Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiểu quả thi hành án dân sự ở Việt Nam

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp hành nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Vì vậy, hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế. Hiến pháp 1992 khẳng định: "Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có h

doc102 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3339 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiểu quả thi hành án dân sự ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan nghiêm chỉnh chấp hành". Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác này, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra mục tiêu trong những năm tới đây là phải: "Tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thi hành án dân sự, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án, giải quyết căn bản tình trạng án tồn đọng. Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự, nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan thi hành án" [1]. Nhiều năm qua, Chính phủ đã xác định công tác thi hành án dân sự là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và đã đưa ra nhiều giải pháp hiệu quả nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong công tác này. Do vậy, công tác thi hành án dân sự trong những năm qua đạt được một số kết quả đáng khích lệ, mà kết quả nổi bật nhất theo đánh giá của Chính phủ là: "Hệ thống cơ quan thi hành án dân sự được hình thành trong cả nước, công tác thi hành án dân sự đã được triển khai và hoạt động có hiệu quả bước đầu" [35]. Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác thi hành án dân sự hiện vẫn đang đứng trước những khó khăn, thử thách to lớn với nhiều vấn đề tồn tại, bất cập đang đặt ra cần được giải quyết. Hiệu quả công tác thi hành án dân sự chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, và sự quan tâm, mong mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân; hoạt động thi hành án chưa thật sự đảm bảo được tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật. Tồn tại lớn nhất trong công tác thi hành án dân sự những năm qua là tình trạng án "tồn đọng" kéo dài, với số lượng lớn ngày càng tăng, song chưa có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Tính đến hết năm 2002 trong tổng số trên 450 ngàn vụ việc phải thi hành, thì có trên 173 ngàn vụ việc không có điều kiện thi hành, chiếm gần 39% với tổng số tiền lên tới 8.000 tỷ đồng. Riêng năm 2002 trong số 276.749 việc có điều kiện thi hành thì chỉ có 247.000 việc các Cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành được, chiếm 89.23% nhưng số vụ việc thi hành xong hoàn toàn chỉ đạt 160.061 vụ, chiếm 57.83%, chưa kể số vụ việc chưa có điều kiện thi hành. Đây là vấn đề rất bức xúc đặt ra trong công tác thi hành án dân sự hiện nay. Thực trạng này, một phần xuất phát từ nguyên nhân: ý thức tuân thủ pháp luật của một số bộ phận nhân dân nói chung và một số cơ quan, tổ chức, các nhà quản lý doanh nghiệp và cá nhân (kể cả chính quyền địa phương) còn yếu kém. Mặt khác, là do chưa có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, cũng như cơ quan hữu quan trong quá trình thi hành án; cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự chưa được hoàn thiện, hệ thống các văn bản pháp lý về thi hành án dân sự chưa đầy đủ, chậm được bổ sung, sửa đổi kịp thời; cơ chế quản lý và cơ chế thi hành án hiện nay không hợp lý, gây cản trở và làm giảm hiểu quả công tác thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng. Vì vậy, muốn giải quyết tình trạng "án tồn đọng", nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự cần phải nghiên cứu đề ra các giải pháp đồng bộ về nhiều mặt: Kinh tế, pháp luật, chính sách xã hội, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ... Nhưng trong khuôn khổ luận văn luật học, chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu những vấn đề liên quan đến pháp luật. Với tất cả những lý do nêu trên, việc chọn đề tài "Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiểu quả thi hành án dân sự ở Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học là cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Những năm gần đây, trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành án dân sự, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi hành án dân sự, cụ thể là: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại", mã số 95-98-114/ĐT do Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện; Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án", mã số 96-98- 027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện; Đề tài cấp Nhà nước đang thực hiện: "Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" do Bộ Tư pháp chủ trì; Đề tài: "Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện của Dự án VIE/98/001" do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện dự án. Một số luận án và công trình nghiên cứu khác như: Luận văn thạc sĩ luật học: "Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện" của tác giả Nguyễn Công Long; Luận văn thạc sĩ luật học "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự" của tác giả Nguyễn Thanh Thủy; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Xuân Hồng về "Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Quang Thái về "Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Anh Tuấn về "Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam"... Bên cạnh đó là Giáo trình môn Luật tố tụng dân sự của trường Đại học luật Hà Nội và các trường Đại học có chuyên ngành luật; một số bài viết đăng trên các tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật… Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân sự ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Ở một số công trình cũng đã đề cập đến vấn đề thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề đó một cách toàn diện, chuyên sâu. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục tiêu Mục tiêu tổng quát của đề tài là tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc đưa ra các giải pháp nhằm năng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Để đạt được mục tiêu lớn đó cần phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau: 3.2. Nhiệm vụ - Làm rõ những cơ sở lý luận về thi hành án và thi hành án dân sự. - Đánh giá đúng đắn và toàn diện về thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự, thực tiễn thi hành án dân sự. - Phân tích nguyên nhân của thực trạng đó. - Đưa ra những giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự. 4. Phạm vi nghiên cứu "Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự ở Việt Nam" là một đề tài có tính khái quát cao, nội dung rất rộng, phong phú và phức tạp. Vì vậy, trong khuân khổ luận văn thạc sĩ luật học, tác giả tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về thi hành án và thi hành án dân sự; đánh giá thực trạng thi hành án dân sự và từ đó rút ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự trong điều kiện mới của đất nước ta. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. - Các phương pháp cụ thể được sử dụng kết hợp, đó là: Phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, tổng hợp. 6. Ý nghĩa và những điểm mới của luận văn - Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về khái niệm thi hành án và thi hành án dân sự, tìm hiểu đặc điểm, bản chất của thi hành án và thi hành án dân sự, góp phần bổ sung, làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa học về pháp luật thi hành án. - Từ việc đánh giá thực trạng pháp luật thi hành án dân sự, tác giả đã đưa ra được những điểm bất cập cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật thi hành án dân sự. - Từ việc đánh giá thực tiễn thi hành án dân sự, tác giả đã phân tích những nguyên nhân và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về thi hành án dân sự. Chương 2: Thực trạng pháp luật thi hành án dân sự và thực tiễn thi hành án dân sự. Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm, bản chất thi hành án Kể từ khi hoạt động thi hành án dân sự được chuyển giao từ Tòa án nhân dân các cấp sang các cơ quan của Chính phủ thì khái niệm thi hành án (nhất là thi hành án dân sự) trở thành đề tài tranh luận sôi nổi trên diễn đàn khoa học pháp lý. Có nhiều quan điểm khác nhau dựa trên những lập luận và cách tiếp cận khác nhau về thi hành án nhưng trong đó nổi lên hai quan điểm cơ bản, đó là quan điểm coi thi hành án là giai đoạn tố tụng và quan điểm coi thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp [27]. Quan điểm thứ nhất cho rằng, thi hành án là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng. Theo quan điểm này thì thi hành án là giai đoạn nằm trong quá trình giải quyết vụ án, theo đó giai đoạn tố tụng trước của giai đoạn xét xử là giai đoạn chuẩn bị xét xử, còn thi hành án là giai đoạn kế tiếp của giai đoạn xét xử, giai đoạn thực thi các phán quyết của Tòa án trên thực tế. Căn cứ duy nhất để thi hành án là bản án, quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật. Tính lệ thuộc của thi hành án vào công tác xét xử được thể hiện ở việc khẳng định xét xử là tiền để của thi hành án. Trong quá trình thi hành án, vai trò và trách nhiệm của Tòa án gắn chặt với hoạt động thi hành án, thể hiện ở trách nhiệm của Tòa án trong việc "giải thích những điểm chưa rõ, có sai sót hoặc sai lầm về số liệu" trong bản án, quyết định khi cơ quan thi hành án yêu cầu, hoặc thẩm quyền của Tòa án trong việc hoãn thi hành án theo thời gian luật định, hay "xem xét, kháng nghị để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án quyết định có vi phạm thủ tục tố tụng" khi cơ quan thi hành án kiến nghị. Hậu quả pháp lý của việc xem xét theo trình tự này có thể làm thay đổi kết quả thi hành án hay cách thức tiến hành thi hành án của cơ quan thi hành án. Với quan điểm này, thi hành án được hiểu là giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử làm cho phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Quan điểm thứ hai, coi thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp. Theo quan điểm này, quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Tòa án chấm dứt khi Tòa án ra phán quyết nhân danh Nhà nước, trong đó Tòa án đã xác định quyền, nghĩa vụ các bên, còn việc thi hành phán quyết đó là giai đoạn khác, không thuộc quá trình tố tụng. Thi hành án không phải là giai đoạn tố tụng, bởi vì "thi hành án có mục đích khác với mục đích tố tụng, tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, trên cơ sở đó đưa ra phương án giải quyết vụ việc theo đúng quy định của pháp luật, còn thi hành án là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [34, tr.21]. Ngoài hai quan điểm cơ bản nêu trên, còn có quan điểm khác về thi hành án: Quan điểm thứ ba khẳng định, thi hành án là hoạt động tư pháp [39, tr. 8]. Bởi vì, gốc của hoạt động thi hành án là bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện nhiệm vụ, Cơ quan thi hành án phải thi hành theo đúng quyết định của Tòa án chứ không phải theo mệnh lệnh hành chính. Thi hành án phần lớn thông qua vai trò hoạt động của các cá nhân những người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định như Chấp hành viên, Giám thị viên hoặc các cơ quan tổ chức và người có thẩm quyền khác. Hoạt động hành chính trong lĩnh vực thi hành án chẳng qua cũng chỉ để đảm bảo phục vụ cho chức năng chính của cơ quan thi hành án là tổ chức thi hành án theo quy định của pháp luật. Nếu cho rằng thi hành án (nhất là thi hành án dân sự) là giai đoạn độc lập có tính hành chính - tư pháp vì hoạt động thi hành án được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan của Chính phủ là không hợp lý vì một hoạt động mang bản chất như thế nào không thể phụ thuộc nhiều vào chủ thể thực hiện nó. Quan điểm thứ tư, coi thi hành án là thủ tục tố tụng tư pháp [38, tr. 11]. Theo tác giả thì không nên hiểu "tố tụng" chỉ là "thưa kiện tại Tòa án nói chung", là hoạt động của cơ quan Tòa án xét xử để đi tìm "chân lý", mà cần xem xét đến bản chất của tố tụng. Đó là việc thực hiện các quy định của pháp luật hình thức theo thủ tục nhất định để giải quyết các quan hệ xã hội theo đúng sự điều chỉnh của pháp luật nội dung nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tố tụng được thực hiện bởi nhiều cơ quan, hoạt động nào tuân theo thủ tục do pháp luật hình thức quy định là hoạt động tố tụng. Do đó có nhiều loại tố tụng: tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng hành chính, tố tụng thi hành án. Ngoài ra, khi xem xét về tính chất của việc thi hành án, thì tất cả các bản án, quyết định của Tòa án và của Trọng tài đều có tính chất tư pháp hiểu theo nghĩa rộng, tức không chỉ là việc xét xử mà bao gồm cả lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Vì tất cả những lý do nêu trên thi hành án được hiểu theo nghĩa rộng là thủ tục tố tụng tư pháp. Mỗi quan điểm trên đều có những lập luận và cơ sở khoa học riêng. Tuy nhiên, theo chúng tôi, quan điểm thứ hai coi thi hành án là hoạt động hành chính- tư pháp là có nhiều điểm hợp lý hơn cả. Bởi vì, thi hành án không chỉ đơn thuần là hoạt động mang tính tư pháp, hay là giai đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng, cũng không nên hiểu tố tụng theo một nghĩa không truyền thống như quan điểm thứ tư để coi thi hành án là hoạt động tố tụng tư pháp. Mà bản chất thi hành án thể hiện cả hai đặc điểm rất rõ đó là tính hành chính và tính tư pháp trong hoạt động của mình. Vì thế nên coi thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp. * Thi hành án với những đặc điểm của hoạt động quản lý hành chính - Thi hành án là một hoạt động diễn ra sau quá trình xét xử của Tòa án. Các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án. Do đó, không có kết quả của hoạt động xét xử thì không có hoạt động thi hành án. Là một dạng hoạt động hành chính nhà nước, thi hành án thể hiện tính chấp hành, quản lý rất rõ "bởi toàn bộ quá trình thi thành án với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều nhằm thực hiện những nội dung đã được thể hiện trong các bản án, quyết định của Tòa án và theo các quy định cụ thể của pháp luật" [34]. - Trong quá trình thi hành án, Cơ quan thi hành án tác động tới đối tượng phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án, quyết định khác theo quy định của pháp luật. Qua đó, giáo dục họ và những người xung quanh về ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của tập thể và cá nhân, kỷ cương của Nhà nước. Để thực hiện được điều đó, yêu cầu của hoạt động thi hành án phải có tính kế hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm tra... đó là những tính chất của hoạt động quản lý. - Đối với thi hành án, phương pháp giáo dục, thuyết phục là cần thiết nhưng phương pháp mệnh lệnh, bắt buộc phải thực hiện lại mang tính đặc trưng (đặc biệt là trong thi hành án hình sự). Tuy nhiên, thi hành án không chỉ mang tính hành chính đơn thuần mà nó còn thể hiện tính hành pháp. * Thi hành án với những đặc điểm của hoạt động tư pháp - Thi hành án chủ yếu do cơ quan tư pháp (theo nghĩa rộng) tiến hành. Có nhiều cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án, nhất là trong việc tổ chức thi hành án các bản án và quyết định phức tạp. Nhưng thực tế đã chứng minh vai trò của các cơ quan tư pháp là hết sức quan trọng. Trong hoạt động thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án là Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp, Đội Thi hành án thuộc phòng Tư pháp..... Ngoài ra còn có sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức khác như Công an, tài chính... - Hoạt động của cơ quan thi hành án phần lớn thông qua vai trò của các cá nhân như Chấp hành viên, Giám thị viên... những người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Khi thi hành nhiệm vụ họ chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Điều đó thể hiện tính độc lập rất cao trong hoạt động nghiệp vụ thi hành án. - Cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án. Bao gồm các quy định của pháp luật (được thể hiện trong các văn bản qui phạm pháp luật) và các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật (văn bản áp dụng pháp luật). - Mục đích của hoạt động thi hành án là đảm bảo cho nội dung của các bản án, quyết định nói trên được thực thi trên thực