lời nói đầu
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Việt Nam đang thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu kết hợp song song với chiến lược thay thế nhập khẩu. Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng được đề cập trong đại hội lần thứ VII của Đảng cộng sản và và lần này trong đại hội IX đã khẳng định tiếp. Đẩy mạnh sản xuất, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại.
Đối với Việt Nam cũng như tất cả các nước trên thế giới, hoạt động xuất khẩu đóng va
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1569 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ở Công ty may Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế và xây dựng đất nước. Nó là một phương tiện hữu hiệu cho phát triển kinh tế, tăng thu ngoại tệ, phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu, cải tiến công nghệ kỹ thuật hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm. Đặc biệt là yếu tố không thể thiếu nhằm triển khai thực hiện chương trình CNH- HĐH đất nước. Nhận thức rõ vấn đề này, đảng và nhà nước ta đã xây dựng các chiến lược phát triển dài hạn, các chương trình, kế hoạch thực hiện cũng như đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu phát triển. Đây cũng là nhiệm vụ mà đảng và nhà nước giao cho các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, trong đó có công ty may Thăng Long .
Trong điều kiện đất nước ta đang đổi mới hiện nay, ngành may mặc được coi là một ngành quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Mục tiêu, chiến lược, nhiệm vụ của ngành là góp phần thực hiện thắng lợi đường lối của đảng, góp phần thắng lợi sự nghiêp CNH-HĐN đất nước đảm bảo nhu cầu may mặc toàn xã hội, không ngừng tăng cường xuất khẩu và giải quyết việc làm cho người lao động.
Công ty may Thăng Long là một công ty may mặc xuất khẩu đầu tiên của nước ta ra đời vào năm 1958 cùng với sự đổi mới về kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, công ty đã nhanh chóng thích nghi với thị trường, ổn định sản xuất và không ngừng phát triển sản xuất và kinh doanh của công ty. Hàng may mặc xuất khẩu là mặt hàng chính của công ty từ trước tới nay. Vì vậy để tiếp cận với thị trường nước ngoài đòi hỏi ngày càng cao như hiện nay đã đặt ra cho công ty may mặc Thăng Long những cơ hội và thử thách.
Đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc, duy trì và mở rộng nhiều thị trường nước ngoài là một vấn đề mang tính chiến lược đối với sự tồn tại và phát triển của công ty hiện nay. Vì vậy, qua thời gian thực tập ở công ty may Thăng Long , em đã nghiên cứu hoạt động xuất khẩu của công ty và chọn đề tài :
Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ở công ty may Thăng Long làm chuyên đề tốt nghiệp của mình .
Chuyên dề tốt nghiệp bao gồm các phần sau:
Chương I : Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu.
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng may mặc tại công ty
Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ở công ty
Mặc dù đã có cố gắng nhiều song do hạn chế về thời gian và kinh nghiệm thực tế nên bài viết không tránh khỏi những sai sót, em mong nhận được những ý kiến của các thầy cô.
Qua đây em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình và quý báu của giáo viên: Kiều Quốc Hoàn và các anh chị trong phòng thị trường của công ty may Thăng Long đã hướng dẫn trong quá trình thực hiện và hoàn thành bài viết này.
Chương I
Một số vấn đề Lý luận chung về
hoạt động xuất khẩu
I. xuất khẩu hàng hoá và vai trò của xuất khẩu hàng hoá.
1.Khái niệm và vai trò của hoạt động xuất khẩu.
1.1 Khái niệm.
Xuất khẩu là hoạt động nhằm tiêu thụ một phần tổng sản phẩm xã hội ra nước ngoài.
Hoạt động xuất khẩu là qúa trình trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia và lấy ngoại tệ làm phương tiện thanh toán. Sự trao đổi mua bán hàng hoá là một hình thức của các mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của quốc gia.
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức ở cả bên trong và bên ngoài đất nước nhằm thu được ngoại tệ, những lợi ích kinh tế xã hội thúc đẩy hoạt động xản xuất hàng hoá trong nước phát triển góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế và từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Các mối quan hệ này xuất hiện có sự phân công lao động quốc tế và chuyên môn hoá sản xuất.
1.2 Vai trò của hoạt động xuất khẩu :
Hoạt động xuất khẩu thể hiện nhu cầu về hàng hoá của quốc gia khác đối với quốc gia chủ thể. Và nó chỉ ra những lĩnh vực, sản phẩm có thể chuyên môn hoá được, những công nghệ và tư liệu sản xuất trong nước còn thiếu để sản xuất ra những sản phẩm xuất khẩu đạt được chất lượng quốc tế. Vì thế nó đóng vai trò quan trọng đối với tất cả các quốc gia trên thế giới nhằm thực hiện những mục tiêu phát triển đất nước, mở rộng quan hệ đối ngoại. Cụ thể :
*Đối với doanh nghiệp
Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nghĩa là mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Đây là yếu tố quan trọng nhất vì sản phảm sản xuất ra có tiêu thụ được thì mới thu được vốn, có lợi nhuận để tái sản xuất ,…mở rộng sản xuất, tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển. Xuất khẩu sẽ mang lại cho doanh nghiệp nhiều thuận lợi, nhiều lợi ích trước mắt và lâu dài, tăng tài sản vô hình của doanh nghiệp trên trường quốc tế. Đồng thời tạo thêm vốn để mở rộng lĩnh vực kinh doanh, đào tạo cán bộ, đổi mới công nghệ, khai thác các tiềm lực hiện có, tạo ra được việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Cũng thông qua đó, doanh nghiệp có cơ hội tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm về hình thức trong kinh doanh, về trình độ quản lý, giúp tiếp xúc với những công nghệ mới, hiện đại, đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực mới thích nghi với điều kiện kinh doanh mới nhằm cho ra đời những sản phẩm có chất lượng cao, đa dạng, phong phú.
* Đối với nền kinh tế:
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh trên phạm vi quốc tế. Nó là một bộ phận cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Hoạt động xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết đối với nước ta. Với một nền kinh tế chậm phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, không đồng bộ, dân số phát triển nhanh việc đẩy mạnh xuất khẩu để tạo thêm công ăn việc làm, cải thiện đời sống, tăng thu ngoại tệ, thúc đẩy phát triển kinh tế là một chiến lược lâu dài. Để thực hiện được chiến lược lâu dài đó, chúng ta phải nhận thức được ý nghĩa của hàng hoá xuất khẩu, nó được thể hiện :
- Xuất khẩu tạo được nguồn vốn, ngoại tệ lớn, góp phần quan trọng trong việc cải thiện cán cân thanh toán, tăng lượng dự trữ ngoại tệ, qua đó tăng khả năng nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ phát triển kinh tế, phục vụ quá trính CNH- HĐN đất nước.
- Thông qua việc xuất khẩu những mặt hàng có thế mạnh chúng ta có thể phát huy được lợi thế so sánh, sử dụng lợi thế các nguồn lực trao đổi thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến. Đây là yếu tố then chốt trong chương trình CNH- HĐH đất nước đồng thời phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hay xuất khẩu có tính cạnh tranh ngày càng cao hơn.
-Thông qua hoạt động xuất khẩu, tính cạnh tranh cũng được nâng cao chính nhờ sự cạnh tranh này mà chất lượng hàng hoá không ngừng được nâng cao lên tạo điều kiện tăng năng lực sản xuất, thể hiện nội lực kinh tế của đất nước không những thế xuất khẩu phát triển sẽ phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của mọi người mọi đơn vị sản xuất kinh doanh xuất khẩu và các tổ chức xã hội.
-Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của người lao động.
-Hoạt động xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy mối quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.Thông qua hoạt động xuất khẩu môi trường kinh tế được mở rộng tính cạng tranh ngày càng cao đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải có sự đổi mới để thích nghi, đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Hoạt động xuất khẩu góp phần hoàn thiện các cơ chế quản lý xuất khẩu của nhà nước và của từng điạ phương phù hợp với yêu cầu chính đáng của doang nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu.
Mặt khác, hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt ngành sản xuất phát triển, đồng thời cũng thúc đẩy các ngành dịch vụ hỗ trợ hoạt động xuất khẩu phát triển như ngành bảo hiểm, hàng hải, thông tin liên lạc quốc tế, dịch vụ tài chính quốc tế đầu tư, xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tạo điều kiện tiền đề kinh tế kỹ thuật đồng thời nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều đó chứng tỏ xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo vốn, đưa kỹ thuật công nghệ nước ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước.
2.Các hình thức của hoạt động xuất khẩu.
2.1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là xuất khẩu hàng hoá do chính doanh nghiệp sản xuất hoặc đặt mua của doanh sản xuất trong nước, sau đó xuất khẩu những sản phẩm này với danh nghĩa là hàng của mình.
Với hình thức xuất khẩu trực tiếp này có ưu điểm là đem lại nhiều lợi nhuận cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng, do không mất khoản chi phí trung gian và tăng uy tín cho doanh nghiệp.
2.2.Xuất khẩu uỷ thác.
