.2. Vai trò của xuất khẩu thủy sản đối với nền kinh tế nước ta 1.2.2.1. Ngành Thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia Theo số liệu đã công bố của Tổng Cục Thống kê, GDP của ngành Thuỷ sản giai đoạn 1995 - 2003 tăng từ 6.664 tỷ đồng lên 24.125 tỷ đồng. Trong các hoạt động của ngành, khai thác hải sản giữ vị trí rất quan trọng. Sản lượng khai thác hải sản trong 10 năm gần đây tăng liên tục với tốc độ tăng bình quân hằng năm khoảng 7,7% (giai đoạn 1991 - 1995) và 10% (giai đoạn 1996 - 2003). Nuôi trồng thuỷ sản đang ngày càng có vai trò quan trọng hơn khai thác hải sản cả về sản lượng, chất lượng cũng như tính chủ động trong sản xuất. Điều này tất yếu dẫn đến sự chuyển đổi về cơ cấu sản xuất - ưu tiên phát triển các hoạt động kinh tế mũi nhọn, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở khắp mọi miền đất nước cả về nuôi biển, nuôi nước lợ và nuôi nước ngọt. Đến năm 2003, đã sử dụng 612.778 ha nước mặn, lợ và 254.835 ha nước ngọt để nuôi thuỷ sản. Trong đó, đối tượng nuôi chủ lực là tôm với diện tích 580.465 ha. Bên cạnh những tiềm năng đã biết, Việt Nam còn có những tiềm năng mới được xác định có thể sử dụng để nuôi trồng thuỷ sản như sử dụng vật liệu chống thấm để xây dựng công trình nuôi trên các vùng đất cát hoang hoá, chuyển đổi mục đích sử dụng các diện tích trồng lúa, làm muối kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản…Nuôi biển là một hướng mở mới cho ngành Thuỷ sản, đã có bước khởi động ngoạn mục với các loài tôm hùm, cá giò, cá mú, cá tráp, trai ngọc,… với các hình thức nuôi lồng, bè. Nuôi nước ngọt đang có bước chuyển mạnh từ sản xuất nhỏ tự túc sang sản xuất hàng hoá lớn, điển hình là việc phát triển nuôi cá tra, cá ba sa xuất khẩu đem lại giá trị kinh tế cao; Nuôi đặc sản được mở rộng; Sự xuất hiện hàng loạt các trang trại nuôi chuyên canh (hoặc canh tác tổng hợp nhưng lấy nuôi trồng thuỷ sản làm hạt nhân) chuyển đổi phương thức nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến sang bán thâm canh và thâm canh đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Ngành Thuỷ sản có tốc độ tăng trưởng rất nhanh so với các ngành kinh tế khác. Tỷ trọng GDP của ngành Thuỷ sản trong tổng GDP toàn quốc liên tục tăng, từ 2,9% (năm 1995) lên 3,4% (năm 2000) và đạt 3,93% vào năm 2003. Từ cuối thập kỷ 80 đến năm 2000, ngành thuỷ sản đã có những bước tiến không ngừng. Các chỉ tiêu chủ yếu đề ra trong Chiến lược Phát triển Kinh tế - Xã hội ngành Thuỷ sản thời kỳ 1991 - 2000 đã được hoàn thành vượt mức: CHỈ TIÊU Đơn vị Kế hoạch Thực hiện Tổng sản lượng thuỷ sản Trong đó: - Sản lượng khai thác hải sản - Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản tấn - - 1.600.000 1.000.000 600.000 2.174.784 1.454.784 720.000 Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản triệu USD 900 - 1.000 1.478,6 Thu hút lao động thuỷ sản nghìn người 3.000 3.400 Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản tương đương với các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Điều đó chứng tỏ ngành thuỷ sản đang dần chuyển từ sản xuất mang nặng tính nông nghiệp sang sản xuất kinh doanh theo hướng công nghiệp hoá. GIÁ TRỊ XUẤT KHẨU (triệu USD) Năm Toàn quốc Công nghiệp - Xây dựng - Dịch vụ Nông - Lâm - Thuỷ sản Tổng số Riêng Thuỷ sản 1996 7.255,9 4.214,1 3.041,8 670,0 1997 9.185,0 5.952,0 3.233,0 776,5 1998 9.360,3 6.036,0 3.324,3 858,6 1999 11.540,0 8.627,8 2.912,2 976,1 2000 14.308,0 10.186,8 4.121,2 1.478,5 2001 15.100,0 10.090,4 5.009,6 1.816,4 Tốc độ tăng trưởng bình quân 13,0 14,9 9,5 14,6 ( Nguồn: Niên giám Thống kê Nông - Lâm - Thuỷ sản ) 1.2.2.2. Vai trò của ngành thuỷ sản trong việc mở rộng quan hệ thương mại quốc tế Từ đầu những năm 1980, ngành thuỷ sản đã đi đầu trong cả nước về mở rộng quan hệ thương mại sang những khu vực thị trường mới trên thế giới. Năm 1996, ngành thuỷ sản mới chỉ có quan hệ thương mại với 30 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đến năm 2001, quan hệ này đã được mở rộng ra 60 nước và vùng lãnh thổ, năm 2003 là 75 nước và vùng lãnh thổ. Đối với các nước và vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại, ngành thuỷ sản đã tạo dựng được uy tín lớn. Những nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật và các nước trong khối EU đã chấp nhận làm bạn hàng lớn và thường xuyên của ngành. Năm 2003, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào bốn thị trường chính là Mỹ, Nhật Bản, EU và Trung Quốc chiếm trên 75% tổng giá trị kim ngạch, phần còn lại trải rộng ra gần 60 nước và vùng lãnh thổ. Có thể thấy rằng sự mở rộng mối quan hệ thương mại quốc tế của ngành thuỷ sản đã góp phần mở ra những còn đường mới và mang lại nhiều bài học kinh nghiệm để nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào khu vực và thế giới. 1.2.2.3. Vai trò của ngành thuỷ sản trong an ninh lương thực quốc gia, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo: Thuỷ sản được đánh giá là nguồn cung cấp chính đạm động vật cho người dân. Năm 2001, mức tiêu thụ trung bình mặt hàng thuỷ sản