Thực trạng và giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công ty XNK Tổng hợp 1

Mở đầu Ngày nay hoạt động xuất khẩu giữ vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động thương mại của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Thông qua hoạt động xuất khẩu, các quốc gia khai thác được lợi thế của mình trong phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu lợi nhuận quan trọng cho đất nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và tạo công ăn việc làm cho người dân. Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu thực sự có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, tạo tiền đề vững chắc để

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công ty XNK Tổng hợp 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2010, Đảng và Nhà nước ta đã nêu rõ: “Chúng ta phải tiến hành xây dựng một nền kinh tế mở cửa theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả”. Dựa trên những điều kiện thuận lợi về đất đai, khí hậu và một nền kinh tế nông nghiệp lâu đời với trên 70% dân số tham gia sản xuất nông nghiệp, nông sản là mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam, chiếm khoảng 30% cơ cấu xuất khẩu, tạo nguồn thu ngoại tệ đáng kể hàng năm. Hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng dần dần biến Việt Nam thành một quốc gia xuất khẩu nông sản lớn. Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời đề ra những biện pháp chính sách cụ thể nhằm khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các Công ty kinh doanh xuất khẩu nông sản có thể nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của mình cũng như uy tín của Việt Nam trên thị trường nông sản thế giới. Mặt hàng nông sản là một trong những mặt hàng được Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I chú trọng trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của mình. Trong suốt thời gian tồn tại và phát triển, Công ty đã tìm ra cho mình một hướng đi đúng trong hoạt động xuất khẩu nông sản đặc biệt trong tình hình kinh tế trong nước và thế giới hiện nay có nhiều biến động lớn và Công ty đã gặt hái được những thành công nhất định. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, Công ty vẫn còn không ít khó khăn cần phải khắc phục để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng truyền thống, có ưu thế này của Việt Nam. Vì vậy, đề tài “Thực trạng và giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công ty XNK Tổng hợp I” được chọn để nghiên cứu. Đề tài khẳng định được vị trí quan trọng của hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản đối với nền kinh tế quốc dân, phân tích đánh giá thực trạng kinh doanh xuất khẩu nông sản của Công ty XNK Tổng hợp I. Trên cơ sở đó kiến nghị một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công ty. Đề tài gồm 3 chương lớn với các nội dung sau: Chương I: Mặt hàng nông sản và vai trò của xuất khẩu nông sản đối với nền kinh tế Việt Nam. Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công ty XNK Tổng hợp I. Chương III. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty. Do còn hạn chế về kiến thức cũng như hiểu biết thực tế, bản báo cáo này không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu từ các thầy cô giáo, các cô các chú cán bộ trong Công ty cũng như các bạn sinh viên quan tâm. Chương I Mặt hàng nông sản và vai trò của xuất khẩu nông sản đối với nền kinh tế Việt Nam I. Vai trò của xuất khẩu nông sản đối với nền kinh tế quốc dân. 1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu và vai trò của nó đối với nền kinh tế quốc dân. 1.1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu: Xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ vượt qua biên giới quốc gia trên cơ sở dùng tiền tệ làm đơn vị thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hoặc đối với cả hai quốc gia. Xuất khẩu là hoạt động rất cơ bản của kinh tế đối ngoại, đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của các quốc gia trong phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện với nhiều loại hàng hoá khác nhau. Phạm vi hoạt động xuất khẩu rất rộng cả về không gian và thời gian. 1.2. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân. Xuất khẩu hàng hoá nằm trong khâu phân phối và lưu thông hàng hoá trong quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết giữa sản xuất và tiêu dùng giữa nước này với nước khác. Vai trò của xuất khẩu được thể hiện qua các điểm sau: 1.2.1. Xuất khẩu là phương tiện chính tạo nguồn vốn cho nhập khẩu phụcvụ CNH - HĐH đất nước. Nhiệm vụ trọng tâm cơ bản của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001 - 2002 là: phát triển kinh tế và đẩy mạnh công nghiệp hoá đất nước. Để tiến hành CNH - HĐH thì cần phải có đủ 4 nhân tố ngân lực, tài nguyên, nguồn vốn và kỹ thuật. Nhưng hiện nay, không phải bất cứ quốc gia nào cũng có đủ các yếu tố đó đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Để CNH - HĐH trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có số vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật,công nghệ tiến tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như: - Đầu tư nước ngoài. - Vay nợ, viện trợ. - Thu từ hoạt động du lịch, dịchvụ thu ngoại tệ. - Xuất khẩu hàng hoá. Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch và dịch vụ thu ngoại tệ… tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau. Chẳng hạn như, nguyên tắc nhận vốn từ nước ngoài là phải trả bằng sản phẩm hoặc phải chia sẻ tài nguyên thiên nhiên cho bên kia. Đặc biệt trong thời gian gần đây, sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á, hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam giảm sút nhanh chóng cả về số lượng dự án và số vốn đầu tư. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước chính là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. ở nước ta, thời kỳ 1986 – 1990, nguồn thu về xuất khẩu bằng 3/4 tổng nguồn thu ngoại tệ. Và thu về xuất khẩu năm 1994 đảm bảo được 80% nhập khẩu so với 24,6 năm 1986. 1.2.2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Hiện nay, do thành quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi một cách vô cùng mạnh mẽ. Các nước phát triển ngày càng tập trung vào sản xuất những mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật cao và ít ô nhiễm môi trường. Các nước công nghiệp mới (NICs) đang phấn đấu đuổi kịp các nước phát triển và đã có nhiều ngành vượt. Các nước Đông Nam á (trong đó có Việt Nam ) có cơ cấu kinh tế ngày càng thay đổi một cách mạnh mẽ theo chiều hướng gắn nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút vốn và công nghệ từ nước ngoài. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với Việt Nam. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là: xuất khẩu chỉ là tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng và nếu chỉ thụ động chờ sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé. Hai là: trên cơ sở lợi thế so sánh của đất nước mình, coi thị trường và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm này xuất phát từ nhu cầu thị trường thế giới kết hợp với tiềm năng, thực lực của đất nước để tổ chức sản xuất, hình thành các ngành kinh tế hướng về xuất khẩu. Những ngành kinh tế đó phải có kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để hàng hoá khi tham gia thị trường thế giới có đủ sức cạnh tranh và mạng lại lợi ích cho quốc gia. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển. Đó là: - Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. - Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. - Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. - Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới. Các cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất thích nghi được với thị trường . Như vậy, theo cách hiểu này, xuất khẩu được coi là giải pháp làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách mạnh mẽ theo chiều hướng có lợi hơn, hiệu quả kinh tế cao hơn. 1.2.3. Xuất khẩu tác động tích cực dến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Tác động của xuất khẩu đến đời sống của người dân bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với thu nhập khá. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày càng phong phú thêm nhu cầu người dân. 1.2.4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta. Quan hệ kinh tế đối ngoại là tổng thể các mối quan hệ về thương mại, kinh tế và khoa học kỹ thuật giữa một quốc gia này với một quốc gia khác. Các hình thức của quan hệ kinh tế quốc tế là xuất nhập khẩu hàng hoá hữu hình, đầu tư quốc tế, du lịch dịch vụ, xuất khẩu sức lao động, hợp tác khoa học kỹ thuật, hợp tác sản xuất, hợp tác tài chính. Xuất khẩu là một hoạt động rất cơ bản của kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Hiện nay Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng về xuất khẩu (tất nhiên không coi nhẹ sản xuất trong nước và thị trường trong nước), khuyến khích tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước. 1.3. Vai trò của xuất khẩu đối với Công ty XNK Tổng hợp I. ở tầm Công ty nói chung, hoạt động xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng. Thực chất nó là hoạt động bán hàng của các Công ty xuất nhập khẩu và lợi nhuận từ hoạt động này góp phần quyết định sự tồn tại và phát triển của Công ty. Lợi nhuận là nguồn bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh, các quỹ của Công ty, lợi nhuận cao cho phép Công ty đẩy mạnh tái đầu tư vào tài sản cố định, tăng nguồn vốn lưu động để thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu, giúp Công ty ngày càng mở rộng và phát triển. Xuất khẩu hàng hoá còn có vai trò nâng cao uy tín của Công ty trên trường quốc tế. Nó cho phép Công ty thiết lập được các mối quan hệ với nhiều bạn hàng ở các nước khác nhau và sẽ rất có lợi cho Công ty nếu duy trì tốt mối quan hệ này. Để có được điều này Công ty, ngược lại phải đáp ứng tốt các yêu cầu của khách hàng về giá cả, chất lượng hàng hoá, phương thức giao dịch, thanh toán,... Xuất khẩu ngày nay luôn gắn liền với cạnh tranh do vậy đòi hỏi các Công ty phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh... sao cho phù hợp với tình hình thực tế để hoạt động đạt hiệu quả cao. Kết quả của hoạt động xuất khẩu sẽ cho phép Công ty tự đánh giá được về đường lối chính sách, cách thức thực hiện của mình để có những điều chỉnh phù hợp giúp Công ty phát triển đi lên. Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I cũng không đi ngược lại quy luật chung này. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh chính của Công ty, tạo nên doanh thu và lợi nhuận hàng năm. Trong đó, đặc biệt phải kể đến hàng nông sản là một trong những nhóm mặt hàng xuất khẩu quan trọng, đóng góp trên 30% vào tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Công ty. Kết quả xuất khẩu nông sản còn có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động xuất khẩu nói chung. 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu nông sản đối với nền kinh tế quốc dân. Việt Nam là nước có truyền thống lâu đời về sản xuất nông nghiệp. Kinh nghiệm trồng lúa nước và các công nông sản được truyền từ lớp người này sang lớp người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Và đây được coi là một lợi thế lớn mà không phải bất cứ nước nào cũng có được ngay cả một số nước sản xuất nông nghiệp trong khu vực như Thái Lan, ấn Độ, Myanma,. Hơn thế nữa lực lượng lao động tham gia vào lĩnh vực này chiếm tỷ lệ cao nhất (>70% dân số). Với cơ cấu dân số trẻ, đặc điểm nổi bật của lao động Việt Nam là cần cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo và tiếp thu khoa học kỹ thuật công nghệ nhanh mà giá nhân công lại thuộc loại rẻ trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, sản xuất và xuất khẩu nông sản có ý nghĩa hết sức quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, có thể nói là quan trọng hơn hết bởi vì: - Trong điều kiện nền kinh tế sản xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu như Việt Nam thì xuất khẩu chủ yếu dựa vào các sản phẩm có sẵn trong nước (chủ yếu do lao động thủ công tạo ra) và những sản phẩm thô chưa qua chế biến hoặc chỉ qua sơ chế, đó là các mặt hàng nông sản. - Xuất khẩu hàng nông sản đã phần nào đáp ứng được mục tiêu phát huy lợi thế so sánh của nông nghiệp nước ta trên trường quốc tế. Xuất khẩu nông sản chẳng những góp phần đáng kể vào tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho nông dân, tăng thu nhập cho bà con, từ đó tăng sức mua của dân cư trong thị trường nông thôn rộng lớn với hơn 80% dân số, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng công nghiệp ở mức 2 con số, giảm bớt nhập siêu, giảm bớt căng thẳng trong cán cân thanh toán cũng như nhu cầu ngoại tệ… - Xuất khẩu nông sản sẽ khai thác được tối đa lợi thế của Việt Nam về điều kiện khí hậu, tài nguyên đất, nước; nguồn nhân lực… Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh hưởng sâu sắc của vùng cận xích đạo. Do vị trí địa lý trải dài từ Bắc vào Nam nên khí hậu Việt Nam có tính đa dạng, phân biệt rõ ràng giữa các vùng, với mùa động lạnh ở Miền Bắc, khí hậu kiểu Nam á ở Tây nguyên, Đông Nam Bộ ở đồng bằng sông Cửu Long. Đây chính là điều kiện thuận lợi để Việt Nam đa dạng hoá các loại cây nông sản. Thêm vào đó tiềm năng nhiệt, ẩm và gió khá dồi dào và phân bố tương đối đồng đều trong cả nước.Với số giờ nắng cao, cường độ bức xạ lớn, tài nguyên nhiệt phong phú. Độ ẩm tương đối trong năm hơn 80%, lượng mưa lớn trung bình là 2000 mm - 2500 mm/năm. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc sinh trưởng và phát triển của nhiều loại cây trồng là đối với lúa nước, cao su, càphê. .. Tiềm năng đất nông nghiệp của cả nước là 10 – 11,157 triệu ha. Hiện nay Việt Nam mới chỉ sử dụng hết 65% quỹ đất nông nghiệp trong đó đất trồng cây là 5,6 triệu ha, gần 8 triệu ha cây trồng (riêng trồng lúa chiếm khoảng 5,4 triệu ha và 2,3 triệu cây trồng lâu năm) ngoài ra là 33 vạn ha đồng cỏ tự nhiên và 17 triệu ha mặt nước. Số đất có thể mở rộng thêm phần lớn là đất dốc dễ bị xói mòn, thoái hoá, diện tích đất này ở vùng miền núi Bắc Bộ chiếm khoảng 45% tổng diện tích, ở vùng khu 4 cũ khoảng 35% tổng diện tích, vùng núi khu 5 khoảng 45%, vùng tây nguyên khoảng 76% và vùng đồng bằng Nam Bộ khoảng 34%. II. Thị trường nông sản thế giới và đặc điểm mặt hàng nông sản xuất khẩu. 1. Thị trường nông sản thế giới. Mặt hàng nông sản đã, đang và sẽ là những mặt hàng có nhu cầu lớn trên thị trường thế giới do tính chất đặc sản của nó. Chỉ có những nước có khí hậu nhiệt đới như Việt Nam và một số nước khác ở Châu á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh mới có điều kiện sản xuất tốt. Thị trường tiêu thụ các mặt hàng nông sản chủ yếu là thị trường các nước phát triển vào bậc cao trên thế giới như Anh, Mỹ, Pháp, Đức, ý, Nhật Bản… và đây là những quốc gia có khả năng thanh toán cao. Hiện nay, các quốc gia này có sự thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng hàng nông sản: đó là việc chuyển sang dùng sản phẩm nông sản hữu cơ (các sản phẩm được sản xuất từ thiên nhiên, không sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón) bởi đây cũng là những nước thực sự quan tâm đến sức khoẻ người dân. Những nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới (Thái Lan, Trung Quốc, Mỹ, Pháp) đang hết sức quan tâm đến vấn đề này. Thị trường xuất khẩu nông sản hiện nay của Việt Nam có nhiều thay đổi. Trước đây thị trường chủ ỷếu của ta là các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu nhưng gần đây thị trường này ngày càng bị thu hẹp. Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực này chiếm tới 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước nhưng đến năm 1995, con số này chỉ còn là 18%. Nguyên nhân chính là sự sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thuộc Đông Âu đã kéo theo hàng loạt các vấn đề như khủng hoảng kinh tế, chính trị, thất nghiệp, sự xuống giá của đồng Rúp… Vấn đề đặt ra là cần phải khôi phục và mở rộng thị trường này. Bởi theo phân tích cơ cấu hàng nhập khẩu của các nước này thì đây là thị trường có nhu cầu lớn và hàng Việt Nam có khả năng thâm nhập vào thị trường này với mức độ cao. Điều đáng mừng là thị trường các nước TBCN ngày càng được mở rộng, đặc biệt là sau khi Mỹ bỏ cấm vận đối với Việt Nam, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN... thì giao lưu hàng hoá giữa nước ta và các nước tư bản chủ nghĩa ngày càng phong phú và với quy mô lớn hơn. Thị trường xuất khẩu nông sản chính của ta vẫn là các nước trong khu vực Châu á (Iran, Irắc, Malaixia, Indonesia, Philippine…), Tây Âu và Mỹ. Một số thị trường xuất khẩu các mặt hàng nông sản của Việt Nam là: - Thị trường xuất khẩu gạo: Malaixia, Iran, Irắc, Indonesia, Mỹ. - Thị trường xuất khẩu cà phê: Đông Âu, Nga, Thuỵ Sĩ, Pháp, Anh, Hàlan, Đức, Mỹ. - Thị trường xuất khẩu hạt điều: Trung Quốc, Singapore, ấn Độ, Indonesia, úc, Canada, Hồng Kông. - Thị trường xuất khẩu chè: Nga, Anh, Đài Loan, Trung Quốc, Irắc, Singapore. - Thị trường xuất khẩu rau quả: EU, Nga, Mỹ, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Nhật Bản. 2. Đặc điểm của mặt hàng nông sản xuất khẩu. Nói chung, các mặt hàng nông sản thường là những hàng hoá thiết yếu đối với đời sống của mỗi quốc gia (gạo, lạc, rau quả…). Mặt khác, nông sản là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của các quốc gia chậm và đang phát triển. Nó là một trong những mặt hàng có tính chiến lược bởi vì đại bộ phận việc mua bán hàng nông sản quốc tế được thực hiện thông qua hiệp định giữa các chính phủ, mang tính dài hạn. Mặt khác, tình hình buôn bán và sản xuất hàng nông sản phụ thuộc chủ yếu vào tính thời vụ, mùa màng thu hoạch, nhu cầu và điều kiện thanh toán của từng quốc gia. Trên thế giới không chỉ có Việt Nam là nước xuất khẩu nông sản mà còn có nhiều quốc gia khác tham gia. Ví dụ: Về gạo có Thái Lan, Mỹ… Việt Nam đứng thứ hai sau Thái Lan về xuất khẩu gạo; Về lạc có ấn Độ, Trung Quốc, Mỹ; Về cà phê thì Việt Nam chỉ mới tham gia vào thị trường thế giới, nguồn cung cấp chính cà phê cho thị trường thế giới vẫn là Braxin, Colombia, Indonesia. * Đặc điểm của mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam: - Mặt hàng nông sản luôn là sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam. Mặt hàng này số lượng xuất khẩu tuy nhiều nhưng chất lượng còn thấp nên giá trị thu về không cao. + Về mặt hàng gạo, đối với loại có phẩm cấp thấp, gạo Việt Nam có thể cạnh tranh tốt với các nước ấn độ, Trungquốc, Pakistan để xuất sang các nước có thu nhập thấp hoặc nhận viện trợ. Nhưng đối với loại có phẩm cấp cao, Việt Nam chưa thể cạnh tranh nổi với Mỹ, Thái Lan do khâu bảo quản, phơi sấy, thiết bị đánh bóng còn yếu. + Về mặt hàng cà phê, vấn đề đáng bàn cãi nhất vẫn là chất lượng cà phê Việt Nam không đồng đều do khâu phơi sấy, phân loại không đảm bảo. Do đó, hiện nay, Việt Nam mới chỉ có các hợp đồng giao ngay, chưa có các hợp đồng dài hạn. + Về mặt hàng chè, mấy năm qua, ngành chè đã cải tiến quy trình công nghệ, hiện đại hoá các Nhà máy chế biến, mở rộng liên doanh để có nhiều sản phẩm phù hợp với yêu cầu của khách hàng, đã tạo dựng được một số thị trường ổn định. Nhưng chè Việt Nam vẫn chưa tạo dựng được uy tín thực sự trên thị trường quốc tế do chè xuất khẩu không đảm bảo được chất lượng đồng đều vì nguồn hàng cung cấp từ nhiều thành phần kinh tế. - Giá hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn so với các sản phẩm cùng loại của các nước khác. + Về mặt hàng cao su: Việt Nam đã có nhiều ưu tiên trong phát triển ngành cao su như tăng diện tích đất trồng, đưa công nghệ tiên tiến vào khai thác mủ và chế biến, nhưng giá cao su thiên nhiên Việt Nam lại thấp hơn 7% so với giá cao su cùng loại của Thái Lan, Indonesia, Malaixia. So với nước xuất khẩu gạo, giá gạo Việt Nam tương đối thấp: thấp hơn Thái Lan 15 - 20 USD/tấn, ấn Độ 10 - 12 USD/tấn, Pakistan 12 - 15 USD/tấn. Nguyên nhân dẫn tới điều đó chính là chất lượng hàng xuất khẩu của ta còn thấp và phần nữa là do chúng ta chưa tạo được uy tín, chưa tạo được “thế” của mình trên trường quốc tế. II. Nội dung của hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công ty Xnk tổng hợp I. 1. Nghiên cứu thị trường, xác định mặt hàng xuất khẩu 1.1. Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới Như chúng ta đã biết thị trường là nơi gặp gỡ của cung và cầu. Mọi hoạt động của nó đều diễn ra theo đúng quy luật như quy luật cung, cầu, giá cả, giá trị... Thật vậy thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông, ở đâu có sản xuất thì ở đó có thị trường. Để nắm rõ các yếu tố của thị trường, hiểu biết các quy luật vận động của thị trường nhằm mục đích thích ứng kịp thời và làm chủ nó thì phải nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới có ý nghĩa quan trọng sống còn trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế, đặc biệt là công tác xuất, nhập khẩu của mỗi quốc gia nói chung và Công ty nói riêng. Nghiên cứu và nắm vững đặc điểm biến động của thị trường và giá cả hàng hoá thế giới là nền móng vững chắc đảm bảo cho các tổ chức kinh doanh xuất khẩu hoạt động trên thị trường thế giới có hiệu qủa nhất. Để công tác nghiên cứu thị trường có hiệu quả chúng ta cần phải xem xét toàn bộ quá trình tái sản xuất của một ngành sản xuất hàng hoá, tức là việc nghiên cứu không chỉ trong lĩnh vực lưu thông mà còn ở lĩnh vực phân phối, tiêu dùng. Các Công ty khi nghiên cứu thị trường cần phải nắm vững được thị trường và khách hàng để trả lời tốt các câu hỏi của hai vấn đề là thị trường và khách hàng Công ty cần phải nắm bắt được các vấn đề sau: Thị trường đang cần mặt hàng gì? Theo như quan điểm của Marketing đương thời thì các nhà kinh doanh phải “bán cái mà thị trường cần chứ không phải cái mình có”. Vì vậy cần phải nghiên cứu về khách hàng trên thị trường thế giới, nhận biết mặt hàng kinh doanh của Công ty. Trước tiên phải dựa vào nhu cầu tiêu dùng của khách hàng như quy cách, chủng loại, kích cỡ, giá cả, thời vụ và thị hiếu cũng như tập quán của người tiêu dùng từng địa phương, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó xem xét các khía cạnh của hàng hoá trên thị trường thể giới. Về mặt thương phẩm phải hiểu rõ giá trị hàng hoá, công dụng, các đặc tính lý hoá, quy cách phẩm chất, mẫu mã bao gói. Để hiểu rõ vấn đề này yêu cầu các nhà kinh doanh phải nhạy bén, có kiến thức chuyên sâu và kinh nghiệm để dự đoán các xu hướng biến động trong nhu cầu của khách hàng. Trong xu thế hiện nay, đòi hỏi việc nghiên cứu phải nắm bắt rõ mặt hàng mình lựa chọn, kinh doanh đang ở trong thời kỳ nào của chu kỳ sống của sản phẩm trên thị trường, Bởi vì chu kỳ sống của sản phẩm gắn liền với việc tiêu thụ hàng hoá đó trên thị trường, thông thường việc sản xuất gắn liền với việc xuất khẩu những mặt hàng đang ở giai đoạn thâm nhập, phát triển là có nhiều thuận lợi tốt nhất. Tuy nhiên đối với những sản phẩm đang ở giai đoạn bão hoà hoặc suy thoái mà Công ty có những biện pháp xúc tiến có hiệu quả thì vẫn có thể tiến hành kinh doanh xuất khẩu và thu được lợi nhuận. Tóm lại việc nghiên cứu mặt hàng thị trường đang cần là một trong những yếu tố tiên phong cho hoạt động thành công của Công ty. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định trong thời gian nhất định (thường là một năm). Việc nghiên cứu dung lượng thị trường cần nắm vững khối lượng nhu cầu của khách hàng và lượng dự trữ, xu hướng biến động của nhu cầu trong từng thời điểm…..Cùng với việc nắm vững nhu cầu của khách hàng là phải nắm vững khả năng cung cấp của các đối thủ cạnh tranh và các mặt hàng thay thế, khả năng lựa chọn mua bán. Như chúng ta đã biết dung lượng thị trường không phải là cố định, nó thường xuyên biến động theo thời gian, không gian dưới sự tác động của nhiều yếu tố. Đối với mặt hàng mang tính thời vụ như hàng nông sản thì điều này lại càng đúng. Công ty cần dự báo được các nhân tố làm thay đổi dung lượng thị trường, như: + Các nhân tố có ảnh hưởng tới dung lượng thị trường có tính chất chu kỳ như tình hình kinh tế, thời vụ... + Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến động của thị trường như phát minh, sáng chế khoa học , chính sách của nhà nước ... + Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời với dung lượng thị trường như đầu cơ tích trữ, hạn hán, thiên tai, đình công.. Khi nghiên cứu sự ảnh hưởng của các nhân tố phải thấy được nhóm các nhân tố tác động chủ yếu trong từng thời kỳ và xu thế của thời kỳ tiếp theo để Công ty có biện pháp thích ứng cho phù hợp . Kể cả kế hoạch đị tắt đón đầu. * Nghiên cứu giá cả các loại hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng. Trong thương mại giá cả hàng hoá được coi là tổng hợp đó được bao gồm giá vốn của hàng hoá, bao bì, chi phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm và các chi phí khác tuỳ theo các bước thực hiện và theo sự thoả thuận giữa các bên tham gia. Để có thể dự đoán một cách tương đối chính xác về giá cả của hàng hoá trên thị trường thế giới. Trước hết phải đánh giá một cách chính xác các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả và xu hướng vận động của giá cả hàng hoá đó. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới giá cả của hàng hoá trên thị trường quốc tế. Người ta có thể phân loại các nhân tố ảnh hưởng tới giá cả theo nhiều phương diện khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích nhu cầu. Thông thường những nhà hoạt động chiến lược thường phân chia thành nhóm các nhân tố sau: + Nhân tố chu kỳ: là sự vận động có tính quy luật của nền kinh tế, đặc biệt là sự biến động thăng trầm của nền kinh tế các nước. + Nhân tố lũng đoạn của các Công ty xuyên quốc gia (MNC). Đây là một trong những nhân tố quan trọng có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành của giá cả của các loại hàng hoá trên thị trường quốc tế. Lũng đoạn làm xuất hiện nhiều mức giá khác nhau trên thị trường cho một loại hàng hoá. Lũng đoạn cạnh tranh: cạnh tranh bao gồm cạnh tranh giữa người bán với nhau, ngời mua với người mua. Trong thực tế cạnh tranh làm cho giá rẻ đi và chất lượng nâng cao. + Nhân tố cung cầu: là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến lượng cung cấp hay lượng tiêu thụ của hàng hoá trên thị trường, do vậy có ảnh hưởng rất lớn đến sự biến động của giá cả hàng hoá. + Nhân tố lạm phát: giá cả hàng hoá không những phụ thuộc vào giá trị của nó mà còn phụ thuộc vào giá trị của tiền tệ. Vậy cùng với các nhân tố khác sự xuất hiện của lạm phát làm cho đồng tiềm mất giá do vậy ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá của một quốc gia trong trao đổi thương mại quốc tế. + Nhân tố thời vụ: là nhân tố tác động đến giá cả theo tính chất thời vụ của sản xuất và lưu thông. Ngoài ra các chính sách của Chính phủ, tình hình an ninh, chính trị của các quốc gia… cũng tác động đến giá cả. Do vậy việc nghiên cứu và tính toán một cách chính xác giá cả của hợp đồng kinh doanh xuất khẩu là một công việc khó khăn đòi hỏi phải được xem xét trên nhiều khía cạnh, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến lượng tiêu thụ và lợi nhuận của Công ty. Nắm vững giá cả hàng hoá sẽ cho phép Công ty có khả năng đưa ra những chính sách giá cả hợp lý, giành được thắng lợi trong xuất khẩu. * Lựa chọn đối tượng giao dịch. Căn cứ vào các kết quả của việc nghiên cứu dung lượng của thị trường, giá cả Công ty sẽ tiến hành lựa chọn gia giao phương thức giao dịch và thương nhân để tiến hành giao dịch. Khi tiến hành giao dịch cần phải căn cứ vào lượng hàng nước đó cần nhập, chất lượng hàng nhập, chính sách và tập quán thương mại của nước đó. Ngoài ra điều kiện về địa lý cũng là vấn đề cần quan tâm. Việc lựa chọn đối tượng để giao dịch cần phải dựa theo một số chỉ tiêu như sau: + Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh khả năng cung cấp hàng hoá thường xuyên của hãng. + Khả năng cung cấp hàng hoá thường xuyên của hãng. + Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật. + Thái độ và quan điểm kinh doanh là chiếm lĩnh thị trường hay cố gắng dành lấy độc quyền về hàng hoá. + Uy tín của bạn hàng. Trong việc lựa chọn thương nhân giao dịch tốt nhất nên gặp trực tiếp tránh những đối tác trung gian, trừ trường hợp Công ty muốn thâm nhập vào thị trường mới chưa có kinh nghiệm. Việc lựa chọn các đối tác phù hợp là một trong những điều kiện cần để thực hiện thắng lợi các hợp đồng thương mại quốc tế. Song nó phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của người làm công tác đàm phán, giao dịch. 2. Xây dựng chiến lược và kế hoạch xuất khẩu. 2.1. Chiến lược xuất khẩu. Chiến lược xuất khẩu là việc Công ty xác định hệ thống các mục tiêu xuất khẩu trong một giai đoạn nhất định và xây dựng các giải pháp để thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Chiến lược xuất khẩu có thể là: chiến lược chuyên môn hoá hay đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, chiến lược về doanh thu, về kim ngạch hay tối đa hoá lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu. Công tác xây dựng chiến lược có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự thành bại của hoạt động kinh doanh. Khi hoạch định chiến lược cần phải nhìn xa trông rộng, nắm bắt được những xu thế biến động của thị trường, của triển vọng trong tương lai. 2.2. Kế hoạch xuất khẩu. Công ty cần phải đặt ra những mục tiêu kế hoạch trong từng thời kỳ nhất định (thời kỳ ngắn so với mục tiêu chiến lược) và thống nhất với mục tiêu chiến lược. Mục tiêu cần phải rõ ràng, cụ thể đối với toàn Công ty và đối với từng bộ phận. Chẳng hạn khi mục tiêu chiến lược của Công ty trong giai đoạn này là lợi nhuận, thì mục tiêu kế hoạch chung của Công ty là phải đạt được bao nhiêu lợi nhuận trong năm, trong đó chi nhánh 1 và chi nhánh 2 sẽ phải đạt được lợi nhuận là bao nhiêu… Có thể vạch ra các mục tiêu định tính hay định lượng. Các mục tiêu định lượng được gọi là các chỉ tiêu kế hoạch xuất khẩu, bao gồm: chỉ tiêu doanh số, chỉ tiêu chi phí, chỉ tiêu lợi nhuận, dự trữ… Công ty cần xây dựng kế hoạch các công việc cụ thể cần làm để hoàn thành các chỉ tiêu này. Đối với mặt hàng nông sản, do tính chất thời vụ và những biến động thất thường về sản lượng, việc xây dựng chiến lược xuất khẩu và các kế hoạch để thực hiện chiến lược xuất khẩu là công việc rất cần thiết. Nó giúp Công ty nắm bắt được những cơ hội và giảm thiểu những rủi ro. Chẳng hạn như đối với mặt hàng cà phê, sản lượng cà phê biến đổi rất thất thường trên thị trường quốc tế. Việc dự báo chính xác nhu càu thị trường từ đó xây dựng lên kế hoạch thu mua, dự trữ... sẽ đảm ._.bảo xuất khẩu thắng lợi. 3. Lựa chọn hình thức xuất khẩu nông sản. ở Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I có các hình thức xuất khẩu nông sản chủ yếu. - Xuất khẩu trực tiếp: là hình thức xuất khẩu diễn ra trực tiếp giữa người mua và người bán về mọi quan hệ. Hàng