tế. Xuất phát từ những đặc điểm nêu trên của thi hành án, có thể hiểu thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp của Nhà nước, do các cơ quan Nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định, nhằm đảm bảo thi hành các bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền. 1.1.2. Khái niệm, bản chất thi hành án dân sự Vì thi hành án dân sự là một loại hình của thi hành án, nên cũng có thể hiểu thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp của Nhà nước, do cơ quan thi hành án tiến hành theo một trình tự, thủ tục luật định, nhằm đảm bảo thi hành các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án hoặc quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền. Trong khái niệm này, vấn đề cần tiếp tục làm rõ là phải hiểu như thế nào về "dân sự" trong thi hành án? Theo ý kiến thứ nhất thì "dân sự" được hiểu theo nghĩa hẹp. Cơ sở để đưa ra ý kiến này xuất phát từ quy định của Điều 1 Bộ luật dân sự năm 1995 cho rằng, quan hệ dân sự bao gồm quan hệ về tài sản và nhân thân phi tài sản phát sinh trong giao lưu dân sự. Vì vậy, những bản án, quyết định dân sự trong thi hành án bao gồm bản án, quyết định liên quan đến quan hệ tài sản và nhân thân phi tài sản (như bản án, quyết định về tranh chấp các loại hợp đồng dân sự, về hôn nhân gia đình và một số loại bản án, quyết định có tính chất dân sự). Ý kiến thứ hai hiểu "dân sự" theo nghĩa rộng. Theo pháp luật của nhiều nước trên thế giới, việc tổ chức thi hành các bản án có nguồn gốc pháp luật về nội dung là luật tư (luật dân sự, luật kinh doanh, thương mại, lao động) được thực hiện theo một thủ tục chung qui định trọng bộ luật tố tụng dân sự [24]. Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai. Tuy nhiên, theo pháp luật Việt Nam thì "dân sự" trong thi hành án cần được hiểu một cách cụ thể. Đó là: Những bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài; quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài sản, thu lợi bất chính, án phí trong bản án, quyết định của Tòa án về hình sự; quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về hành chính; quyết định tuyên bố phá sản, quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam (Điều 1 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004). 1.2. VAI TRÒ, Ý NGHĨA CỦA THI HÀNH ÁN DÂN SỰ * Thi hành án dân sự góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương an toàn xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa Công tác thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng có một ý nghĩa, vai trò quan trọng trong hoạt động Nhà nước. Thông qua hoạt động thi hành án, những phán quyết của Tòa án nhân danh Nhà nước, thể hiện ý chí của Nhà nước được trở thành hiện thực, công lý xã hội được thực hiện. Quá trình giải quyết một vụ án chỉ kết thúc khi bản án quyết định của Tòa án được thi hành kịp thời và đầy đủ. Nếu công tác thi hành án dân sự không được quan tâm và không có hiệu quả thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực, tác động đến toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực nhà nước bị xem thường, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm hại. Thi hành án dân sự đạt hiệu quả sẽ mang lại niềm tin cho nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật, góp phần lập lại kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà không được thi hành trên thực tế cho thấy sự thiếu nghiêm minh của pháp luật, dễ gây ra sự mất đoàn kết, xung đột kéo dài trong nhân dân, tạo kẽ hở để các phần tử phản động lợi dụng tuyên truyền lôi kéo nói xấu chế độ, kích động thù hận, gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân. * Thi hành án là thước đo hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án và hoạt động tư pháp khác Hoạt động điều tra, truy tố và xét xử diễn ra rất phức tạp và tốn kém, song những hoạt động đó có thể chỉ là con số không nếu như bản án, quyết định của Tòa án không được đưa ra thi hành trên thực tế. Với ý nghĩa đó, thi hành án dân sự là một hoạt động không thể thiếu được trong quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Thông qua thi hành án, kết quả của công tác xét xử được củng cố, hiệu lực các bản án, quyết định của Tòa án được đảm bảo. Mặt khác, thi hành án dân sự còn là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn những phán quyết của Tòa án, phản ánh, trung thực chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử. Vì nếu như bản án tuyên đúng với bản chất, hiện thực khách quan, có lý, có tình thì trong quá trình thi hành án sẽ thuận lợi hơn những trường hợp bản án, quyết định của Tòa án không đúng sự thật, không phù hợp với thực tế khách quan. Thực tế cho thấy có nhiều vụ việc đương sự không tự nguyện thi hành hoặc gửi đơn khiếu nại, tố cáo đi nhiều nơi không phải vì cơ quan thi hành án làm sai mà vì không đồng tình với quyết định của Tòa án nên cố tình trì hoãn việc thi hành án. * Thi hành án dân sự góp phần nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân Đặc thù của thi hành án dân sự là sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ động, phát huy trách nhiệm của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án và sự chỉ đạo của chính quyền địa phương, sự phối hợp các cơ quan tổ chức có liên quan và sự đồng tình của quần chúng, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý thức trách nhiệm của cộng đồng. Trong hoạt động thi hành án dân sự, thi hành án không chỉ là hoạt động nghiệp vụ riêng của cơ quan thi hành án, Chấp hành viên mà còn là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, đoàn thể xã hội và mọi thành viên trong cộng đồng. Thông qua công tác thi hành án, ý thức pháp luật của nhân dân, vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức được nâng lên. 1.3. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM Dưới thời Pháp thuộc, thi hành án dân sự hình thành với tên gọi Thừa phát lại. Nhưng đến khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, công tác thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng đã có sự thay đổi căn bản về chất. Nhìn lại chặng đường lịch sử hình thành và phát triển của thi hành án dân sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay, chúng ta có thể chia thành các giai đoạn sau: 1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1989 Là giai đoạn mà tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự chưa được dựa trên một văn bản pháp luật chính thức có hiệu lực pháp lý cao do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành (Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội). Giai đoạn này, công tác thi hành án dân sự đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tòa án. Tuy nhiên, về vấn đề quản lý nhà nước và hình thức tổ chức thi hành án dân sự có những thay đổi nhất định qua các thời kỳ: 1945 - 1949, 1950 -1980, 1981 - 1989. * Thời kỳ 1945 - 1949 Sau Cách mạng tháng tám 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, hệ thống tư pháp mới được thiết lập trong cả nước. Trên cơ sở Sắc lệnh ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc giữ tạm thời các luật, lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những Bộ luật chung thống nhất cho toàn quốc, nếu những đạo luật ấy "không trái với những nguyên tắc độc lập của Nhà nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa", chế định Thừa phát lại tiếp tục được duy trì. Tại Nghị định số 37 ngày 01/12/1945 về tổ chức Bộ Tư pháp, phòng giám đốc Hộ vụ được thành lập, trong đó có Ban công lại thực hiện nhiệm vụ quản lý Thừa phát lại. Cũng theo tinh thần Sắc lệnh 10/10/1945 nói trên, những quy định về thủ tục thi hành án dân sự tiếp tục được áp dụng, đáp ứng yêu cầu hoạt động tư pháp trong những năm đầu của chính quyền cách mạng [6]. Ngày 20/11/1994, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa ký Sắc lệnh số 13 về tổ chức các Tòa án và các ngạch thẩm phán đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho tổ chức thi hành án dân sự Việt Nam. Tại khoản 3, Điều 3 của Sắc lệnh qui định: Ban tư pháp xã có quyền thi hành những mệnh lệnh của thẩm phán cấp trên. Như vậy, tổ chức thi hành án dân sự đã được hình thành ngay trong