của mỗi người dân Việt Nam là 19,4 kg, cao hơn mức tiêu thụ trung bình sản phẩm thịt lợn (17,1 kg/người) và thịt gia cầm (3,9 kg/người). Cũng giống như một số nước châu Á khác, thu nhập tăng đã khiến người dân có xu hướng chuyển sang tiêu dùng nhiều hơn mặt hàng thuỷ sản. Có thể nói ngành thuỷ sản có đóng góp không nhỏ trong việc bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Ngành thuỷ sản với sự phát triển nhanh của mình đã tạo ra hàng loạt việc làm và thu hút một lực lượng lao động đông đảo tham gia vào tất cả các công đoạn sản xuất, làm giảm sức ép của nạn thiếu việc làm trên phạm vi cả nước. Số lao động của ngành thuỷ sản tăng liên tục từ 3,12 triệu người (năm 1996) lên khoảng 3,8 triệu người năm 2001 (kể cả lao động thời vụ), như vậy, mỗi năm tăng thêm hơn 100 nghìn người. Tỷ lệ tăng bình quân số lao động thường xuyên của ngành thuỷ sản là 2,4%/năm, cao hơn mức tăng bình quân của cả nước (2%/năm). Đặc biệt do sản xuất của nhiều lĩnh vực như khai thác, nuôi trồng thuỷ sản chủ yếu là ở quy mô hộ gia đình nên đã trở thành nguồn thu hút mọi lực lượng lao động, tạo nên nguồn thu nhập quan trọng góp phần vào sự nghiệp xoá đói giảm nghèo. Các hoạt động phục vụ như vá lưới, cung cấp thực phẩm, tiêu thụ sản phẩm… chủ yếu do lao động nữ thực hiện, đã tạo ra thu nhập đáng kể, cải thiện vị thế kinh tế của người phụ nữ, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi. Riêng trong các hoạt động bán lẻ thuỷ sản, nữ giới chiếm tỉ lệ lên đến 90%. Từ những phân tích trên cho thấy việc xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản đối với nước ta có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN VÀ THỰC TRANG XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM SANG NHẬT 2.1. Tổng quan về kinh tế và ngành thủy sản tại Nhật Bản 2.1.1. Tổng quan chung nền kinh tế Nhật Bản Với dân số 127,2 triệu người, GDP đạt 545,5 ngàn tỷ yên ( 4.326,4 tỷ USD), GDP bình quân đầu người đạt 34.012 USD (2003), Nhật bản là thị trường tiêu thụ lớn thứ 2 trên thế giới sau Hoa Kỳ, đồng thời cũng là nước nhập khẩu lớn với kim ngạch xuất khẩu hàng năm lên tới 350 - 400 tỷ USD. Trong nền kinh tế Nhật Bản, dịch vụ có vai trò quan trọng nhất, hàng năm các ngành dịch vụ chiếm tới trên 60% GDP của Nhật Bản, tiếp theo là các ngành công nghiệp, nông nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ hơn nhiều trong GDP. Tỷ trọng các ngành kinh tế trong cơ cấu GDP của Nhật Bản như sau: công nghiệp chiếm 30,9%, nông nghiệp chỉ chiếm 1,4%, dịch vụ chiếm 67,7% ( 2005). Cán cân thương mại của Nhật Bản luôn nghiêng về xuất khẩu. Nhật Bản xuất khẩu chủ yếu là các loại thiết bị điện, điện tử, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải...trong khi nhập khẩu lớn nguyên, nhiên liệu và nông sản. Sản xuất công nghiệp của Nhật Bản chủ yếu phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu ( khoảng 90% nhu cầu năng lượng của Nhật Bản phải nhập từ nước ngoài, đặc biệt là dầu mỏ). Thành tựu kinh tế Nhật Bản chủ yếu tập trung trong ngành chế tạo. Nhật Bản đứng đầu thế giới về sản xuất ô tô, xe máy và là một trong những nước hàng đầu về đóng tầu, sản xuất sắt thép, sợi tổng hợp, hóa chất, xi măng... Các đối tác thương mại lớn của Nhật Bản là các nước Châu Á, Bắc Mỹ ( chủ yếu là Hoa Kỳ) và EU. Nhật Bản xuất khẩu chủ yếu sang Châu Á ( chiếm 45% - 50% kim ngạch xuất khẩu của nước này ) , nhất là sang các nước và vùng lãnh thổ Đông Á gồm các nền kinh tế mới công nghiệp hóa ( Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore ) và Trung Quốc, trong khi cũng nhập khẩu chủ yếu từ các nguồn này ( Hoa Kỳ, Trung Quốc, EU...) và từ Trung Đông. 2.1.2. Khái quát về ngành thủy sản tại Nhật Bản 2.1.2.1 Khái quát chung Là quốc gia khai thác thuỷ sản lâu đời nhất thế giới, có thói quen ăn thuỷ sản từ thời khai quốc nên Nhật Bản coi thuỷ sản là nguồn thực phẩm chính của họ. Vì vậy, nghề cá Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp, quản lý và tái thiết nguồn lợi thuỷ sản, đảm bảo sự ổn định bền vững nguồn thực phẩm trong nước. Từ thập kỷ 50 đến những năm đầu thập kỷ 80, Nhật Bản đã đẩy mạnh việc phát triển nghề cá, đặc biệt là nghề khai thác cá biển. Nghề cá Nhật Bản hoạt động trên phạm vi rộng lớn, bao gồm khai thác ven bờ, khai thác xa bờ và khai thác viễn dương. Ngoài ra, nghề nuôi trồng thuỷ sản, nhất là nghề nuôi biển đã đạt nhiều thành tựu to lớn, đóng góp đáng kể cho sự phát triển của ngành nuôi trồng thuỷ sản thế giới. Nhật Bản còn dẫn đầu thế giới về công tác bảo vệ nguồn lợi biển và nhân giống thuỷ sản từ năm 1951, nhằm nâng cao sản lượng và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản. Các chính sách và hệ thống pháp luật về nghề cá và thương mại thuỷ sản của Nhật Bản cũng được hình thành và th._.ay đổi cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước này. Từ năm 1972 đến năm 1988, sản lượng thuỷ sản của Nhật Bản luôn dẫn đầu thế giới và xuất khẩu  thuỷ sản cũng tăng mạnh. Đây là thời kỳ hoàng kim của nghề cá Nhật Bản. Sản lượng thuỷ sản đạt đỉnh cao nhất vào