Đây là hình thức xuất khẩu mà doanh nghiệp ngoại thương với vai trò trung gian xuất thay cho các đơn vị sản xuất băng các thủ tục cần thiết để xuất hàng và hưởng phần trăm phí uỷ thác theo giá trị hàng xuất khẩu.
Ưu điểm của hình thức này là hạn chế được rủi ro, trách nhiệm ít, bởi người đứng ra xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng, không đòi hỏi vốn lớn. Tuy nhiên, lợi nhuận thu được cho doanh nghiệp ngoại thương không cao. Còn đối với doanh nghiệp sản xuất khi thực hiện phương thức xuất khẩu này, họ sẽ mất một khoản phí uỷ thác và không được tiếp cận với khách hàng nước ngoài, tìm hiểu thị trường xuất khẩu.
2..3. Xuất khẩu gia công uỷ thác.
Khi tiến hành xuất khẩu theo hình thức này, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phải đứng ra với vai trò nhập nguyên vật liệu hoặc bán thành phần về cho đơn vị sản xuất, xí nghiệp gia công. Sau đó, khi sản phẩm được hoàn thành nhận lại và xuất cho bên đối tác.
Để kinh doanh xuất khẩu ttheo hình thức này, doanh nghiệp không cần bỏ nhiều vốn kinh doanh nhưng hiệu quả tương đối cao, ít rủi ro thị trường tiêu thụ chắc chắn.Tuy nhiên, đây cũng là một hình thức phức tạp bởi nó đòi hỏi phải tìm được đối tác nước ngoài có nhu cầu. Vì thế, doanh nghiệp phải có uy tín lớn trên thị trường và năng động trong kinh doanh.
2.4 .Gia công quốc tế.
Gia công quốc tế là một hình thức kinh doanh, trong đó có một bên biên nhận gia công nguyên vật liệu hay bán thành phần của bên đặt gia công nhằm thu lợi nhuận ( phí gia công )
Đối với bên đặt gia công, họ tìm kiếm một nguồn lao động với giá rẻ hơn giá trong nước nhằm giảm chi phí sản xuất tăng lợi nhuận, còn bên nhận gia công có nguồn lao động dồi dào mong muốn có việc làm tạo thu nhập, cải thiện đời sống và qua đó tiếp nhận những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến.
2.5. Xuất khẩu theo nghị định thư.
Hình thức xuất khẩu hàng hoá này được ký kết theo nghị định thư giữa hai chính phủ và hàng hoá ở đây thường là hàng trả nợ.
Xuất khẩu theo hình thức này sẽ hạn chế được rủi ro trong thanh toán (do nhà nước trả) tiết kiệm chi phí nghiên cứu thị trường, gia cả hàng hoá dễ chấp nhận. Nhưng xuất khẩu theo hình thức này đem lại lợi nhuận không cao.
2.6. Xuất khẩu tại chỗ.
Là hình thức mà hàng hoá xuất khẩu được bán ngay tại nước xuất khẩu. Doanh nghiệp ngoại thương không phải ra nước ngoài để đàm phán, ký kết hợp đồng mà người mua tự tìm đến doanh nghiệp để mua hàng. Hơn nữa, doanh nghiệp cũng không phải làm thủ tục hải quan, mua bảo hiểm hàng hoá hay thuê phương tiện vận chuyển.
Đây là hình thức xuất khẩu đặc trưng, khác biệt so với hình thức xuất khẩu khác và ngày càng được vận dụng theo nhiều xu hướng phát triển trên thế giới.
2.7. Tái xuất khẩu.
Tái xuất khẩu là hình thức xuất khẩu những hàng hoá nhập khẩu nhưng qua chế biến ở nước tái xuất khẩu ra nước ngoài
Hoạt động tái xuất khẩu chỉ diễn ra khi mà các nước bị hạn hẹp về quan hệ thương mại quốc tế do bị cấm vận hoặc trừng phạt kinh tế hoặc thị trường mới chưa có kinh nghiệm cần có người trung gian.
2.8. Buôn bán đối lưu.
Buôn bán đối lưu là hình thức giao dịch trong đó hoạt động xuất khẩu kết hợp với hoạt động nhập khẩu và người bán cũng đồng thời là người mua. Lượng hàng hoá trao đổi ở đây có giá trị tương đương với nhau .Do đó việc xuất khẩu hàng hoá này không phải là để thu ngoại tệ về mà nhằm thu về lượng hàng hoá có giá trị tương đương với lô hàng xuất khẩu.
Hình thức buôn bán đối lưu có ưu điểm là có thể thực hiện được khi các bên thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm, thiếu ngoại tệ. Hơn nữa, nó tránh được những rủi ro do biến động thị trường ngoại hối gây ra
Tóm lại, với các hình thức xuất khẩu được trình bày ở trên, việc áp dụng vào hình thức nào là tuỳ thuộc vào bản thân từng doanh nghiệp và bên đối tác tham gia thoả hiệp. Mà mỗi hình thức dều có những mặt tích cực và mặt hạn chế, cho nên khi tiến hành hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần nghiên cứu đánh giá xem xét nên xuất khẩu theo hình thức nào để thu về nhiều lợi ích cho doanh nghiệp.
II.Qúa trình tổ chức hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu là một quy trình kinh doanh bao gồm một số bước chính sau:
1.Nghiên cứu tiếp cận thị trường nước ngoài.
Nghiên cứu thị trường nhằm nắm vững các yếu tố thị trường, hiểu biết các quy luật vận động của thị trường để kịp thời đưa ra các quyết định. Vì thế nó có ý nghĩa rất quan trọng trong phát triển và nâng cao hiệu suất các quan hệ kinh tế đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu của mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia. Vì thế khi nghiên cứu về thị trường nước ngoài, ngoài các yếu tố chính trị, luật pháp, cơ sở hạ tầng, phong tục tập quán ,… doanh nghiệp còn phải biết xuất khẩu mặt hàng nào, dung lượng thị trường hàng hoá là bao nhiêu, đối tác kinh doanh là ai, phương thức giao dịch như thế nào, sự biến động hàng hoá trên thị trường ra sao, cần có chiến lược kinh doanh gì để đạt được mục tiêu đề ra.
-Tổ chức thu thập thông tin
Công việc đầu tiên của người nghiên cứu thị trường là thu thập thông tin có liên quan đến thị trường về mặt hàng cần quan tâm. Có thể thu thập thông tin từ các nguồn khác nhau. Trước hết là các thông tin từ các tổ chức quốc tế như trung tâm thương mại và phát triển của Liên hợp quốc, Hội đồng kinh tế và Châu á Thái Bình Dương, cơ quan thống kê và các tổ chức khác.
Bộ phận tư vấn thị trường của trung tâm thương mại quốc tế đã hợp tác với cơ quan thống kê của liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác đưa ra số liệu thống kê và mậu dịch quốc tế. Dịch vụ thống kê mới của trung tâm thương mại quốc tế ưu tiên phục vụ cho các nước đang phát triển, đặc biệt là thông tin về thị trường hàng hoá mà các nước này quan tâm. Một nguồn tin quan trọng nữa là nguồn tin từ các thương nhân có quan hệ làm ăn buôn bán và tin từ các bản tin, các thời báo, ấn phẩm .
Một loại thông tin không thể thiếu được là thông tin thu thập từ thị trường. Thông tin thu thập tại hiện trường chủ yếu được thu thập được theo trực quan của nhân viên khảo sát thị trường
-Phân tích thông tin
+ Phân tích thông tin về môi trường
Môi trường có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp.Cần phải phân tích thông tin về môi trường một cách kịp thời và chính xác.
+ Phân tích thông tin về giá cả hàng hoá
Giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới biến động rất phức tạp và chịu chi phối bởi các nhân tố chu kỳ, nhân tố lũng đoạn, nhân tố cạnh tranh. Nhân tố lạm phát.
+ Phân tích thông tin về nhu cầu tiêu dùng.
Nhu cầu của thị trường là tiêu thụ được, chú ý đặc biệt trong marketing, thương mại quốc tế, bởi vì công việc kinh doanh được bắt nguồn từ nhu cầu thị trường.
-Lựa chọn thị trường xuất khẩu. Trước hết cần xác định các tiêu chuẩn mà các thị trường đáp ứng
+Các tiêu chuẩn chung: Chính trị pháp luật,địa lý(khoảng cách khí hậu, sự phân bố), Kinh tế (Thu nhập, tốc độ tăng trưởng)
+Các tiêu chuẩn về quy chế thương mại và tiền tệ: Bảo hộ mậu dịch(thuế quan, hạn ngạch, giấy phép),Tình hình tiền tệ( tỷ lệ lạm phát, sức mua của đồng tiền )
Các tiêu chuẩn thương mại :Sản xuất nội địa, Xuất khẩu
Các tiêu chuẩn trên phải được đánh giá, cân nhắc điều chỉnh theo mức độ quan trọng. Thì thường sau khi đánh giá họ sẽ chiếm các thị trường, sau đó chọn thị trường tốt nhất.
2. Xây dựng kế hoạch kinh doanh xuất khẩu.
Kế hoạch kinh doanh xuất khẩu phải được xây dựng cụ thể tất cả các vấn đề liên quan đến việc xuất khẩu.
