Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất

Lời nói đầu đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định CNH – HĐH nền kinh tế nước ta vừa là mục tiêu vừa là chiến lược phát triển đất nươc trong những năm tới, từ chiến lược đó Đảng và Nhà nước đã chủ trương khơi dậy, phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, ra sức cần kiệm để đẩy mạnh CNH – HĐH. Để thực hiện thành công cần phải có chiến lược thu hút vốn đầu tư phát triển, một trong những biện pháp để đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư từ trong v

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à ngoài nước là việc thành lập các KCN. Thực tế năm qua đây là một nhân tố quan trọng góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế đất nước. Trong bối cảnh đó, cuối năm 1996, Chính phủ đã quyết định chọn Dung Quất làm KCN lọc hoá dầu đầu tiên của cả nước, khu tập trung các ngành công nghiệp quy mô lớn, là trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm miền trung trong chiến lược phát triển cân đối cùng lãnh thổ. Thời gian từ năm 1996 – 2001 chưa phải là dài nhưng cũng đủ để cho chúng ta thấy những thành công cũng như không ít những khó khăn thách thức đối với KCN Dung Quất. Do đó cần có sự nghiên cứu phân tích để rút ra những bài học thành công và thất bại, từ đó đánh giá được triển vọng thu hút đầu tư vào KCN Dung Quất cũng như những giải pháp cần phải thực hiện trong giai đoạn tăng tốc của Dung Quất. Thấy được tầm quan trọng của vấn đề em đã lựa chọn đề tài: “Thực trạng và triển vọng thu hút đầu tư vào KCN Dung Quất ”. Chuyên đề gồm có ba phần chính: Chương I: Những vấn đề lý luận chung về thu hút đầu tư vào KCN. Chương II: Thực trạng và triển vọng thu hút đầu tư vào KCN Dung Quất. Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường khẳ năng thu hút vốn đầu tư vào KCN Dung Quất. Trong khuôn khổ của một chuyên đề thực tập tốt nghiệp với hạn chế về kiến thức cũng như hiểu biết thực tiễn, chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo Bộ môn và các cô chú trong Cơ quan đại diện ban quản lý KCN Dung Quất tại Hà Nội. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của cô giáo Thạc sĩ Đinh Đào ánh Thuỷ cùng các cô chú ở Cơ quan đại diện Ban quản lý KCN Dung Quất. Sinh viên. Hà Vũ Nam. Chương I: Những vấn dề lý luận chung về thu hút đầu tư vào khu công nghiệp. I. Những vấn đề lý luận chung về đầu tư. 1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư phát triển. 1.1. Khái niệm đầu tư. Thuật ngữ đầu tư nói chung có thể được hiểu đồng nghĩa với sự bỏ ra, sự hy sinh. Từ đó có thể coi đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh những gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho nhà đầu tư trong tương lai. Theo định nghĩa này thì tất cả các hành động bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động như xây dựng nhà cửa, phân xưởng, về cơ sở vật chất, về nâng cao trình độ…trong tương lai lớn hơn những chi phí bỏ ra. Vì vậy tất cả các hành động đó được xem là đầu tư. Tuy nhiên đầu tư có thể được xem xét trên các góc độ khác nhau: - Xét trên góc độ tài chính: đầu tư là một chuỗi hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi dòng thu nhập nhằm hoàn vốn và sinh lời. - Trên góc độ tiêu dùng: đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu đựơc các mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. - Trên góc độ nền kinh tế: đầu tư là sự bỏ vốn (chi tiêu vốn) cùng các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó (tạo ra hoặc khai thác một tài sản) nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai. Theo định nghĩa này thì các hoạt động gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phần, mua hàng tích trữ không hề làm tăng tài sản cho nền kinh tế mà thực chất chỉ là việc chuyển giao quyền sử dụng tiền và quyền sở hữu cố phần, hàng hoá từ người này sang người khác. giá trị tăng thêm của người đầu tư ở đây chính là giá trị mất đi của quỹ tiết kiệm, của cổ đông bán cổ phần và người mua hàng. Tài sản của nền kinh tế trong trường hợp này không có sự thay đổi một cách trực tiếp. Các hoạt động chi tiêu để xây dựng nhà xưởng, phát hành chứng khoán để mở rộng sản xuất, học tập gắn liền với việc tạo ra tài sản mới mới một cách trực tiếp cho nền kinh tế nên được coi là đầu tư phát triển (hay đầu tư trên góc độ nền kinh tế). 1.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển. Hoạt động của đầu tư phát triển có đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư là: - Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển. - Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra. - Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế... - Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm tháng có khi đến hàng trăm năm, hàng nghìn năm thậm chí là vĩnh cửu như các công trình nổi tiếng thế giới (Kim tự tháp cổ Ai Cập, nhà thờ La Mã ở thành Rome, Vạn lý Trường Thành ở Trung Quốc...). Điều này nói lên giá trị lớn lao của các thành quả đầu tư phát triển. - Các thành quả của đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng lên. Do đó, các điều kiện về địa hình tại đó ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư. - Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian. - Để đảm bảo cho công cuộc đầu tư đem lại hiệu qủa kinh tế xã hội cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị. Thứ hai: Thời gian tiến hành một hoạt động đầu tư từ khi bắt đầu cho đến khi phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng thời gian vận hành để thu hồi vốn cũng kéo dài. Trong suốt thời gian đó tác động của các yếu tố tự nhiên xã hội là không nhỏ. Thứ ba: Công trình đầu tư của ngành dược liệu ở một vị trí cố định nên chịu sự tác động của các yếu tố tự nhiên và xã hội trong vùng. Việc lựa chọn địa điểm để xây dựng cơ sở vật chất là vô cùng quan trọng để có thể thi công xây dựng và lắp đặt máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ một cách an toàn cần phải quan tâm đến vấn đề địa chất. Ngoài ra, những vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tâp quán có thể ảnh hưởng tới việc hình thành một dự án đầu tư. Thứ tư: Do thời gian kéo dài và vốn đầu tư lớn nên đầu tư phát triển có thể gặp một số rủi ro sau: - Rủi ro về xây dựng và hoàn thành công trình. - Rủi ro về kỹ thuật vận hành. - Rủi ro về thị trường. 2. Bản chất các loại đầu tư trong phạm vi quốc gia. Xuất phát từ bản chất và lợi ích do đầu tư mang lại, chúng ta có thể phân biệt các loại đầu tư sau đây: - Đầu tư tài chính: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá trị để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty phát hành. Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính cho tổ chức, cá nhân đầu tư. Hoạt động đầu tư tài chính không trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế nhưng là một nguồn cung cấp vốn vô cùng quan trọng cho ĐTPT. Bởi vì, với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư đựơc luân chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng. Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra đầu tư. - Đầu tư thương mại: Là hoạt động đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá sau đó bán lại với giá cao hơn nhằm thu được lợi nhuận do chênh lệch giữa giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương) mà chỉ làm tăng tài sản của chính nhà đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán và người đầu tư, giữa người đầu tư và khách hàng của họ. Tuy niên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do ĐTPT tạo ra, từ đó thúc đẩy ĐTPT. - Đầu tư phát triển: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực cho sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác. là điều kiện chủ yếu tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thít bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực. Thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. 3. Vai trò của đầu tư. 3.1. Đầu tư vừa có tác động đến tổng cung vừa có tác động đến tổng cầu. Tổng cung là toàn bộ khối lượng sản phẩm mà đơn vị sẽ sản xuất và bán ra trong một thời kỳ tương ứng với một mức giá nhất định. Tổng cầu là khối lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà đơn vị trong nền kinh tế sẽ sử dụng tương ứng với một mức giá nhất định. Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu. Theo WB đầu tư thường chiếm 24% - 28% trong tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Tác động của đầu tư đối với tổng cầu là ngắn hạn, do đầu tư có độ trễ nền khi vốn đầu tư, máy móc thiết bị, lao động bỏ ra để hình thành đầu tư nhưng chưa tạo ra thành quả thì tổng cung chưa kịp thay đổi còn tổng cầu lúc đó tăng lên. Về mặt cung: đầu tư sẽ tác động đến tổng cung dài hạn (khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng và năng lực mới đi vào hoạt động). Khi đó sản phẩm, hàng hoá tạo ra cho nền kinh tế tăng lên. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, tăng thu nhập, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. 3.2. Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Sự tác động đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cung và tổng cầu của nên kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của hoạt động đầu tư dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định kinh tế của mỗi quốc gia. Chẳng hạn, khi đầu tư tăng, cầu của các yếu tố đầu tư tăng làm cho giá hàng hoá có liên quan tăng đến mức độ nào đó dẫn đến lạm phát. Lạm phát sẽ làm cho sản xuất đình trệ, thâm hụt ngân sách, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn...Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển thu hút thêm lao động, giảm thất nghiệp, giảm tệ nạn xã hội. Tương tự như vậy khi đầu tư giảm cũng gây ra tác động hai mặt (theo chiều hướng ngược lại với tác động trên). Vì vậy các nhà hoạch định cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách phù hợp nhằm hạn chế tác động xấu và phát huy các tác động tích cực duy trì sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. 3.3. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15% - 25% so với GDP tuỳ thuộc vào hệ số ICOR của mỗi nước. ICOR = Vốn đầu tư/Mức tăng GDP. Từ đó suy ra: Mức tăng GDP = Vốn đầu tư/ICOR. Nếu hệ số ICOR không đổi thì mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào Vốn đầu tư. Chỉ tiêu ICOR của mỗi quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố, thay đổi theo trình đọ phát triển và cơ chế chính sách của mỗi nước. ở Việt Nam hệ số ICOR trong thời gian qua như sau: Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Hệ số ICOR 3,1 3,1 3,8 4,4 5,5 4,0 Nguồn: Kinh tế Việt Nam và thế giới 2000 ... 2001. Hệ số ICOR của Việt Nam tăng dần đã chứng tỏ hiệu quả đầu tư còn thấp tốc độ tăng trưởng kinh tế theo đó cũng thấp tương ứng. Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến, ở nhiều nước đầu tư đóng vai trò như một cú huých ban đầu tạo đà cho sự cất cánh nền kinh tế. 3.4. Đầu tư góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư vừa làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật phát triển, chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung của từng thời kỳ, vừa tạo ra một sự cân đối trên phạm vi nền kinh tế, giữa các ngành,vùng và tạo điều kiện phát huy lợi thế so sánh của ngành, vùng về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để tăng trưởng nhanh với một tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp, bởi vì khu vực nông nghiệp do những hạn chế về khả năng sinh học để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5% - 6% là rất khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng trên toàn bộ nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế Việt Nam đã dần dần phù hợp hơn theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp và tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp. Về cơ cấu vùng kinh tế, đầu tư có tác dụng giải quyết sự mất cân đối về phát triển, đưa vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu bằng cách phát huy tối đa lợi thế so sánh của mỗi vùng, phát triển mạnh những vùng có lợi thế để làm bàn đạp thúc đẩy các vùng khác phát triển. Nhìn chung đầu tư chính là yếu tố tác động mạnh nhất đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua việc tăng giảm vốn đầu tư theo thứ tự ưu tiên cho từng vùng, ngành trong từng thời kỳ. 3.5. Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học công nghệ của đất nước. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng khoa học công nghệ của đất nước. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO nếu chia quá trình phát triển khoa học công nghệ thành 7 giai đoạn thì Việt Nam năm 1990 mới ở giai đoạn 1 và 2. Việt Nam là một trong 90 nước kém nhất về khoa học công nghệ hiện nay.Với trình độ khoa học công nghệ như vậy quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một số chiến lược phát triển công nghệ nhanh và vững chắc. Chúng ta biết rằng có hai con đường để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh và nua của nước ngoài. Dù là tự nhiên hay nhập khẩu thì đều cần vốn, mọi phương án công nghệ nếu không gắn với nguồn vốn đầu tư đều không có tính khả thi. 4. Nguồn vốn đầu tư. Để thực hiện hoá các dự án đầu tư khả thi, vốn là yếu tố đầu vào quan trọng nhất. Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. Vốn đầu tư bao gồm hai nguồn chính là vốn trong nước và vốn nước ngoài - Vốn trong nước bao gồm: + Vốn tích luỹ từ ngân sách. + Vốn tích luỹ của các doanh nghiệp. + Vốn tiết kiệm của dân cư. Đây là nguồn vốn cơ bản cho sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục lâu dài, đưa đất nước đến sự phồn vinh một cách chắc chắn. Khối lượng vốn đầu tư trong nước có thể huy động được phụ thuộc vào các nhân tố sau: + Quy mô và tốc độ tăng GDP + Quan hệ tích luỹ và tiêu dùng của Nhà nước. ở các nước phát triển tỷ lệ tích luỹ thấp, tỷ lệ tiêu dùng cao. + Tiền tiết kiệm của dân cư: ở nhiều nước tiền tiết kiệm của dân cư chiếm một bộ phận lớn với tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng các khoản tiết kiệm của cả nước. Mức tiết kiệm của dân một mặt phụ thuộc và thu nhập của dân, mặt khác phụ thuộc vào mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm và chính sách ổn định tiền tệ của Nhà nước. - Vốn nước ngoài: Trong những bước đi ban đầu của các nước đang phát triển để tạo ra được cú huých và có được tích luỹ đầu tiên cho phát triển kinh tế không thể huy động vốn nước ngoài. Không có một nước chậm phát triển nào trên con đường phát triển lại không tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở. Vốn nước ngoài bao gồm đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. + Vốn đầu tư gián tiếp: Là nguồn tài chính mang tính chất hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội của các chính phủ các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức quốc tế khác trong đó người có vốn không trực tiếp sử dụng vốn. Đầu tư gián tiếp có thể được thực hiện dưới các hình thức khác nhau là viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời gian dài và lãi suất thấp, kể cả cho vay dưới hình thức thông thường. Một trong những hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn tại dưới loại hình ODA – viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển. Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn nên có tác dụng mạnh mẽ đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư. ở Việt nam thời gian qua đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các công trình cơ sở hạ tầng bằng việc hỗ trợ cùng vốn ngân sách để đầu tư như các nhà máy điện, hay các công trình cầu đường... kể cả tham gia trong các chương trình xoá đói giảm nghèo hay các chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, các dự án cung cấp nước sạch cho miền núi và nông thôn. Tuy nhiên, tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp thường phải gắn với sự trả giá về mặt chính trị và tình trạng nợ chồng chất nếu không sử dụng hiệu quả vốn vay và thực hiện nghiêm ngặt chế độ trả nợ vay. + Vốn đầu tư trực tiếp: Là vốn của các doanh nghiệp và các cá nhân nước ngoài đầu tư sang nước khác và trực tiếp tham gia quản lý công trình sử dụng và thu hồi vốn bỏ ra. Tuy nhiên vốn này không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế xã hội của các nước nhận đầu tư. Cái mà các nước nhận đầu tư là không phải lo lắng trả nợ mà lại có thể dễ dàng có được công nghệ, học tập được trình độ, kinh nghiệm quản lý và tổ chức sản xuất, gián tiếp có chỗ đứng trên thị trường thế giới, nhanh chóng được thế giới biết đến thông qua quan hệ làm ăn với nhà đầu tư. Nước nhận đầu tư trực tiếp chia sẻ lợi ích kinh tế do đầu tư đem lại theo tỷ lệ góp vốn với nhà đầu tư, vì vậy có quan điểm cho rằng đầu tư trực tiếp sẽ làm cạn kiệt tài nguyên của nước nhận đầu tư. II.Quá trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp (KCN) ở Việt Nam: 1.Khái niệm, đặc điểm và vai trò của khu công nghiệp đối với nền kinh tế. 1.1.Khái niệm. Xuất phát từ các quốc gia ở ven bờ Đông và Nam Địa Trung Hải vào đầu thế kỷ 19, quan niệm về KCN lan sang châu á dươí hình thức hải cảng tự do. Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại và đầu tư, KCN dần dần xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau : khu mậu dịch tự do, kho quá cảng, đặc khu kinh tế... Theo nghĩa rộng thì KCN bao gồm tất cả các khu vực được chính phủ nước sở tại cho phép chuyên môn hoá sản xuất công nghiệp, nó là khu biệt lập có chế độ mậu dịch và thuế quan riêng, không phụ thuộc vào chế độ mậu dịch và thuế quan phổ thông của nước đó. Theo quan niêm này KCN bao gồm các cảng tự do, các khu vực mậu dịch tự do, các khu vực phi thuế quan, các khu vực công nghiệp tự do, các khu vực ngoại thương. Theo Nghị định số 36/CP quy định về KCN, KCX của Chính Phủ ban hành ngày 24-4-1997 thì “KCN là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nhgiệp, có danh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống. Trong KCN có thể có các doanh nghiệp chế xuất”. 1.2.Đặc điểm KCN: Cho đến nay, các KCN đã được phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các quốc gia, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Mặc dù có sự khác nhau về quy mô, địa điểm và phương thức xây dựng cơ sỏ hạ tầng, nhưng nói chung các KCN có những đặc điểm chủ yếu sau: Về tính chất hoạt động: Là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ mà không có dân cư (gọi chung là doanh nghiệp KCN). KCN là nơi xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm công nghiệp hoặc các đơn vị kinh doanh dịch vụ gắn liền với sản xuất công nghiệp.Theo điều 6 Quy chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm Nghị định 36/CP thì doanh nghiệp KCN có thể là các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc các bên tham gia Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các doanh nghiệp này được quyền kinh doanh trong các lĩnh vực cụ thể sau: - Xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng. - Sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghiệp để xuất khẩu và tiêu dùng ở trong nước; phát triển và kinh doanh bằng sáng chế, bí quyết kĩ thuật, quy trình công nghệ. - Nghiên cứu, triển khai khoa học-công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra sản phẩm mới. - Dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp. Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Các KCN đều xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đường xá, hệ thống điện nước, điện thoại...Thông thường việc phát triển cơ sở hạ tầng trong KCN do một công ty xây dựng và phát triển cơ sơ hạ tầng đảm nhiệm. ở Việt Nam những công ty này là các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc doanh nghiệp trong nước thực hiện. Các công ty phát triển cơ sở hạ tầng KCN sẽ xây dựng các kết cấu hạ tầng sau đó được phép cho các doanh nghiệp khác thuê lại. Về tổ chức quản lý: Trên thực tế mỗi KCN đều thành lập hệ thống BQL KCN cấp tỉnh tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để trực tiếp thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh trong KCN. Ngoài ra tham gia vào quản lý tại các KCN còn có nhiều Bộ như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại, Bộ Xây dựng... 1.3.Vai trò của KCN đối với nền kinh tế: 1.3.1.Tăng cường khả năng thu hút đầu tư, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế: Hầu hết các nước đang ở thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đều gặp phải một bài toán nan giải là tình trạng thiếu vốn. Thông qua những ưu đãi đặc biệt so với sản xuất trong nước các KCN có được môi trường đầu tư hấp dẫn , vì vậy nó có khả năng thu hút được nhiều vốn đầu tư đặc biệt là nguồn vốn FDI. Theo Ngân Hàng thế giới, cho đến 1999 các dự án thực hiện trong KCN do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện chiếm tỷ lệ khá cao ( khoảng 43% số dự án do doanh nghiệp trong nước thực hiện, 24% do liên doanh với nước ngoài, và 33% do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện ).Do vậy KCN đã đóng góp đáng kể trong việc thu hút FDI. Chẳng hạn như Đài Loan và Malaxia, trong những năm đầu phát triển, KCN đã thu hút được 60% số vốn FDI. Đồng thời, các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN phần lớn là các đơn vị có tiềm năng. Do đó hoạt động có hiệu quả góp phần vào các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước. Trong đó dáng kể nhất là việc góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ do việc phát triển sản xuất hàng xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu. ở một số nước, KCN đã góp phần đáng kể cho việc đẩy mạnh xuất khẩu. Ví dụ như Malaixia, hiện nay giá trị xuất khẩu của các KCN chiếm 30% trong tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chế biến, ở Mêhicô là 50%. 1.3.2. Các KCN sẽ có tác động ngược trở lại đối với nền kinh tế: Những hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN sẽ có mối liên hệ với các khu vực khác như cung cấp nguyên liệu và các dịch vụ gia công chế biến sản phẩm cho KCN. Thông qua các hoạt động sản xuất để cung cấp đầu vào cho các doanh nghiệp trong KCN sẽ giúp cho các khu vực xung quanh KCN sẽ có điều kiện phát triển. Tại một số nước tỷ lệ cung cấpmột số đầu vào khá cao, như Hàn Quốc tỷ lệ sử dụng nguyên vật liệu trong nước tăng từ 3% năm 1971 lên 34% năm 1979 và duy trì tỷ lệ này từ đó đến nay. 1.3.3. KCN là cơ sở để tiếp cận với kỹ thuật và công nghệ hiện đại, học hỏi phương thức quản lý mới, nâng cao trình độ tay nghề của người lao động: Các KCN khi được thành lập đều đặt ra mục tiêu tiếp cận các công nghệ hiện đại. Theo một nhà kinh tế phương Tây nhận định: việc thành lập các KCN còn có ý nghĩa hơn là một sự thay đổi chính sách, bởi sự thay đổi chính sách từ bóp nghẹt sang cởi mở thông thoáng chỉ có ý nghĩa tối đa khi chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang kinh tế thị trường. Còn sự thực khi nền kinh tế đã hạn chế bớt đi các trói buộc phong kiến, hành chính thì điều có ý nghĩa hơn lại là một chính sách kỹ thuật và công nghệ khả dĩ đủ hấp dẫn để thu hút được các kỹ thuật và công nghệ mới của nước ngoài vào sự tái thiết nền kinh tế nội địa. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng phải chú trọng vào công tác dào tạo cán bộ, công nhân cho phù hợp với trình độ của máy móc cũng như phương thức kinh doanh mới. Do vậy, trình độ của người lao động sẽ được nâng lên phù hợp tác phong lao động công nghiệp. 1.3.4. KCN tạo thêm việc làm cho người lao động. Hầu hết các nước đang phát triển trong quá trình phát triển kinh tế đều gặp phải tình huống khó xử : nếu theo duổi mục tiêu toàn dụng nhân lực thì khó thực hiện mục tiêu chống lạm phát, đồng thời ước muốn nền sản xuất xã hội đạt hiệu quả cao bằng cách du nhập các công nghệ tinh vi tức là ít sử dụng lao động sống thì sẽ làm gia tăng nạn thất nghiệp. Tuy chưa phải là giải pháp lý tưởng nhưng việc thiết lập các KCN là một cơ hội quan trọng để giải quyết mâu thuẫn này. Theo Ngân hàng Thế giới đến nay số việc làm chỉ tính riêng trong KCN đã lên tới 4-5 triệu chỗ. Trong đó châu á là nơi tạo ra nhiều việc làm nhất chiếm 76.59% tổng số chỗ. 2. Sự hình thành và phát triển KCN của Việt Nam. 2.1. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành KCN tại Việt Nam. Mở rộng hợp tác kinh tế đối ngoại giữ vai trò quan trọng đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Hiện nay chúng ta đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các nguồn lực cần thiết cho đầu tư phát triển là rất hạn chế. Chính vì vậy mở rộng hợp tác với nước ngoài tạo cơ hội cho chúng ta sẽ có cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là cần có môi trường đầu tư hấp dẫn để tạo ra động lực thu hút các nhà đầu tư. Trong điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn thì chúng ta không thể cùng một lúc tạo ra môi trường thuận lợi ở trên toàn quốc, nên việc tạo lập ra những khu vực có diện tích nhỏ (KCN) để có điều kiện tập trung tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư, tạo khả năng thu hút nguồn vốn nước ngoài. Bên cạnh đó việc hình thành các KCN cũng là cơ hội để phát huy cao nhất sức mạnh nội lực của đất nước trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực tế những năm vừa qua cho chúng ta thấy vai trò quan trọng trong việc phát huy nội lực và tận dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự phát triển nền kinh tế. Vì vậy, sự ra đời của các KCN là một bước đi đúng đắn của chúng ta trên con đường xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước. 2.2.Quá trình hình thành và phát triển các KCN Việt Nam. Mô hình KCN, KCX được tập trung nghiên cứu lần đầu tien ở nước ta lần đầu tiên ở nước ta vào năm 1989 qua các tài liệu thu thập được cũng như khảo sát thực tế ở một số nước và khu vực như Đài Loan, Thái Lan...Tháng 9/1991, việc thành lập KCX Tân Thuận tại Thành phố Hồ Chí Minh với diện tích 300 ha là cột mốc đầu tiên của quá trình hình thành và phát triển KCN, KCX tại Việt Nam. Từ đó đến nay số lượng các KCN, KCX phát triển nhanh chóng trên khắp các địa phương. Việc hình thành các KCN được thông qua hai con đường: thành lập trên cơ sở quy hoạch lại các cụm công nghiệp đã có từ trước hoặc thành lập hoàn toàn mới. Bảng: Tình hình phát triển các KCN, KCX tại Việt Nam. (Tính hết ngày 31/12/2001). Chỉ tiêu Năm Số lượng KCN, KCX Tổng diện tích (ha) Diện tích bình quân 1 khu (ha) 1995 12 2370 197,5 1996 25 4569 182,8 1997 44 7619 162,1 1998 62 10108 163,0 1999 67 10452 156,0 2000 67 11023 164,7 2001 68 11800 173,5 Nguồn: Tạp chí Thông tin Khu Công Nghiệp số1/2000; 1/2001 Qua bảng ta thấy tốc độ phát triển các KCN, KCX ớ Việt Nam là rất nhanh, đặc biệt trong 2 năm 1997, 1998; hơn 40% các KCN đã được thành lập trong thời gian này: năm 1997 có 22 khu và năm 1998 có 15 khu được ra đời. Cũng trong thời gian này với sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực nên thu hút đầu tư nước ngoài giảm sút cùng với việc thành lập ồ ạt các KCN nhưng không gắn với phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng ngoài ngoài hàng rào dẫn đến việc thành lập các KCN chỉ là về mặt lượng. Từ năm 1999 trở lại đây, việc xây dựng và phát triển KCN đã được điều chỉnh, tính toán có hợp lý hơn nên các KCN được chú trọng phát triển về mặt chất. Tính đến hết năm 2001, cả nước đã có 68 KCN (chưa kể Dung Quất) với tổng diện tích là 11800 ha. Như vậy, bình quân diện tích một KCN là trên 170 ha/khu, trong đó KCN có quy mô lớn nhất là KCN Phú Mỹ I tại Bà Rịa-Vũng Tàu có diện tích là 954,4 ha và KCN có quy mô nhỏ nhất là KCN Bình Triệu tại thành phố Hồ Chí Minh có diện tích 28 ha. Trong tương lai quy mô này có xu hướng giảm xuống để có điều kiện phát triển. Các KCN chủ yếu được thành lập tại 3 vùng kinh tế trọng điểm của cả nước, trong đó vùng kinh tế trọng điểm miền Bắc có 10 khu với tổng diện tích 1307 ha, chiếm khoảng 12%; vùng kinh tế trọng điểm miền Nam có 33 khu với tổng diện tích là7110 ha chiếm 63%; vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có 7 khu với tổng diện tích là 628,6 ha, chiếm 6% tổng diện tích các KCN. Các vùng còn lại có rất ít KCN (vùng núi phía bắc có 2 khu với tổng diện tích 139 ha), thậm chí Tây Nguyên còn chưa có KCN nào. Sự phân bố không đồng đều là do các KCN chỉ được hình thành tại những khu vực có điều kiện phát triển về kinh tế-xã hội. Cùng với sự phát triển cả về số lượng cũng như tổng diện tích các KCN thì việc cho thuê đất trong các KCN cũng ngày càng chiếm tỷ lệ cao hơn, nếu như năm 2000 mới chỉ cho thuê được hơn 2600 ha (chiếm 35% diện tíchđất công nghiệp có thể cho thuê), thì năm 2001 đã cho thuê được gần 3300 ha (tăng 700 ha với năm 2000) nâng tổng số diện tích đã cho thuê chiếm 42% tổng diện tích đất công nghiệp. Trong đó có gần 20 khu đã cho thuê trên 50% diện tích, tiêu biểu như KCN Biên Hoà II (Đồng Nai), KCX Tân Thuận, KCX Linh Trung (TP Hồ Chí Minh), KCN Việt Nam-Singapo (Bình Dương), KCN Sài Đồng (Hà Nội)... Ngoài ra, trong thời gian gần đây, tại vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Chính phủ đã quyết định thành lập KCN Dung Quất với tổng diện tích 14000 ha có tính chất như một khu kinh tế tổng hợp, và đang nghiên cứu xây dựng mô hình khu kinh tế mở Chu Lai, sẽ làm cho việc phát triển các KCN Việt Nam đa dạng hơn và có thể phát huy tối đa tiềm năng để phát triển kinh tế đất nước. 2.3. Thực trạng hoạt động của các KCN Việt Nam. Sau hơn 1._.0 năm họat động các KCN đã tạo ra nguồn năng lực sản xuất mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, có đóng góp đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước, song bên cạnh đó đã bộc lộ những bất cập gây cản trở cho sự phát triển của các KCN. 2.3.1 Những thành tựu đạt được: Sau khi KCX Tân Thuận và Linh Trung được thành lập và đạt được những kết quả đáng khả quan một loạt các khu khác đã dược ra đời. Cùng với sự gia tăng về số lượng các KCN thì số vốn đầu tư thu hút vào các khu cũng gia tăng nhanh chóng. Hiện nay đã có 33 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào các KCN. Tính đến cuối năm 2001 đã có trên 880 dự án FDI với tổng vốn đầu tư còn hiệu lực trên 9 tỷ USD. Trong năm 2001 các KCN, KCX đã thu hút thêm 186 dự án FDI với tổng số vốn đăng kí là 885 triệu USD ( tăng 89% so với năm 2000 ) và 204 triệu USD vốn tăng của các dự án đang hoạt động. Tổng vốn đầu tư FDI vào các KCN, KCX trong năm 2001 chiếm khoảng 33% tổng vốn đầu tư mới vào Việt Nam. Cũng trong năm 2001 vốn đầu tư trong nước của các KCN, KCX cũng tiếp tục tăng (khoảng 2500 tỷ đồng), nâng tổng số vồn đầu tư trong nước lên 33.000tỷ đồng với hơn 750 dự án. Ngoài việc gia tăng vốn đầu tư vào các KCN, tình hình hoạt động của các doanh nghiệp cũng đạt được những kết quả khả quan,đặc biệt là các doanh nghiệp FDI. Trong giai đoạn 1996-2000 tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp KCN đạt từ 35% đến 50%. Năm 1996 doanh thu của các doanh nghiệp KCN mới đạt 0,4 tỷ USD xuất khẩu đạt 0,32 tỷ USD; đến năm 2000 đã là 3,5 tỷ USD doanh số (bằng 10% gdp của cả nước) và 2,2 tỷ USD xuất khẩu (chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước). Trong năm 2001doanh thu của các doanh nghiệp đạt khoảng 4,5 tỷ USD (tăng 23% so với năm 2000) và đạt giá trị xuất khẩu là 2,5 tỷ (tăng10%so với năm 2000). Bảng: Doanh thu và xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN. Năm Doanh thu (tr. USD) Xuất khẩu (tr. USD) Tốc độ tăng hàng năm(%) Doanh thu Xuất khẩu 1996 400 320 1997 1.155 848 291 265 1998 1.871 1.300 61 53 1999 2.982 1.761 59 35 2000 3.465 2.250 16 28 2001 4.500 2.500 23 10 Nguồn:Tạp chí Kinh tế Phát triển số 36/2000. Tạp chí Thông tin KCN số 1/2002 Các doanh nghiệp có vốn FDI trong KCN đã góp phần tạo thêm nhiều năng lực sản xuất mới trong các ngành kinh tế then chốt: trên 900 triệu kW điện, 6 triệu quạt điện dân dụng, 40 triệu tấn sợi các loai, trên 100 triệu sản phẩm may mặc,80.000 tấn nguyên liệu nhựa PVC, 1,3 triệu bóng đèn hình TV, 200.000 TV/ năm, 200.000 tủ lạnh/ năm, 300.000 máy giặt /năm...Nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu như giày dép, đồ điện, sản phẩm điện tử...có tỷ lệ huy động công suất tương đối cao. Đồng thời, các KCN ở nước ta đã góp phần tích cực quá trình hiện đại hoá thông qua việc ứng dụng máy móc thiết bị, công nghệ mới vào sản xuất. Nếu so sánh trình độ trang thiết bị và quy trình công nghệ giữa các dự án trong KCN với các dự án ngoài KCN và đặc biệt là so với trình độ chung của các doanh nghiệp trong nước thì tính hiện đại của các doanh nghiệp KCN cao hơn nhiều. Đây cũng là điều tất yếu, bởi vì các sản phẩm được sản xuất tại các KCN đều có mục tiêu chủ yếu là xuất khẩu. Do đó, nó đòi hỏi phải có máy móc, công nghệ hiện đại. Với những kết quả như vậy các KCN đã góp phần nâng cao giá trị sản lượng công nghiệp, góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng CNH, HĐH. Ngoài việc góp phần nâng cao giá trị sản xuất, và năng lực xuất khẩu , các KCN còn thu hút được một số lượng đáng kể, góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phân lớn trong lực lượng lao động quốc gia. Nơi đây chính là những trung tâm đào tạo, sử dụng và nâng cao tay nghề, tạo thêm việc làm (trực tiếp và gián tiếp), tính đến hết năm 2000 số lao động làm việc trong các KCN là 210.000 người. Trong điều kiện tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta còn cao và đang có xu hướng gia tăng, nhất là ở khu vực nông thôn, việc thu hút hàng chục ngàn lao động là một đóng góp to lớn về mặt xã hội. 2.3.2. Những tồn tại, khó khăn trong xây dựng và phát triển các KCN. Từ những đánh giá tổng quát trên đây về một số kết quả bước đầu của các KCN thời gian qua cho thấy tuy thời gian xây dựng và hoạt động chưa phải là nhiều, nhưng KCN đã góp phần tích cực vào quá trình phát triển kinh tế nước ta. Song thực trạng KCN hiện nay cho thấy việc xây dựng và phát triển KCN đang đặt ra nhiều vấn đề cần hết sứ quan tâm. Các vấn đề về luật pháp còn nhiều tồn tại và không theo kịp tiến trình phát triển của các KCN như việc có hai hệ thống khác nhau (Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước) cùng tồn tại điều chỉnh các doanh nghiệp KCN đã tạo nên sự khác biệt về