hoá, giá cả và điều kiện giao dịch... Những nội dung này được thảo luận một cách tự nguyện, không có sự ràng buộc với lần giao dịch trước, việc mua không gắn liền với việc bán. - Xuất khẩu qua trung gian: theo hình thức này mọi việc kiến lập giữa người xuất và người nhập phải qua một người thứ ba. Người thứ ba này thường là các đại lý và môi giới. Hình thức xuất khẩu gián tiếp này cản trở Công ty nắm bắt được những tthông tin phản hồi từ người mua hàng. - Buôn bán đối lưu: là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, giá trị trao đổi là tương đương. Trong hình thức này các bên luôn quan tâm đến sự cân bằng về trao đổi hàng hoá: về giá trị, chất lượng cũng như điều kiện giao dịch. - Xuất khẩu uỷ thác: là việc Công ty đứng ra đảm nhận các công việc giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu thay cho bên uỷ thác. trong hình thức xuất khẩu uỷ thác, Công ty là người đóng vai trò trung gian giữa những đơn vị có nhu cầu xuất khẩu nông sản ở trong nước và bạn hàng nước ngoài. - Xuất khẩu theo nghị định thư: là hình thức xuất khẩu hàng hoá đã được ký kết theo nghị định thư giữa hai chính phủ (thường là để trả nợ). Xuất khẩu theo nghị định thư có ưu điểm như: khả năng thanh toán chắc chắn (do Nhà nước trả cho đơn vị xuất khẩu), giá cả hàng hoá tương đối cao, việc thu mua, chế biến được ưu tiên... Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I tiến hành xuất khẩu nông sản theo nghị định thư khá thường xuyên, chủ yếu là với mục đích trả nợ một số nước như Nga, Angiêri... Những hình thức xuất khẩu nông sản trình bày ở trên đều có những ưu nhược điểm nhất định, Công ty sẽ cân nhắc lựa chọn hình thức xuất khẩu trong điều kiện cụ thể sau khi đã phân tích hiệu quả một cách chính xác. 4. Các hoạt động marketing trong xuất khẩu nông sản. Công ty vận dụng chiến thuật marketing mix 4P (Product, Place, Price, Promotion). để tạo dựng uy tín cho sản phẩm của mình, Công ty rất chú trọng đến phân loại sản phẩm theo chất lượng, thiết kế bao bì, nhãn mác, catologue phù hợp với từng chủng loại, đảm bảo tính hấp dẫn, độ tin cậy. Công ty cũng thường xuyên tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế để giới thiệu hàng nông sản của mình với khách hàng nước ngoài. Các chào hàng, báo giá luôn sẵn sàng để phục vụ khách hàng quan tâm tạo một hình ảnh tốt về tác phong kinh doanh của Công ty. Ngoài ra Công ty còn lưu ý đến việc đưa ra chính sách định giá đúng đắn cho từng thời kỳ, vừa đảm bảo được khả năng cạnh tranh của hàng hoá, vừa thực hiện được mục tiêu đã đề ra. Tuỳ từng thời kỳ mà định giá có thể nhằm một trong những mục tiêu sau: + Định giá nhằm đảm bảo mức thu nhập định trước. + Định giá nhằm mục tiêu doanh số xuất khẩu. + Định giá nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận xuất khẩu. + Định giá nhằm mục tiêu phát triển các phân đoạn thị trường. + Định giá nhằm mục tiêu cạnh tranh đối đầu. + Định giá nhằm mục tiêu không mang tính giá cả. 5. Tổ chức thực hiện kế hoạch xuất khẩu nông sản. 5.1. Tạo nguồn hàng xuất khẩu. Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá và dịch vụ của một Công ty, của một địa phương hoặc của toàn bộ đất nước có khả năng xuất khẩu được. Tạo nguồn hàng xuất khẩu bao gồm mọi hoạt động từ đầu tư sản xuất trực tiếp đến các nghiệp vụ thu mua, ký kết các hợp đồng vận chuyển, bảo quản, sơ chế, phân loại nhằm tạo ra hàng nông sản có đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. a. Nghiên cứu nguồn hàng nông sản xuất khẩu. Nghiên cứu nguồn hàng nông sản xuất khẩu là nghiên cứu khả năng cung cấp nguồn hàng được xác định bởi nguồn hàng thực tế và nguồn hàng tiềm năng. Nguồn hàng thực tế là nguồn hàng đã có và sẵn sàng đưa vào lưu thông, nguồn hàng này chỉ cần thu mua, phân loại, đóng gói là có thể xuất khẩu. Còn nguồn hàng tiềm năng là nguồn hàng chưa xuất hiện, nó có thể có hoặc không có trên thị trường. Để khai thác nguồn hàng tiềm năng đòi hỏi Công ty cần có sự đầu tư, có đơn đặt hàng, có hợp đồng cam kết cho việc thu mua… thì người cung cấp mới tiến hành sản xuất. Trong công tác xuất khẩu thì khai thác nguồn hàng tiềm năng là rất quan trọng vì nó đáp ứng được yêu câù về số lượng, chất lượng củangười xuất khẩu. b. Tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu. Hệ thống thu mua hàng bao gồm các đại lý, hệ thống kho hàng ở các địa phương, các khu vực có mặt hàng nông sản cần thu mua. Chi phí thu mua thường khá lớn đòi hỏi Công ty luôn phải cân nhắc khi xây dựng và lựa chọn đại lý. Mạng lưới thu mua cần phải gắn liền với điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông của cácđịa phương. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa thu mua và vận chuyển là cơ sở dể đảm bảo tiến độ thu mua và chất lượng hàng hoá , tuỳ theo đặc điểm của hàng hoá mà có phương án vận chuyển hợp lý. Mạng lưới thu hàng nông sản của Công ty hiện nay phát triển tương đối rộng. Gạo thường được mua ở các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long như Kiên Giang, Cần Thơ,Long An…; cao su, cà phê, tiêu ở Lâm Đồng, Tây Ninh…; lạc nhân chủ yếu ở Nghệ An; hoa hồi, quế ở Bắc Ninh, lạng Sơn…Tại mỗi địa phương này đều có các đơn vị chân hàng lâu năm, tin cậy của Công ty. c. Ký kết hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Phần lớn khối lượng hàng hoá được mua bán giữa Công ty hiện nay và nơi cung cấp đều thông qua các hợp đồng thu mua, đổi hàng, gia công... dựa trên những thoả thuận và tự nguyện của các bên ký kết. d. Xúc tiến nguồn hàng. Sau khi ký kết hợp đồng thu mua, Công ty lập kế hoạch thu mua, tiến hành sắp xếp các phần việc phải làm và chỉ đạo các bộ phận thực hiện kế hoạch. Cụ thể là: - Đưa hệ thống kênh thu mua đã được thiết lập đi vào hoạt động. Có thể tổ chức bộ máy chỉ đạo thu mua theo từng mặt hàng hoặc từng nhóm hàng. - Chuẩnbị đầy dủ các thủ tục giáy tờ, chứng từ, hoá đơn, bộ phận giám định chất lượng hàng hoá và các thủ tục khác để giao nhận hàng hoá theo hợp đồng đã ký. - Tổ chức hệ thống kho hàng tại các điểm đã quy định, làm các thủ tục cần thiết để huy động hệ thống phương tiện sẵn có hoặc thuê phương tiện vận tải bên ngoài. - Đưa các cơ sở sản xuất, gia công chế biến hàng nông sản vào hoạt động theo phương án kinh doanh đã định. - Chuẩnbị tiền để thanh toán theo đúng hợp đồng đối với các nhà sản xuất, các chủ hàng, các đại lý, các trung gian. e. Tiếp nhận, bảo quản và xuất kho hàng xuất khẩu. Các loại hàng nông sản trước khi xuất khẩu đều trải qua một hoặc một số kho để bảo quản, phân loại đóng gói hoặc chờ làm thủ tục xuất khẩu. Công ty cần chuẩn bị tốt các kho để tiếp nhận hàng hoá. Bảo quản hàng nông sản cũng là vấn đề hết sức khó khăn. Công ty cần phải luôn luôn nâng cao, trang bị các phương tiện kỹ thuật dể kho có đủ khả năng bảo quản hàng trong mọi điều kiện thời tiết. Thông thường, Công ty cử cán bộ tới kho của các đơn vị chân hàng kiểm hàng và nhồi container để tận dụng hệ thống kho chuyên dụng của các đơn vị này. 5.2. Đàm phán ký kết hợp đồng. Đàm phán làviệc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu để đi đến thống nhất ký kết hợp đồng. Để có một cuộc đàm phán có hiệu quả người đàm phán phải kết hợp giữa sự nhạy bén và kiến thức kinh nghiệm của mình. Đàm phán trong kinh doanh xuất nhập khẩu có nhiều hình thức khác nhau (qua thư tín, qua điện toại, gặp gỡ trực tiếp) tuỷ từng trường hợp cụ thể mà Công ty quyết định lựa chọn hình thức nào hay kết hợp các hình thức đó. 5.3. Ký kết hợp đồng xuất khẩu Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp đồng xuất khẩu. Hợp đồng xuất khẩu thường được thành lập dưới hình thức văn bản. ở nước ta, hình thức văn bản của hợp đồng là bắt buộc đối với các đơn vị xuất khẩu. Đây là hình thức tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của cả hai bên. Ngoài ra nó còn tạo thuận lợi cho thống kê, theo dõi, kiểm tra việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Nhìn chung nội dung hợp đồng xuất khẩu nông sản của Công ty cũng bao gồm các điều khoản như cáchợp đồng xuất khẩu thông thường khác. Tuy nhiên do đặc thù của hàng nông sản, hợp đồng thường đặc biệt nhấn mạnh điều khoản chất lượng (Specification) với các yếu tố độ ẩm (Moisture), tạp chất (Admixture)... và điều khoản kiểm hàng (Inspection). 