những năm đầu Cách mạng tháng Tám thành công và tồn tại dưới hai hình thức là: Thừa phát lại và Ban tư pháp xã. Tuy tồn tại hai lực lượng thi hành án, nhưng việc thực hiện thi hành án do Thừa phát lại hay Ban tư pháp xã tiến hành, đều thể hiện quyền lực nhà nước và được đảm bảo bởi sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Điều này được thể hiện tại Sắc lệnh số 130 ngày 19/7/1945 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Điều thứ nhất của Sắc lệnh này quy định: "Các bản toàn sao hoặc trích sao bản án hoặc mệnh lệnh do các phòng Lục sự phát cho các đương sự để thi hành bản án, hoặc mệnh lệnh của các Tòa án hộ đều có thể thức thi hành, ấn định". "Vậy, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa truyền cho các Thừa phát lại theo yêu cầu của đương sự thi hành bản án này, các ông Chưởng lý, và Biện lý kiểm sát việc thi hành án, Cai thị chỉ huy binh lực giúp đỡ mỗi khi đương sự chiếu luật yêu cầu". Về trình tự thi hành án, Thông tư số 24-BK ngày 26/4/1949 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc thi hành án Hình và Hộ đã qui định cụ thể những nguyên tắc chấp hành, thể thức chấp hành, cách thức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Thông tư đã xác định trách nhiệm thi hành án của Thừa phát lại, Ban tư pháp xã và nhấn mạnh vai trò của ủy ban nhân dân cấp xã và các cơ quan liên quan trong việc hỗ trợ thi hành án. * Thời kỳ 1950 - 1980 Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về "Cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng" tạo nên sự thay đổi có tính chất bước ngoặt trong tổ chức và hoạt động tư pháp nói chung và thi hành án dân sự nói riêng. Tại Điều 9 Sắc lệnh qui định: "Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án Hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án Hộ mà chính Tòa án huyện và Tòa án trên đã tuyên". Theo quy định này, việc thi hành án dân sự do Thừa phát lại và Ban tư pháp xã thực hiện trước đây được thay thế bằng thẩm phán huyện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án. Điều này đã làm thay đổi căn bản cơ chế tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự.Thi hành án dân sự từ chỗ căn cứ vào yêu cầu của đương sự đã trở thành trách nhiệm của Nhà nước. Tòa án chủ động thi hành án dân sự mà không chờ yêu cầu của người được thi hành án [16], [17], [18], [19]. Trên cơ sở Hiến pháp 1959, Quốc hội ban hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1960. Tại Điều 24 của Luật xác định: "Tại các Tòa án nhân dân địa phương có nhân viên thi hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án, quyết định dân sự, những khoản xử về bồi thường và tài sản trong các bản án, quyết định hình sự". Vấn đề vị trí, chức năng, nhiệm vụ của nhân viên chấp hành án được xác định rõ trong luật tổ chức Tòa án nhân dân đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Ngày 13/10/1972, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ra Quyết định số 186/CT về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên. Nhà nước không tổ chức cơ quan thi hành án dân sự riêng mà chỉ đặt Chấp hành viên tại các Tòa án nhân dân địa phương để thực hiện chuyên trách việc thi hành án dân sự. Chấp hành viên có nhiệm vụ thi hành những bản án, quyết định về dân sự, những khoản xử phạt tiền, tịch thu tài sản, bồi thường, hoàn trả lại tài sản trong các bản án, quyết định hình sự; giúp Chánh án Tòa án nhân dân đôn đốc, kiểm tra công tác thi hành án tại các Tòa án nhân dân cấp dưới. Chấp hành viên thực hiện nhiệm vụ dưới sự chỉ đạo của Chánh án Tòa án nhân dân nơi mình công tác. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, Chấp hành viên có quyền định cho đương sự một thời hạn để thi hành án, áp dụng biện pháp cưỡng chế mà pháp luật cho phép sau khi có sự thỏa thuận của Chánh án nơi Chấp hành viên công tác, yêu cầu lực lượng bảo vệ trật tự trị an giúp sức khi cần thiết, đề nghị Tòa án cấp có thẩm quyền hoãn, tạm đình chỉ thi hành án. Đồng thời, Chấp hành viên có trách nhiệm thi hành đầy đủ và nhanh chóng bản án, quyết định của Tòa án (Điều 4, Điều 5 Quyết định số /86/ TC ngày 13/10/1972). Ngoài ra, pháp luật còn quy định trách nhiệm của ủy ban hành chính xã, phường cùng các cơ quan có liên quan trong việc tổ chức hỗ trợ thi hành án.Viện kiểm sát nhân dân các cấp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc chấp hành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân (Điều7 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân). * Thời kỳ 1981 - 1989 Hiến pháp 1980 ra đời đã tạo tiền đề cho sự ra đời các văn bản pháp luật khác. Trong đó có các Đạo luật về tổ chức của bộ máy nhà nước, nhằm kiện toàn bộ máy nhà nước, phân tích rõ chức năng của từng loại cơ quan, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước bằng pháp luật. Theo qui định tại Điều 16 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 thì việc quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức được giao cho Bộ Tư pháp. Nghị định số 143 /HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã qui định: Bộ Tư pháp có chức năng quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức, trong đó bao gồm cả việc quản lý công tác thi hành án dân sự. Sau khi thực hiện việc chuyển giao công tác thi hành án dân sự, ngày 18/7/1982, Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao đã ký Thông tư liên ngành số 472 về "quản lý công tác thi hành án trong thời kỳ trước mắt" đã qui định: ở địa phương tại các Tòa án cấp tỉnh có Phòng thi hành án nằm trong cơ cấu bộ máy của Tòa án để giúp Chánh án chỉ đạo công tác thi hành án; ở các Tòa án cấp huyện có Chấp hành viên hoặc cán bộ làm công tác thi hành án dưới sự chỉ đạo của Chánh án. Việc quản lý, chỉ đạo và tổ chức thực thi nhiệm vụ của Chấp hành viên vẫn do Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp đảm nhiệm. Cơ chế thi hành án này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa c._.ơ quan tư pháp và Tòa án từ Trung ương đến địa phương. 1.3.2. Giai đoạn từ 01/01/1990 - 30/6/1993 Ngày 28/8/1989 Pháp lệnh thi hành án dân sự ra đời, đặt nền móng cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó, quy chế Chấp hành viên được ban hành kem theo Nghị định số 68/HĐBT ngày 06/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Theo quy định của các văn bản nói trên, thì chỉ có Chấp hành viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án (trước đây việc thi hành án, ngoài Chấp hành viên còn có thể do cán bộ thi hành án thực hiện). Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân địa phương. Theo Pháp lệnh này, cơ chế kết hợp quyền tự định đoạt của đương sự với sự chủ động của cơ quan thi hành án và Chấp hành viên đã tạo ra sự phát triển mới trong công tác thi hành án dân sự. Điều đó được thể hiện bằng việc quy định: người phải thi hành án phải có đơn yêu cầu thi hành án thì Tòa án có thẩm quyền mới tiến hành việc thi hành án (Điều 14 Pháp lệnh); Cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án trong những trường hợp nhất định nhằm bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi hợp pháp của tập thể và công dân như đối với những bản án, quyết định phạt tiền, tịch thu tài sản và án phí, bồi thường thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa… Để hướng dẫn và cụ thể hóa Pháp lệnh 1981, hàng loạt những văn bản pháp luật đã được ban hành như: Thông tư liên ngành số 06-89/ TTLN ngày 17/7/1989 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp; Thông tư liên ngành số 07-89/TTLN ngày 10/12/1989 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ... Cùng với sự hoàn thiện hơn về pháp luật, đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án cũng được củng cố và tăng cường, được chuyên môn hóa, có chức danh, tiêu chuẩn riêng và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc thực hiện các phán quyết của Tòa án. Tuy vậy, sự điều hành chỉ đạo công tác thi hành án vẫn chưa được thay đổi phù hợp. Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên thuộc Tòa án, do Tòa án trực tiếp chỉ đạo về nghiệp vụ và chịu trách nhiệm báo cáo trước cấp trên về kết quả hoạt động thi hành án. Mọi quyết định quan trọng trong thủ tục thi hành án đều thuộc thẩm quyền của Chánh án, Chấp hành viên với trách nhiệm là "người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Tòa án" thực ra chỉ là những người thừa hành sự chỉ đạo của Chánh án, không có quyền năng thực sự để đảm bảo thực thi nhiệm vụ của mình. Mặt khác, Chánh án với tư cách là người chịu trách nhiệm về tổ chức và hoạt động xét xử lại là người chỉ đạo việc thi hành những phán quyết của Tòa án nên không khách quan và quá tải về công việc. Đội ngũ cán bộ thi hành án luôn bị xáo trộn, không được qui hoạch, đào tạo bồi dưỡng thường xuyên. Cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ hoạt động thi hành án hầu như không được trang bị làm ảnh hưởng đến công tác thi hành án. 1.3.3. Giai đoạn từ 1993 đến nay Để khắc phục hạn chế nói trên, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa IX ngày 06/10/1992 đã thông qua nghị quyết về việc bàn giao công tác thi hành án từ Tòa án nhân dân các cấp sang cơ quan của Chính phủ. Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993 thay thế Pháp lệnh dân sự năm 1989 đã tạo bước ngoặt lớn về tổ chức và hoạt động thi hành án, đưa công tác này sang một giai đoạn mới, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thì kỳ đổi mới. Theo đó, công tác thi hành án dân sự được chuyển từ Tòa án nhân dân các cấp sang các cơ quan của Chính phủ. Mô hình tổ chức cơ quan thi hành án dân sự được thiết lập với hai loại cơ quan: Cơ quan quản lý thi hành án dân sự và Cơ quan thi hành án dân sự. Địa vị pháp lý của Chấp hành viên, quyền tự định đoạt của đương sự tiếp tục được khẳng định. Ngoài ra, Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993 cũng có những qui định nhằm xác lập cơ chế phối hợp của các ngành, cấp trong công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, do được ban hành trong điều kiện khẩn trương nhằm kịp thời triển khai thi hành nghị quyết về bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Tòa án nhân dân các cấp sang cơ quan của Chính phủ, nên những sửa đổi, bổ sung của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 là rất khiêm tốn, chủ yếu tập trung vào sự chuyển đổi cơ chế thi hành án, mà không có sự sửa đổi, bổ sung về mặt trình tự, thủ tục thi hành án. Do đó việc sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 là nhu cầu cấp bách nhằm đáp ứng thực tiễn đòi hỏi. Ngày 14/01/2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, với 8 chương, 70 điều. So với Pháp lệnh năm 1993, đã tăng thêm 1 chương, 20 điều. Về mặt nội dung, Pháp lệnh năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản, có nhiều nội dung đã được phát triển thêm, có nhiều nội dung hoàn toàn mới được bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, với tiến trình cải cách tư pháp và cải cách hành chính hiện nay. 1.4. THI HÀNH ÁN DÂN SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 1.4.1. Về tổ chức thi hành án dân sự Tùy theo đặc điểm về truyền thống pháp lý, điều kiện kinh tế - xã hội ở từng quốc gia mà tổ chức thi hành án dân sự được pháp luật qui định là một tổ chức công, bán công hoặc là do tư nhân đảm nhiệm [21]. * Thi hành án công Ở mô hình này tổ chức thi hành án bao gồm hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, các Chấp hành viên và công chức, viên chức hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước. Mô hình tổ chức thi hành án công có thể phân làm hai loại: Cơ quan thi hành án nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa án và các cơ quan hành chính tư pháp hoặc cơ quan thuế. - Cơ quan thi hành án nằm trong Tòa án Tổ chức thi hành án ở các nước này là một bộ phận nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa án, Chấp hành viên là công chức đặt tại Tòa án do Chánh án hoặc Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ nhiệm. Toàn bộ hoạt động thi hành án đặt dưới sự giám sát chỉ đạo của Chánh án Tòa án địa phương hoặc thẩm phán thi hành án. Mặc dù vậy, hoạt động thi hành án được tiến hành theo một thứ tự chặt chẽ cho Chấp hành viên tiến hành theo quy định của pháp luật. Điển hình là Trung Quốc. Tòa án đảm nhiệm việc thi hành án dân sự, bản án, quyết định dân sự và phần tài sản trong bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật do Tòa án nhân dân sơ thẩm thi hành. Những bản án, quyết định mà pháp luật qui định do Tòa án nhân dân thi hành sẽ do Tòa án nhân dân nơi người phải thi hành án cư trú hoặc nơi có tài sản của người phải thi hành án tiến hành. Công tác thi hành án do Thi hành viên đảm nhiệm. Căn cứ vào yêu cầu thực tế, Tòa án nhân dân cơ sở, Tòa án nhân dân trung cấp có thể lập cơ quan thi hành án. Chức trách của cơ quan thi hành án do Tòa án nhân dân Tối cao quy định. - Cơ quan thi hành án thuộc cơ quan hành chính hoặc cơ quan thuế Các cơ quan thi hành án loại này được chia làm hai dạng sau: Một là, mô hình tổ chức thi hành án dân sự công, độc lập tạo thành một hệ thống từ Trung ương đến địa phương thuộc thẩm quyền quản lý của các cơ quan quản lý hành chính tư pháp. Ví dụ như Thái Lan: Tổ chức cơ quan thi hành án bao gồm: Ban thư ký, Ban tài chính, Ban thi hành án dân sự, Ban thực hiện dịch vụ theo chỉ định các vụ phá sản; Trung tâm nhận giữ tài sản, Ban kết toán thi hành án và nhận giữ tài sản của các khu vực và tỉnh thành. Hai là, mô hình tổ chức thi hành án dân sự công, độc lập tạo thành một hệ thống từ Trung ương đến khu vực đặt dưới sự quản lý của Hội đồng thuế quốc gia. Ví dụ như ở Thụy Điển, các cơ quan thi hành án thuộc hệ thống các cơ quan nhà nước. Ở cấp Trung ương có cơ quan thi hành án trực thuộc Bộ tài chính, ở địa phương tương đương với 10 khu vực hành chính có 10 cơ quan thi hành án khu vực. Trong mỗi cơ quan thi hành án có Giám đốc, Chấp hành viên, nhân viên thanh tra với nhân viên hành chính. * Tổ chức thi hành án bán công Tổ chức thi hành án bán công là tổ chức thi hành án mà do công chức thực hiện đối với một số việc thi hành án nhất định như thu thuế, thi hành án đối với bất động sản và quyền tài sản, tịch thu tài sản sung công quỹ, phạt tiền... vừa cho viên chức thừa hành đảm nhiệm phần lớn công việc thi hành án dân sự trên nguyên tắc lấy thu bù đắp chi phí thi hành án. Tương tự như tổ chức thi hành án công, tổ chức thi hành án bán công cũng có thể nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa án, hoặc các cơ quan hành chính. Ví dụ ở Đức: Việc thi hành án dân sự do Tòa án khu vực đảm nhiệm. Ở Tòa án này có thẩm phán, nhân viên Tòa án, Chấp hành viên và nhân viên thi hành án. Chấp hành viên chịu sự giám sát trực tiếp của Chánh án Tòa án cấp khu vực. Tuy là công chức nhưng Chấp hành viên thực hiện công việc của mình một cách độc lập, có con dấu riêng, được hưởng một khoản lương cố định. Chấp hành viên không làm việc tại cơ quan Tòa án mà mở văn phòng riêng và được quyền tuyển nhân viên giúp việc. Chấp hành viên được hưởng lương, được hưởng 15% lệ phí thi hành án các khoản tiền thanh toán chi phí khác như: đi lại, sao chụp tài liệu. * Tổ chức thi hành án tư nhân Là mô hình tổ chức chủ yếu theo quy chế Thừa phát lại. Thừa phát lại do Nhà nước bổ nhiệm, là người hành nghề theo quy chế tự do, Nhà nước không trả lương mà hưởng thù lao theo luật định. Thừa phát lại vừa thực hiện chức năng công quyền (lập văn bản, thu hồi nợ, làm đại diện) và chức năng trợ giúp khác cho người được thi hành án.Thừa phát lại - tổ chức nghề nghiệp, không phải là cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, việc thi hành án có sự giám sát của Tòa án, trực tiếp là thẩm phán thi hành án. Trong quá trình thi hành án, nếu có các vấn đề tranh chấp phát sinh, thì thẩm phán thi hành án giải quyết. Thừa phát lại không phải là công chức nhà nước mà là người được Nhà nước bổ nhiệm để thực hiện sứ mệnh công, nhưng theo qui chế của người hành nghề tự do, không ăn lương Nhà nước mà tự hạch toán. Điển hình cho mô hình này là Cộng hòa Pháp. 1.4.2. Thủ tục thi hành án dân sự một số nước trên thế giới Theo nghiên cứu của Thạc sĩ Nguyễn Thanh Thủy, thì thủ tục thi hành án dân sự của một số nước trên thế giới được thể hiện qua những vấn đề sau: * Về quyền yêu cầu thi hành án Hầu hết ở các nước đều ghi nhận nguyên tắc tự định