* Xây dựng kế hoạch tạo nguồn hàng:
Đối với doanh nghiệp sản xuất thì tạo nguồn hàng là việc tổ chức hàng hoá theo yêu cầu của khách hàng. Các doanh nghiệp sản xuất cần phải trang bị máy móc, nhà xưởng nhiên liệu để sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu. Kế hoạch tổ chức sản xuất phải lập chi tiết, hoạch toán chi phí cụ thể cho từng đối tượng. Vấn đề công nhân cũng là một vấn đề quan trọng, số lượng công nhân, trình độ, chi phí. Đặc biệt trình độ và chi phí cho công nhân nhân tố này ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm và giá thành sản xuất.
* Lập kế hoạch xuất khẩu
ở bước nghiên cứu doanh nghiệp đã chọn thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp lập kế hoạch xuất khẩu sang thị trường bao gồm: hàng hoá, khối lượng hàng hoá, giá cả hàng hoá, phương thức sản xuất.
3.Tổ chức giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng.
* Chuẩn bị cho giao dịch.
Để công tác chuẩn bị dao dịch diễn ra tốt đẹp doanh nghiệp phải biết đầy đủ các thông tinvề hàng hoá, thị trường tiêu thụ, khách hàng v.v..
Việc lựa chọn khách hàng để giao dịch căn cứ vào các điều kiện sau:
-Tình hình kinh doanh của khách hàng
-Khả năng về vồn, cơ sở vật chất của khách hàng
-Quan điểm kinh doanh của khách hàng
-Uy tín, danh tiếng quan hệ làm ăn của khách hàng
-Thái độ của khách hàng
* Giao dịch đàm phán ký kết.
-Chào hàng: là đề nghị của người xuất khẩu hoặc người xuất khẩu gửi cho người bên kia biểu thị muốn mua bán một số hàng nhất định và điều kiện, giá cả thời gian, địa điểm nhất định.
-Hoàn giá: khi nhận được thư chào hàng nếu không chấp nhận điều kiện trong thư mà đưa ra đề nghị mới thì đề nghị này được gọi là hoàn giá.
-Chấp nhận: là đồng ý hoàn toàn bộ tất cả các diều kiện trong thư chào hàng.
-Xác nhận: hai bên mua bán thống nhất với nhau về các điều kiện đã giao dịch. Họ đồng ý với nhau và đồng ý thành lập văn bản xác nhận ( thường lập thành hai bản )
Ngày nay tồn tại hai loại giao dịch:Giao dịch trực tiếp, giao dịch gián tiếp
Tuỳ theo trường hợp cụ thể mà các doanh nghịêp chọn phương thức giao dịch thích hợp. Trong thực tế hiện nay, giao dịch trực tiếp được áp dụng rộng rãi bởi giảm được chi phí trung gian, dễ dàng thống nhất, có điều kiện tiếp xúc với thị trường, khách hàng, chủ động trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá
* Ký kết hợp đồng
Việc giao dịch đàm phán có kết quả tốt thì coi như đã hoàn thành công việc ký kết hợp đồng.Khi ký kết cần chú ý đến vấn đề địa điểm thời gian và tuỳ từng trường hợp mà chọn hình thức ký kết.
4. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Để thực hiện hợp đồng xuất khẩu thì doanh nghiệp phải thực hiện các công việc khác nhau. Tuỳ theo điều khoản hợp đồng mà doanh nghiệp phải làm một số công việc nào đó. Thông thường các doanh nghiệp cần thực hiện các công việc được mô tả theo sơ đồ.
Sơ đồ : Quy trình xuất khẩu
Ký hợp đồng
Kiểm tra L/C
Chuẩn bị hàng hoá
Mua bảo hiểm (nếu cần)
Làm thủ tục hải quan
Kiểm tra hàng hoá
Thuế tàu (nếu cần)
Giao hàng
lên tàu
Thanh toán
Giải quyết tranh chấp (nếu có )
Xin giấy phép xuất khẩu (nếu cần)
III. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu .
1. Các yếu tố vi mô.
Các yếu tố thuộc doanh nghiệp là một trong các nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng bao gồm:
1.1.Sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao thì khả năng tiêu thụ sản phẩm càng nhanh, sức cạnh tranh phụ thuộc năng lực tài chính của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, giá cả, biện pháp marketing, dịch vụ đi kèm.
+ Năng lực tài chính của doanh nghiệp: thể hiện ở vốn kinh doanh của doanh nghiệp, lượng tiền mặt, ngoại tệ, cơ cấu vốn .. những nhân tố này doanh nghiệp có thể tác động để tạo thế cân bằng và phát triển Doanh nghiệp cũng phải có một cơ cấu vốn hợp lý nhằm phục vụ tốt cho hoạt động xuất khẩu. Nếu như cơ cấu vốn không hợp lý vốn quá nhiều mà không có lao động hoặc ngược lại lao động nhiều mà không có vốn thì doanh nghiệp sẽ không phát triển được hoặc phát triển mất cân đối. Vốn là một nhân tố quan trọng trong hàm sản xuất và nó quyết định tốc độ tăng sản lượng của doanh nghiệp.
+Chất lượng sản phẩm: chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng của sản phẩm thể hiện sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng nhất định, phù hợp với công dụng sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn.
+ Giá sản phẩm: giá cả ảnh hưởng đến khối lượng tiêu dùng sản phẩm , giá rẻ thì khả năng tiêu thụ sản phẩm sẽ nhanh hơn, khả năng tiêu thụ trên thị trường thế giới sẽ cao hơn, sẽ xuất khẩu nhiều hơn.
+ Biện pháp marketing: biện pháp này nâng cao thế lực của doanh nghiệp trước các đối thủ cạnh tranh, marketing giúp các doanh nghiệp quảng cáo các sản phẩm của mình cho nhiều người biết, biện pháp marketing giúp cho doanh nghiệp nâng cao uy tín của mình quảng cáo, xúc tiến bán hàng giới thiệu cho người tiêu dùng biết chất lượng, giá cả của sản phẩm mình.
+ Các dịch vụ đi kèm: Doanh nghiệp muốn tiêu thụ được nhiều sản phẩm thì dịch vụ bán hàng phải phát triển khi khi khách hàng mua sản phẩm của công ty thì công ty nên có khuyến mại, có đội ngũ tiếp thụ năng động ...
1.2. Trình độ quản lý của doanh nghiệp.
* Ban lãnh đạo doanh nghiệp :là bộ phận đầu não của doanh nghiệp là nơi xây dựng những chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp đề ra mục tiêu đồng thời giám sát, kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch đã đề ra. Trình độ quản lý kinh doanh của ban lãnh đạo có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Một chiến lược doanh nghiệp đúng đắn phù hợp với tình hình thực tế của thị trường và của doanh nghiệp và chỉ đạo điều hành giỏi của các cán bộ doanh nghiệp sẽ là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
* Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp
Cơ cấu tổ chức đúng đắn sẽ phát huy được trí tuệ của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp phát huy tinh thần đoàn kết và sức mạnh tập thể, đồng thời vẫn đảm bảo cho việc ra quyết định sản xuất kinh doanh được nhanh chóng và chính xác. Cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc phối hợp giải quyết những vấn đề nảy sinh đối phó được với những biến đổi của môi trường kinh doanh và nắm bắt kịp thời các cơ hội một cách nhanh nhất hiệu quả nhất.
* Đội ngũ cán bộ quản trị kinh doanh xuất khẩu: Đóng vai trò quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trên thương trường.
Hoạt động xuất khẩu chỉ có thể tiến hành khi có sự nghiên cứu tỷ mỉ về thị trường hàng hoá, dịch vụ, về các đối tác các đối thủ cạnh tranh, về phương thức giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng ... Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp phải có đội ngũ cán bộ kinh doanh am hiểu thị trường quốc tế có khả năng phân tích và dự báo những xu hướng vận động của thị trường, khả năng giao dịch đàm phán,… Đồng thời thông thạo các thủ tục xuất nhập khẩu, các công việc tiến hành cũng trở nên.
1.3. Yếu tố khác .
Bên cạnh đó, hoạt động xuất khẩu còn phụ thuộc, chịu ảnh hưởng của hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có. Yếu tố này, phản ánh năng lực sản xuất của doanh nghiệp, bao gồm các nguồn vật chất dùng cho sản xuất, các nguồn tài nguyên, nhiên liệu, các nguồn tài chính phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và năng lực của nó phục vụ cho tương lai. Đây là yếu tố cơ bản để doanh nghiệp có thể giữ vững phát triển sản xuất đồng thời là nền tảng cho công việc mở rộng sản xuất, nâng cao kỹ năng sản xuất của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế.
2. Các yếu tố vĩ mô.
2.1. Tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái là giá của một đơn vị tiền tệ, của một quốc gia tính bằng tiền của một nước khác, đó là quan hệ so sánh của hai đồng tiền của hai quốc gia khác nhau.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa x chỉ số thực
Chỉ số giá trong nước
Tỷ giá hối đoái =
thực tế
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ giá được nêu trên các phương tiện thông tin đại chúng do nhân hàng nhà nước công bố hàng ngày.