100% hàng nông sản xuất khẩu của Công ty đều được tổ chức giám định hàng hoá SGS (Societe Generalede Surveyllance) hoặc Vinacontrol kiểm tra và chứng nhận về số lượng, phẩm chất tại cảngđi. Chứng nhận của SGS và Vinacontrol được khách hàng nước ngoài chấp nhận là có hiệu lực pháp lý cuối cùng. Giấy chứng nhận vệ sinh (Phytosanitary) và chứng nhận hàng đã qua hun trùng kiểm dịch (Fumigation). 5.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng. Sau khi hợp đỗngxuất nhập khẩu được ký kết, cttiến hành sắp xếp các công việc phải làm và tổ chức thực hiện hợp đồng một cách quy củ, hợp lý. Chương II Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công ty Xuất Nhập Khẩu Tổng hợp I I. Khái quát chung về Công ty XNK Tổng hợp I. 1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Công ty. Đầu những năm 80, Nhà nước ban hành những chủ trương chính sách nhằm đẩy mạnh công tác xuất nhập khẩu, trong đó có việc mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho các ngành, các địa phương được sử dụng ngoại tệ do xuất khẩu vượt chỉ tiêu hoặc ngoài chỉ tiêu phải nộp, công tác xuất nhập khẩu phát triển mạnh mẽ. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để vừa khuyến khích xuất nhập khẩu ở địa phương vừa chấn chỉnh, từng bước lặp lại kỷ cương hoạt động này. Muốn như vậy thì phải một lúc tôn trọng các quy luật kinh tế, vừa phải giữ đúng đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng và vừa phải mang lại hiệu quả cho nền kinh tế quốc dân. Công ty XNK Tổng hợp I ra đời trong hoàn cảnh đó, nhận nhiệm vụ góp phần đưa công tác xuất nhập khẩu đi đúng hướng, thu hút các đầu mối nhỏ về một mối. Công ty được thành lập từ 15/12/1981 theo quyết định 1356/TCCB của Bộ Ngoại Thương (nay là Bộ Thương mại) nhưng thực tế phải đến 3/1982 mới đi vào hoạt động. Công ty XNK Tổng hợp I là một tổ chức kinh doanh XNK trực thuộc Bộ Thương mại, hoạt động theo chế độ hạch toán, có tư cách pháp nhân, có vốn và tài sản riêng tại Ngân hàng. Tên giao dịch đối ngoại của Công ty: The Vietnam National General Export – Import Corporation, viết tắt: GENERALEXIM. Trụ sở: 46 Ngô Quyền, Hà Nội. Địa chỉ thư tín: GENERALEXIM - HANOI. Điện thoại giao dịch: (84 - 4) 8264009. Fax: 84-4 8259894. Tháng 7/1983, theo quyết định số 858/TCCB của Bộ trưởng Bộ thương mại, Công ty phát triển và nhập khẩu (PROMEXIM) hợp nhất vào Công ty XNK Tổng hợp I. Công ty XNK Tổng hợp I có các chức năng nhiệm vụ sau: - Nhiệm vụ chủ yếu: Trực tiếp xuất khẩu hoặc nhập khẩu các mặt hàng ngoài chỉ tiêu giao nộp của các địa phương, các ngành, các xí nghiệp chủ yếu từ Bình Trị Thiên trở ra. - Ngoài ra, Công ty còn được Bộ giao thêm một số nhiệm vụ khác theo từng giai đoạn như: + Thực hiện xuất khẩu hoặc nhập khẩu một số mặt hàng được giao theo chỉ tiêu pháp lệnh. + Tiếp nhận và phân phối hàng viện trợ của CHDC Đức thông qua hiệp định chính phủ. + Kinh doanh và cung ứng hàng xuất khẩu tại chỗ cho các cơ sở có chức năng bán lẻ thu ngoại tệ mạnh. + Trao đổi hàng hoá ngoài Nghị định thư với các nước thuộc khu vực I. Mục đích hoạt động kinh doanh của Công ty là thông qua hoạt động kinh doanh nhằm đẩy mạnh hàng xuất khẩu, làm tốt công tác nhập khẩu phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước, góp phần nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng thu ngoại tệ và phát triển kinh tế đất nước. Phạm vi hoạt động kinh doanh của Công ty: - Được xuất khẩu các mặt hàng nông sản, hải sản, lâm sản, khoáng sản, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng tạp phẩm, hàng công nghiệp, hoá chất và hàng tiêu dùng. - Được sản xuất gia công chế biến hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá tiêu dùng trong nước, hàng may mặc, đồ chơi điện tử, điện lạnh,dược liệu, nông lâm sản chế biến. - Được làm dịch vụ thương mại: nhập khẩu tái xuất, chuyển khẩu quá cảnh và môi giới thương mại. - Được vận tải hàng hoá phục vụ việc kinh doanh nhập khẩu. - Được cho thuê văn phòng kinh doanh, khách sạn,kho hàng, nhà xưởng, phương tiện nâng xếp dỡ. - Được làm đại lý và mở cửa hàng bán buôn, bán lẻ hàng xuất nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước theo quy định hiện hành của Nhà nước. - Được liên doanh liên kết giữa các tổ chức trong nước và ngoài nước ở các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. 2. Cơ cấu tổ chức: Công ty XNK Tổng hợp I tổ chức cơ cấu hoạt động của mình theo mô hình trực tuyến thành những phòng ban với những chức năng chuyên ngành riêng biệt dưới sự chỉ đạo của Ban giám đốc. Sơ đồ: Cơ cấu tổ chức của Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I. (Sơ đồ trang bên) Mỗi một chi nhánh có một giám đốc điều hành và một phó giám đốc giúp việc. Mỗi phòng có một trưởng phòng điều hành cùng một phó phòng giúp việc. Quyền hạn và nhiệm vụ, lề lối làm việc và mối quan hệ công tác của các chi nhánh và các phòng ban đều do các Giám đốc chi nhánh và các trưởng phòng dự thảo trình Giám đốc. Tất cả các phòng ban và các chi nhánh kinh doanh đều thuộc quyền quản lý của Giám đốc và Giám đốc cũng là người chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động của Công ty. Ba phó giám đốc có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc hoặc được Giám đốc uỷ quyền để quản lý một lĩnh vực kinh doanh nào đó nhưng Giám đốc vẫn là người chịu trách nhiệm hoàn toàn về mọi hoạt động của Công ty. Khối các phòng ban nghiệp vụ có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc: - Phòng tổng hợp: xây dựng kế hoạch kinh doanh hàng năm và chiến lược kinh doanh dài hạn, lập báo cáo từng tháng, quý, năm trình giám đốc. Tổ chức công tác nghiên cứu thị trường, giao dịch, đàm phán lựa chọn khách hàng. - Phòng hành chính quản trị: phục vụ nhu cầu về văn phòng phẩm, tiếp khách và quản lý toàn bộ tài sản của Công ty. - Phòng kế toán tài vụ: có nhiệm vụ đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh của công ty, kiểm tra giám sát phương án kinh doanh, giúp Giám đốc đề ra các biện pháp quản lý vốn, sử dụng vốn có hiệu quả. Ghi chép, trao đổi, giám sát sự luân chuyển của vốn, điều hoà vốn nội bộ Công ty, quan hệ với các bộ phận sản xuất. - Phòng nghiệp vụ 1: Xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ. - Phòng nghiệp vụ 2: Xuất nhập khẩu tổng hợp. . - Phòng nghiệp vụ 3: Gia công hàng may xuất khẩu. - Phòng nghiệp vụ 4: Lắp ráp xe máy. - Phòng nghiệp vụ 5: Xuất khẩu các mặt hàng nông sản. - Phòng nghiệp vụ 6: Xuất nhập khẩu tổng hợp. - Phòng nghiệp vụ 7: Xuất khẩu quế. - Phòng nghiệp vụ 8: Phòng giao nhận, kho vận, đầu tư và dịch vụ thương mại. - Các cửa hàng: hai cửa hàng tại 46 Ngô Quyền và 28 Trần Hưng Đạo, chuyên giới thiệu sản phẩm, có bán lẻ các loại sản phẩm như may mặc, đồ điện tử, xe máy... - Liên doanh 53 Quang Trung- Trung tâm giao dịch kinh doanh. - Số 7 Triệu Việt Vương kinh doanh khách sạn. - Các chi nhánh: có nhiệm vụ chung là nghiên cứu tìm nguồn hàng và bán hàng uỷ thác của Công ty. + Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh. + Chi nhánh Đà Nẵng. + Chi nhánh Hải Phòng. - Bộ phận sản xuất: + Xí nghiệp may Đoan Xá Hải Phòng. + Xưởng lắp ráp xe máy tại Tương Mai. + Xưởng sản xuất và chế biến gỗ thuộc phòng 6 tại Cầu Diễn Hà Nội. + Xí nghiệp quế, chế