điều kiện kinh doanh giữa doanh nghiệp tong nước và doanh nghiệp FDI. Việc định hướng, quy hoạch phát triển các KCN còn thiếu cân đối, chúng ta đã thành lập quá nhiều KCN trong khi khả năng thu hút đầu tư hạn chế, diện tích đất công nghiệp cho thuê còn ít, hệ quả là làm lãng phí vốn đầu tư xây dựng hạ tầng. Phương thức đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN , cho thuê lại đất không phù hợp với tình hình thực tế. Đến tháng 8/2001 có trên 60 KCN triển khai đầu tư xây dựng các hạng mục cơ sở hạ tầng với vốn đầu tư giải ngân chỉ đạt 30% so với tổng số vốn đầu tư đăng kí hoặc dự toán được duyệt. Phương thức Nhà nước cho các doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh hạ tầng sau đó cho các doanh nghiệp KCN thuê lại và thu tiền thuê lại đất và phí sử dụng hạ tầng đã dẫn đến tình trạng đầu cơ đất và các ưu đãi của Nhà nước để thu hút đầu tư không có tác dụng. Ngoài ra, các vấn đề về lao động, về cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào và cơ sở hạ tầng xã hội KCN cũng đang là cản trở đối với sự phát triển của các KCN, đặc biệt là những nơi đã thu hút được một số lượng lớn nhà đầu tư, tập trung cao độ các hoạt động sản xuất công nghiệp trong những địa bàn nhất định như Bình Dương, Đồng Nai, TP HCM. Việc cung cấp lao động cho các doanh nghiệp KCN đang gặp mâu thuẫn lớn, đó là sự thiếu hụt lao động có tay nghề, trong khi số lao động dư thừa cần phải giải quyết việc làm lại chiếm số lượng lớn. Về cơ bản, lao động được cung cấp cho các KCN gần như được hình thành một cách tư phát thông qua quan hệ cung cầutrên thị trường lao động, dựa vào sự cung cấp số lao động sẵn có trên địa bàn và “thụ hưởng” thành quả đào tạo củav Nhà nước. Các KCN xây dựng không đồng bộvới các công trình phúc lợi để đảm bảo cuộc sống cho người lao động. Tình trạng hàng trăm nghìn công nhân làm việc tại các KCN không có chỗ ở đã trở thành phổ biếnvà đang làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp không những cho bản thân công nhân mà cả với địa phương có KCN. Có thể nói bức tranh toàn cảnh của các KCN Việt Nam có nhiều mảng sáng, tối xen lẫn nhau, điều đó là không thể tránh khỏi trong quá trình xây dựng một mô hình kinh tế mới. Dẫu vậy, đã đến lúc chúng ta cần nghiêm túc xem xét và có những bước đi thật sự phù hợp nhằm phát huy hiệu quả của mô hình này trong những năm tới. 3.Sự cần thiết của việc ra đời và phát triển KCN Dung Quất: 3.1. Vai trò chiến lược của KCN Dung Quất: Với vị trí chiến lược đặc biệt và vùng biển dài trên 3200 km, có vùng thềm lục địa rộng lớn nhiều tiềm năng cùng với nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng trên đất liền, Việt Nam có đầy đủ điều kiện để thực hiện sự bố trí chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của mình trong bối cảnh phát triển chung của thế giới. Vấn đề nói trên đã được nhiều nhà lãnh đạo và tư vấn trong và ngoài nước nhận định: trong các thập kỷ tới của thế kỷ XXI, miền trung có vai trò then chốt trong quá trình đưa đất nước Việt Nam vào thế ổn định và phát triển. đồng thời nó cũng có tầm quan trọng đặc biệt trong việc giao lưu đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế ASEAN, châu á- Thái Bình Dương và thế giới. Trong khu vực miền trung thì khu công nghiệp phức hợp Dung Quất hợp cùng với cảng biển nước sâu và sân bay Chu Lai có tầm chiến lược. Đây là nơi nằm ở trung tâm miền Trung Việt Nam (từ Dung Quất đến Hà Nội cũng như thành phố HCM đều cách 860 km). Đây cũng là nơi án ngữ đường hàng hải nội địa và đường hàng hải quốc tế, giao lưu với Hồng Kông, Đài Loan, Viễn Đông, Nhật Bản, Singapo, Philipin...Đồng thời nó cũng chế ngự các đường hàng hải giữa phương Đông và phương Tây. Từ Dung Quất đến trục quốc lộ 1A là 12.5 km. Với khoảng cách tối ưu, dễ dàng tạo cho Dung Quất trở thành cửa ngõ lớn để vận chuyển hàng hoá đến các miền trong nước. Sự ra đời của Dung Quất đã mở ra một cửa ngõ giao lưu giữa Việt Nam và thế giới bên ngoài, với các nước tiểu khu vực sông Mê Kong như Thái Lan, Lào, Campuchia và Mianma. Từ Dung Quất đến các nước này có hai trục đường: Dung Quất - Mộ Đức – Kon Tum - Đắc Lắc - Đắc Tô - Bonhet –Toixen - Xalavan – Pacxé – Kbonzatahathani (trung tâm Đông Bắc Thái Lan) và Dung Quất –Mộ Đức –Kon Tum –Pleiku – Chửpông -Đắc Cơ - Bung Lung – Stungren (Đông bắc Campuchia). Rõ ràng Dung Quất có vị trí hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội Việt Nam và các nước trong tiểu vùng sông Mê Kong, nó thực sự có khả năng trở thành cửa ngõ lớn đi về phía Đông và phía Tây của Việt Nam và các nước trong khu vực này. 3.2. Dung Quất có vai trò quan trọng trong sự liên kết chiến lược vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và khu vực: Thông qua sự phát triển của Dung Quất để khuyến khích và thúc đẩy các ngành sản xuất của nước ngoài liên kết chặt chẽ và hỗ trợ thích hợp các trung tâm công nghiệp ở miền Trung, dẫn đến sự hình thành KCN tổng hợp dọc theo vùng duyên hải miền từ Đà Nẵng đến Dung Quất theo hướng bố trí các ngành sản xuất xuất nhập khẩu thực sự có khả năngcạnh tranh quốc tế. Trong các giai đoạn tiếp theocùng với sự phát triển của đường 14 và 24, có thể hình thành trục thương mại Đông – Tây. Như vây, bên cạnh vai trò phát triển công nghiệp, KCN Dung Quất còn có vai trò thương mại.. Việc nối liền Đà Nẵng với Dung Quất đã tạo nên xương sống về công nghiệp và đô thị hoá. Sự phát triển kinh tế xã hội của miền Trung đang tiến tới phía trước để hoà nhập với hai đầu của đất nước và của khu vực Đông Nam á. Bởi vậy sự ra đời của KCN Dung Quất sẽ đem lại thế phát triển và nguồn sinh lực mới cho vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và tiền đề quan trọng cho sự phát triển ngày càng hoàn chỉnh của khu vực này. Theo phân tích của các chuyên gia Nhật Bản (JICA) và nhiều nhà tư vấn quốc tế thì siêu dự án Dung Quất hợp với một số dự án khác sẽ thúc đẩy sự hình thành một trục công nghiệp, thương mại, du lịch, dịch vụ dọc theo duyên hải miền trung. Khu vực này nối với hai đầu của đất nướcbằng trục quốc lộ 1 và tuyến đường sắt xuyên Việt, nối với hành lang Đông-Tây của các nước trong tiểu vùng sông Mê Kông bằng các dường 9, 49, 14B, 24 và nối với thế giới bên ngoài bằng cảng biển nước sâu. Sự ra đời của KCN Dung Quất không những đã tạo ra bước phát triển chiến lược quan trọng trong việc hình thành và phát triển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung mà còn thúc đẩy sự phát triển của khu vực Tây Nguyên một vùng giàu tiềm năng và có vị trí chiến lược quan trọng của đất nước. Tóm lại, việc hình thành KCN Dung Quất có một tầm chiến lược hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế-xã hội của miền Trung, tạo nên một sự liên kết giữa Việt Nam và các nước trong khu vực, và đây là một bước đi thích hợp trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của miền Trung để đuổi kịp sự phát triển ở hai đầu của đất nước, tạo nên xu thế phát triển ổn định trên toàn Việt Nam và thúc đẩy sự hội nhập có hiệu quả của nền kinh tế Việt Nam với thế giới bên ngoài. 3.3. Đặc điểm của KCN Dung Quất: KCN Dung Quất có tính chất hết sức đặc biệt khác với các KCN khác ở những điểm sau đây: Thứ nhất, về quy mô diện tích: nếu như các KCN khác đã được thành lập ở Việt Nam chỉ có quy mô bình quân vào khoảng 150 ha/khu, thì KCN Dung Quất có diện diện tích lớn hơn tổng diện tích của 68 KCN còn lại của Việt Nam (14000 ha ). Thứ hai, về tính chất hoạt động, trong KCN Dung Quất tập trung không chỉ các doanh nghiệp công nghiệp mà ở đây còn có các công trình hạ tầng kỹ thuật lớn như Cảng Dung Quất, cảng Kỳ Hà, sân bay Chu Lai...Các công trình hạ tầng kỹ thuật đó không chỉ phục vụ cho việc thi công hay hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mà còn là động lực đẩy nhanh đẩy mạnh phát triển kinh tế toàn bộ khu vực miền Trung và Tây Nguyên, mà trước hết là hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ngoài ra, trong đó còn từng bước hình thành đô thị mới Vạn Tường, nơi cư trú của hầu hết lao động Việt Nam và nước ngoài (cùng gia đình họ) làm việc trong các cơ sở sản xuất kinh doanh trong KCN Dung Quất. Với quy mô tính chất trên đây, KCN Dung Quất hoàn toàn không phải loại hình KCN theo định nghĩa thông thường như trong quy định của Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao ( ban hành kèm nghị định 36-CP ngày 24/4/1997 ) mà chính xác hơn đây là Khu Kinh tế-Hành chính Chương II: Thực trạng và triển vọng thu hút đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất. I- Tổ chức thu hút đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất trong thời gian qua (1996 -2001). 1- Về cơ chế, chính sách và vận động thu hút đầu tư. 1.1. Cơ chế đầu tư. Cơ chế đầu tư có ý nghĩa quyết định đối với việc thu hút đầu tư và được biểu hiện ở các khía cạnh cụ thể sau: (1)- Quyết định đến tiến độ thực hiện của dự án (2)- Là cụ thể hoá cuả tính lành mạnh của môi trường đầu tư (3)- Tiết kiệm chi phí, thời gian và giảm sự căng thẳng do chờ đợi của nhà đầu tư. Thực tế ở các nước cho chúng ta thấy rằng mặc dù độ hấp dẫn đầu tư là như nhau nhưng ở đâu có thủ tục đầu tư đơn giản, gọn nhẹ thì ở đó sẽ thu hút đầu tư mạnh hơn. Giai đoạn 1996 - 2001 có ý nghĩa như một giai đoạn khởi động của KCN Dung Quất. Vì vậy vấn đề cơ chế thu hút đầu tư đã được chú trọng. bước đầu đã tạo ra một số thuận lợi. - Về cơ chế uỷ quyền: cũng giống như một số KCN khác Ban quản lý KCN Dung Quất cũng được các Bộ uỷ quyền những công việc sau: + Bộ Thương mại quỷ quyền cho Ban quản lý cấp giấy chứng nhận xuất xứ ASEAN của Việt Nam + Bộ LĐTBXH uỷ quyền cho việc quản lý người lao động. + Bộ KHCN&MT uỷ quyền việc quản lý môi trường trong KCN. - Về thủ tục cấp giấy phép đầu tư: Nói chung trong giai đoạn này thủ tục cấp giấy phép đầu tư được thực hiện theo NĐ36/CP ban hành 24/4/1997, Luật đầu tư nước ngoài bổ xung, sửa đổi năm 2000 và Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Theo đó để được cấp giấy phép đầu tư cho cả dự án đầu tư trong nước cũng như dự án FDI sẽ được thực hiện theo các bước sau: + Thoả thuận địa điểm đầu tư + Nộp hồ sơ dự án đầu tư cho Ban quản lý KCN Dung Quất mà không phải nộp các cơ quan khác. + Sau đó nếu dự án thuộc nhóm A, Ban quản lý gửi hồ sơ dự án và ý kiến của mình về dự án cho Bộ kế hoạch - Đầu tư. Nếu dự án thuộc thẩm quyền quyết định đầu tư của Ban quản lý (bao gồm các doanh nghiệp chế xuất có quy mô vốn đầu tư đến 40 triệu USD, các dự án sản xuất công nghiệp có quy mô vốn đầu tư đến 10 triệu USD (chỉ có Ban quản lý KCN Dung Quất, KCN - KCX thành phố Hồ Chí Minh, KCN - KCX Hà Nội mới có, còn các Ban quản lý khác chỉ được cấp giấy phép cho những dự án loại nàu có quy mô vốn đến 5 triệu USD và các dự án dịch vụ công nghiệp có quy mô vốn đến 5 triệu USD). Khi đó BQL KCN sẽ tiến hành thẩm định và quyết định cấp giấy phép đầu tư trong thời gian 7 ngày kể từ ngày chủ đầu tư nộp đủ hồ sơ hợp lệ, nhanh hơn so với các KCN khác (thời hạn là 15 ngày). - Cũng nhằm tăng cường khả năng thu hút đầu tư Ban quản lý cũng đã thực hiện cơ chế "tại chỗ", gặp gỡ nhà đầu tư để trao đổi, thảo luận về điều kiện cơ hội đầu tư vào Dung Quất. ở bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu; các nhà đầu tư không nhất thiết phải đến ban quản lý KCN Dung Quất để tìm hiểu thông tin về môi trường đầu tư. 1.2. Về chính sách đầu tư. Trong những năm qua chính sách đầu tư ngày càng hoàn thiện