Tỷ giá hối đoái tăng hay giảm chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau: như chênh lệch lạm phát, tình trạng cán cân thanh toán yếu tố tâm lý.
Khi giá đồng nội tệ tăng (lên giá) so với ngoại tệ thì gây khó khăn cho xuất khẩu, song lại tạo điều kiện cho nhập khẩu.
Ngược lại khi đồng nội tệ giảm so với ngoại tệ sẽ có lợi cho xuất khẩu. Tỷ giá hối đoái giảm sẽ tạo điều kiện cho nước ngoài đầu tư. Vì vậy việc quy định tỷ giá hối đoái sao cho hợp lý là vấn đề quan tâm của nhà nước.
2.2. Các yếu tố pháp luật.
Mỗi quốc gia đều có những bộ luật riêng và đặc điểm tính chất của hệ thống pháp luật của mỗi nước phụ thuộc rất lớn vào trình độ phát triển kinh tế của từng nước. Các yếu tố pháp luật chi phối mạnh mẽ đến mọi hoạt động của nên kinh tế và xã hội đang phát triển trong nước đó. Nó quy định phạm vi nội dung và mức độ hoạt động của tất cả các doanh nghiệp không chỉ trong một quốc gia mà cả trên thị trường quốc tế. Vì vậy doanh nghiệp xuất khẩu phải hiểu rõ môi trường pháp luật của quốc gia mình và các quốc gia mà doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng hoá sang hoặc dự định xuất khẩu sang. Hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ các mặt sau:
+ Các quy định về thuế, chủng loại, khối lượng, quy cách
+ Quy định về hợp đồng, giao dịch bảo vệ quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ.
+ Các quy định về quy chế sử dụng lao động, tiền lương tiền thưởng, bảo hiểm phúc lợi.
+ Quy định về cạnh tranh độc quyền.
+ Quy định về tự do mậu dịch hay xây dựng nên các hàng rào thếu quan chặt chẽ.
Như vậy: một mặt các yếu tố pháp luật có thể tạo điều kiện thuận lợi các doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu bằng những chính sách ưu đãi, hỗ trợ nhưng mặt khác nó cũng ra hàng rào cản trở sự hoạt động của doanh nghiệp xuất khẩu khi buôn bán ra nước ngoài hay căn cứ khi doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường nội địa, gây khó khăn cho doanh nghiệp tận dụng cơ hội mở rộng hoạt động kinh doanh.
2.3. Các yếu tố về văn hoá xã hội.
Các yếu tố về văn hoá xã hội tạo nên các loại hình khác nhau của nhu cầu thị trường, là nền tảng cho sự xuất hiện thị yếu tiêu dùng, sự yêu thích trong tiêu dùng sản phẩm cũng như sự tăng trưởng của các đoạn thị trường mới. Đồng thời các xu hướng vận động của các yếu tố văn hoá xã hội cũng thường xuyên phản ánh những tác động do những điều kiện về kinh tế và khoa học công nghệ mang lại.
Các doanh nghiệp xuất khẩu chỉ có thể thành công trên thị trường quốc tế khi có những hiểu biết nhất định về môi trường văn hoá của các quốc gia, khu vực thị trường mà mình dự định đưa hàng hoá vào để đưa ra các quyết định phù hợp với nền văn hoá xã hội ở khu vực thị trường đó.
2.4. Các yếu tố kinh tế.
- Công cụ, chính sách kinh tế của các nước xuất nhập khẩu các quốc gia và những chính sách khác nhau sẽ tạo ra các cơ hội kinh doanh quốc tế khác nhau cho các doanh nghiệp.
Nếu như với các nền kinh tế phát triển cao, các liên kết khu vực và thế giới được thành lập với quy mô ngày càng lớn thì điều đó cho phép hàng hoá tự do qua lại biên giới các nước thì rõ ràng các hoạt động xuất khẩu cũng vì vậy mà phát triển.
- Hệ thống tài chính ngân hàng.
Hệ thống tài chính ngân hàng hiện đang phát triển hết sức mạnh , có ảnh hưởng trực tiếp tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Hệ thống tài chính ngân hàng có vai trò to lớn trong việc quản lý, cung cấp vốn đảm bảo việc thực hiện thanh toán một cách thuận tiện nhanh chóng cho các doanh nghiệp. Chính sách kinh tế quốc gia được thực hiện qua hệ thống tài chính ngân hàng tạo điều kiện phát triển cơ sở hạ tầng, tạo những công trình xây dựng mới giúp cho hoạt động xuất khẩu, hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp được thuận lợi.
Trong hoạt động xuất khẩu, vấn đề đảm bảo việc thanh toán được thực hiện tốt là hết sức quan trọng, đặt biệt đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu vì qua việc này doanh nghiệp thu hồi được vốn và có lợi nhuận.
Việc thanh toán chủ yếu thông qua ngân hàng. Như vậy ngân hàng trở thành cầu nối giữa bên xuất khẩu và bên nhập khẩu, đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên.
- Nguồn lực tài nguyên và giá cả.
Với những quốc gia nhân lực dồi dào, tài nguyên phong phú và giá rẻ thì sản phẩm của họ có sức cạnh tranh về giá cả. Khi xuất khẩu sẽ tiêu thụ nhanh chóng.
-Sự ổn định của giá trị đồng tiền :
-Nếu giá của đồng tiền dùng để thanh toán lên giá hoặc giảm giá thì lợi ích một trong hai bên sẽ bị thiết hại và họ sẽ xem xét có nên tiếp tục quan hệ thương mại với nhau nữa hay không khi lợi ích của họ không được đảm bảo.
2.5. Các yếu tố khoa học công nghệ.
Các yếu tố khoa học công nghệ quan hệ chặt chẽ với hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Sự phát triển của khoa học công nghệ ngày càng làm cho các doanh nghiệp đạt được trình độ công nghiệp hoá cao, quy mô tăng lên, tiết kiệm được chi phí sản xuất, hạ giá thành, chất lương sản phẩm được đồng bộ và được nâng cao lên rất nhiều. Sự phát triển của khoa học công nghệ đẩy mạnh sự phân công và hợp tác lao động quốc tế, mở rộng quan hệ giữa các khối quốc gia tạo điều kiện cho hoạt đông xuất khẩu
2.6. Nhân tố chính trị.
Thương mại quốc tế có liên quan rất nhiều quốc gia trên toàn thế giới, do vậy tình hình chính trị xã hội của mỗi quốc gia hay của khu vực đều có ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp. Chính vì thế ngưới làm kinh doanh xuất khẩu phải nắm rõ tình hình chính trị xã hội của các nước liên quan bởi vì tình hình chính trị xã hội sẽ ảnh hưởng tới hoạt đông kinh doanh xuất khẩu qua các chính sách kinh tế xã hội của các quốc gia đó . Từ đó có biện pháp đối phó hợp lý với những bất ổn do tình hình chính trị gây ra.
2.7. Các nhân tố cạnh tranh quốc tế.
Cạnh tranh trên thị trường quốc tế khốc liệt hơn thị trường nội địa rất nhiều. Hoạt động xuất khẩu của mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển ngoài đối phó với các nhân tố khác thì sự thắng lợi của các đối thủ cạnh tranh là thách thức và là bức rào cản nguy hiểm nhất. Các đối thủ cạnh tranh không chỉ dựa vào sự vượt bậc về kinh tế, chính trị, tiềm lực khoa học công nghệ mà nay sự liên doanh liên kết thành các tập đoàn lớn tạo nên thế mạnh độc quyền mang tính toàn cầu sẽ từng bước gây khó khăn bóp ch._.ết các hoạt động xuất khẩu của các quốc gia nhỏ bé.Do vậy vượt qua được các đối thủ cạnh tranh trên thị trường sẽ làm cho hoạt động xuất khẩu phát triển với hiệu quả hơn. Hoạt động xuất khẩu là một hoạt sản xuất kinh doanh phức tạp, không những chịu ảnh hưởng của những điều kiện môi trường khách quan và chủ quan trong doanh nghiệp mà phần lớn sự tác động của các yếu tố của môi trường vĩ mô trong nước cũng như quốc tế là những nhân tố giữ vai trò quan trọng và phần lớn quyết định sự tồn tại và phát triển của hoạt động xuất khẩu.Vì vậy doanh nghiệp phải biết tận dụng phát huy những thuận lợi của các nhân tố tích cực đồng thời phải biết đối phó với các yếu tố tiêu cực để giúp cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng được duy trì và phát triển. Có đẩy mạnh được hoạt động xuất khẩu thì mới có điều kiện mở rộng thị trường.
Chương II
Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ở công ty may Thăng Long
I. Khái quát về công ty may Thăng Long
1. Quá trình hình thành và phát triển
Cùng với sự vận động của nền kinh tế nước nhà, công ty may Thăng Long đã có một quá trình lịch sử phát triển lâu dài với chặng đường 44 năm đầy tự hào, vẻ vang,luôn là doanh nghiệp đầu đàn của ngành may mặc Việt Nam.