giữa thập kỷ 80 và đã từng đáp ứng được trên 80% nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản của nuớc này. Từ năm 1989, sản lượng thuỷ sản có xu hướng giảm trong 5 năm liền, đến năm 1993 đạt 8,71 triệu tấn, tương đương với mức sản lượng 8,67 triệu tấn của năm 1967 (25 năm trước). Năm 1990, tổng sản lượng thuỷ sản đạt 11,18 triệu tấn, Nhật Bản lùi xuống thành nước cung cấp thuỷ sản đứng thứ 2 thế giới, sau Trung Quốc (gần 18 triệu tấn). Bảng 1: Tổng sản lượng  nghề cá 1992-2003, triệu tấn 1992 1993 1997 1998 2000 2001 2002 2003 1.Tổng KTTS  biển 7,77 7,26 5,98 5,31 5,02 4,75 4,43 4,72  - KT viễn dương 1,27 1,14 0,86 0,81 0,86 0,75 0,69 0,60  - KT xa bờ 4,53 4,26 3,34 2,92 2,59 2,46 2,26 2,54  - KT ven bờ 1,97 1,86 1,78 1,58 1,58 1,55 1,49 1,58 2. Nuôi TS biển 1,31 1,27 1,27 1,23 1,23 1,26 1,33 1,25 3. KT TS nội địa & nuôi TS nước ngọt 0,19 0,18 0,15 0,14 0,12 0,12 0,11 0,11 Tổng sản lượng TS 9,27 8,71 7,41 6,68 6,38 6,13 5,88 6,08 (Nguồn: Annual Report on the Developments in Japan’s Fisheries in FY 2002, 2003, 2004 ) 2.1.2.2. Khai thác thủy sản Sản lượng và giá trị khai thác thuỷ sản  Theo số liệu thống kê của Bộ Nông Lâm Ngư nghiệp Nhật Bản, năm 1980, tổng sản lượng khai thác của Nhật Bản đạt 10,9 triệu tấn, đến năm 1990, tổng sản lượng khai thác giảm nhẹ xuống mức 10,8 triệu tấn. Đến năm 2000, giảm 45% so với 1990, đạt 5,02 triệu tấn và tiếp tục giảm thấp nhất vào năm 2002, đạt 4,43 triệu tấn. Tuy nhiên năm 2003, tổng sản lượng khai thác đã tăng lên mức 4,72 triệu tấn, gần bằng mức sản lượng của năm 2001(4,75 triệu tấn). Bảng 2: Sản lượng khai thác TS của Nhật Bản, 1980-2003 Đơn vị : 1000 tấn 1980 1985 1990 1995 2000 2001 2002 2003 KT Viễn dương 2 167 2 111 1 496 917 860 750 690 600 KT xa bờ 5 705 6 498 6 081 3 260 259 2 460 2 260 2 540 KT ven bờ 3 029 3 356 3 265 3 145 1 580 1 550 1 490 1 580 Tổng sản lượng KT 10 900 11 965 10 843 7 322 5 020 4 750 4 430 4 720 (Nguồn : Báo cáo của Bộ Nông Lâm ngư Nhật Bản) Đội tàu Đội tàu lưới vây lớn và quan trọng nhất, gồm các tàu cỡ lớn và cỡ vừa, khai thác ở cả vùng khơi và viễn dương. Đội tàu lưới kéo có quy mô lớn thứ 2, khai thác ở khắp các vùng thềm lục địa thế giới. Đội tàu lưới vây rất có hiệu quả đối với khai thác cá hồi. Các đội tàu lớn như là đội tàu câu mực ống khơi và đại dương; Đội tàu câu cá ngừ gồm câu vàng và câu tay; Đội tàu lưới rê khai thác cá hồi và mực nang. Số phương tiện khai thác trên biển của Nhật Bản là 132.000 (Báo cáo của Bộ Nông Lâm Ngư nghiệp Nhật Bản, 2004), giảm 30% so với 15 năm trước. Chủ yếu giảm các tàu dưới 30 tấn đối với nghề cá ven bờ, tàu trên 50 tấn đối với nghề đánh cá vừa và nhỏ. Tuy nhiên, giảm mạnh nhất lại là các tàu cỡ lớn trên 3000 tấn do sản xuất kém hiệu quả. Ngư trường Ngoài ngư trường xung quanh Nhật Bản, các đội tàu còn hoạt động ở các vùng biển xa thuộc các vùng thềm lục địa quốc tế ở như Thái Bình Dương, Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương. Đối tượng khai thác thuỷ sản Đối tượng chủ yếu của nghề lưới vây là cá thu, cá nục, cá cơm, cá trích.... Cá ngừ là đối tượng chính của cả nghề vây và nghề câu. Cá tuyết, cá bơn và các loài cá đáy khác là sản phẩm chính của nghề lưới kéo. Cá hồi và sứa là đối tượng chủ yếu của nghề lưới đăng. Bạch tuộc, mực nang, mực ống là đối tượng chính của nghề lưới rê và nghề câu. Ngoài ra là các đối tượng đánh bắt chính của nghề bẫy là các loài giáp xác như tôm hùm và cua, cầu gai,... Đặc biệt cá thu đao là đối tượng khai thác của nghề bẫy mạn tàu rất phát triển ở Nhật Bản. 2.1.2.3. Nuôi trồng thủy sản Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản (bao gồm cả khai thác thuỷ sản nước ngọt) của Nhật Bản tăng trưởng hàng năm với mức kỷ lục 1,4 triệu tấn năm 1994, sau đó có xu hướng giảm nhẹ do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và tiền tệ đặc biệt vào năm 1998. Trong mấy năm gần đây, sản lượng nuôi trồng thuỷ sản của Nhật Bản giữ ở mức trên dưới 1,3 triệu tấn. Bảng 3:  Sản lượng thuỷ sản nuôi của Nhật Bản, 1990- 2003 (bao gồm cả khai thác thuỷ sản nước ngọt) Đơn vị 1990 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 1000 tấn 1369 1389 1349 1340 1370* 1315 1291 1311 1440* 1360* Triệu USD 3848 5686 5019 4703 4128 4562 4450 4468 4589 4429 (Nguồn: Thống kê của FAO) * Bổ sung theo số liệu của Bộ Nông Lâm Ngư Nhật Bản Hiện nay, sản lượng nuôi trồng thuỷ sản của Nhật Bản đứng thứ 3 thế giới (sau Trung Quốc và Ấn Độ), trong đó chủ yếu là sản lượng nuôi biển. Đối tượng nuôi trồng thuỷ sản Nuôi thuỷ sản của Nhật Bản chủ yếu tập trung vào các loài có giá trị cao. Mặc dù sản lượng nuôi thuỷ sản của Nhật Bản chỉ bằng 1/3 sản lượng nuôi của Ấn Độ nhưng giá trị của chúng lại lớn hơn 1,4 lần. Đối tượng thủy sản nuôi của Nhật Bản có tới trên 80 loài, trong đó có 35 loài cá, 4 loài tôm he, 2 loài tôm hùm, 8 loài cua, một số loài bào ngư và nhuyễn thể có vỏ khác. Nhóm loài nuôi đạt sản lượng cao nhất là nhuyễn thể có vỏ như sò, điệp, trai ngọc; Nhóm loài thứ hai là cá biển, đặc biệt cá cam, cá tráp, cá chình , cá bơn, cá