để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút và triển khai các dự án đầu tư. BQL cũng như các Bộ, ngành, UBND tỉnh đã quyết định cụ thể các chính sách ưu đãi đầu tư vào KCN Dung Quất: Về vốn đầu tư: Cho phép các doanh nghiệp Việt Nam được dùng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh với các đối tác trong nước hoặc nước ngoài. Các doanh nghiệp này khi thuê đất để thực hiện dự án đầu tư vào các lĩnh vực khuyến khích được xem xét cho phép nộp chậm tiền thuê đất một thời gian tối thiểu là 3 năm. Hỗ trợ giải phóng mặt bằng và chính sách dịch vụ một giá BQL KCN Dung Quất cùng UBND các tỉnh liên quan đảm bảo tổ chức đền bù doanh nghiệp, giải phóng mặt bằng đúng điến độ trong cùng một khu vực đất đai và cùng thời điểm các nhà đầu tư sẽ được áp dụng một mức giá đền bù về đất và tài sản trên đất. BQL cũng thực hiện chính sách một giá; các nhà đầu tư trong và ngoài nước hưởng mức giá đầu vào một số dịch vụ tiện ích như giá điện, nước, bưu chính viễn thông như nhau. Hiện nay ở Việt Nam đang tồn tại chính sách hai giá, tức là giá sử dụng một số cơ sở hạ tầng đối với người nước ngoài sẽ cao hơn nhà đầu tư trong nước. Do đó, tạo ra tâm lý không tốt cho người nước ngoài. Chính vì vậy việc áp dụng chính sách một giá sẽ tạo ra sân chơi công bằng cho tất cả các nhà đầu tư. Miễn giảm tiền thuê đất và các ưu đãi về thuế: Đối với dự án FDI + Miễn tiền thuê đất cho các dự án đầu tư vào KCN Dung Quất theo hình thức BOT, BTO, BT. Miền tiền thuê đất trong thời gian xây dựng cho tất cả các dự án, trong thời gian xây dựng, giảm 20% tiền thuê đất đối với các dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng. + Thuế suất thu nhập doanh nghiệp theo mức thuế từ 10% đến 25% thu nhập theo thuế tùy từng lĩnh vực, ngành nghề. + Thuế suất chuyển thu nhập ra nước ngoài theo các mức 3%; 5%, 7% trên số thu nhập tuỳ thuộc vào mức vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp. Đối với dự án đầu tư theo luật khuyến khích đầu tư trong nước . + Về tiền thuê đất như dự án FDI trừ một số dự án được miễn tiền thuê đất từ 3 đến 15 năm tuỳ từng lĩnh vực cụ thể hoặc chậm nộp thuế quyền sử dụng đất. + Thuế suất thu nhập doanh nghiệp thấp nhất là 15% và cao nhất là 32% thu nhập chịu thuế. Các chính sách ưu đãi đầu tư của KCN Dung Quất chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư, các ưu đãi đầu tư vào KCN Dung Quất được ban hành căn cứ theo Nghị định 24/CP quy định chi tiết về Luật đầu tư nước ngoài và theo Nghị định 51/CP quy định chi tiết về Luật khuyến khích đầu tư trong nước dành cho khu vực khuyến khích đầu tư. So sánh với chính sách hỗ trợ đầu tư của các KCN khác thì các chính sách này không có sự đột phá thậm chí còn chưa hấp dẫn bằng chính sách của một số KCN phía Nam (KCX Tân Thuận, KCX Linh Trung, KCX Việt Nam - Singapore...) 1.3. Về công tác xúc tiến vận động thu hút đầu tư: Công tác xúc tiến, vận động đầu tư là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý Nhà nước đối với KCN, đồng thời giữ vai trò quyết định sự thành công của KCN. Trong giai đoạn hình thành và khởi động của KCN Dung Quất thì công tác này càng có ý nghĩa hơn. Thời gian qua Ban quản lý KCN Dung Quất mà trực tiếp là những phòng quản lý đầu tư đã cố gắng nỗ lực để tổ chức, triển khai công việc này khá có hiệu quả. Hiện nay đã xây dựng được chương trình vận động đầu tư, làm cơ sở để tranh thủ các nguồn kinh phí phục vụ công tác, xúc tiến đầu tư cũng như xây dựng cơ chế phối hợp với các tổ chức tư vấn, nhằm đẩy mạng và nâng cao hiệu quả hoạt động kêu gọi đầu tư. Nội dung chủ yếu của chương trình này là: Thứ nhất, quảng bá tiềm năng, cơ hội đầu tư vào Dung Quất dưới các hình thức: * Lập và đưa lên mạng trang Web về KCN Dung Quất và ghi vào đĩa CD với đầy đủ những nội dung về Dung Quất, giúp cho nhà đầu tư có được thông tin chính xác và cập nhật nhất về môi trường đầu tư tại KCN Dung Quất. * In catologe, xuất bản tập tin Dung Quất, tạp chí và đăng ký chế độ phát thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình TW, Đài tiếng nói Việt Nam, và một số tờ báo có uy tín... * Lập các bản đồ quy hoạch để giới thiệu về Dung Quất: Bản đồ quy hoạch chung toàn bộ KCN, quy hoạch chung thành phố Vạn Tường, quy hoạch KCN phía Tây sông Trà Bồng, quy hoạch KCN phía Đông, quy hoạch Cảng Dung Quất. * Lập các đề án định hướng đầu tư vào KCN Dung Quất (có tính chất tiền khả thi) nhất là những lĩnh vực đầu tư cần ưu tiên, khuyến khích để có được những thông tin ban đầu về cơ hội - tiềm năng cho các nhà đầu tư khi tiếp cận, tìm hiểu việc đầu tư vào KCN Dung Quất. * Xây dựng ba cổng tại các đường vào KCN Dung Quất và các cụm pano tại các vị trí trọng yếu trong KCN và thành phố Vạn Tường. Thứ hai, tiếp xúc vận động đầu tư vào Dung Quất: * Thường xuyên liên hệ và trực tiếp làm việc với lãnh đạo các Tổng Công ty để vận động, thu hút các dự án quan trọng có vai trò đột phá đối với KCN Dung Quất như: với dự án Liên hợp luyện cán thép của Tổng Công ty Thép; các dự án đầu tư bền cảng và kho bãi container của Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam , dự án Liên hợp đồng sửa tàu biển của Tổng Công ty công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam (Vinashi), dự án khu liên hợp dệt may của Tổng công ty dệt may; các dự án hoá dầu, hoá chất và dịch vụ của Tổng Công ty dầu khí. * Kết hợp với Phòng công nghiệp và thương mại Việt Nam và các tổ chức tư vấn có uy tín để tổ chức đi kêu gọi đầu tư tại một số nước phát triển có quan hệ đầu tư tại Việt Nam, trong đó mỗi nước sẽ tập trung vào một số lĩnh vực là thế mạnh của họ như Liên Bang Nga chủ yếu kêu gọi vào lĩnh vực cơ khí, hoá chất, năng lượng; Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo tập trung vào lĩnh vực cơ khí, hoá chất, ngành công nghiệp kỹ thuật cao, Mỹ với các dự án thuộc lĩnh vực dịch vụ, thương mại, năng lượng, công nghiệp chế biến... * Tổ chức các cuộc hội thảo trong nước tại các thành phố lớn (thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng) với thành phần mời tham dự là các doanh nghiệp quan tâm đến KCN Dung Quất, các Công ty, tổ chức tư vấn đầu tư có uy tín, các tổ chức ngoại giao của các quốc gia có quan hệ đầu tư với Việt Nam. Cho đến nay đã tổ chức thí điểm một cuộc tiếp xúc - giới thiệu tại thành phố Hồ Chí Minh vào giữa tháng 12/2001 với 90 đại biểu doanh nghiệp (kế hoạch đề ra là 60 đại biểu) đã đạt được kết quả khả quan. * Chủ động và sẵn sàng gặp gỡ tiếp xúc các nhà đầu tư trong và ngoài nước khi họ có ý định đầu tư vào Dung Quất, qua đó trực tiếp đàm phán, thảo luận và cung cấp cho họ những thông tin tài liệu cần thiết cho việc quyết định đầu tư. Các hoạt động vận động đầu tư vào KCN Dung Quất đã được thực hiện hoàn chỉnh, có sức ảnh hưởng lớn. Trong bối cảnh các KCN khác, có nơi còn chưa tổ chức được các cuộc hội thảo, thì các hoạt động đã cho thấy sự năng động của Ban quản lý trong công tác này, vì thế đã có hiệu quả trong công tác thu hút vốn đầu tư. 2- Công tác xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi. Phát triển cơ sở hạ tầng có ý nghĩa quan trọng để tạo lập ra được môi trường đầu tư thuận lợi, tạp ra những điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Chính vì vậy trong giai đoạn 1996 - 2001 KCN Dung Quất đã nỗ lực để phát triển cơ sở hạ tầng trong KCN. 2.1. Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Trên cơ sở tiếp nhận nguồn ngân sách và các nguồn vốn khác, cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong KCN Dung Quất đã từng bước được thực hiện và diện mạo của Dung Quất đã được thay đổi: 2.1.1. Về hạ tầng giao thông: Tính đến hết năm 2001 hệ thống đường bộ và cảng biển về cơ bản đã hoàn thành giai đoạn 1. Cho đến nay tổng các tuyến đường trục chính trong KCN Dung Quất do ngân sách Nhà nước đầu tư (với tổng số vốn là 429,9 tỷ đồng) đã được thi công xong với khoảng 40km. Bao gồm đường tuyến phía Bắc (Dốc Sỏi- cảng Dung Quất) dài 20,3 km; tuyến phía Nam (Bình Long - Vạn Tường): 9,16km và tuyến khu chuyên gia - dân cư Vạn Tường dài 13,5km. Các tuyến này được xây dựng với 2 đến 8 làn xe. Ngoài ra còn có hàng chục km đường công vụ, đường nội bộ đô thị Vạn Tường, đường nội bộ Nhà máy lọc dầu; cụm hoá dầu và các cụm khác do doanh nghiệp tự bỏ vốn đầu tư để phục vụ cho hoạt động của nhà máy. Bên cạnh đó đường biển cũng đã hoàn thành đưa vào hoạt động cảng biển số 1 thuộc cảng chuyên dụng dầu khí với trọng tải là 1 vạn DWT (tháng 3 năm 2002) với tổng số vốn đầu tư là 111 tỷ đồng. Đồng thời cũng đang khởi công xây dựng bến cảng số 1 của cảng tổng hợp Dung Quất (với công suất cho tàu 3 vạn DWT), các cầu cảng chuyên dụng cho dầu khí (cảng rót dầu không bền SPM, 6 cầu cảng xuất dầu thành phẩm); xây dựng để chắn sóng dài 1600m và một số bến bãi và hệ thống kho vận. Về đường hàng không trên cơ sở hai tuyến đường băng hiện có ( 320m x 45m và 2080m x 30 m) của sân bay Chu Lai đang được nhà nước đầu tư nâng cấp để đến năm 2003 sẽ được đưa vào hoạt động với tổng số vốn đầu tư là 350 tỷ đồng. Như vậy, với việc hoàn thành bước đầu hệ thống giao thông của KCN Dung Quất góp phần tạo thuận lợi để cho các dự án đã được đầu tư sẽ đẩy nhanh được tiền để thi công và đó cũng là yấu tố thuận lợi để thu hút vốn đầu tư trong những năm tới. 2.1.2. Về hệ thống điện, nước và bưu chính viễn thông: Đây là yếu tố quan trọng và cần thiết cho việc phát triển của tất cả các KCN. Về cung cấp điện, hiện nay KCN Dung Quất được cấp điện bởi tuyến điện riêng từ nguồn thuỷ điện Sông Đà qua trạm 500kv cầu đỏ theo tuyến 220kv mạch kép dài 90km do tổng Công ty điện lực Việt Nam làm chủ đầu tư với số vốn là 196 tỷ đồng. Tuyến điện này qua 2 trạm hạ thế chính là Nước Mặn 220/110kv - 63MVA) và trạm Bình trị (110/22kv - 25 MVA) và phân bổ cho các khu vực khác nhau qua 13 trạm 35kv. Ngoài ra việc cấp điện cho nhà máy lọc dầu số 1 sẽ do nhà máy tự đầu tư với một trạm phát điện riêng bằng nguồn nhiên liệu của chính nhà máy. Đối với cung cấp nước thì vào tháng 6 năm 2000 đã hoàn thành nhà máy nước giai đoạn 1 do tổng công ty Vinaconex đầu tư theo hình thức BOT (công xuất 15.000m3/ ngày đêm) với tổng số vốn là 56 tỷ đồng.việc hoàn thành nhà máy nước đã đảm bảo cung cấp cho thi công và vận hành nhà máy dọc dầu số 1, cho khu dân cư đầu tiên của đô thị vạn tường và các nhà máy xí nghiệp khác trong KCN Dung Quất.Hiện nay, đang bắt đầu lập báo cáo nghiên cứu khả thi hệ thống cấp nước giai đoạn 2 có công xuất 100.000m3 / ngày đêm dưới hình thức BOT do liên doanh của Đức và Vinaconex làm chủ đầu tư với tổng số vốn đầu tư là 47,5 triệu USD. Về hệ thống thông tin liên lạc, hiện tại đã hoàn thành tổng đài điện tử 512 số, trang thiệt bị hệ vi ba số và phủ sóng di động toàn khu Dung Quất. Vào quý III/năm 2001 bắt đầu triển khai dự án sử dụng nguồn vốn ODA của Nhật Bản với số vốn là 10 triệu USD. Dự án này xây dựng tổng đài điện tử HOST tại Vạn tường có dung lượng 3000 số và 4 trạm vệ tinh với tổng dung lượng 3.584 số. Về đường hàng không trên cơ sở hai tuyến đường băng hiện có ( 320m x 45m và 2080m x 30 m) của sân bay Chu Lai đang được nhà nước đầu tư nâng cấp để đến năm 2003 sẽ được đưa vào hoạt động với tổng số vốn đầu tư là 350 tỷ đồng. 2.2. Phát triển cơ sở hạ tầng xã hội. Song song với phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật các dự án phát triển hạ tầng xã hội sử dụng vốn ngân sách Nhà nước cũng được triển khai. Một là, trường đào tạo nghề Dung Quất: đến nay đã hoàn thành 2 hạng mục chính (nhà học lý thuyết và nhà học thực hành) và đang tiếp tục hoàn thành các hạng mục còn lại (nhà hiệu hộ, ký túc xá, nhà ở tập thể giáo viên, nhà ăn, câu lạc bộ và các hạng mục cần thiết khác) để đảm bảo khai giảng khoá học đầu tiên vào tháng 9/2002. Hai là, khu dân cư mới ven bờ Tây sông trà Bồng: đã cơ bản hoàn thành hệ thống hạ tầng kỹ thuật giai đoạn I với diện tích 7,6 ha để đảm bảo tiếp nhận khoảng 200 hộ dân cư đến định cư . Ba là, trung tâm quan trắc môi trường Dung Quất: đây là trung tâm được xây dựng để trở thành trung tâm nghiên cứu môi trường của vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung nói chung. Hiện nay đang khẩn trương thi công để có thể phấn đấu cuối năm 2002 hoàn thành và đưa vào sử dụng. Bốn là, dự án rừng phòng hộ môi trường cảnh quan Dung Quất: Trong năm 2001 đã trồng được 48,5 ha rừng phòng hộ và chuẩn bị trồng mới 100 ha rừng phòng hộ và cảnh quan KCN. Sau sáu năm kể từ ngày có quyết định thành lập, với tổng số vốn đầu tư trên 1000 tỷ đồng cơ sở hạ tầng của KCN Dung Quất đã có bước phát triển nhanh chóng, làm thay đổi diện mạo của Dung Quất. Việc hình thành các công trình hạ tầng ngoài hàng rào nhà máy lọc dầu số 1 và khu công nghiệp đã cơ bản hoàn thành như:điện, nước, công trình viễn thông đường giao thông, bến cảng đã đáp ứng được nhu cầu vận tải hàng hoá, nguyên vật liệu phục vụ cho thi công và vận hành của KCN Dung Quất cũng như đã tạo lập được những tụ điểm công nghiệp cho công tác thu hút đầu tư . II. Khái quát tình hình thu hút đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất thời kỳ 1996 - 2001. 