Công ty may Thăng Long là một doanh nghiệp nhà nước hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về mặt tài chính, có đầy đủ tư cách pháp nhân được mở tài khoản riêng ở các ngân hàng, theo pháp luật của nước cộng hoà XHCNVN.
Công ty may Thăng Long thành lập ngày 8/5/1958 theo quyết định của bộ ngoại thương, khi mới thành lập công ty có trụ sở tại 15 Cao Bá Quát, công ty may Thăng Long là một doanh nghiệp nhà nước do đó nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp do ngân sách nhà nước cấp và mặt hàng kinh doanh chủ yếu của doanh nghiệp lúc bấy giờ chỉ gồm áo mưa, pijama, măng tô và quần áo Jean. Tới nay do nhu cầu SXKD thay đổi công ty chuyển về địa điểm chính tại 250 Phường Minh Khai– Quận Hai Bà Trưng– Hà Nội. Nguồn vốn kinh doanh của công ty cũng thay đổi do vốn lưu động của công ty thay đổi và có sự gia tăng do có đầu tư hàng năm của ngân sách nhà nước và bổ xung từ quỹ, các nguồn khác trong nước và ngoài công ty: Huy động nội lực, vay ngân hàng, vay từ các tổ chức kinh tế đảm bảo duy trì và phát triển nguồn vốn công ty đã chủ động mua sắm tài sản cố định để tăng năng lực sản xuất, thực hiện đầu tư theo chiều sâu. Do vậy sản phẩm của công ty luôn được đổi mới và đa dạng về chủng loại, kích cỡ màu sắc, chất lượng sản phẩm cao và gia thành có thể được người tiêu dùng có thể chấp nhận được. Hiện nay công ty đã sản xuất và gia công rất nhiều mặt hàng mới như: áo Jacket, áo dệt kim, Jilê, sơ mi nam nữ, quần âu,veston, quần áo trẻ em, quần áo bộ, các loại áo rét, thảm, bộ thể thao. Để đảm bảo thực hiện mở rộng sản xuất kinh doanh, số lượng lao động trong công ty cũng thườc xuyên được bổ xung tăng lên qua các năm. Do đặc điểm của ngành may mặc nên tỷ lệ nữ trong công ty khá cao nhân viên của công ty có tuổi đời khá trẻ bình quân là 26 tuổi đại đa số đã qua phổ thông trung học và qua các trường lớp đào tạo nghề may, bậc thợ bình quân trong công ty là 4/7. Hằng năm công ty thường tổ chức thi công nhân vào công ty, sát hạch tay nghề cho công nhân nên đội ngũ công nhân có đủ năng lực để đáp ứng yêu cầu công việc thực tế của công ty. Đội ngũ cán bộ của công ty có trình độ chuyên môn cao, đa số có trình độ đại học và trên đại học, có khả năng sử dụng thành thạo máy vi tính, Anh văn, có nhiều kinh nghiệm trong công tác kinh doanh xuất nhập khẩu, có khả năng đảm đương nhiều vị trí quan trọng và có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo trong công việc làm ăn với nước ngoài . Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ giàu năng lực tâm huyết với công ty đã đóng góp công sức, trí tuệ không nhỏ vào thành công chung của công ty trong SXKD.
2. Chức năng nhiệm vụ của công ty :
* Chức năng :
Là một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nên hoạt động của công ty đảm bảo thực hiện chức năng sau :
+ Sản xuất, nhập khẩu trực tiếp các sản phẩm có chất lượng theo đơn đặt hàng trong nước và nước ngoài.
+ Quản lý, chỉ đạo cung cấp những tiến bộ khoa học kỹ thuật các thiết bị kỹ thuật thích hợp cùng với chiến lược phát triển chúng cho các đơn vị thành viên .* Nhiệm vụ:
Là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong nền kinh tế thị trường nên công ty may công ty may Thăng Long có những nhiệm vụ sau:
+ Có nghĩa vụ nhận sử dụng có hiệu quả, bảo toàn vốn của nhà nước giao, để thực hiện mục tiêu sản xuất kinh doanh cũng như hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước .
+ Thực hiện các khoản nợ phải trả, phải thu ghi trong bảng cân đối tài khoản của công ty tại thời điểm thành lập, trả các khoản tín dụng do công ty trực tiếp vay hoặc do công ty bảo lãnh vay
+ Quản lý hoạt động kinh doanh, đảm bảo cân đối vốn của nhà nước, đáp ứng nhu cầu thị trường và bình ổn giá cả những hàng hoá và dịch vụ thiết yếu đúng quy địng của nhà nước.
+ Đảm bảo và nâng cao thu nhập cho người lao động.
3. Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty.
Tên công ty :CÔNG TY MAY THĂNG LONG
Tên giao dịch quốc tế : THĂNG LONG GARMEST COMPANY (ThaLoGa) Loại hình doanh nghiệp : Doanh nghiệp nhà nước
Cơ quan quản lý cấp trên : Tổng Công ty Dệt –May Việt Nam .
Địa chỉ : 250 Minh Khai - quận Hai bà Trưng – Hà Nội .
Số điện thoại : 862372-fax 84.4.623372.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức quản lý của công ty may thănng Long:
Công ty may Thăng Long là một doanh nghiệp tổ chức quản lý theo kiểu trực tuyến chức năng có nghĩa là các phòng ban tham mưu với giám đốc theo từng chức năng, nhiệm vụ của mình giúp ban giám đốc điều hành đưa ra những quyết định đúng đắn, có lợi cho công ty. Hiện nay cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty gồm có:
3.1. Ban giám đốc bao gồm :
1. Tổng giám đốc : Tổng giám đốc là người đứng đầu bộ máy công ty, thay mặt công ty chịu trách nhiệm trước nhà nước về toàn bộ hoạt động của mình, điều hành mọi hoạt động của công ty .
2. Phó tổng giám đốc điều hành sản xuất : Có trách nhiệm giúp việc cho tổng giám đốc về mặt kỹ thuật, thiết kế của công ty.
3. Phó tổng giám đốc điều hành sản suất : Có trách nhiệm giúp việc cho tổng giám đốc trực tiếp chỉ đạo hoạt động SXKD.
4.Phó tổng giám đốc điều hành nội chính : Có chức năng tham mưu giúp việc cho tổng giám đốc, có nhiệm vụ trực tiếp điều hành công tác lao động, tiền lương, bảo hiểm y tế, tuyển dụng lao động, đào tạo cán bộ, chăm lo đời sông cho cán bộ công nhân viên.
3.2. Các phòng ban trực thuộc:
1. Phòng kỹ thuật : Đây là đơn vị tham mưu giúp tổng giám đốc trong lĩnh vực quản lý kỹ thuật, quản trị, phác thảo, tạo mẫu hàng theo đơn đặt hàng của khách hàng,và nhu cầu của công ty.
2. Phòng KCS : Là đơn vị xây dựng các phương án quản trị và nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí trong sản xuất. Phòng KCS có nhiệm vụ kiểm tra chất lượng hàng may mặc trước khi giao cho khách hàng.
3.Văn phòng công ty : Là đơn vị tham mưu cho giám đốc về mặt tổ chức, xây dựng hệ thống nội quy, quy chế đảm bảo đúng chế độ chính sách của Đảng, của nhà nước và tình hình thực tế của công ty, tổ chức quản lý lao động.
4. Phòng kế hoạch sản xuất :có chức năng tham mưu cho giám đốc điều hành kế hoạch sản xuất của công ty , giúp ban giám đốc lập kế hoạch, theo dõi kế hoạch sản xuất, tiêu thụ ngắn và dài hạn.
5. Phòng kho : có nhiệm vụ quản lý và cấp phát nguyên vật liệu nhập về công ty. Phòng kho quản lý và bảo quản các thành phẩmdo xí nghiệp sản xuất ra và chờ thời gian giao hàng cho khách.
6. Phòng kế toán –tài vụ: có chức năng chuẩn bị và quản trị nguồn tài chính, phục vụ cho SXKD và các khoản lương cho các cán bộ công nhân viên trong công ty.
7. Phòng thị trường : có nhiệm vụ nghiên cứu, khảo sát thị trường và lập kế hoạch sx kịp thời, đúng hạn trong hợp đồng.
3.3. Các cửa hàng và các xí nghiệp :
1. Cửa hàng dịch vụ: làm công tác dịch vụ, phục vụ thêm cho đời sống của công nhân viên.
2. Trung tâm thương mại và giới thiệu sản phẩm (TTTM>SP): tại đây công ty trưng bày các mặt hàng sản xuất, vừa giới thiệu sản phẩm vừa bán.
3. Cửa hàng thời trang : Tại đây các mẫu quần áo được thiết kế tại xưởng thời trang và chúng mang tính chất giới thiệu là chính.
4. Xưởng thời trang : Thiết kế ra những mẫu mã mới.
5. Xí nghiệp dịch vụ và đời sống: Chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên trong công ty, vệ sinh môi trường.
6. Xí nghiệp phù trợ: tham mưu giúp cho tổng giám đốc trong các lĩnh vực : Cơ điện, thiết bị máy móc, dập mài nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động của công ty.