hồi, ... và tiếp đến là một số loài rong biển như rong đòn gánh, rong mứt... 2.1.2.4. Chế biến thủy sản Năng lực chế biến thuỷ sản Nhật Bản là nước có công nghệ chế biến thực phẩm phát triển hàng đầu thế giới. Ngành chế biến thuỷ sản của Nhật Bản đã phát triển từ những năm 50. Nhưng trong hai thập kỷ 80 và 90, Nhật Bản đã tiến hành chuyển giao công nghệ chế biến thuỷ sản ra nước ngoài, nơi có sẵn nguyên liệu và lao động rẻ. Các cơ sở sản xuất chế biến thuỷ sản trong nước dần dần bị co hẹp lại và chuyển hướng sang hoạt động liên doanh tại các nước đang phát triển. Ngành chế biến thuỷ sản của Nhật Bản đã áp dụng chương trình HACCP, nhưng gặp nhiều khó khăn do quy mô các nhà máy phần lớn là nhỏ. Hơn nữa họ còn đương đầu với tình trạng các sản phẩm thuỷ sản đã chế biến bán chậm do sức mua hạn chế của các hộ gia đình. Tiêu thụ các mặt hàng chế biến sẵn như bánh cá, chả cá hấp, cá hồi muối và những sản phẩm muối khác đã giảm đáng kể, trong khi tiêu thụ các mặt hàng sơ chế đông lạnh tươi tăng. Trong năm 2002, tiêu thụ hàng thuỷ sản xông khói tăng. Các mặt hàng ướp muối giảm, chủ yếu giảm cá thu ướp muối. Trong giai đoạn 1991 đến 2001, doanh số tiêu thụ và thu nhập hằng năm của hoạt động chế biến thuỷ sản ở Nhật Bản tăng từ mức 18% (1991) lên 35% (2001). Trong 3 năm gần đây tình trạng buôn bán thuỷ sản trong nước giảm và bất ổn định về nguyên liệu có ảnh hướng lớn đến hoạt động kinh doanh chế biến thuỷ sản của các doanh nghiệp ở Nhật Bản. Chủng loại sản phẩm : Trong năm 2003 Nhật Bản đã tăng sản lượng chế biến thuỷ sản tự cung cho nhu cầu trong nước, chiếm 57% tổng tiêu thụ thuỷ sản, tăng 4% so với năm trước. Bảng 4: Các sản phẩm thuỷ sản chế biến của Nhật Bản, 2002-2003 Đơn vị: tấn 2002 2003 Chênh lệch 2003/2002 (%) 1) Sản phẩm chế biến Sản phẩm  xay nhuyễn 676565 658292 -3 Thuỷ sản hấp/luộc(1) 315793 319582 9 Thuỷ sản  khô 341127 346680 2 Thuỷ sản muối 221817 208947 -6 Sản phẩm chế biến khô 12580 12848 2 Sản phẩm  thuỷ sản khác 451666 469814 4 Tổng sản phẩm  TS chế biến 2135825 2126933 -1 2) Sản phẩm đông lạnh tươi Cá ngừ 25247 20909 -17 Cá ngừ vằn, thu ngừ 15276 20484 34 Cá hồi 123735 150349 22 Cá trích, xác đin, cá trỏng 320731 229452 40 Cá nục, cá sòng 105524 138098 31 Cá thu ống 186052 207725 12 Cá thu đao (saury) 119040 130784 10 Cá tuyết 33000 40046 21 Cá thu Alaska 47217 46187 -2 Cá thu rắn 37806 27318 -28 Cá khác 131849 120281 -9 Giáp xác 85203 94579 11 Mực 104559 75302 -28 Động vật biển khác 65258 62008 -5 Surimi 94545 93356 -1 Tổng sản phẩm đông lạnh tươi 1403763 1548220 10 ( Nguồn : Production of Processed Fishery Products, 2003, Ministry of Agricultural, Forestry and Fishery ) Chú thích  : (1) là các sản phẩm hải sản đã được sơ chế đông lạnh nguyên con giống như nguyên liệu hải sản gốc hay được đóng gói bảo quản đông lạnh, cấp đông dưới 1800C sau khi luộc. Số liệu của nhóm sản phẩm này bao gồm cả các sản phẩm chế biến cắt lát và tôm đã bóc vỏ, các thực phẩm luộc chủ yếu là nguyên liệu cho các sản phẩm rán và tempura. 2.1.2.5. Tiêu thụ Hệ thống tiêu thụ Tại Nhật Bản, ít nhất 70% sản phẩm thuỷ sản được phân phối thông qua thị trường bán buôn, nhưng hầu hết thuỷ sản đông lạnh nhập khẩu như cá ngừ, tôm, cá hồi đông lạnh được phân phối theo các kênh chuyên biệt. Khối lượng buôn bán ở các chợ lớn (các trung tâm buôn bán ở 10 thành phố lớn) trong 2 năm 2003- 2004 đã giảm 8% so với 5 năm trước, mức giá trung bình cũng giảm 9%. Có hai loại chợ bán buôn thuỷ sản được điều chỉnh bằng luật thị trường bán buôn thuỷ sản gồm Chợ bán buôn trung ương (chợ phục vụ cho trên 20 vạn dân, do Tổng cục thuỷ sản quản lý và Chợ bán buôn địa phương (do tỉnh, thành phố quản lý). Ngoài ra, ở Nhật Bản còn có chợ cá quy mô nhỏ nhưng không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật thuỷ sản. Nhà bán buôn chuyên doanh Nhà bán buôn trung gian Nhà chế biến Nhà nhập khẩu (các công ty thuỷ sản và các công ty thương mại) Nhà bán buôn Nhà bán buôn Siêu thị/ Cửa hàng bán lẻ Người tiêu dùng Các nhà hàng Sơ đồ 1: Kênh phân phối thuỷ sản đông lạnh nhập khẩu Kênh phân phối sản phẩm tôm, cua Người nuôi/ khai thác Nhà bán buôn Nhà bán buôn trung gian Các tổ chức xuất hàng Nhà nhập khẩu Thị trường nơi sản xuất Nhà chế biến Cửa hàng bán buôn Người bán lẻ Các nhà hàng Quán ăn Nhà bán buôn Nhà bán buôn trung gian Thị trường nơi tiêu dùng Người tham gia mua bán Người tiêu dùng Sơ đồ 2: Kênh phân phối sản phẩm tôm, cua Người mua Trung tâm bán buôn Tokiô Tàu vận chuyển nước ngoài Công ty thương mại Người bán buôn cấp 2 Người buôn bán nhỏ lẻ bên ngoài chợ Người bán buôn cấp 1 Đấu giá Các chợ bán buôn khác Người bán buôn cấp 1 Người bán buôn cấp 2 Đấu giá Các chợ buôn bán nhỏ Ngành công nghiệp dịch vụ về thực phẩm, các nhà mua số lượng lớn, các kho chuyên dụng Người tiêu dùng Sơ đồ 3: Kênh phân phối cá ngừ nhập khẩu Xu hướng tiêu thụ Các mặt hàng được tiêu thụ nhiều nhất lần lượt là cá ngừ, tôm, mực ống, cá tráp và cá hồi. Xét về lượng hàng tiêu thụ, xu hướng nghiêng về các sản phẩm hải sản, nhất là cá biển (cá