1. Tình hình thu hút đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất: 1.1. Quy mô: Với phương thức kinh doanh tập trung đầu tư xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng và tranh thủ kêu gọi đầu tư cho đến nay việc thu hút đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất đã có sự chuyển biến mới khá tích cực, đánh dấu bước phát triển mới của khu công nghiệp Dung Quất. Đến nay trong tổng số diện tích được cấp chứng chỉ quy hoạch cho các dự án là 1000 ha thì diện tích đất công nghiệp cho các dự án là 502 ha chiếm khoảng 13% diện tích đất công nghiệp của cả khu công nghiệp (3.180 ha), thấp hơn nhiều của 68 khu công nghiệp khác ở Việt Nam (42%). Tuy vậy đây cũng là con số có ý nghĩa bởi vì tổng diện tích đất công nghiệp của 68 khu công nghiệp còn lại chỉ vào khoảng 8000 ha hiện đã cho thuê 3.300 ha. Nên nếu như so sánh thì diện tích đất công nghiệp của 68 khu công nghiệp đã cho thuê chỉ gấp có 6 lần so với khu công nghiệp Dung Quất. Bảng: Tỷ lệ đất công nghiệp đã cho thuê của các KCNViệt Nam (Tính đến hết năm 2001) Khu công nghiệp Tổng diện tích (ha) Diện tích đất công nghiệp (ha) Diện tích đất công nghiệp đã cho thuê Quy mô (ha) Tỷ lệ (%) Các kcnkhác 11800 8000 3300 42 kcn Dung Quất 14000 3180 502 13 Nguồn: BQL KCN Dung Quất. Tạp chí Thông tin KCN số 1/2002 Về quy mô vốn đầu tư, tính đến hết năm 2001 (không kể dự án tháo dỡ tàu biển Kỳ Hà của liên doanh Việt-Nhật đã được thành lập và đi vào sản xuất trước khi có Dung Quất) đã có 14 dự án đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất với tổng số vốn đăng ký là 1.524,24 triệu USD và 344,3 tỷ đồng. Trong đó đa số các dự án là đang tiến hành triển khai xây dựng. Tính chung các khu công nghiệp Việt Nam (không kể Dung Quất) đã thu hút được 880._.i quan hệ với các cơ quan có thẩm quyền liên quan khác. Với vị trí là một KCN có tầm chiến lược quan trọng trực thuộc Chính phủ, KCN Dung Quất có đầy đủ các lợi thế so sánh nhằm đẩy nhanh được tốc độ thu hút đầu tư trong thời gian tới. Những lợi thế trên đây sẽ có tác động to lớn tạo ra sức hút đối với các nhà đầu tư trong và ngoaì nước. 2- Dự báo khả năng thu hút đầu tư của KCN Dung Quất trong giai đoạn tới (2002 - 2005): Giai đoạn 2002 - 2005 là một giai đoạn quan trọng nhằm phát huy các lợi thế như đã phân tích ở mục trên để có thể phát triển KCN Dung Quất lên bước mới. Đây là giai đoạn mà nhà máy lọc dầu số 1 - "trái tim của Dung Quất" sẽ đi vào hoạt động với quy mô công suất từ 50 - 70% , việc đưa nhà máy vào vận hành tạo ra sự lan toả để đẩy nhanh các dự án đã, đang hoạt động và độc lực kéo theo các dự án khác sẽ được đầu tư vào KCN Dung Quất. Trên cơ sở số dự án đang chuẩn bị để đăng ký cấp giấy phép đầu tư và số dứan đã được đưa vào danh mục kêu gọi đầu tư, dự báo từ nay đến 2005 sôs vốn thu hút đàu tư vào KCN Dung Quất sẽ lên tới 1,3 tỷ USD. Bảng: Dự kiến thu hút đầu tư vào Dung Quất đến năm 2005 TT Năm Số dự án Tổng vốn đầu tư (triệu USD) Tạo ra việc làm 1 2002 15 274 4280 2 2003 15 354 2780 3 2004 15 290 4950 4 2005 15 365 5400 Cộng 60 1.379 17.318 Nguồn : BQL KCN Dung Quất. Qua bảng ta thấy 2002 - 2005 KCN Dung Quất có khả năng sẽ thu hút được tổng số vốn đầu tư xấp xỉ bằng số vốn đầu tư của nhà máy lọc dầu Dung Quất. Các dự án này sẽ lấp đầu khoảng 70% các cụm công nghiệp đang được xây dựng trong giai đoạn I khoảng 400 - 500ha) và tạo ra số việc làm gấp 10 lần số lao động của nhà ssmáy lọc dầu số 1 (trên 18.000 lao động) và tạo ra giá trị hàng hoá gấp nhiều lần so với nhà máy lọc dầu. Đồng thời các dự án này sẽ tập trung vào các ngành công nghiệp hiện đại như ngành hoá dầu, hoá chất, sau hoá dầu, lọc đầu tư khai thác cảng, luyện cán thép, xi măng nhựa đường, cơ khí, điện tư, lắp ráp ô tô, động cơ, sản xuất vật liệu cao cấp, dệt may... Bảng: Các dự án quan trọng sẽ được đầu tư đến năm 2005. TT Tên dự án Chủ đầu tư Vốn đầu tư (triệu USD) Ghi chú 1 Nhà máy nước gđ II và III LD Vinacomex - Đức 48 Đang trình DA tiền khả thi 2 Nhà máy Poly Propylence Vietross 130 Đang xác định địa điểm 3 Liên hợp phà dỡ đóng sửa tàu biển TCTCN tầu thuỷ Việt Nam 400 Đang lập DA tiề khả thi 4 Luyện cán thép TCT Thép Việt Nam 120 Đang lập DA tiền khả thi 5 Bến số 1 - cảng tổng hợp DQ TCT CTGT 8 20 Sắp xong DA, chuẩn bị lập PAĐT 6 Bến số 2- vảng tổng hợp DQ TCT hàng hải Việt Nam 20 Sắp xong DA, chuẩn bị lập PAĐT 7 DA tẩy rửa công nghiệp LAB LD perto Việt Nam - ấn Độ 130 Đang hoàn chỉnh dự án 8 DASX sợi ga hoá lỏng Vietross 80 Đang đăng ký đầu tư 9 DASX dsợi tổng hợp PS Prtro Việt Nam 100 Đang đăng ký đầu tư 10 Kho bãi Contaner TCT hàng hải Việt Nam 50 Đang đăng ký đầu tư 11 Cảng và tổng kho xăng Miền Trung Petrolimex 30 Đang đăng ký 12 Sản xuất sô đa Unilever 25 Đang dự kiến ĐKĐT 13 CN dệt may TCT dệt may Việt Nam 50 Đang dự kiến ĐKĐT 14 Các nhà máy hoá chất trong và ngoài nước 50 Đang dự kiến ĐKĐT 15 Nhà máy nhiệt điện Liên doanh 45 Đang dự kiến ĐKĐT Nguồn: BQL KCN Dung Quất. Trong giai đoạn này dự kiến sẽ có 15 dự án quan trọng nhất với tổng số vốn đầu tư là khoảng 1 tỷ USD, trong đó sẽ có 10 dự án sản xuất công nghiệp với tổng số vốn đầu tư 1.130 triệu USD cùng với 5 dự án dịch vụ sản xuất công nghiệp (Tổng vốn đầu tư 168 triệu USD). Hiện nay đã có hai phần ba số dự án loại này đang được tiến hành đăng ký đầu tư (với khoảng 6 - 7 dự án thuộc vốn FDI). Chương III: Các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư vào KCN Dung Quất . I.Kinh nghiệm phát triển KCN của một số nước châu á: Đối với Việt Nam, một nước đi sau trong quá trình hình thành và phát triển KCN, việc học tập kinh nghiệm của các nước đi trước là hết sức cần thiết. Điều đó cho phép chúng ta rút ra những bài học thành công cũng như thất bại của các nước, từ đó hình thành hệ thống các chính sách, chiến lược phát triển KCN có hiệu quả nhất so với điều kiện của đất nước. 1.Kinh nghiệm của Trung Quốc. Mô hình phát triển đặc biệt thành công của Trung Quốc trong xây dựng KCN đó là các đặc khu kinh tế. Vào những năm đầu của thời kỳ mở cửa, Trung Quốc nhận định mình là một quốc gia chỉ có ưu thế về nguồn nhân lực, trong khi đó kỹ năng quản lý, trình độ công nghệ, vốn đầu tưlại gặp nhiều khókhăn. Mặt khác, cộng đồng người Hoa ở nước ngoài, nhất là Đài Loan và Hồng Kông lại có nhu cầu rất lớn về đầu tư vào Trung Quốc nhưng bị ức chế bởi chính sách của Trng Quốc lúc bấy giờ. Trên cơ sở đó, theo sáng kiến của Đặng Tiểu Bình vào năm 1978 Trung Quốc đã quyết định thành lập các đặc khu kinh tế. Các đặc khu này đều có quy mô diện tích rất lớn(hàng trăm km2), có dân cư sinh sốngvà có các khu công nghiệp hướng tới nhiều mục tiêu khác nhau. Tuỳ thuộc vào kha năng phát triển trong các đặc khu có thể có các khu thương mại tự do, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Thông qua các đặc khu này Trung Quốc đã tạo ra được nguồn tài sản rất lớn, các đặc khu chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng thu nhập quốc dân, đời sống của nhân dân nơi tập trung các đậc khu được cải thiện đáng kể. Nhịp độ tăng trưởng củakhu vực này hàng năm đạt 16-20%, cao gấp đôi so với nhịp độ tăng trưởng của cả nước. Từ sự hoạt động của các đặc khu kinh tế của Trung Quốc có thể rút ra những bài học kinh nghiệm sau: - Các đặc khu luôn được xây dựng tại những nơi có sẵn điều kiện hạ tầng thuận lực lượngợi như: cửa khẩu, bến cảng... sao cho tạo điều kiện nối liền với thế giơi bên ngoài. - Xây dựng các điều kiện đầu tư cứng phải đi liền với cải thiện điều kiện đầu tư mềm. Tức là bên cạnh xây dựng các tiện íchcơ bản (do các địa phương cấp là chủ yếu). Phải tiến hành phát triển giáo dục đào tạo, thành lập và hoàn thiện cơ cấu thị trường (thị trường lao động và thị trường vật tư, thị trường tìn tệ) và thành lập trung tâm điều chỉnh ngoại hối. - Đơn giản triệt để các thủ tục đầu tư, Trung Quốc coi các đặc khu là một thể chế kinh tế, do vậy chính quyền địa phương có đầy đủ thẩm quyền để giải quyết mọi vấn đề phát sinh trong mỗi đặc khu. Song song đó hình thành các công ty tư vấn dịch vụ cung cấp cho các xí nghiệp các thồng tin liên quan, các thủ tục xuất nhập khẩu, các dịch vụ vận chuyển lưu kho. Mô hình phát triển các đặc khu kinh tế của Trung Quốc, đối với việc phát triển KCN Dung Quất rất đáng quan tâm. Vì Dung Quất xét về bản chất cũng có nhiều điểm tương đồng với các đặc khu này. Kinh nghiệm của Đài Loan: Đài Loan là quốc gia đi đầu trong phát triển các KCN ở châu á và đã đạt được những thành công lớn. Từ những năm 50 trêncơ sở phân tích các điều kiện của đất nước các nhà hoạch định chính sách của Đài Loan cho rằng vấn đề phát triển kinh tế hướng ngoại có ý nghĩa sống còn với quốc gia này. Đồng thời để có thể hợp tác tốt với nước ngoài Chính phủ chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh phát triển công nghiệp, đặc biệt nhấn mạnh đến công nghiệp nhẹ, hàng xuất khẩu và những ngành sử dụng nhiều lao động. Theo đó chính quyền sẽ thành lập ra một số khu vực nhất định để tập trung các xí nghiệp mới được xây dựng (chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ).Các khu vực này có cơ sở hạ tầng rất tốt như: điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc...các công ty trong khu vực này được hưởng nhiều ưu đãi về tài chính: miễn giảm thuếmột số năm đầu, miễn tiền thuê đất, thủ tục hành chính được tinh giảm... Trong hơn 30 năm qua, hoạt động của cac khu công nghiệp, khu chế xuất đã đóng vai trò rất quan trọng trong đối với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa chuyển đổi cơ cấu kinh tế Đài Loan. Giá trị xuất khẩu từ các KCN, KCX chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Kể từ năm 1996 khi thành lập KCN đầu tiên, đến nay Đài Loan đã xây dựng được 3KCX,80 KCN, 2KCNC. Riêng 3 KCX và 2KCN hàng năm đã xuất khẩu hàng chục tỷ USD. Phần lớn các KCN, KCX Đài