7.Sáu xí nghiệp trong công ty được trang bị máy móc hiện đại và theo quy trình công nghệ khép kín thong nhất từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng của quá trình sản xuất sản phẩm. Các xí nghiệp may thực hiện quá trình sản xuất hàng may mặc bao gồm các công đoạn : cắt ,may ,là, đóng gói sản phẩm.
Ngoài các bộ phận, các xí nghiệp tập chung tại công ty ở 250 Minh Khai, công ty may Thăng Long còn có hai chi nhánh ở Nam Định và Hà Nam
4. Thị trường của công ty may Thăng Long :
Đến nay công ty may Thăng Long đã có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp cùng với khả năng có thể huy động vốn dễ dàng hơn nên trong một số năm qua công ty đã rất nỗ lực trong công tác nghiên cứu thị trường, tìm các phương hướng mở rộng và phát triển thị trường đồng thời với việc không ngừng đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất của công ty để chủ động thoả mãn nhu cầu hàng may mặc luôn thay đổi và ngày càng cao của khách hàng trong và ngoài nước, đặc biệt chú ý đến thị trường tiềm năng.
Năm 2002 cho thấy doanh thu xuất khẩu chiếm hơn 80% tổng doanh thu (185 tỷ đồng) ,trong đó phần lớn là xuất sang thị trường Mỹ, Eu và Nhật Bản.
Tuy nhiên trên thị trường quốc tế công ty gặp phải nhiều đối thủ cạnh tranh nặng ký như: Trung Quốc, Thái Lan, Malaxia, Xingapore, Indonexia...Tất cả các sản phẩm của họ đều có chất lượng mẫu mã, chủng loại hơn ta giá thành thấp do chi phí sản xuất được giảm nhẹ nhờ áp dụng công nghệ cao, hiện đại không những thế họ còn luôn thay đổi mẫu mã, chủng loại để phù hợp với thị hiếu của khách hàng và những nhu cầu mới phát sinh của họ.
Mặc dù vậy với các thị trường xuất khẩu chính của Châu á thì hàng dệt may của Việt Nam vẫn có lợi thế về giá nhân công, giá nhân công của Việt Nam vẩn còn tương đối rẻ so với các nước trong khu vực. Mặt khác thị trường các nước như EU, Mỹ, Nhật Bản với số dân đông và sức tiêu thụ hàng năm là rất lớn. Do đó đây vẫn là cơ hội lớn cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần nhanh chóng đầu tư máy móc đưa công nghệ hiện đại áp dụng vào sản xuất để tăng khả năng cạnh tranh.
Bên cạnh việc phát triển thị trường xuất khẩu, công ty may Thăng Long rất quan tâm đến thị trường nội địa để chiếm lĩnh thị trường nội địa trong năm qua công ty đã tổ chức 80 điểm bán hàng giới thiệu sản phẩm tại các tỉnh thành trong cả nước. Tại thị trường nội địa công ty cũng phải chịu áp lực cạnh tranh mạnh mẽ của hàng may mặc được nhập lậu, trốn thuế từ Trung Quốc, Hàn Quốc về với giá rẻ và mẫu mã đa dạng. Tuy nhiên công ty vẫn không ngừng nghiên cứu thị trường, thị hiếu của khách hàng để trừ ra những sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng.
II. Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của công ty may Thăng Long.
Kết qủa hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong các năm 2000-2002 hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra trong điều kiện hết sức khó khăn và thách thức lớn.
-Hoạt động xuất khẩu gặp khó khăn do thị trường EU 1 số cát nóng thiếu hạn nghạch, năm 2000 va 2001 chưa có hiệp định thương mại Việt Mĩ. Cạnh tranh gay gắt làm cho giá xuất khẩu giảm từ 10-30%.
-Thiên tai liên tiếp xảy ra, các mặt hàng nông sản rớt giá làm thị trường trong nước kém sôi động thêm vào đó hàng nhập lậu, trốn thuế với số lượng lớn gây ảnh hưởng lớn tới sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
-Vốn lưu động thiếu, hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa trên vốn vay, một số chi phí đầu vào tăng, (giá điện, than, cước phí vận tải, bưu chính viễn thông ) đã làm tăng giá thànhgiảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may.
Tuy nhiên, doanh nghiệp có một số thuận lợi như tình hình kinh tế chính trị ổn định, từ cuối năm 2001 hiệp định thương mại Việt Mĩ đã có hiệu lực, thị trường Mỹ chưa bị áp dụng Quota, sau sự kiện ngày11-9-2001 khách hàng có xu hướng chuyển đơn hàng đến các quốc gia an toàn, trong đó có Việt Nam.
Chiến lược tăng tốc phát triển gian đoạn từ 2001-2010 kèm theo các chính sách ưu đãi đã được chính phủ phê duyệt tại quyết định 55/2001/QĐ-TTG ngày 23/4/2001 tạo điều kiện cho ngành dệt may Việt nam nói chung và công ty may Thăng Long nói riêng vươn lên hội nhập với khu vực và trên thế giới.
Kết quả thực hiện các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh từ năm 2000-2002
Mức tăng trưởng bình quân của 3 năm tương đối cao( giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 19%, doanh thu tăng 19%, KNXK (tính đủ nguyên phụ liệu tăng 10,3%).
Đặc biệt trong năm 2002 công ty đạt nhịp độ tăng trưởng rất cao cụ thể: giá trị sản xuất công nghiệp tăng28% so với năm 2001(mức tăng bình quân của tông công ty dệt –may Việt Nam là 16,8%) tổng doanh thu tăng 23%, kim ngạch xuất khẩu( tính dủ nguyên phụ liệu) đạt được 46,6 triệu USD tăng 16,5% sản phẩm sản xuất chủ yếu (quy sơ mi chuẩn ) tăng 10% , nộp ngân sách nhà nước đạt 3820 triệu đồng, tăng 16% đồng thời thu nhập của người lao động cũng tăng lên 15% so với năm 2001 tổng doanh thu của công ty tăng cao, điều này có sự đóng góp to lớn của doanh thu xuất khẩu bởi doanh thu xuất khẩu năm 2002 tăng 28% so vơi năm 2001 và chiếm 88,6% trong tổng doanh thu đạt được. Điều này chứng tỏ doanh thu măt hàng gia công xuât khẩu và gia công trong nước tăng. Tuy găp khó khăn về hạn ngạch tại thị trường EU và thị trường nhật bản bị thu hẹp đối với hai mặt hàng chủ lực nhưg do doanh nghiệp đã chủ động chuẩn bị từ trước nên khi thị trường Mỹ được mở ra đã kịp thời khai thác có kết quả hoạt đốngản xuất kinh doanh của công ty không ngừng được phát triển, thị phần nước ngoài ngày càng được mở rộng khai thác, doanh thu xuất khẩu không ngừng tăng lên qua các năm. Kết quả trên cho ta thấy vai trò của hoạt động xuất khẩu trong công ty là hết sức quan trọng. Nó đóng vai trò to lớn đỗi với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.Tạo ra doanh thu và lợi nhuận chủ yếu cho doanh nghiệp. Đặc biệt trong những năm gần đây doanh thu từ hàng mua đứt bán đoạn (hàng FOB) là hàng mục tiêu của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy từ hàng bán FOB mang lợi nhuận cao. Cùng một số mặt hàng, nếu mua nguyên phụ liệu để may rồi bán thành phẩm, sau khi trừ đi các khoản chi phí sẽ có lãi, ít nhất hai lần so với khi chỉ may gia công mặt hàng đó cho khách hàng. Đồng thời làm hàng bán FOB sẽ có điều kiện tiếp cận trực tiếp với thị trường nắm bắt được nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng từ đó có thể chủ động sản xuất tránh được tính mùa vụ, bị động trong sản xuất mà các doanh nghiệp làm gia công thường gặp.
Nhìn chung công ty may Thăng Long đã thích nghi nhanh chóng với cơ chế thị trường tạo được thế mạnh cạnh tranh khá mạnh trong thị trường may mặc nước ta hiện nay, đặc biệt là may mặc xuất khẩu. Công ty đã xây dựng được một mạng lưới thị trường đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng lớn, dầu ổn định SXKD có hiệu quả. Mặc dù không tránh khỏi những rủi ro và còn có những mặt tồn tại nhưng công ty sẽ vẫn tiếp tục nghiên cứu và giả quyết thoả đáng, tìm ra những giải pháp khả thi và hữu hiệu tìm ra phương hướng sản xuất kinh doanh đúng đắn để tiếp tục đầu tư, đổi mới để phát triển công ty, nâng cao uy tín vốn có của công ty trên thị trường may mặc nói chung và thị trường may mặc xuất khẩu nói riêng.