nổi), tiếp theo là nhuyễn thể có vỏ, cá đáy, giáp xác và cá biển khác. Loại sản phẩm được tiêu thụ mạnh hơn cả là các sản phẩm cá chế biến và cá tươi, các sản phẩm đông lạnh có mức tiêu thụ thấp hơn. Một số mặt hàng truyền thống của người Nhật được tiêu thụ mạnh và phải dựa nhiều vào nguồn nhập khẩu vì cung cấp trong nước không đủ đáp ứng cho nhu cầu ngày càng cao như sản phẩm “Sashimi” và “Sushi” từ cá ngừ, cá chình, cá song hay tôm, mực, bạch tuộc. Nhật Bản là thị trường tiêu thụ sản phẩm tôm “shushi” và cá ngừ “sashimi” lớn nhất thế giới. Sushi và Sashimi là các món ăn truyền thống được ưa thích nhất của người dân Nhật Bản, thường được tiêu thụ nhiều vào dịp cuối năm và những ngày Tết, hay dịp Tuần lễ Vàng cuối tháng 4, đầu tháng 5 – mùa hoa Anh Đào nở và dịp lễ hội Bon trong tháng 8.  Ngoài ra, sản phẩm truyền thống được ưa thích ở Nhật Bản còn phải kể đến là “surimi” và các sản phẩm chế biến từ “surimi”, cũng được tiêu thụ với khối lượng rất lớn. Đây là các sản phẩm được chế biến từ thịt cá xay hoặc thịt tôm xay làm thành các mặt hàng như giả tôm, giả cua, chả cá hay các loại bánh cá khác…. Mức tiêu thụ Mức tiêu thụ thuỷ sản ở Nhật Bản giảm theo thời gian kể từ năm 1995, có thể được tính bằng tổng sản lượng thuỷ sản trong nước cộng với khối lượng thuỷ sản nhập khẩu trừ đi khối lượng thuỷ sản xuất khẩu. Mức tiêu thụ thuỷ sản bình quân theo đầu người của Nhật Bản luôn đứng đầu thế giới. Năm 1993, mức tiêu thụ tính theo đầu người về thuỷ sản là 67,8 kg, gấp 5 lần mức trung bình của thế giới (13,4 kg/người.năm). Hằng năm, mỗi hộ gia đình Nhật Bản chi tiêu khoảng 37.000 yên cho thực phẩm thuỷ sản, chiếm khoảng 13% tổng tiêu cho thực phẩm. Trong giai đoạn 1995 -1998, tiêu thụ thuỷ sản theo đầu người của Nhật Bản đạt mức cao nhất là 70,4 kg/người.năm, lớn hơn nhiều so với Mỹ (20,9 kg/người.năm). Tuy nhiên, từ năm 1998 trở lại đây mức tiêu thụ thuỷ sản Nhật Bản đã giảm một cách rõ rệt, một phần do nền kinh tế suy yếu, thu nhập của các hộ gia đình người Nhật giảm, phần khác sản lượng trong nước bị hạn chế bởi sự thu hẹp phạm vi và quy mô hoạt động của các nghề khai thác thuỷ sản. 2.1.3. Khái quát mối quan hệ thương mại Việt Nam-Nhật Bản Kể từ ngày lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam 21/9/1973, cho đến năm 1991, Nhật Bản mới quyết định mở lại viện trợ cho Việt Nam. Quan hệ thương mại Việt - Nhật đã có những bước phát triển khá tốt đẹp trong thời kỳ 1991 – 2001. Nhật Bản ủng hộ đường lối đổi mới của Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam hội nhập khu vực và thế giới (vào APEC, WTO, ASEM, ARF, vận động OECD giúp Việt Nam về kỹ thuật...). Tổng số vốn ODA của Nhật Bản viện trợ cho Việt Nam từ năm 1991đến 2004 là 1.108,1 tỷ yên (trong đó vốn vay: 967 tỷ yên; viện trợ không hoàn lại 81,1 tỷ yên; hợp tác kỹ thuật 60 tỷ yên). Năm 2005, vốn ODA của Nhật Bản tài trợ cho Việt Nam là 835,6 triệu USD trong tổng số vốn ODA  3,747 tỷ USD của các nhà tài trợ, nguồn hỗ trợ quốc tế đã cam kết dành cho Việt Nam. Năm 2006, ODA của Nhật Bản tiếp tục tập trung vào hỗ trợ cải thiện các điều kiện hạ tầng ở Việt Nam. Chính phủ Nhật Bản và Việt Nam đã đồng ý triển khai giai đoạn hai Sáng kiến chung, trong đó chú ý đến những vấn đề liên quan đến vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và thời gian thực hiện có thể kéo dài thêm hai năm nữa. Trưởng đại diện Văn phòng Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO) tại Hà Nội, ông Kenjiro Ishiwata cho biết có năm lý do để các doanh nghiệp Nhật Bản tăng đầu tư và mở rộng hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, đó là vị trí địa lý (kết nối hai thị trường lớn Trung Quốc và ASEAN), ổn định chính trị, lương nhân công thấp (mức lương hấp dẫn), lao động cần cù, và Việt Nam rất có thiện cảm với Nhật Bản. Vốn đầu tư trực tiếp (FDI) của Nhật Bản vào Việt Nam đã tăng mạnh cả về các dự án cấp phép mới cũng như các dự án tăng vốn kể từ nửa cuối năm 2004. Theo JETRO, trong 10 tháng đầu năm 2005 đã có 77 dự án FDI mới của Nhật Bản được cấp phép với tổng vốn đầu tư là 259,6 triệu USD. Nhật Bản là nước đứng thứ 5 trong số các nhà đầu tư vào Việt Nam, chiếm hơn 9% tổng số vốn cấp phép mới. Bên cạnh đó, 73 doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt nam cũng đã mở rộng hoạt động của mình với tổng số vốn bổ sung là 409 triệu USD. Hay nói cách khác, Nhật Bản chiếm hơn 24% tổng số vốn bổ sung ở Việt Nam trong thời gian này. Đối với nghề cá Việt Nam, viện trợ của Nhật Bản sẽ được sử dụng ưu tiên cho 14 dự án trong giai đoạn 2006 – 2010. Các dự án trên hướng tập trung vào phát triển nuôi trồng thuỷ sản, đánh giá, tăng cường thể chế quản lý vùng ven biển và cải thiện đời sống vùng ven biển miền Trung, phục vụ xoá đói giảm nghèo, tăng cường năng lực quản lý chất lượng và thú y thuỷ sản. Trong dự án phát triển nuôi trồng thuỷ sản còn đầu tư vào xây dựng 3 chợ cá quy mô lớn. Ngoài ra các dự án còn đặc biệt chú trọng đến việc điều chỉnh cơ cấu khai thác ven biển, góp phần tái tạo nguồn lợi, quản lý môi trường, nâng cao năng lực khai thác và quản lý nghề cá xa bờ... Về mậu dịch Nhật Bản là bạn hàng số 1 của Việt Nam. Kim ngạch 2 chiều năm 2003 đạt 5,9 tỷ USD. Hai nước đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc từ năm 1999. 