Loan do Chính phủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn lại do tư nhân và các tổ chức đoàn thể xây dựng. Chính quyền trung ương chỉ quản lý 12 KCN quan trọng nhất mang tính “chiến lược” đã được phê duyệt, các KCN còn lại đều do địa phương hoặc tư nhân quản lý. ở Đài Loan hầu như ở huyện nào cũng có KCN, các KCN, KCX này là một hạt nhân thúc đẩy kinh tế trong vùng phát triển. Không dừng ở đó, Chính phủ Đài Loan đã và đang thực thi những chính sách đúng đắn phù hợp với xu thế phát triển mới như: đổi mới trang thiết bị, thay đổi ngành nghề đầu tư, hiện đại hoá các cơ sở hạ tầng kỹ thuật... Bài học chủ yếu có thể rút ra tư kinh nghiệm phát triển của Đài Loan đó là: muốn công nghiệp hóa, hiện đại hoá với tốc độ cao cần phát triển các KCN, KCX trên một diện rộng tuỳ thuộc vào khả năng, tiềm lực phát triển của mỗi tỉnh, thành phố. Điểm mấu chốt là sự phát triển các KCn phải theo một quy hoạch thống nhất trên cả nước, đảm bảo tính liên hoàn, tương hỗ trong phát triển KCN, KCX với phát triển các ngành nghề khác như: nông , lâm, ngư nghiệp đồng thời đảm bảo mục tiêu của mỗi KCN là một “tác nhân” thúc đẩy mọi hoạt động kinh tế của mỗi vùng. Kinh nghiệm của Thái Lan. Điểm thành công nổi bật trong việc hình thành và phát triển KCN, KCX của Thái Lan đó là việc thống nhất quản lý từ trên xuống dưới, các thủ tục hành chính đều được uỷ quyền cho một cơ quan duy nhất, thực hiện triệt để dịch vụ “một cửa” nhằm giải quyết nhanh chóng mọi thắc mắc của chủ đầu tư. Điều này đã giúp cho môi trường đầu tư vào KCN, KCX của Thái Lan hấp dẫn hơn so với các quốc gia khác trong khu vực. ý tưởng xây dựng các KCN ở Thái Lan đã được hình thành từ những năm 60, nhưng phải đến khi Luật KCN được ban hành thì các KCN,KCX ở Thái Lan mới thực sự phát triển. Sau 15 năm kể từ khi Luật KCN ra đời đến nay đã có 40 KCN hoạt động trên địa bàn cả nước. Các KCN được xây dựng ở Thái Lan được chia thành hai loại. Loại thứ nhất được Nhà nước bảo trợ, có trường hợp xây dựng bị lỗ nhưng vẫn tiến hành xây dựng để đảm báo cân bằng và phát triển, như các KCn phía Bắc Thái Lan. Loại thứ hai Nhà nước cho phép tư nhân có thể xây dựng các KCN tại những vùng không nằm trong quy hoạch miễn là họ có thị trường. Hiện nay đã có 11 KCN loại này được xây dựng ở Thái Lan. Ngoài ra Chính phủ còn tạo một số điều kiện thuận lợi cho phát triển KCN; diện tích KCN có thể được mở rộng hơn so với diện tích đã cho thuê hết, doanh nghiệp muốn mở rộng mặt bằng sản xuất thì họ có thể thoả thuận với chủ sở hữu đất đai ngoài hàng rào KCN (phải tuân theo quy định Cục quản lý KCN Thái Lan). Cục quản lý các KCN Thái Lan (IEAT) được giao nhiệm vụ quản lý Nhà nước thống nhất về phát triển KCN. Đây là cơ quan duy nhất có thể cung cấp đầy đủ thông tin cho các nhà đầu tư; vị trí, ưu đãi các dịch vụ cung cấp cho nhà đầu tư của từng KCN đồng thời là cơ quan duy nhất xem xét và cấp giấy phép đầu tư vào KCN. Như vậy, Thái Lan đã thực hiện được dịch vụ “một cửa” đối với thủ tục cấp giáy phép đầu tư vào các KCN, đây là đây là điểm nổi bật mà các quốc gia trong khu vực đều không có. Cụ thể, Cục quản lý KCN Thái Lan (IEAT) có quyền tiến hành các hoạt động sau: - Điều tra, khảo sát, xây dựng chiến lựơc phát triển các KCN trên địa bàn cả nước. - Thiết kế xây dựng các KCN. - Cấp giấy phép đầu tư. - Quy định ngành nghề và quy mô của cơ sở công nghiệp sẽ được cấp giấy phép đầu tư vào KCN. - Quy định gí mua, bán và cho thuê bất động sản, động sản. - Quản lý các nhà đầu tư trong khu công nghiệp bao gồm các hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu và các dịch vụ khác... - Phát hành ngân phiếu hoặc các loại tín phiếu nhằm mục đích đầu tư tổ chức bộ máy của IEAT gọn, tập trung nhằm giải quyết công việc nhanh và có hiệu quả. Từ việc nghiên cứu điển hình của ba quốc gia trên cùng với một số nước khác có thể rút ra năm bài học kinh nghiệm chủ yếu sau: Môt là, xác lập được một số sự ổn định về chính trị. Hai là, các thể chế và luật pháp tương đối ổn định trong thời hạn nhất định. Các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật phải nhất quán với tinh thần các văn bản pháp luật. Ba là, có chính sách ưu đãi hấp dẫn về giá thành hàng hóa chế tạo tại KCN có thể cạnh tranh cao. Bốn là, các KCN phải có lợi thế về vị trí kinh tế, xã hội, tự nhiên như gần các phi trường, bến cảng, hạ tầng cơ sở tốt. Năm là, các thủ tục hành chính đơn giản, dễ hiểu, các hoạt động tư vấn tốt và thực hiện “dịch vụ một cửa”. II. Các giải pháp thực hiện chủ yếu. Phát triển KCN ở Việt Nam là một chiến lược hết sức đúng đắn trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước.Việc phát triển KCN Dung Quất do đó vừa nằm trong chiến lược phát triển chung vừa có tác động to lớn đến sự phát triển kinh tế-xã hội của cả vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Để các KCN Việt Nam nói chung, KCN Dung Quất nói riêng cần có môi trường đầu tư phát triển KCN thuận lợi. Môi trường đó gồm có nhiều yếu tố liên quan tới nhau đòi hỏi các cơ quan có chức năng phối hợp đồng bộ để giải quyết. Qua sự phân tích những tồn tại của các KCN nói chung và KCN Dung Quất nói riêng cũng như qua các bài học kinh nghiêm của các nước đề tài xin đưa ra một số giải pháp ở cả tầm vĩ mô và vi mô sau: Các giải pháp vĩ mô. 1.1.Thống nhất quan điểm về KCN. Các cấp các ngành cần thống nhất nhận thức KCN là một dự án đầu tư dài hạn, Quy mô lớn. Từ khi có quyết định thành lập phải mất vài năm để đền bù, giải phóng mặt bằng, phát triển hạ tầng mới có điều kiện thu hút đầu tư và sau đó cũng phải mất nhiều năm mới lấp đầy được. Chúng ta thành lập KCN bây giờ là bước chuẩn bị cho thực hiện mục tiêu 5-7 năm sau, đó là việc phát triển có tính toán cho thời gian dài. Đồng thời phải coi KCN là một thể chế của nền kinh tế, một dạng đơn vị kinh tế đặc biệt mà trong đó cần có các quy định riêng, nổi trội nhằm có tốc độ phát triển nhanh, khai thác có hiêu quả các nguồn lực, thế mạnh của vùng lãnh thổ. Sự đồng bộ trong nhận thức của lãnh đạo các cấp, nhất là tỉnh và các sở ban ngànhliên quan trong quá trình vận hành của KCN sẽ đảm bảo phát huy hiệu quả của KCN vì nó trực tiếp liên quan đến lợi ích của ngành, của địa phương và của nền kinh tế. đòng thời khắc phục tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, không hỗ trợ lẫn nhau mà lại gây trở ngại trong quá trìng xd, phát triển KCN. 1.2.Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phát triển mạng lưới các KCN. Bất kỳ một KCN nào khi hình thành đều có tác độnh không nhỏ tới sự phát triển của một khu vực lãnh thổ rộng lớn thậm chí tới toàn bộ đời sống kinh tế-xã hội của đất nước. Đồng thời, nó cũng đòi hỏi phải bỏ ramột nguồn lực lớn về vốn, kỹ thuật, tổ chức quản lý...Do đó việc thành lập KCN phải xuất phát từ lợi ích kinh tế-xã hội. Đối với nước ta, với gần 70 KCN trên toàn quốc, so với các nước khác thì chưa phải là nhiều, nhưng hiện nay có không ít KCN được hình thành theo phong trào chứ không thực sự xét đến hiệu quả của nó đem lại. Thời gian qua là giai đoạn chúng ta phát triển các KCN theo chiều rộng để tạo nhiều khu vực có sức hut cao, đã đến lúc cần phải phát triển các KCN theo chiều sâu, phấn đấu lấp đầy các KCN đã có để tránh sự lãng phí nguồn lực to lớn mà xã hội đã bỏ ra. Vì vậy, công tác quy hoạch phát triển KCN cần phải được thực hiện triệt để và thống nhất theo các hướng sau: Đối với các KCN đã được thành lập cần tiến hành rà xoát lại kỹ lưỡng. Những KCN có khả năng phát triển thì tập trung vốn hoàn chỉnhxd cơ sở hạ tầng. Còn đối với những khu mà đã có quyết định thành lập nhưng chưa triển khai cần cân nhắc kỹ các yếu tố đẩy lùi tiến độ thậm chí đình hoãn xây dựng. Kiểm soát chặt chẽ việc thành lập các KCN mới, các địa phương chưa có KCN khi thành lập phải tiến hành nghiên cứu tính khả thi tỉ mỉ và khách quan. Các KCN mới nên đi theo mô hình vừa và nhỏ, không ham quy mô lớnnếu không có đủ diều kiện. Xây dựng cơ cấu các doanh nghiệp thuộc các ngành nghề cần phát triển ở mỗi KCN phù hợp với định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng ddịa phương cụ thể. Cần có quy hoạch chi tiết trong việc phát triển hạ tầng ngoài hàng rào KCN nhất là tại những vùng còn gặp nhiều khó khăn như miền Trung, Tây Nguyên... 1.3.Nhà nước cần ban hành các chính sách ưu đãi thật sự hấp dẫn và phải có chương trình hành động cụ thể. Thực hiện yêu cầu này, Nhà nước cần phải xây dựng, bổ xung những cơ chế, chính sách còn thiếu cũng như sửa đổi những chính sách không còn phù hợp với sự phát triển phát triển của KCN. Đồng thời nghiên cứu, hoàn thiện các bộ Luật, Luật, văn bản dưới Luật có liên quan đến các hoạt động đầu tư như: Luật đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Thương mại...để tạo ra hành lang pháp lý thống nhất cho các KCN vận hành. Cụ thể đối với các chính sách về phát triển KCN cần phải thực hiện các công việc sau: Các bộ, các ngành, các địa phương thực hiện triệt để cơ chế uỷ quyền cho các Ban quản lý các KCN cấp tỉnh. Tạo điều kiện tốt nhất cho các KCN thực hiện cơ chế “một cửa-tại chỗ” có hiệu quả nhất. Tăng cường sự phối hợp trong quản lý giữa các cơ quan quản lý nhà nước với Ban quản lý KCN cấp tỉnh. Sớm sửa đổi cư chế xét duyệt cấp giấy phép đầu tư bên trong KCN, cải tiến các thủ tục trước và sau cấp giấy phép đầu tư. Để tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong khu vực này, cần thúc đẩy tiến độ hoàn thiện cơ sở hạ tầng, nhất là đối với các công trình thiết yếuở những địa bàn trọng điểm, cần duy trì các nguồn vốn trung và dài hạn nhằm nhanh chóng và chắc chắn đáp ứng thoả mãn nhu cầu sản xuất và tạo điều kiện thuận lợi để tiếp tục thu hút vốn đầu tư. Xác lập cụ thể các điều kiện ưu đãi đầu tư đảm bảo dài hạn cho cả trước và sau dự án,cần có chính sách ưu đãi hợp lý, công bằng cho các chủ đầu tư vào KCN. Trong chiến lược phát triển dài hạn của KCN cần có những định chế mới hỗ trợ cho việc khuyến khích phát triển các ngành sản xuất dựa trên khai thác lợi thế, sử dụng kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Có sự phối hợp giữa các cấp, các ngành có liên quảntong việc đền bù giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lực lượngượng, hạ thấp chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng KCN. ``Dựa trên khung pháp lý đã được xác lập nhất quán, đồng bộ và thông thoáng cơ quan quản lý nhà nước các cấp, ngành cần nhanh chóng triển khai các chương trình hành động cụ thể; chấn chỉnh bộ máy quản lý, cải cách thủ tục hành chính. Các giải pháp vi mô. 2.1.