2.Kết quả hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của công ty:
Đối với công ty may Thăng Long hoạt động xuất khẩu được coi là hoạt động quan trọng nhất của công ty. Nếu so hoạt động xuất khẩu của công ty với toàn ngành thì hoạt động xuất khẩu của công ty còn nhỏ nhưng so với các hoạt động kinh doanh khác của công ty thì hoạt động xuất khẩu có vị trí quan trọng hơn cả. Vai trò đó thể hiện ở bảng sau:
Bảng :Doanh thu xuất khẩu năm 1998-2002:
Chỉ tiêu
Đơn vị
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng doanh thu
Triệu đồng
78881
97000
114655
133000
158000
Doanh thu XK
Triệu đồng
66911
82123
93162
109000
140000
DTXK/TDT
%
84.8
84.7
81.3
82
88.6
Qua bảng trên ta thấy doanh thu xuất khẩu của công ty không ngừng tăng lên qua các năm và nó chiêm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu doanh nghiệp. Đặc biệt năm 2002 doanh thu xuất khẩu đạt 140 tỷ đồng chiếm 88.6% tổng doanh thu .Kết quả đạt được như vậy là nhờ có chiến lược về thị trường và khách hàng của công ty nên sau khi hiệp định Thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực, công ty đã có rất nhiều khách hàng đến ký kết hợp đồng để xuất khẩu sang thị trường Mỹ như hãng SK (Hàn Quốc) ,khách hàng Lee của hãng Winmask, khách hàng Richbase ,hãng Meircarbby, hãng Wanshin, hãng Blooming, hãng Itochu...
2.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc tại công ty:
Trong những năm qua công ty gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực cho nên nhập khẩu từ những thị trường xuất khẩu không hạn ngạch chính của doanh nghiệp như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... lại giảm mạnh .Nhiều khách hàng đã cắt hợp đồng từ tháng 8 năm 1998 do tiêu thụ nội địa giảm mạnh , mặt khác thị trường truyền thống như EU có một số mặt hàng hết hạng ngạch. Tuy nhiên kể từ khi Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Mỹ, Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU thì cơ hội mở rộng thị trường của công ty được mở ra . Do đó kim ngạch xuất khẩu của công ty không phải giảm đi mà còn tăng lên rất nhiều , đây là xu hướng tốt mà công ty cần phát huy. Đạc biệt kim ngạch xuất khẩu năm 2002 đạt 46.6 tỷ đồng tăng 10% so với năm 2001
2.2. Tình hình xuất khẩu một số mặt hàng trọng điểm của công ty. Công ty may Thăng Long xác định chuyên môn hoá được coi là hạt nhân trọng tâm và là phương hướng chủ đạo trong phát triển sản xuất kinh doanh của công ty, bên cạnh kết hợp với đa dạng hoá sản phẩm. Hiện nay, công ty sản xuất và xuất khẩu trên 20 mặt hàng khác nhau. Căn cứ vào thị trường và năng lực , vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của công ty mà công ty xác định các mặt hàng trọng điểm cho mình trong từng thời kỳ khác nhau. Hiện nay công ty đã sản xuất những mặt hàng chủ yếu sau:
Bảng: một số mặt hàng chủ yếu của công ty:
TT
Mặt hàng
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
So sánh(%)
2001/2000
2002/2001
Sản phẩm sx chủ yếu(quy sơ mi chuẩn)
Tổng sản phẩm sx chủ yếu
*áo jacket các loại
*quần các loại
*sản phảm dệt kim
*các loại sản phẩm khác
5.143.000
3.579.896
424.186
707.586
1.194.467
737.213
6.319.000
4.065.000
443.000
987.000
1.257.000
743.000
7.627.000
5.390.000
502.000
1.955.000
1.902.000
94.000
123
111
104
139
105
101
121
133
113
198
153
12,7
Qua bảng trên ta thấy, sản phẩm của công ty qua các năm không ngừng tăng lên, hầu hết các sản phẩm của công ty đều tăng. Đặc biệt là mặt hàng áo sơmi, quần các loại và sản phẩm dệt kim .Điều này chứng tỏ năng suất lao động của công ty không ngừng tăng lên và DN luôn chú trọng mở rộng thị trường sản xuất kinh doanh. Cụ thể:
2.2.1.Sản phẩm áo sơ mi:
áo sơmi nam là mặt hàng truyền thống của công ty.Công ty may Thăng Long rất có uy tín trong sản xuất và gia công các loại áo sơmi nam các chất cotton, vải Jeen, vải Visco.Trước đây mỗi năm công ty xuất khẩu sang thị trường các nước đông Âu và Pháp khoảng 300.000 chiếc, một vài năm trước tuy lượng áo sơmi nam có giảm đôi chút nhưng giá gia công hay giá sản phẩm tăng lên do chất lượng áo nâng lên rất nhiều, kiểu dáng đẹp rất được khách hàng ưa chuộng. Đến những năm gần đây số lượng sản phẩm này không ngừng tăng lên. Năm 2001 tăng 3% so với năm 2000, đạt 533.000 chiếc, năm 2002 tăng lên 76% so với năm 2001, đạt 937.000 chiếc. Điều này cho thấy DN đã đầu tư rất lớn vào máy móc thiết bị hiện đại, nâng cao trình độ quản lí và tay nghề cho người lao động để sản xuất có hiệu quả hơn. Kết quả về kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này năm 2001 đạt 2.882.000 USD và năm 2002 đạt 7.437.000 USD, sản phẩm được xuất khẩu thị trường Mĩ và một số thị trường khác như Pháp, Đức, ĐanMạch, Sec, Canada, Nhật, Đài Loan, Hồng Kông… Điều này chứng tỏ vị trí của mặt hàng này trên thị trường trong nước cũng như trên Thế giới.
2.2.2.áo Jacket:
Đây là sản phẩm được tiêu thụ với số lượng lớn trong những năm vừa qua ở các thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng áo jacket và áo khoác vào các thị trường năm 2001 đạt 9.238.000 USD và năm 2002 đạt 6.714.000 USD. Tuy năm 2002 có giảm so với năm 2001 do việc xuất khẩu sang một số nước giảm hoặc hết hạn ngạch. Tuy nhiên sản phẩm này có xu hướng tăng lên vào một số thị trường như Mĩ, Hồng Kông, ISRAEL.
Sản phẩm sản xuất vẫn tiếp tục tăng qua các năm 2001 tăng 11% so với năm 2000, nhưng đến năm 2002 thì tăng 33% so với năm 2001. Điều này chứng tỏ mặt hàng này của công ty vẫn rất được chú trọng vào đầu tư phát triển mở rộng sản xuất và đẩy mạnh tiêu thụ vì thị phần của sản phẩm này chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu xuất khẩu.
2.2.3.Quần các loại:
Quần âu, quần bò là mặt hàng quan trọng của công ty từ trước đến nay, đây là mặt hàng chiếm tỉ trọng cao trong tổng số các mặt hàng. Trong những năm qua sản phẩm này không ngừng gia tăng, năm 2001 đạt 987.000 chiếc, tăng 39% so với năm 2000. Đặc biệt năm 2002 đạt 1.955.000 chiếc tăng 98% so với năm 2001. Điều này cho thấy đây là mặt hàng đang được thị trường tiêu thụ rất lớn và DN đã rất quan tâm đầu tư vào mặt hàng này. Hiện nay công ty đã có riêng phân xưởng sản xuất, chủ yếu là quần Jean. Điều đáng tự hào là vải Jean này từ các đơn vị sản xuất trong nước như công ty dệt 19/5, công ty dệt vải công nghiệp, công ty nhuộm Hà Đông. Do đó kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này vào các thị trường là rất lớn, đạt 8.398.000 USD năm 2001 và đạt 17.695.000 USD năm 2002. Trong hai năm qua kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này rất lớn, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty (46.632.000USD). Mặt hàng này công ty đã xuất khẩu sang thị trường Mĩ, Nhật, Đức với giá trị lớn.
Trong thời gian tới nếu các công ty sản xuất vải trong nước nâng cao chất lượng hơn nữa vải Jean ,đồng thời công ty may Thăng Long thiết kế kiểu dáng phù hợp với thị trường trong nước thì mặt hàng quần Jean của công ty chắc chắn sẽ tiêu thụ được một lượng khá lớn ngay tại thị trường nội địa với nhu cầu quần áo Jean khá cao đặc biệt với giới trẻ .
2.2.4. áo dệt kim
Hiện nay công ty may Thăng Long có một xưởng may hàng dệt kim hợp tác với một công ty may ở hồng kông. Vốn đầu tư cho phân xưởng này khoảng hơn 1 tỷ đồng. Mặt hàng này đang được một số thị trường tư bản ưa chuộng như EU Mỹ. Ngay sau khi hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực. Năm 2001 công ty đã xuất sang Mỹ 300.000 sản phẩm, kim nghạch xuất khẩu mặt hàng này là 8.907 triệu USD năm 2002. Sản phấm sản xuất 1.902.000 sản phẩm năm 2002, tăng 53%so với năm 2001. Điều này cho thấy vị trí quan trọng của mặt hàng dệt kim của công ty, nó luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phâ,r sản xuất ra. Hiện nay công tyu đang triển khai tìm kiếm nguồn nguyên vật liệu để có thể chủ động sản xuất hàng dệt kim và chuyển sang bán đứt mặt hàng này để đem lại hiệu quả kinh doanh cao hơn .