2.2. Thực trạng xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Nhật Bản 2.2.1. Những quy định về nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản 2.2.1.1 Các quy định thương mại chung của Nhật Bản Để xúc tiến mở cửa thị trường, phát triển chế độ mậu dịch tự do, Nhật Bản đã cắt giảm và bãi bỏ thuế nhập khẩu, chấm dứt và nới lỏng các biện pháp hạn chế số lượng, cải thiện hệ thống cấp giấy chứng nhận… Nhờ đó kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản đã tăng lên. Hiện tại, Nhật Bản đang áp dụng các biện pháp toàn diện để mở rộng quy mô nhập khẩu chưa từng có trong lịch sử Nhật Bản cũng như trên thế giới. Quy định của Nhật Bản về hạn ngạch nhập khẩu: Nếu muốn nhập khẩu hàng hoá có hạn ngạch, nhà nhập khẩu phải chờ đến khi có thông báo chính thức về hạn ngạch. Hạn ngạch nhập khẩu được Nhật Bản công bố vào đầu và giữa năm tài chính, cho biết hạn ngạch về số lượng và trị giá hàng hoá nhập khẩu vào Nhật Bản. Bảng danh sách các hạn ngạch nhập khẩu và trình tự các bước để xin hạn ngạch nhập khẩu cho một mặt hàng hay một nhóm mặt hàng được đăng trên Tsusansho Koho (Bản tin chính thức của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản) và Tsusho Koho (Nhật báo của JETRO). Khi nhập khẩu mặt hàng có hạn ngạch, nếu chưa xin phép Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản thì không được ngân hàng quản lý ngoại hối và các cơ quan chức năng khác cấp phép nhập khẩu. Quy định của Nhật Bản về giấy phép nhập khẩu: Có thể nói Nhật Bản là một thị trường tự do trong lĩnh vực ngoại thương, hầu hết các hàng hoá nhập khẩu vào Nhật Bản đều không cần xin phép Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI). Các mặt hàng cần xin cấp phép được đăng tên trên Tsusansho Koho (Bản tin chính thức của METI) và Tsusho Koho (Nhật báo của JETRO). Nhật Bản quy định các mặt hàng dưới đây được phép tự do nhập khẩu: Hàng có kim ngạch nhập khẩu dưới 5.000.000 yên; nhập khẩu để sử dụng cá nhân; có tên trong phụ lục 1 của lệnh kiểm soát nhập khẩu Hành lý có tên trong phụ lục 2 của lệnh kiểm soát nhập khẩu Hàng hoá tạm thời bốc dỡ tại Nhật Bản (Hải quan Nhật Bản là cơ quan chức năng có quyền quyết định mặt hàng nào thuộc diện tự do nhập khẩu). Luật ngoại hối, ngoại thương quy định các mặt hàng nhập khẩu đòi hỏi phương thức thanh toán đặc biệt thì phải xin giấy phép nhập khẩu. Một số hàng hoá khi nhập khẩu vào Nhật Bản phải đáp ứng được các quy định đặc biệt của Chính phủ, vì vậy cũng phải có giấy phép nhập khẩu. Tóm lại, nếu muốn nhập khẩu các mặt hàng cần giấy phép của một số cơ quan chức năng của Nhật Bản thì nhà nhập khẩu phải xin giấy phép nhập khẩu hoặc sự xác nhận của các cơ quan chức năng đó.  2.2.1.2. Hệ thống thuế quan của Nhật Bản Sơ lược về hệ thống thuế quan của Nhật Bản Năm 1955, Nhật Bản là thành viên của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT). Năm 1970, việc kiểm soát thuế quan đối với hầu hết các mặt hàng đã được Nhật Bản xóa bỏ. Năm 1980, ngoài các sản phẩm nông nghiệp và một số sản phẩm công nghiệp cao, hầu hết các rào cản thuế quan đã được Nhật Bản gỡ bỏ. Ngày 1 tháng 8 năm 1971, hệ thống ưu đãi thuế quan của Nhật Bản bắt đầu có hiệu lực. Mục tiêu của hệ thống này là kích thích các nước đang phát triển tăng cường xuất khẩu vào Nhật Bản để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, rút ngắn tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xoá bỏ bất đồng giữa các nước đang phát triển với các nước công nghiệp. Mặc dù quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản đã khá phát triển nhưng tới nay Việt Nam vẫn chưa được hưởng chế độ tối huệ quốc (MFN) đầy đủ - theo như quy định tại Điều 1 của GATT. Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) hầu như không mang lại cho Việt Nam giá trị to lớn nào, vì số các mặt hàng có lợi ích thiết thực được áp dụng GSP không nhiều. Phần lớn hàng hoá xuất khẩu từ Việt Nam phải chịu mức thuế cao hơn mức thuế mà Nhật Bản dành cho Trung Quốc và các nước ASEAN khác. Đối với các mặt hàng thuỷ sản Do sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng nên Chính phủ Nhật Bản buộc phải đưa ra các chính sách miễn/giảm thuế nhằm thu hút hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Nhật Bản. Thông thường, các mặt hàng thuỷ sản được áp dụng mức thuế ưu đãi thì không chịu giới hạn của hạn ngạch. Nhưng khi việc ưu đãi thuế quan này gây ảnh hưởng xấu tới ngành thuỷ sản Nhật Bản thì một quy định ngoại lệ sẽ được ban hành nhằm hoãn áp dụng chế độ ưu đãi thuế quan cho các mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Nhật Bản. Nếu hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Nhật Bản có đủ điều kiện để áp dụng mức thuế ưu đãi thì trước tiên phải xin cấp giấy chứng nhận xuất xứ, sau đó làm thủ tục xin hưởng ưu đãi thuế quan của Nhật Bản. Giấy chứng nhận xuất xứ chỉ có giá trị trong vòng một năm kể từ ngày cấp. Tuy nhiên, thời hạn hiệu lực có thể kéo dài nếu chứng minh được hoàn cảnh bất khả kháng như gặp phải thiên tai, hoả hoạn… Trường hợp chưa có giấy chứng nhận xuất xứ khi khai báo nhập khẩu, nhà nhập khẩu cần trình các tài liệu chứng minh việc đã xin giấy chứng nhận xuất xứ và nguyên nhân việc xuất trình chậm trễ, sau đó điền vào hai bản “Đơn xin hoãn xuất trình - biểu mẫu A”.  