biến quế tại Hà Nội. + Xí nghiệp chế biến hạt điều. 3. Tình hình cán bộ công nhân viên của Công ty. Số cán bộ công nhân viên ban đầu của Công ty chỉ gồm 50 người đa số là các cán bộ từ các Công ty XNK bị giải thể chuyển sang. Số cán bộ có trình độ nghiệp vụ rất ít và chủ yếu mới chỉ làm công tác nhập hàng phục vụ cho xuất khẩu tại chỗ. Có thể nói, đội ngũ cán bộ này còn yếu kém, chưa có kinh nghiệm và còn bỡ ngỡ trong lĩnh vực uỷ thác. Hơn nữa, họlàm việc thiếu năng động, còn mang tư tưởng chờ đợi các văn bản chỉ thị, chờ giao việc, chờ các cơ sở tự tìm đến với mình. Chính vì vậy mà trong giai đoạn đầu Công ty gặp rất nhiều khó khăn. Hiện nay, Công ty đang dần dần kiện toàn bộ máy lao động cho phù hợp với tình hình mới. Công ty luôn luôn quan tâm đến việc bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ cho toàn cán bộ, công nhân viên đồng thời giữ vững và ổn định cơ bản bộ máy tổ chức và nhân sự của từng đơn vị. Trong tổng số cán bộ thì khoảng 80% trình độ đại học. Số cán bộ công nhân viên của Công ty trong những năm gần đây có tăng nhưng với mức độ thấp, đó là sự quán triệt tinh thần gọn nhẹ và hiệu quả trong cơ cấu quản lý, tiết kiệm chi phí lấy hiệu quả kinh tế làm chỉ tiêu số một. Bảng số 1: Số lượng cán bộ công nhân viên toàn Công ty những năm 1991-2001. Chỉ tiêu phân bổ lao động Số lượng Tỷ lệ (%) 1.Tổng số lao động 616 100 2. Phân theo cơ cấu - Tổng điều hành 04 0.79 - Chuyên viên quản trị 200 32.33 - Chuyên viên tác nghiệp 412 66.88 3. Phân theo trình độ đại học - Đại học trên đại học 554 90 - Trung cấp và cao đẳng 62 10 - Phổ thông trung học 0 0 (Nguồn: Phòng hành chính tổng hợp) 4. Tình hình tài chính của Công ty. Ngày thành lập, vốn ban đầuđược giao chỉ là 139.000 đồng. Nhà nước không cấp vốn vì theo quan niệm ấu trĩ trước đây, kinh doanh uỷ thác thì không cần đến vốn do đã có vốn hàng hoá của người uỷ thác. Đến nay Công ty đã có một số vốn rất lớn duy trì và phát huy tốt khả năng sản xuất kinh doanh, hoàn thành các chỉ tiêu được giao. Đồng thời thực hiện tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước, góp phần nâng cao đời sống công nhân viên trong toàn Công ty. Bảng số 2: Một số chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của Công ty XNK Tổng hợp I. Năm Vốn cố định Vốn lưu động Vốn đầu tư XD cơ bản Nộp ngân sách Lợi nhuận để lại TNBQ/người /năm 1991 5.437 8.213 1.567 6.852 1.549 0,54 1992 7.823 10.124 1.976 6.526 2.357 0,59 1993 10.646 13.600 2.204 7.785 3.530 0,61 1994 11.463 16.778 1.636 41.897 4.800 0,61 1995 13.129 22.866 2.109 40.645 4.918 0,76 1996 14.210 24.125 1.542 39.829 6.000 0,88 1997 14.692 30.623 1.786 42.970 7.258 0,93 1998 14.902 36.526 1.807 49.240 8.100 0,97 1999 15.000 46.731 1.840 53.819 8.200 0,95 2000 15.028 48.026 1.856 54.146 8.096 0.96 2001 15.104 48.241 1.848 54.427 8.120 0.98 (Nguồn: Phòng kế toán tài vụ) Theo bảng số liệu trên ta thấy số vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản phân bổ đồng đều qua các năm và Công ty tiến hành đầu tư tuỳ theo tình hình từng thời kỳ. Tốc độ tăng của vốn cố định ngày càng tăng chậm so với vốn lưu động chứng tỏ Công ty đang hết sức tranh thủ đồng vốn hiện có để tập trung nâng cao hiệu quả quay vòng vốn. Tuy nhiên không phải Công ty không chú ý đến những yếu tố dài hạn. Công ty cũng chú trọng tăng thêm vốn cố định trong từng năm để mở rộng sản xuất. Chính vì vậy Công ty ngày càng làm ăn phát đạt, thể hiện qua nguồn nộp ngân sách tăng thêm theo từng năm. Tuy vậy Công ty vẫn chú trọng tăng cường phần lợi nhuận để lại để phát triển sản xuất và trích sang các quỹ. Khoản lợi nhuận hàng năm được phân bổ hợp lý dành 45% nộp ngân sách nhà nước, còn lại 55% phân bổ cho ba quỹ trích sang quỹ phát triển sản xuất tối thiểu phải là 35% và còn lại là quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi. Thu nhập hàng tháng của mỗi cán bộ trong Công ty qua các năm đạt mức cao so với các cơ quan cùng ngành, đảm bảo đời sống ngày càng được cải thiện. 5. Sự vận hành và phát triển của Công ty. Căn cứ vào những biến động của môi trường kinh doanh bên ngoài và của Công ty có thể tạm chia thành ba giai đoạn: 5.1. Giai đoạn I: (Từ tháng 12/1981 đến cuối năm 1984). Bảng số 3: Kim ngạch XNK của Công ty XNK Tổng hợp I giai đoạn 1982 - 1984 . Năm Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (nghìn USD) Thực hiện Hoàn thành kế hoạch (%) 1982 11.800.000 100 1983 12.674.000 103 1984 19.163.000 108 (Nguồn: Phòng hành chính tổng hợp). Trong những năm này, Công ty luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch. Từ đó có thể thấy được sự cố gắng vượt bậc của Công ty trong giai đoạn đầu mới thành lập với những khó khăn của nền kinh tế. 5.2. Giai đoạn II (1985-1989) Đây là giai đoạn mà hoạt động tài chính, ngân hàng phát triển chậm hơn, kinh doanh mang đặc tính quản lý bao cấp hơn là phục vụ. Tiền tệ biến động phức tạp do việc đổi tiền năm 1985, lạm phát liên tục tăng cao, chính sách thuế cũng đầy biến động, phát sinh nhiều sắc thuế mới như thuế xuất nhập khẩu, thuế vốn, thuế lợi tức (nay là thuế thu nhập doanh nghiệp), thuế doanh thu. Tỷ suất thuế đã cao lại càng hay điều chỉnh không phù hợp với chu kỳ hàng hoá. Vượt qua khó khăn thử thách này, sau những năm mày mò và sơ bộ khẳng định được một số yếu tố cần phải tập trung xây dựng, kết hợp với những kinh nghiệm thực tế, Công ty đã tập trung sức lực của mình để phát triển. Qua việc chấn chỉnh và nâng cao nhận thức, Công ty đã thu được những tiến bộ đáng kể bất chấp sự thay đổi theo hướng bất lợi của thời cuộc. Sau đây là chỉ tiêu về kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty. Bảng 4: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty giai đoạn 1985 -1989. Năm Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (nghìn USD) Thực hiện (USD) Hoàn thành kế hoạch(%) 1985 35.560 114 1986 46.813 116 1987 51.349 118 1988 49.257 115 1989 44.418 109 (Nguồn : Phòng hành chính tổng hợp). 5.3. Giai đoạn III (1990 -2001) Trong giai đoạn này, nền kinh tế đất nước thực sự bước sang một trang mới. Có nhiều thay đổi trong việc quản lý vĩ mô nhà nước đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu như: số lượng Công ty xuất nhập khẩu tăng lên nhiều, nhiều đơn vị chuyên doanh đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp. Bên cạnh đó việc thu hẹp thị trường do khủng hoảng ở các nước xã hội chủ nghĩa, tính cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Tuy nhiên Công ty đã xác định được đúng hướng trong sản xuất kinh doanh, biết vận dụng linh hoạt phương thức kinh doanh. Nhạy bén trong tìm hiểu thị trường, tìm ra những mặt hàng mà thị trường đang có nhu cầu và phù hợp với khả năng kinh doanh của Công ty. Bảng số 5: Kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty năm 1990 - 2001. Năm Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (nghìn USD) Thực hiện So với kế hoạch (%) 1990 40.655 102 1991 37.000 100 1992 41.000 106 1993 47.177 114 1994 49.222 103 1995 56.611 113 1996 63.560 115 1997 78.432 135 1998 64.448,642 102,29 1999 70.420 104 2000 71.648 102,6 2001 77.810 101,5 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp Công ty XNK Tổng hợp I) Tóm lại trong giai đoạn này tuy có nhiều biến động, nhiều khó khăn song Công ty đã bám sát thực tế thị trường, mạnh dạn tìm phương thức làm ăn mới. Biến từ nhận thức tới hành động cho nên tới nay Công ty không những trụ vững mà còn đang phát triển mạnh mẽ, giữ vững được uy tín với khách hàng và cơ quan cấp trên. 6. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây. * Kết quả hoạt động kinh doanh. Bảng 6: Cơ cấu xuất nhập khẩu của Công ty Đơn vị: 1000 USD, % Năm Tỷ lệ XK/NK Kim ngạch nhập khẩu Kim ngạch xuất khẩu Kim ngạch XNK 1997 42/58 45.845 32.587 78.432 1998 36/64 41.365 23.083 64.448 -9,7 -29,17 -17,83 1999 31/54 43.260 24.700 67.960 +4,58 +7,0 +5,45 2000 31/51 46.020 28.500 74.520 +6,38 +15,38 +9,65 2001 29/48 48.130 29.680 77.810 +4,58 +4,14 +4,42 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp Công ty XNK Tổng hợp I) Năm 1997 hàng nhập khẩu bị Nhà nước hạn chế, hàng xuất khẩu bị giảm giá mạnh do khủng hoảng khu vực, nhưng do Công ty đã sớm nhận ra được khó khăn trước mắt nên từ cuối năm 1996 đã lên phương án chủ động xử lý tình hình, nhờ thế kết quả kinh doanh năm 1997 đạt hiệu quả khả quan. Năm 1998, mặc dù tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty vẫn hoàn thành mức kế hoạch mà Bộ đã đề ra nhưng kim ngạch xuất khẩu lại không đạt kế hoạch mà chỉ thực hiện được 74,46%. Sự giảm sút này chủ yếu do nguyên nhân khách quan, do Công ty nằm trong guồng máy chung của nền kinh tế xã hội cả nước bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á, cụ thể là: - Thị trường tiêu thụ hàng xuất khẩu của Việt Nam bị thu hẹp, tạm thời dừng mua bán với một số thị trường như Philippine, Indonesia… Giá cả hàng hoá bị cạnh tranh gay gắt, đồng tiền Việt Nam tăng giá so với các đồng tiền khác (do Việt Nam ít chịu ảnh hưởng của khủng hoảng) dẫn đến giá hàng xuất khẩu của Việt Nam đắt hơn các nước khác. - Thị trường trong nước sức mua bị giảm sút do khả năng thanh toán hạn hẹp do vậy nhiều mặt hàng tồn đọng lớn, tiêu thụ chậm ảnh hưởng kinh doanh hàng xuất khẩu. Bước sang năm 1999, nền kinh tế nước ta thoát dần khỏi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nên nó cũng có tác động tích cực đối với sự phát triển của Công ty. II. Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty. 1. Đặc điểm các mặt hàng nông sản của Công ty. Các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Công ty rất đa dạng và phong phú. Lạc, quế, cà phê, gạo, cao su, hạt tiêu là những mặt hàng mà Công ty thường xuyên kinh doanh với khối lượng lớn, đều đặn qua các năm. Ngoài ra Công ty cũng kinh doanh những mặt hàng nông sản khác như chè, ngô, mây, cói, hạt điều… Tuy nhiên những mặt hàng này có kim ngạch nhỏ, không ổn định. Bản báo cáo này chủ yếu đề cập đến những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như đã nêu ở trên. Giá cả các mặt hàng nông sản chịu ảnh hưởng bởi điều kiện khí hậu, thời tiết, nhu cầu trên thế giới và đặc biệt chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi chất lượng chế biến. Sản phẩm nông sản của Công ty chủ yếu là sản phẩm thô hoặc mới chỉ qua sơ chế, chính vì vậy mà giá cả hàng của Công ty thường thấp hơn giá các sản phẩm cùng loại của các nước trên thế giới được chế biến tốt hơn. Việc chế biến, bảo quản nông sản gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp; một mặt yêu cầu có kỹ thuật chuyên ngành, có hiểu biết về tính chất lý hoá của sản phẩm; mặt khác đòi hỏi chi phí khá cao. Hơn nữa, công nghệ chế biến hàng nông sản ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Đó chính là những nguyên nhân dẫn đến chất lượng hàng nông sản của Công ty vẫn còn thấp. 2. Kim ngạch và cơ cấu. Bảng 7: Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu nông sản của Công ty trong 5 năm vừa qua. Năm Mặt hàng Kim ngạch xuất khẩu (USD) 1997 1998 1999 2000 2001 Lạc nhân 2.350.000 2.130.000 2.180.000 2.173.000 2.265.000 Hạt tiêu 1.230.000 1.430.000 1.470.000 1.461.000 1.481.000 Cao su 986.200 1.215.600 1.305.000 1.283.700 1.312.000 Cà phê 520.000 876.500 900.400 702.200 682.000 Quế 500.000 500.000 501.000 1.156.500 1.162.000 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Công ty XNK Tổng hợp I) Qua bảng số liệu ta thấy lạc nhân vẫn luôn là mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao nhất so với các mặt hàng nông sản khác nhưng lại giảm dần qua các năm: năm 1997 đạt 2.350.000 USD, năm 2001 đạt 2.265.000 giảm 85 USD (hay 3,6%). Các mặt hàng hạt tiêu, cao su đều tăng trong năm 2001 so với năm 2000 là 1,3% và 2,2%. Mức tăng còn chậm nhưng cũng tiêu biểu cho hai mặt hàng này trong thời gian gần đây. Điều này phản ánh một thực tế là tuy Công ty vẫn giữ được sự ổn định nhóm những mặt hàng nông sản chủ lực nhưng thị trường của nhóm mặt hàng này trong những năm gần đây vẫn chưa được mở rộng. Mặt hàng quế cũng tăng trong những năm vừa qua. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng quế có bước nhảy vọt tăng 232,4% so với năm 1997 tức là từ 500.000 USD đến 1162.000 USD. Đây có thể coi là một sự nỗ lực rất thành công trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu cho mặt hàng này. Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản có kim ngạch giảmt mạnh trong mấy năm vừa qua. Năm 2000, giá trị cà phê xuất khẩu chỉ đạt 77,9% so với năm 1999. Năm 2001 giá trị xuất khẩu của mặt hàng này tiếp tục giảm chỉ đạt 682.000 USD so với 702.200 USD năm 2000. Đây là xu hướng chung của mọi doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam do cung mặt hàng này trong những năm gần đây tăng nhanh trong khi cầu lại giảm. Có thể nhận định chung về tình hình xuất khẩu nông sản của Công ty trong những năm gần đây là tốt. Điều này thể hiện bằng lượng tăng đều đặn của tổng kim ngạch các mặt hàng. Năm 1999, 2000 kim ngạch xuất khẩu nói chung của Công ty giảm đi thì mặt hàng nông sản là một trong những số ít mặt hàng giữ được kim ngạch xuất khẩu và phát triển tốt. Biểu 1: Tình hình xuất khẩu nông sản qua các năm 1999, 2000, 2001 Tuy vậy, năm 2002 Công ty sẽ có nhiều mục tiêu hơn để phấn đấu đối với mặt hàng nông sản. Trong khi thị trường khu vực đã phát triển trở lại, Công ty cần phải cố gắng trong việc tiếp cận các thị trường mới, khách hàng mới. 3. Thị trường xuất khẩu nông sản của Công ty. Hàng nông sản của Công ty đã có mặt ở rất nhiều nước trên thế giới, tuy vậy các thị trường chính của Công ty gồm: Singapore, EU, Đài loan, ASEAN, Trung Quốc và Mỹ. Thị trường Singapore thực chất là thị trường trung chuyển. Trong những năm vừa qua, hàng nông sản của Công ty được xuất sang Singapore với số lượng khá lớn bao gồm các mặt hàng chính là lạc nhân, cà phê, cao su, hạt điều. Trong năm 2000, 2001 vừa qua tỷ lệ thị phần đối với thị trường Singapore giảm xuống, do Công ty chủ động giảm xuất những mặt hàng sơ chế qua thị trường này. Năm 1999, Công ty đã thành lập thêm một cơ sở chế biến hạt điều nhằm tăng chất lượng hàng nông sản chế biến. Thị trường EU của Công ty trong những năm gần đây cũng phát triển mạnh. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu sang thị trường này trong những năm gần đây là: Cà phê gạo, hạt điều, hạt tiêu và cao su. Những bạn hàng lớn của Công ty hiện nay là Anh, Đức, Pháp cho thấy sản phẩm của Công ty ngày càng được chấp nhận rộng rãi. Thị trường ASEAN là thị trường rất quan trọng của Công ty. Đây là nơi tiêu thụ hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của Công ty. Tuy vậy qua 3 năm 1999, 2000, 2001 giá trị các mặt hàng nông sản xuất sang khu vực này tăng chậm, tỷ lệ trong tổng giá trị xuất khẩu nông sản hầu như không thay đổi, chiếm khoảng 22% giá trị xuất khẩu nông sản. Các thị trường khác: Trong khi giá trị xuất khẩu sang thị trường đài Loan giảm từ 621.152 USD năm 2000 xuống còn 509.510 USD thì ngược lại thị trường Trung Quốc lại có dấu hiệu khả quan. Trong 3 năm trở lại đây,thị trường này phát triển không ngừng. Năm 2001 giá trị xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc tăng lên 405.629 USD so với 393.722 USD năm 2000 tức là tăng 3,02%. Cùngvới thị trường EU, thị trường Trung Quốc được xem là rất giàu tiềm năng. Trái lại thị trường Mỹ tỏ ra là thị trường không ổn định giá trị xuất khẩu biến động còn thất thườngqua 3 năm 1999, 2000, 2001._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29138.doc