2.2.5. Các loại quần áo khác
Năm 2002 các loại quần áo này đạt 94.000 chiếc, giảm hơn 80% so với năm 2001. Mặt hàng này giảm đi do doanh nghiệp đầu tư chủ yếu vào sản xuất chuyên môn hoá các loại sản phẩm trên vì chúng đem lại hiệu quả kinh doanh cao hơn. Tuy nhiên trong thời gian tới công ty vẫn tiếp tục nghiên cứu thị trường và phát triển các loại mặt hàng làm cho sản phẩm của công ty ngày càng phong phú và đa dạng, đáp ứng nhu cầu của thị trườngvà nâng cao khả năng cạnh tranhcủa doanh nghiệp
2.3 .Tình hình thị trường xuất khẩu của công ty.
Trong những năm qua, công ty may Thăng Long đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, nắm vững nhu cầu, thị hiếu về hàng may mặc ở thị trường các nước trên thế giới. Hiện nay công ty có quan hệ hợp tác với nhiều công ty, khách hàng nước ngoài và sản phẩm của công ty đã được xuất khẩu trên 40 nước trên thế giới như : Đông Âu, EU, Nhật Bản, Pháp, Mỹ ...
Bảng: Năng lực xuất khẩu tham gia thị trường năm 2001-2002 của công ty
Đơn vị :1000 USD
Thị trường
2001
2002
So sánh
ST
TT %
ST
TT %
ST
TT%
Mĩ
18712
46,9
87.720
80
19.008
201,6
Nhật
5.490
13,8
4.018
8,6
1472
73
Eu
9.273
23,3
3.820
8,2
5.453
42
T2 khác
6.397
16
1.067
3,2
5.330
16
ồKNXK
39.872
100
4.662
100
6.753
117
Qua bảng trên ta thấy : Kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường có sự tăng giảm không đều nhưng nhìn chung kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp tăng 17% năm 2002 so với năm 2001. Trong đó một số thị trường: Eu, Nhật, và các nước khác có xu hướng giảm xuống. Kết quả này do một số thị trường hết hạn ngạch và do cuộc khủng hoảng của cuộc kủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực Châu á. Tuy nhiên thị trường Mỹ không ngừng được mở rộng vì vậy kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ năm 2002 tăng 101,8% so với năm 2001. Do vậy mà tổng kim nghạch xuất khẩu của công ty cũng tăng lên rất nhiều .
* Thị trường Mỹ
Mỹ là một thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất trên thế giới. Năm 2001 Mỹ nhập hàng dệt may 70 Tỷ USD (hàng may mặc 56,4 tỷ USD). Hàng dệt may vào thị trường Mỹ chủ yếu là hàng FOB, phải có nhãn hiệu hàng hoá đúng quy định và phải tuân thủ đầy đủ luật hải quan Mỹ. Khách hàng thường đặt những lô hàng lớn đòi hỏi chất lượng hàng tốt và đúng thời hạn giao hàng đồng thời doanh nghiệp phải thực hiện tốt các nội dung của tiêu chuẩn SA8000 về trách nhiệm xã hội .
Để thâm nhập vào thị trường Mỹ, ngay từ năm 1985 khi Mỹ xoá bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam Thaloga đã xuất khẩu lô hàng đầu tiên gồm 20.000 sản phẩm sơ mi bò vào thị trường Mỹ và cũng ngay từ năm 1985 công ty đã tích cực tìm kiếm bạn hàng và ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với công ty ONGOOD (Hồng Kông ) đầu tư mới 200 thiết bị chuyên dùng để sản xuất hàng dệt kim mang nhãn hiệu UNION BAY xuất khẩu sang Mỹ với sản lượng 1.200.000/ năm.
Nhờ thực hiện tốt hợp đồng hợp tác kinh doanh nên năm 1999 công ty tiếp tục mở rộng hợp tác với ONGOOD thêm một xưởng sản xuất dệt kim với 250 máy các loại tăng sản lượng 2.500.000 sản phẩm /năm và ký thêm hợp đồng với hãng Godenfirst chuyên sản xuất sơ mi và quần kaki xuất sang thị trường Mỹ. Tháng 7/2002 công ty tiếp tục hợp tác kinh doanh xưởng giặt mài với công ty Winmark, đầu tư toàn bộ hệ thống máy giặt mài hiện đại công nghệ tiên tiến thay thế cho hệ thống máy giặt mài cũ của công ty từ năm 1990 nhằm chủ động trong việc triển khai các đơn hàng xuất khẩu sang thị trường Mỹ và thu hút thêm nhiều khách hàng mới, tăng nhanh năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh.
Bảng kết quả xuất khẩu sang thị thị trường mỹ:
Đơn vị tính : 1000 USD
Năm
Tổng kim ngạch xk
Jackét và áo khoác
Sơ mi các loại
Quần các loại
Hàng dệt kim
Quần áo khác
2001
18.712
399
810
3.729
13.192
582
2002
35.919
5.432
5.595
14.327
8.010
2.555
Tổng
54.631
5.831
6.405
18.056
21.202
3.137
Qua bảng trên ta thấy kim nghạch xuất khẩu vào thị trường mỹ của công ty không ngừng tăng lên qua các năm. Đặc biệt là sau khi hiệp đinh thương mại Việt Mỹ có hiệu lực. Kim ngạch xuất khẩu năm 2002 và thị trường này đạt 35.919.000 USD tăng 17.207.000 USD so với năm 2001. Điều này cho thấy rõ hiệu lực của hiệp định thương mại VIệt Mỹ và vai trò to lớn của nó trong việc xuất khẩu hàng hoá của công ty cụ thể: Kim ngạch các mặt hàng hầu như đều tăng lên đặc biệt là mặt hàng mặt hàng áo sơ mi, quần âu, áo Jacket và áo khoác tăng từ 399.000 USD lên 5.432.000 USD (mặt hàng áo Jacket) và tăng từ 3.729.000 USD lên 14.327.000 USD (mặt hàng quần âu). Mặt khác các loại mặt hàng khác cũng tăng lên tuy nhiên tốc độ tăng thì thấp hơn các sản phẩm trên. Rõ ràng đây là một thị trường lớn mà công ty cần đầu tư để khai thác tối đa lợi thế của nó, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và cùng với các đơn vị trong toàn ngành thực hiện chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may của tổng công ty dệt mayViệt Nam.
*Thị trường EU
Là một trong những thị trường xuất khẩu lớn của Việt nam hiện nay. Eu là một trong những trung tâm kinh tế chính trị của thế giới, chiếm khoảng 20% tổng giá trị buôn bán của thế giới, chiếm 40% viện trợ cho các nước. EU là một thị trường đông dân (380triệu người) có đời sống cao và mức tiêu thụ hàng may mặc cũng lớn. Từ những năm 80, công ty đã có hàng may mặc xuất khẩu sang các nước EU như Pháp, Đức... sau đó do tình hình chính trị phức tạp nên quan hệ buôn bán có dừng lại. Từ năm 1991, xuất khẩu hàng dệt may của các nước sang EU lại tiến triển. Tháng 12/1992 hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt nam và EU được ký kết có hiệu lực từ 1/1/1993 đã tạo cho ngành may Việt nam nói chung và công ty may Thăng Long nói riêng bước vào giai đoạn mới, tăng trưởng nhanh chóng.
Trong hiệp định mới 1998-2000, EU đã tăng 30 % hạn ngạch cho Việt Nam, xoá bỏ quota với 25 mặt hàng, chỉ còn giữ 29 mặt hàng vẫn quản lý theo quota.
Hiện nay các doanh nghiệp việt Nam mới chỉ tận dụng được 41% năng lực của mình tại thị trường EU . Thực tế cho thấy còn nhiều chủng loại mặt hàng có hạn ngạch nhưng doanh nghiệp vẫn chưa khai thác hết. Đó là những mặt hàng yêu cầu phải có thiết bị kỹ thuật cao, công nhân lành nghề và có tay nghề cao. Hiện nay công ty đã và đang tiếp tục đầu tư trang thiết bị kỹ thuật mới để đáp ứng nhu cầu thị trường và tận dụng lợi thế và cơ hội hiện nay. Nếu doanh nghiệp không tiếp tục đầu tư để lấp lỗ hổng về kỹ thuật thì sẽ mất đi một tiềm năng to lớn về thị trường cho nghành dệt của nước ta cũng như của công ty. Cùng với vấn đề làm thế nào để chúng ta có thể tiếp cận thị trường và xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Eu, giảm sự phụ thuộc và không thông qua các nhà đặt hàng trung gian, tạo lợi nhuận lớn hơn cho doanh nghiệp.
*Thị trường Nhật Bản.
Thị trường may mặc Nhật Bản là một thị trường may mặc rất lớn và thị trường không hạn ngạch. Do giá công nhân may ở Nhật ngày càng đắt nên Nhật chủ trương nhập khẩu hàng may mặc từ năm1986. Hiện nay dân số của Nhật khoảng 122 triệu người và mức thu nhập bình quân đầu người là 26700$/năm thì nhu cầu về hàng may mặc tương đối lớn. Hàng năm nhu cầu nhập hàng của Nhật Bản là 3 - 3.5 tỷ USD. Gần đây do suy thoái kinh tế._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29274.doc