Bốn mức thuế nhập khẩu mà Nhật Bản đang áp dụng: Mức thuế chung: Là mức thuế cơ bản căn cứ theo Luật thuế quan Nhật Bản, được áp dụng trong một thời gian dài (nhưng không áp dụng với các nước thành viên của WTO) Mức thuế tạm thời: Là mức thuế được áp dụng trong một thời hạn nhất định. Mức thuế ưu đãi: Là mức thuế thấp, áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu từ các nước/ khu vực/ lãnh thổ đang phát triển. Mức thuế WTO: Là mức thuế được xác định trên cam kết WTO và các hiệp định quốc tế khác. Về nguyên tắc, các mức thuế được áp dụng theo thứ tự: Mức thuế ưu đãi - Mức thuế WTO - Mức thuế tạm thời - Mức thuế chung. Tuy nhiên, nếu mức thuế tạm thời thấp hơn 3 mức thuế còn lại thì áp dụng mức thuế tạm thời.  Biểu thuế của một số mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu chủ yếu vào Nhật Bản  Mã HS Mặt hàng Mức thuế chung WTO ưu đãi 0306.11 0306.12 0306.13 Tôm hùm, tôm sú, tôm pandan đông lạnh 4% 1% 0%* 0306.21 0306.22 0306.23 Tôm hùm, tôm sú, tôm pandan sống/ tươi/ ướp lạnh 6% 5% 4% 0%* 0306.19 - 010 Các loài tôm khác đông lạnh 4% 2% 0306.29 - 110 Các loài tôm khác sống/ tươi/ ướp lạnh 4% 2% 0306.14 - 010 020,030,040,090 0306.24 - 110 120,130,140,190 Các loài sam, cua, ghẹ… đông lạnh/ sống/ tươi/ ướp lạnh 6% 4% 0303.44 Cá ngừ mắt to (Thunnus obesus) đông lạnh 5% 3,5% 0302.34 Cá ngừ mắt to (Thunnus obesus) tươi/ ướp lạnh 5% 3,5% 0303.46 Cá ngừ Ôxtrâylia (Thunnus maccoyii) đông lạnh 5% 3,5% 0302.36 Cá ngừ Ôxtrâylia (Thunnus maccoyii) tươi/ ướp lạnh 5% 3,5% 0303.41 Cá ngừ vây dài (Thunnus alalunga) đông lạnh 5% 3,5% 0302.31 Cá ngừ vây dài (Thunnus alalunga) tươi/ ướp lạnh 5% 3,5% 0303.42 Cá ngừ vây vàng (Thunnus albacares) đông lạnh 5% 3,5% 0302.32 Cá ngừ vây vàng (Thunnus albacares) tươi/ ướp lạnh 5% 3,5% 0303.45 Cá ngừ vây xanh (Thunnus thynnus) đông lạnh 5% 3,5% 0302.35 Cá ngừ vây xanh (Thunnus thynnus) tươi/ ướp lạnh 5% 3,5% 0303.49 Các loài cá ngừ khác đông lạnh 5% 3,5% 0302.39 Các loài cá ngừ khác tươi/ ướp lạnh 5% 3,5% 0304.90 - 091 0304.90 - 096 Thịt cá ngừ đông lạnh 5% 3,5% 0304.10 - 291 0304.10 - 292 Thịt cá ngừ tươi/ ướp lạnh 5% 3,5% 0304.90 - 099 Thịt các loài cá khác đông lạnh 5% 3,5% 0304.10 - 299 Thịt các loài cá khác tươi/ ướp lạnh 5% 3,5% 0304.20 - 091 0304.20 - 092 0304.20 - 094 Phi lê cá ngừ đông lạnh 5% 3,5% 0304.10 - 191 0304.10 - 192 Phi lê cá ngừ tươi/ ướp lạnh 5% 3,5% 0304.10 - 199 Phi lê các loài cá khác tươi/ ướp lạnh 5% 3,5% ( Nguồn: “Cẩm nang thị trường xuất khẩu- Thị trường Nhật Bản” (Viện Nghiên cứu Thương mại, 2003); “Hướng dẫn marketing một số sản phẩm thuỷ hải sản nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản” (JETRO, 2005); “Jetro Marketing Guidebook for Major Imported Products” (JETRO, 2004) ) Lưu ý: * chỉ áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu từ các nước đang phát triển Khái niệm “sống” phải hiểu là trạng thái “tạm ngủ” do tác động của nhiệt độ thấp. Người ta thường xếp tôm, cua sống xen lẫn với các lớp mùn cưa ẩm. Khái niệm “tươi/ ướp lạnh”: Ở nhiệt độ ≥ 0oC, sản phẩm đảm bảo độ tươi nhưng không bị đông. 2.2.1.3. Hệ thống phi thuế quan của Nhật Bản Bao gồm các điều luật , công ước như sau Luật vệ sinh thực phẩm Luật kiểm dịch Luật JAS Luật khai thác thuỷ sản áp dụng cho các tàu nước ngoài Luật khuyến khích sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên/ Luật tái sử dụng bao bì, dụng cụ chứa Luật phòng chống biểu thị thông tin không đúng Luật đo lường Luật bảo vệ thực vật Luật kiểm soát chất độc hại Luật ngoại hối, ngoại thương Luật liên quan đến các biện pháp đặc biệt nhằm bảo vệ nguồn lợi cá ngừ Luật kiểm dịch động vật/Luật phòng bệnh dại Luật an toàn thực phẩm Luật bảo vệ động vật hoang dã Công ước quốc tế về khai thác tài nguyên biển Công ước Oa - sinh – tơn Quy định của Nhật Bản về vệ sinh an toàn thực phẩm     Nhật Bản là nước có nhiều quy định khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm. Đối với từng nhóm mặt hàng thuỷ sản, Nhật Bản đều đề ra các quy định pháp lý tương ứng:  Mã HS Nhóm mặt hàng Quy định tương ứng 0301 Cá sống *1 0302 Cá tươi/ ướp lạnh Luật vệ sinh thực phẩm 0303 Cá đông lạnh Luật kiểm dịch 0304 Philê và thịt cá tươi/ ướp lạnh/ đông lạnh 0305 Cá khô/ ướp muối/ ngâm nước muối/ xông khói; Bột cá Luật vệ sinh thực phẩm 0306 Giáp xác sống/ tươi / ướp lạnh/ đông lạnh/ khô/ ướp muối/ ngâm nước muối/ hấp/ luộc *2 Luật vệ sinh thực phẩm 0307 Nhuyễn thể sống/ tươi / ướp lạnh/ đông lạnh/ khô/ ướp muối/ xông khói Luật kiểm dịch 1603 Chất chiết xuất từ cá/ giáp xác/ nhuyễn thể 1604 Cá chế biến; Trứng cá muối/ chế