Đa dạng hoá các nguồn lựac tài chính để phát triển hạ tầng kỹ thuật KCN và đô thị. Phát triển hạ tầng kỹ thuật KCN là yêu cầu đối với bất kỳ một KCN nào. Như trên đã nói KCN Dung Quất đã được Ngân sách nhà nước tài trợ cho các công trình hạ tầng chính. Nhưng với quy mô diện tích lớn như Dung Quất, có nhiều hạng mục cần phải thi công thì cần phải chủ động đa dạng hoá việc huy động các nguồn lực khác vào quá trình phát triển hệ thống hạ tầng KCN. Để thực hiện được mục tiêu này cần thực hiện các nhiệm vụ sau: -Tiếp tục tranh thủ nguồn vốn Ngân sách Nhà nướcđầu tư cho KCN Dung Quất. Trong đó cần giải quyết đồng bộ 3 vấn đề là: (1) phát huy việc sử dụnh có hiệu quả nguồn vốn do nhà nước đầu tư theo kế hoạch hằng năm; (2) tiếp tục tranh thủ sự ủng hộ của các Bộ, ngành Trung Ương; (3) nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư xây dựng gắn với kế hoạch hàng năm và kế hoạch từng giai đoạn trên cơ sở danh mục dự án được xây dựng bằng vốn ngân sách Nhà nước sát hợp với yêu cầu thực tế về đầu tư phát triển KCN Dung Quất. -Đối với vốn ODA, cần hình thành tổ công tác để xúc tiến việc huy động nguồn vốn này trên cơ sở hợp tác của các tổ chức tư vấn đủ tư cách pháp lý, có kinh nghiệm và năng lực về lĩnh vực này. - Đối với vốn tín dụng ưu đãi, từng bước xây dựng cơ chế, quy trình và mối quan hệ phối hợp giữa Ban quản lý với quỹ hỗ trợ đầu tư trung ương và doanh nghiệp đầu tư phát triển hạ tầng KCN và đô thị để tranh thủ nguồn vốn này nhằm đáp ứng yêu cầu tài chính đối với dự án đầu tư hạ tầng KCN và đô thị tại Dung Quất. -Tranh thủ các nguồn vốn của các Tổng công ty 90, 91 và vốn FDI. Hướng các nguồn vốn này vào phát triển điện, nước, bưu chính viễn thông, xử lý nước thải... nhằm tạo sự đồng bộ hoá kết cấu hạ tầng kỹ thuật giữa bên trong với bên ngoài các cụm công nghiệp. 2.2. Hoàn thiên cơ chế, chính sách ưu đãi để thực sự có sức hấp dẫn thu hút đầu tư. Cơ chế, chính sách là vấn đề quan trọng để tạo ra đông lực thu hút đầu tư. Trong những năm qua tại Dung Quất vấn đề này ngày càng được hoàn chỉnh và có sức hút lớn hơn, nhưng theo đánh giá chung thì nó chưa thực sự mang tính nổi trội so với các KCN khác. Do đó, cần thống nhất thực hiện đồng bộ các biện pháp sau: -Thủ tục đầu tư thực hiện cơ chế một cửa (tại ban quản lý KCN Dung Quất) trên mọi lĩnh vực. Bên cạnh việc uỷ quyền cấp địa điểm trong nội dung chứng chỉ quy hoạch cho các dự án đầu tư, cần thực hiện việc uỷ quyền quyết định cơ chế thí điểm đầu ra cho các dự án đầu tư phát triển đô thị Vạn Tường, điều chỉnh quy hoạch chi tiết các cụm chức năng trong phân khu KCN và đô thị để việc thu hút đầu tư và giải quyết các thủ tục đầu tư được linh hoạt, nhanh chóng cho các nhà đầu tư, giảm bớt các thủ tục hành chính rườm rà. -Thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng theo cơ chế trực tiếp, một đầu mối và chọn gói qua Ban đền bù, tái định cư và giải phóng mặt bằng của tỉnh (đối với dự án có mức đền bù trên 500 triệu đồng), và qua Ban đền bù- di chuyển dân huyện Bình Sơn (đối với các dự án có mức đền bù dưới 500 triệu đồng); các ban đền bù thống nhất thực hiện về việc tiến hành công tác đền bù, tổ chức di chuyển dân và giao mặt bằng nhanh cho các nhà đầu tư để triển khai khởi công các dự án đã cấp phép đầu tư đúng thời gian quy định. Đồng thời, cần xem xét điều chỉnh cho phù hợp về giá đền bù, định mức cây cối hoa màu được đền bù trên một ha, không để các dự án đầu tư phải gánh chịu những chi phí bất hợp lý và điều đó sẽ không tạo sự hấp dẫn cho nhà đầu tư vào Dung Quất. -Trình Chính phủ UBND tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Nam ban hành thêm những chính sách ưu đãi đầu tư để thực sự tạo sức hấp dẫn thu hút đầu tư, nhất là trên các lĩnh vực sau lọc dầu, đầu tư khai thác cảng và sân bay, các ngành công nghiệp nặng quy mô lớn và các ngành giải quyết nhiều lao đông. -Tiếp tục tranh thủ sự hỗ trợ của các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam, các Bộ ngành Trung Ương để trình Chính phủ hoàn thiện cơ chế quản lý và chính sách ưu đãi đầu tư theo mô hình của một khu kinh tế tổng hợp có áp dụng một số cơ chế mở để làm động lực phát triển. 2.3.Nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến vận động đầu tư vào KCN. Đây là khâu quan trọng, sống còn của KCN Dung Quất nói riêng và các KCN nói chung. Trong những năm tới cần tiến hành các bước đột phá trong công tác vận động xúc tiến đầu tư. Bao gồm: -Tổ chức các cuộc hội thảo tại các thành phố lớn, mạnh dạn ra nước ngoài làm công tác tiếp thị dự án tại một số nước có khả năng đầu tư vào Dung Quất, như Mỹ, Nga, úc... -Trên cơ sở Chương trình vận động đầu tư đã được phê duyệt, tiến hành chi tiết hoá thành nhiệm vụ cụ thể, trong đó cần xác định những nhiệm vụ trọng tâm, các công việc cụ thể, gắn liền các điều kiện về kinh phí và phương tiện thiết yếu đáp ứng yêu cầu triển khai. -Phối kết hợp hoặc thuê các tổ chức tư vấn, tổ chức xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước, nhất là các tổ chức có kinh nghiệm trong thu hút đầu tư nước ngoài xây dựng hệ cơ sở dữ liệu và tài liệu kêu gọi đầu tư. -Chủ động phối hợp với chủ đầu tư – kinh doanh hạ tầng các cụm công nghiệp trong KCN Dung Quất hoặc các tổng công ty 90, 91 tổ chức các hội thảo chung, các cuộc hội thảo chuyên đề hoặc ra nước ngoài thực hiện kêu gọi đầu tư cho một số dự án quan trọng, đặc biệt là các dự án công nghiệp nặng. -Củng cố và tăng cường vai trò của Cơ quan Đại diện của Ban quản lý tại Hà Nội, thành lập văn phòng đại diện tại Thành phố HCM, tăng cường cơ chế phối hợp và nâng cao khả năng xúc tiến đầu tư của hai tổ chức này. 2.4.Hoàn thiện một bước hệ thống tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực tổ chức thực hiện của cán bộ ban quản lý KCN Dung Quất. Cần gấp rút nghiên cứu để có một mô hình tổ chức quản lý phù hợp với điều kiện cụ thể của KCN Dung Quất. Đồng thời, về nhân sự cần tăng cường đội ngũ cán bộ đáp ứng đòi hỏi trong khâu quản lý. Tích cực đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý có kinh nghiệm, thông thạo nghiệp vụ, có khả năng, bản lĩnh thực hiện công việc và chịu trách nhiêm về công việc được giao. Bên cạnh đó cần có cơ chế tuyển dụng, thu hút cán bộ, nhất là các lĩnh vực liên quan đến quản lý đầu tư về xây dựng Dung Quất. 2.5.Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực. KCN Dung Quất khi đi vào hoạt động mạnh mẽ sẽ có nhiều ngành nghề với những công nghệ, dây truyền sản xuất hiện đại. Do đó, đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý giỏi và đội ngũ công nhân có tay nghề cao. Thực tế, khu vực miền Trung có số lượng lao động dồi dào nhưng chất lượng lao động còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy ngay từ bây giờ cần đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao nhằm đáp ứng yêu cầu cung cấp lao động có chất lượng. Để giải quyết vấn đề này cần nhanh chóng hoàn thành trường đào tạo nghề Dung Quất đúng tiến độ. Nhà nước và tỉnh cần hỗ trợ ban đầu nhằm đảm bảo chất lượng giảng dạycho những khoá học đầu tiên. III.Một số kiến nghị nhằm tăng cường khả năng thu hút đầu tư của KCN Dung Quất. Để thực hiện có hiệu quả công tác phát triển KCN Dung Quất kính đề nghị Nhà nước và các bộ ban ngành cũng như ban quản lý KCN Dung Quất quan tâm, tập trung giải quyết các vấn đề sau: 1. Cho phép thành lập công ty đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật KCN Dung Quất để thống nhất và chủ động phát triển cơ sở hạ tầng một cách đồng bộ hiện đại đáp ứng yêu cầu công tác thu hút đầu tư. 2. Đề nghị Chính phủ nhanh chóng chuyển Dung Quất thành một khu kinh tế tổng hợp. Thực tế, Dung Quất tuy cùng tên với các KCN khác, nhưng về bản chất lại không phải như vậy. Việc gọi Dung Quất đúng như bản chất của nó sẽ giúp Dung Quất được phép áp dụng một số cơ chế thực sự tương xứng với tầm vóc của nó. 3. Hiện nay tình chiếm đất làm nhà trái phép, tình trạng, tình trạng vi phạm về quy hoạch, xây dựng và môi trường, tình hình an ninh trật tự trong KCN Dung Quất đang có biểu phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo các cơ quan chức năng và huyện Bình Sơn có những biện pháp hữu hiệu để xử lý dứt diểm. 4. Đề nghị Chính phủ sớm phê duyệt quy hoạch chi tiết cụm cảng Trung Trung Bộ (trong đó có cảng Dung Quất) làm cơ sở để ban quản lý sớm tiến quy hoạch chi tiết sử dụng đất và đầu tư phát triểnhạ tầng cụm cảng nước sâu Dung Quất; trong đó quan trọng nhất kề chắn cát càn được đầu tư xây dựng sớm nhằm thu hút đầu tư vào các dụ án công nghiệp nặng. 5. Trước mắt, khi chưa được chuyển đổi thành khu kinh tế tổng hợp, tỉnh Quảng Nam nên ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư đối với các dự án nằm trên lãnh thổ của tỉnh. Hiện nay, so sánh sự ưu đãi mà hai tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Nam dành cho các dự án đầu tư vào Dung Quất thì tỉnh Quảng Ngãi có sức hấp dẫn hơn. Do đó, cần có thêm chính sách ưu đãi của tỉnh nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi trong toàn KCN. Kết luận Phát huy tối đa nguồn nội lực và tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài là một chiến lược đã được Đảng và nhà nước khẳng định trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Một trong những bước đi nhằm thực hiện có hiệu quả chiến lược này chúng ta đã cho thành lập một mô hình kinh tế mới, đó là KCN. Các KCN này với những điều kiện thuận lợi như chính sách đầu tư ưu đãi, thủ tục đầu tư được đơn giản hơn...đã thu hút được một khối lượng vốn đáng kể, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Cùng với sự phát triển của các KCN trong cả nước, Chính phủ đã cho phép nghiên cứu và thành lập thêm mô hình KCN mới, cụ thể là KCN Dung Quất (có tính chất là một khu kinh tế tổng hợp) và Khu kinh tế mở Chu Lai. Có thể nói việc thành lập hai loại đặc khu kinh tế này đã nâng việc phát triển KCN ở nước ta lên tầm cao mới. Giai đoạn từ năm 1996-2001 là thời gian khởi động của KCN Dung Quất, qua đó đã cho thấy những thành tựu bước đầu của KCN này như đã thu hút được một số dự án có quy mô lớn của các ngành kinh tế mũi nhọn: dầu khí,vật liệu xây dựng... Quan trọng hơn nó cho phép chúng ta thấy được những lợi thế của KCN Dung Quất, đó là có hệ thống cơ sở hạ tầng vào loại hiện đại nhất so với các KCN khác, bắt đầu áp dụng những chính sách ưu đãi đầu tư hấp dẫn, công tác tổ chức thu hút đầu tư có hiệu quả hơn, từ đó cho thấy khả năng to lớn mà Dung Quất có thể đạt được trong thời gian tới, cụ thể là trong giai đoạn 2002-2005, đây sẽ là giai đoạn mà KCN Dung Quất sẽ có bước đột phá về thu hút đầu tư. Bên cạnh đó, cũng có nhiều bức xúc mà KCN Dung Quất gặp phải mà đã, đang và sẽ gây cản trở không nhỏ đối vứi sự phát triển của Dung Quất như những vướng mắc về cơ chế quản lý, việc đền bù giải phóng mặt bằng. Dẫu vậy, với vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế miền trung nói riêng và của cả nước nói chung chúng ta hy vọng và tin tưởng KCN Dung Quất sẽ thực hiện thành công các giải pháp đã đề ra nhằm khắc phục những hạn chế để phát huy tối đa những lợi thế của mình, góp phần đưa nền kinh tế miền trung theo kịp sự phát triển của hai đầu đất nước. Hà Nội tháng 4/2002. Tài liệu tham khảo. I.Sách. 1. Dung Quất hành trình vào thế kỷ XXI –H: Chính trị quốc gia, 1998. 2. Giáo trình Kinh tế Đầu tư - PGS, TS Nguyễn Ngọc Mai –NXB Giáo Dục, 1998. 3. Khu công nghiệp, Khu chế xuất với cơ hội đầu tư tại Việt Nam –H: Chính trị quốc gia, 1993. 4. Kinh nghiệm thế giới về phát triển Khu công nghiệp, KCX và đặc khu kinh tế –H: Chính trị quốc gia, 1994. 5. Miền Trung cơ hội đầu tư phát triển kinh tế –NXB Đà Nẵng, 1994. II. Tạp chí. 1. Cộng sản số 1/1998. 2. Công Nghiệp số 13/2000; số 8,22,24/2001; số 1+2/2002. 3. Kinh tế & Dự báo số 13/2001. 4. Kinh tế phát triển số 36/2000. 5. Nghiên cứu kinh tế số 5/1998; 6/2000. 6. Phát triển kinh tế số 105/1999; 117/2000. III. Văn bản pháp luật. 1. Quy định chi tiết Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài ban hành kèm theo Nghị định 24/ CP năm 2000. 2. Quy định chi tiết Luật Khuyến khích đầu tư trong nước ban hành kèm theo Nghị định 51/CP năm 1999. 3. Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao ban hành kèm theo nghị định số 36/CP năm 1997. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29081.doc
Tài liệu liên quan