biến Luật vệ sinh thực phẩm 1605 Giáp xác/ nhuyễn thể chế biến 1212 Rong, tảo Luật vệ sinh thực phẩm Luật bảo vệ thực vật *1 Tuân theo Công ước Oa-sinh-tơn (xem công báo ngày 31/3/1998 của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản) *2 Tuân thủ Luật JAS, Luật đo lường, Luật khuyến khích sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, Luật tái sử dụng bao bì/dụng cụ chứa, Luật phòng chống quà khuyến mãi bất hợp pháp và biểu thị thông tin không đúng Qui định của Nhật Bản về vệ sinh an toàn thực phẩm Luật vệ sinh thực phẩm của Nhật Bản ra đời năm 1947 và được sửa đổi, bổ sung lần gần đây nhất là ngày 30/5/2003. Mục đích của Luật vệ sinh thực phẩm là ngăn chặn những thực phẩm nguy hại cho sức khoẻ của người tiêu dùng. Luật vệ sinh thực phẩm cho phép những trường hợp nhập khẩu thực phẩm ≤ 10 kg để tiêu dùng cá nhân được miễn thủ tục kiểm dịch. Trước đây, đối với các sản phẩm thuỷ sản, Nhật Bản chỉ quan tâm đến tiêu chuẩn vi sinh (khuẩn Escherichia Coli). Nhưng do tình trạng hiện nay nhiều nước sản xuất đã sử dụng quá nhiều hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản, chế biến thực phẩm và bảo quản sản phẩm, dẫn tới dư lượng hoá chất, kháng sinh khá cao, gây ảnh hưởng không tốt cho sức khoẻ người tiêu dùng, Nhật Bản đã đưa ra các quy định mới, cụ thể đối với từng mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu; lập danh sách các hoá chất, kháng sinh bị cấm, định lượng cụ thể cho những hoá chất và kháng sinh được phép sử dụng; lên danh sách hoá chất/kháng sinh/phụ gia được phép/không được phép có trong thực phẩm… Chỉ định cụ thể của Nhật Bản đối với một số mặt hàng thuỷ sản: Cá tươi  -  không được có dư lượng CO2; Cá nóc  -  phải có giấy chứng nhận y tế của nước xuất khẩu; Cá philê, sashimi đông lạnh  -  không được phép có trực khuẩn colon bacillus, khống chế trực khuẩn (bacillus) dưới 100.000/1 gam; Mặt hàng chế biến chín đông lạnh  -  không được phép có Escherichia Coli, khống chế trực khuẩn (bacillus) dưới 3.000.000/1 gam; Bánh cá  -  không được có trực khuẩn Coli, lượng Kali  nitơrat dưới 0,05 g/kg; Hải sản đông lạnh (kể cả sản phẩm hấp chín rồi đông lạnh như bạch tuộc)  -  không được phép có trực khuẩn Coli, khống chế vi khuẩn (bacterial) dưới 100.000/1 gam; Hàu  -  khống chế vi khuẩn (bacterial) dưới 50.000/1 gam, khống chế Escherichia Coli dưới 230/100 gam; Quy định kiểm tra khuẩn Escherichia Coli trong tôm, cua nhập khẩu đã được bãi bỏ từ ngày 1 tháng 4 năm 2001. Qui định của Nhật Bản về kiểm dịch thực phẩm Luật kiểm dịch chỉ áp dụng cho các mặt hàng nhập khẩu từ nơi đang có dịch bệnh hoặc bị nghi ngờ có dịch bệnh. Tất cả các mặt hàng thực phẩm tại khu vực đang bị dịch, khi xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đều phải có giấy chứng nhận an toàn - vệ sinh thực phẩm do cơ quan có thẩm quyền tại nước xuất khẩu cấp. Qui định của Nhật Bản về dán nhãn thực phẩm Tại Nhật Bản, việc đóng gói và dán nhãn hàng hoá đúng quy định có ý nghĩa rất quan trọng, nó giúp việc thông quan được tiến hành suôn sẻ. Nhật Bản cấm sử dụng rơm rạ để đóng gói sản phẩm. Tất cả các sản phẩm thực phẩm phải dán nhãn xuất xứ - ghi rõ tên nước xuất xứ, nếu chỉ ghi tên khu vực thay cho tên nước xuất xứ sẽ không được chấp nhận. Luật Đo lường của Nhật Bản quy định: Trên nhãn các sản phẩm nhập khẩu và trên các chứng từ có liên quan tới lô hàng nhập khẩu đều phải ghi rõ khối lượng (tổng khối lượng và khối lượng tịnh của mỗi kiện hàng) và ghi kích thước theo hệ thống mét.  Từ tháng 4/2002, Luật vệ sinh thực phẩm đã quy định: Tất cả các thực phẩm mà trong thành phần của nó có một số loài hải sản gây dị ứng (như: mực nang, bào ngư, tôm, cua, cá thu, cá ngừ) đều phải dán nhãn biểu thị. Luật JAS (Japanese Agricultural Standard) qui định các tiêu chuẩn về chất lượng, cụ thể là đưa ra các quy tắc ghi nhãn chất lượng và đóng dấu chất lượng. Luật đã được sửa đổi, bổ sung vào tháng 5 năm 1970. Các quy định áp dụng đối với các sản phẩm được phát hành định kỳ. Do chủng loại sản phẩm sản xuất trong nước và nhập khẩu từ nước ngoài ngày càng nhiều nên phạm vi bao quát của Luật JAS ngày càng mở rộng.   Ngày nay, hệ thống JAS đã trở thành cơ sở cho người tiêu dùng lựa chọn thực phẩm chế biến. Người Nhật Bản rất tin tưởng chất lượng của các sản phẩm được đóng dấu JAS. Tuy nhiên vẫn có nhiều sản phẩm không được đóng dấu nên để giúp người tiêu dùng đánh giá chất lượng sản phẩm, trên nhãn cần ghi rõ ràng, cụ thể các thông tin như sau: Tên sản phẩm Tên nước xuất xứ Nguyên liệu cấu thành sản phẩm Khối lượng tịnh Danh mục các chất phụ gia sử dụng trong sản phẩm Thời hạn sử dụng Phương pháp chế biến Phương pháp bảo quản Tên và địa chỉ của nhà sản xuất Tên và địa chỉ của nhà nhập khẩu/phân phối Ðối với sản phẩm khai thác phải ghi phương pháp khai thác; đối với sản phẩm nuôi trồng  phải  mô tả phương pháp nuôi trồng.Riêng với các sản phẩm đông lạnh thì phải có chữ “Rã đông“ Qui định của Nhật Bản về chất lượ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22101.doc
Tài liệu liên quan