đoạt của đương sự, điều đó được thể hiện bằng việc pháp luật qui định về quyền yêu cầu thi hành án. Nếu bên phải thi hành án không tự nguyện thi hành, thì người được thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành. Cơ quan thi hành không được từ chối yêu cầu của người được thi hành án nếu không có lý do đã được pháp luật qui định, cho dù cơ quan thi hành án là một cơ quan nhà nước hay hoạt động với tính chất là tổ chức Thừa phát lại. * Về lệ phí thi hành án Pháp luật nhiều nước (Pháp, Nhật, Thụy Điển...) đều cho phép cơ quan thi hành án thu lệ phí thi hành án. Tùy điều kiện của mỗi nước mà mức lệ phí có khác nhau, nhưng về nguyên tắc mức lệ phí đó thu đủ để chi phí cho hoạt động thi hành án. Lệ phí thi hành án được tính trên cơ sở mức lệ phí tối thiểu (người yêu cầu phải nộp khi nộp đơn yêu cầu thi hành án) và lệ phí trên giá trị tài sản thi hành án (được tính theo phần trăm giá trị tài sản thi hành được). Ngoài ra, ngân sách nhà nước có thể hỗ trợ một phần cho hoạt động thi hành án, chủ yếu là việc chi trả lương cho Chấp hành viên, thẩm phán thi hành án nếu đó là thiết chế thuộc bộ máy nhà nước (Cộng hòa Liên bang Đức, Thụy Điển, Nhật Bản, Singapore…). Các chi phí cưỡng chế thi hành án do người phải thi hành án chịu, trường hợp tài sản của người phải thi hành án không đủ thì có thể do người được thi hành án chịu. * Việc cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án Ở nhiều nước, pháp luật qui định người được thi hành án có nghĩa vụ cung cấp các thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án cũng như đề nghị biện pháp cưỡng chế thi hành án cần thiết để cơ quan thi hành án thực hiện (Thụy Điển, Nhật Bản…). Ở các nước này, việc quản lý thu nhập, tài sản của cá nhân, tổ chức nói chung và người thi hành án nói riêng rất chặt chẽ, thể hiện ở hệ thống các cơ quan đăng ký tài sản. Mọi người đều có quyền yêu cầu cơ quan này cung cấp các thông tin về tài sản, nhất là các thông tin về bất động sản của một cá nhân hay một tổ chức nào đó phải nộp một khoản lệ phí cho họ (Mỹ, Pháp, Nhật). Ngoài ra, giữa cơ quan thi hành án và cơ quan đăng ký tài sản có thể trao đổi thông tin qua mạng máy tính khi cần xác định điều kiện tài sản của người phải thi hành án. * Về thời hiệu thi hành án Ở các nước khác nhau, thời hiệu thi hành án được quy định cũng khác nhau. Nhưng so sánh với Việt Nam, thì các nước qui định thời hiệu thi hành án dài hơn. Ví dụ ở Cộng hòa Liên bang Đức, thời hiệu thi hành án là 30 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; ở Thụy Điển thời hiệu thi hành án là 10 năm. Hết 10 năm người phải thi hành án có đơn yêu cầu chấm dứt việc thi hành án, nhưng sau 11 năm có đơn yêu cầu của người được thi hành án thì Tòa án vẫn phải thi hành án. * Các biện pháp chế tài đối với người cố tình không thi hành án Pháp luật nhiều nước qui định các biện pháp chế tài có tính cưỡng bức đối với người phải thi hành án, nếu họ cố tình không chấp hành các yêu cầu của chấp hành viên, cố tình không thi hành án. Ví dụ như ở Cộng hòa Liên bang Đức: chấp hành viên có quyền yêu cầu cảnh sát áp giải đương sự theo giấy triệu tập đến cơ quan thi hành án nếu đương sự cố tình trốn tránh, tuy được báo gọi nhiều lần mà không đến. Chấp hành viên có quyền khám nhà và những nơi cất giữ tài sản của con nợ, có quyền cho mở khóa nhà, khóa phòng hoặc ngăn có chứa đồ đạc bị khóa, nếu thấy việc đó cần thiết cho việc thi hành án. Nếu con nợ chống đối hoặc phản kháng lại, Chấp hành viên có quyền dùng vũ lực và yêu cầu cảnh sát hỗ trợ. Trường hợp đương sự không có tài sản gì để thi hành án thì chủ nợ được quyền yêu cầu Tòa thi hành án triệu tập con nợ đến Tòa để buộc con nợ phải tuyên thệ về việc không có tài sản đó. Nếu con nợ không chịu tuyên thệ thì chủ nợ có quyền yêu cầu Tòa án bắt giam cho đến khi con nợ đồng ý tuyên thệ. Ở Thụy Điển, Chấp hành viên có quyền áp dụng biện pháp phạt tiền, nếu đã phạt tiền mà con nợ vẫn không đến thì cơ quan thi hành án có quyền yêu cầu cảnh sát bắt họ. Cơ quan thi hành án cũng có quyền yêu cầu cảnh sát tạm bắt giữ con nợ, khi con nợ cố tình trì hoãn không lập danh sách kê khai tài sản của mình theo yêu cầu của cơ quan thi hành án. Cộng hòa Pháp: Theo Bộ luật tố tụng dân sự của Pháp thì: một bản án, quyết định chỉ được đưa ra thi hành nếu đương sự xuất trình một bản sao có ghi "để thi hành", trừ khi pháp luật có quy định khác; bản án chỉ được thi hành khi người phải thi hành án đã được tống đạt, trừ trường hợp họ tự nguyện thi hành. Theo quy định của pháp luật thì các giấy tờ có hiệu lực thi hành ngoài bản án của Tòa án còn có các văn bản công chứng có ghi "để thi hành", trích lục biên bản hòa giải thành, séc thanh toán… Thái Lan: Khi nhận được đơn đề nghị ra lệnh thi hành án của người được thanh toán thi hành án, Tòa án ra một mệnh lệnh gọi là: "Lệnh thi hành án " và gửi thẳng lệnh này cho Chấp hành viên do Tòa án chỉ định để tổ chức thi hành. Trong lệnh này, Tòa án phải ghi rõ những việc phải làm để Chấp hành viên làm căn cứ thi hành. Nhật Bản: Ở Nhật Bản, tài liệu cơ bản nhất cho các thủ tục thi hành cưỡng chế và tiêu chuẩn duy nhất để cơ quan thi hành án thực hiện việc thi hành bằng biện pháp cưỡng chế là chứng thư nghĩa vụ dân sự, bao gồm: Bản án, quyết định của Tòa án; yêu cầu về thanh toán kèm theo tuyên bố về thi hành tạm thời, quyết định về lệ phí kiện tụng và các chứng thư đã được cơ quan công chứng xác nhận. * Các biện pháp cưỡng chế Đây là biện pháp được áp dụng khi đương sự không tự nguyện thi hành. Ở Thụy Điển: Các biện pháp cưỡng chế có thể áp dụng là: kê biên tài sản; trừ lương hoặc tiền công của con nợ; đuổi người thuê nhà ra khỏi nhà cho thuê; phá dỡ các công trình xây dựng, can thiệp vào việc thực hiện các hợp đồng, khôi phục lại tình trạng ban đầu của tài sản bị xâm chiếm, một số biện pháp mang tính chất cảnh báo đối với những hành vi chống đối (như yêu cầu bắt giam) của con nợ và người có liên quan. Ở Thái Lan: Các biện pháp cưỡng chế được thể hiện bằng các "Lệnh thi hành án" của Tòa án gồm: Lệnh tịch thu tài sản, lệnh thu theo thu nhập của người thi hành án, lệnh trục xuất người phải thi hành án ra khỏi nhà, lệnh tháo dỡ nhà. * Những tài sản không được kê biên Xuất phát từ chính sách nhân đạo, pháp luật các nước đều có quy định những tài sản cơ quan thi hành án không được kê biên ở mức độ nhất định nhằm đảm bảo cho người phải thi hành án và gia đình họ có cuộc sống sinh hoạt bình thường ở mức tối thiểu. Ở cộng hòa Pháp: Pháp luật thi hành án qui định những tài sản sau đây không được kê biên: Thực phẩm, tiền trợ cấp nuôi dưỡng (trừ khoản tiền mà bên kê biên trả để cấp dưỡng cho bên bị kê biên); các tài sản có thể định đoạt được nhưng người viết di chúc hoặc người tặng cho tuyên bố không thể kê biên, hoặc là theo sự cho phép của thẩm phán và trong một tỉ lệ do thẩm phán quyết định, được các chủ nợ sau khi đã quyết định tặng cho hoặc mở thừa kế mà không thể kê biên; động sản cần thiết cho cuộc sống, công ăn việc làm cho người bị kê biên và gia đình họ; những động sản, vật dụng cần thiết của người tàn tật hay dùng để chăm sóc người ốm… Nhật Bản: Những tài sản sau đây không được kê biên theo quy định của pháp luật: Quần, áo, giường, chiếu, đồ dùng nấu ăn cần thiết phục vụ sinh hoạt của người phải thi hành án; dụng cụ, phân bón, vật nuôi; các tượng phật, bài vị và những vật dụng khác cần thiết sử dụng trong lễ hội; gia phả, nhật ký, huân, huy chương, chân tay giả và những vật dụng khác dùng để hỗ trợ cho cơ thể mà người phải thi hành án cần dùng… Chương 2 Thực trạng pháp luật và thực tiễn Thi hành án dân sự 2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 2.1.1. Tổ chức thi hành án dân sự 2.1.1.1. Các cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án dân sự Thực hiện Pháp lệnh 1993, từ ngày 01/7/1993, toàn bộ công tác thi hành án dân sự được chuyển giao từ Tòa án sang các cơ quan của Chính phủ. Bộ Tư pháp là cơ quan được giao chức năng quản lý thi hành án dân sự trong phạm vi cả nước. Ngay sau khi tiếp nhận bàn giao toàn bộ hệ thống các cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự đã được thành lập từ Trung ương đến địa phương. Chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan đã được qui định cụ thể, đảm bảo cho công tác thi hành án đi vào hoạt động. Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thay thế Pháp lệnh năm 2003 nhưng về cơ bản không có sự thay đổi lớn trong việc quy định về các các cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án dân sự. * Cơ quan quản lý chung về thi hành án dân sự Theo qui định tại Điều 57, Điều 58 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, các cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án bao gồm: Chính phủ; Bộ Tư pháp; Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Bộ Quốc phòng. Cụ thể như sau: Chính Phủ thống nhất quản lý nhà nước về thi hành án dân sự trong phạm vi cả nước. Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý nhà nước về thi hành án dân sự. Trong phạm vi trách nhiệm của mình, Bộ Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án; Quản lý các Cơ quan thi hành án; quyết định việc thành lập, giải thể các Cơ quan thi hành án dân sự; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chấp hành viên; thực hiện chế độ, chính sách đối với Chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án; Hướng dẫn nghiệp vụ, chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm trong công tác thi hành án dân sự; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự; Thực hiện chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với Chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án dân sự; đ) Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án dân sự; Quản lý cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh phí, phương tiện cần thiết cho công tác thi hành án dân sự; Hợp tác quốc tế về thi hành án dân sự. Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự trong quân đội theo quy định của Chính phủ (Điều 57 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004). Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý công tác thi hành án dân sự ở địa phương có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Chỉ đạo công tác thi hành án dân sự, yêu cầu Cơ quan thi hành án báo cáo công tác thi hành án dân sự ở địa phương; Chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị ở địa phương; Chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp dưới, Cơ quan thi hành án, các cơ quan chuyên môn phối hợp với các đoàn thể liên quan trên địa bàn trong công tác thi hành án dân sự; Yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức kiểm tra, thanh tra công tác thi hành án dân sự ở địa phương; đ) Cử Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương làm Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn Chấp hành viên Cơ quan thi hành án ở địa phương; Có ý kiến bằng văn bản về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan thi hành án cấp tỉnh; Quyết định khen thưởng hoặc đề nghị các cơ quan có thẩm quyền khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác thi hành án dân sự; Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quản lý công tác thi hành án dân sự ở địa phương có nhiệm vụ, quyền hạn sau: Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại các điểm a, b, c, d của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Có ý kiến bằng văn bản về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan thi hành án cấp huyện; Quyết định khen thưởng hoặc đề nghị các cơ quan có thẩm quyền khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác thi hành án dân sự; Chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hộ trợ Cơ quan thi hành án trong việc thi hành án; Cơ quan tư pháp địa phương giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp và cơ quan tư pháp cấp trên trong việc quản lý nhà nước về thi hành án dân sự (Điều 58 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004). * Cơ quan quản lý chuyên ngành về thi hành án dân sự Theo hướng dẫn tại Công văn số 135/TP-THA ngày 27/7/2004 về việc thi hành Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, trong khi chưa có văn bản chính thức quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, thì "những văn bản pháp luật về thi hành án dân sự trước đây không còn phù hợp với quy định của Pháp lệnh này không được áp dụng để giải quyết các quan hệ về thi hành án dân sự. Trong những trường hợp cụ thể, quy định tại các văn bản pháp luật về thi hành án dân sự trước đây vẫn được áp dụng để giải quyết các quan hệ về thi hành án dân sự phát sinh từ ngày 01/7/2004 hoặc trước đó nhưng chưa giải quyết, nếu không trái với quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004", "các cơ quan thi hành án tiếp tục sử dụng con dấu của Phòng thi hành án, Đội thi hành án". Theo hướng dẫn tại Công văn trên thì hệ thống các cơ quan quản lý chuyên ngành về thi hành án dân sự vẫn được áp dụng theo các quy định tại Nghị định 30/CP ngày 02/6/1993 của Chính phủ (trừ một số quy định trái với Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 đã được liệt kê trong phụ lục kèm theo Công văn 135), bao gồm: Cục thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, Phòng quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng, Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng tư pháp quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh. Theo qui định tại Điều 2 Nghị định 30/CP nói trên (trừ điểm d khoản 2 Điều 2 được thay thế bằng đoạn 2 khoản 2, đoạn 2 khoản 3, đoạn 1 khoản 4 Điều 60 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004), Cục Quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn: - Giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện việc quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự và tổ chức việc thi hành án dân sự trong phạm vi cả nước, cụ thể là: Chuẩn bị các dự án văn bản về quản lý công tác thi hành án dân sự, về qui định Chấp hành viên, chế độ, chính sách đối với Chấp hành viên, cán bộ làm công tác thi hành án dân sự; trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định thành lập, giải thể các cơ quan thi hành án dân sự; - Quản lý nghiệp vụ công tác thi hành án dân sự: hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ công tác thi hành án dân sự; bồi dưỡng nghiệp vụ cho Chấp hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án dân sự; kiểm tra hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự địa phương; giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi trái pháp luật của Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan thi hành án, giải quyết khiếu nại các quyết định về thi hành án của Trưởng Phòng thi hành án cấp tỉnh theo quy định tại đoạn 2 khoản 2, đoạn 2 khoản 3, đoạn 1 khoản 4 Điều 60 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Theo quy định tại Điều 3 Nghị định 30/CP (trừ điểm d khoản 2 được thay thế bằng đoạn 2 khoản 1, đoạn 1 khoản 2 Điều 61 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004), Phòng quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng thực hiện công tác quản lý thi hành án dân sự trong quân đội có nhiệm vụ, quyền hạn: - Giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thi hành các quyết định về tài sản trong các bản án hình sự của Tòa án quân sự, cụ thể: Chuẩn bị các dự án văn bản về quản lý công tác thi hành quyết định về tài sản trong bán án hình sự của Tòa án quân sự, về chế độ chính sách đối với Chấp hành viên, cán bộ làm công tác thi hành án trong quân đội, trình Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định việc thành lập, giải thể các Phòng thi hành án quân khu và cấp tương đương; tổng kết công tác thi hành án trong quân đội; - Phối hợp với Cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp về quản lý nghiệp vụ công tác thi hành quyết định tài sản trong bản án hình sự của Tòa án quân sự: hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ cho chấp hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án; kiểm tra hoạt động của các Phòng thi hành án quân khu và cấp tương đương; giải quyết khiếu nại về thi hành án theo quy định tại đoạn 2 khoản 1, đoạn 1 khoản 2 Điều 61 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 (Điều 3 Nghị định 30/CP). Cơ quan tư pháp địa phương giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp và cơ quan tư pháp cấp trên trong việc quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự (theo quy định tại khoản 3 Điều 58 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thay thế Điều 4 Nghị định 30/CP). Sở tư pháp giúp Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo việc tổ chức, phối hợp các cơ quan hữu quan trong việc thi hành án ở địa phương; giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp tổ chức kiểm tra, thanh tra công tác thi hành án của các Đội thi hành án, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Chấp hành viên, cán bộ làm công tác thi hành án (Điều 5 Nghị định 30/CP). Ngoài ra, Bộ Tư pháp cũng đã thực hiện phân cấp cho các Sở Tư pháp quản lý về mặt tổ chức đối với Phòng thi hành án và Đội thi hành án. Theo Quyết định số 141-QĐ/QLTA-THA ngày 21/3/1994 của Bộ Tư pháp ban hành "Quy định về việc phân cấp quản lý về mặt tổ chức các Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và Phòng thi hành án, Đội thi hành án", Sở Tư pháp có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý về mặt tổ chức các Phòng thi hành án, Đội thi hành án trong lĩnh vực sau đây: - Kiểm tra, đôn đốc kiện toàn tổ chức Phòng thi hành án, Đội thi hành án; phân bổ chỉ tiêu biên chế và số lượng Chấp hành viên cho các Đội thi hành án, xây dựng và thực hiện kế hoạch chỉ tiêu biên chế và số lượng Chấp hành viên của Phòng thi hành án; - Tuyển dụng cán bộ cho Phòng thi hành án và Đội thi hành án; - Điều động, thuyên chuyển công chức của Phòng thi hành án, Đội thi hành án (đối với Chấp hành viên, Chấp hành viên trưởng phải có sự đồng ý của Bộ trưởng Bộ Tư pháp); - Chuẩn bị hồ sơ nhân sự, hồ sơ bổ nhiệm Chấp hành viên, Chấp hành viên trưởng của Phòng thi hành án, Đội thi hành án; - Ra quyết định nâng lương đối với công chức của Phòng thi hành án, Chấp hành viên, Chấp hành viên trưởng, công chức của Đội thi hành án, sau khi có sự đồng ý của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra quyết định nâng lương cho Chấp hành viên, Chấp hành viên trưởng và chuyên viên chính của Phòng thi hành án; - Xây dựng, thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Phòng thi hành án, Đội thi hành án theo tiêu chuẩn nghiệp vụ qui định đối với từng chức danh; Thực hiện chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ Phòng tư pháp và Đội thi hành án theo qui định; Kiểm tra công tác của Phòng thi hành án, Đội thi hành án; thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với công chức của Phòng thi hành án và Đội thi hành án, trừ khiếu nại về nghiệp vụ thi hành án. Phòng Tư pháp có nhiệm vụ giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp và Giám đốc Sở Tư pháp trong việc quản lý công tác thi hành án, tổ chức kiểm tra hoạt động thi hành án của Đội thi hành án (Điều 6 Nghị định 30/CP). 2.1.1.2. Cơ quan thi hành án dân sự Theo quy định tại Điều 11 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, các Cơ quan thi hành án dân sự gồm có: Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh); Cơ quan thi hành án dân sự quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Cơ quan thi hành án dân sự huyện); Cơ quan thi hành án quân khu và tương đương (gọi chung là Cơ quan thi hành án cấp quân khu), là cơ quan có thẩm quyền tổ chức thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án, được thành lập ở cấp tỉnh và cấp huyện, đó là: - Phòng thi hành án thuộc Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; - Phòng thi hành án quân khu và cấp tương đương; - Đội thi hành án thuộc Phòng Tư pháp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Phòng thi hành án tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn: - Giúp Giám đốc Sở Tư pháp thực hiện việc quản lý công tác thi hành án dân sự trong phạm vi tỉnh; - Quản lý nghiệp vụ công tác thi hành án của Đội thi hành án; bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án cho Chấp hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án theo quyết định của Pháp lệnh thi hành án dân sự; tổng kết thực tiễn thi hành án, thực hiện chế độ thống kê, báo cáo chi tiết thi hành án; - Trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp tỉnh, bản án, quyết định của Đội thi hành án nhưng do tính chất phức tạp của việc thi hành án mà Phòng thi hành án thấy cần thiết lấy._.quyền trong thi hành án dân sự Cần quy định Cơ quan thi hành án ủy quyền cho các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền tiến hành thực hiện một số thủ tục để thực hiện thi hành án dân sự như ủy quyền: xác minh điều kiện thi hành án, tiến hành kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án. * Sửa đổi, bổ sung qui định cưỡng chế thi hành án - Bổ sung qui định thủ tục kê biên, bán đấu giá tài sản của cơ quan Nhà nước để thi hành án dân sự. - Quy định cụ thể thủ tục kê biên, bán đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất và quyền tài sản và kê biên tài sản khác. * Qui định cơ chế, thủ tục buộc người phải thi hành án dân sự đối với khoản nộp án phí, tiền phạt hoặc tiền nộp ngân sách phải tập trung lao động để lấy tiền thi hành án và cần tính tiền công cho phạm nhân khi họ tập trung cải tạo Trong trường hợp người phải thi hành những khoản nộp ngân sách nhà nước thì cần qui định thủ tục bắt buộc người đó tập trung lao động để lấy tiền đảm bảo thi hành án dân sự. Nếu người phải thi hành án dân sự đang phải chấp hành hình phạt tù tại trại cải tạo, thì nên tính toán tiền công của họ, sau khi tính tiền sinh hoạt hàng tháng của họ, số tiền còn lại sẽ thanh toán tiền thi hành án. * Bổ sung quy định phối hợp thi hành phần dân sự với thi hành hình phạt trong bản án, quyết định về hình sự Trong bản án, quyết định về hình sự có phần trách nhiệm dân sự, việc thi hành án xong có nghĩa là người phải thi hành án phải thi hành xong tất cả các khoản phải thi hành án của bản án, quyết định của Tòa án, trong đó có phần trách nhiệm dân sự và các hình phạt bổ sung. Vì vậy, cần qui định việc thi hành xong phần trách nhiệm dân sự mới đủ điều kiện xét giảm án, đặc xá, miễn thi hành hình phạt tù để gắn trách nhiệm thi hành án dân sự của gia đình người bị kết án đối với thân nhân của họ. * Giảm bớt một số thủ tục không cần thiết - Bỏ qui định Cơ quan thi hành án phải ra quyết định thu hồi quyết định thi hành án khi ủy thác thi hành án. Bởi vì quyết định ủy thác thi hành án đã bao hàm được tất cả các nội dung, thông tin cần thiết để cơ quan ủy thác chấm dứt hoạt động thi hành án chưa hoặc đang thi hành dở dang, còn cơ quan nhận ủy thác và người có quyền, nghĩa vụ liên quan có đủ cơ sở để tiếp tục việc thi hành và cần thi hành án. - Bỏ quy định Cơ quan thi hành án nhận ủy thác, nếu không có điều kiện thực hiện ủy thác thì trong trường hợp Cơ quan thi hành án ra quyết định theo đơn yêu cầu của người được thi hành án thì cơ quan nhận ủy thác trả lại đơn yêu cầu cho đương sự và hướng dẫn việc gửi đơn yêu cầu đến cơ quan nơi có điều kiện thi hành. Theo quy định này thì Cơ quan thi hành án nơi có điều kiện thi hành có lý do để từ chối tiếp nhận yêu cầu của người được thi hành án, vì theo quy định thì thẩm quyền ra quyết định thi hành án là Thủ trưởng cơ quan nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm. Vì vậy, nên quy định cơ quan nhận ủy thác phải hướng dẫn cho đương sự yêu cầu cơ quan đã ủy thác, ủy thác đến nơi có điều kiện thi hành. - Bỏ quy định ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án khi đã có quyết định đình chỉ thi hành án vì lý do thời hiệu thi hành án đã hết. Vì quyết định đình chỉ thi hành án vì lý do thời hiệu thi hành án đã kết thúc được gửi cho đương sự và chính quyền hữu quan đã hàm chứa nội dung thông báo cho họ biết việc thi hành án không được thi hành [38]. 3.2. GIẢI PHÁP LÂU DÀI NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ (BẮT ĐẦU TỪ NĂM 2007) 3.2.1. Đổi mới tổ chức và thủ tục thi hành án dân sự 3.2.1.1. Đổi mới tổ chức Trong quá trình thảo luận xung quanh việc xác định mô hình tổ chức các Cơ quan thi hành án hiện nay có hai loại quan điểm khác nhau [42]. Quan điểm thứ nhất: Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, chịu trách nhiệm chính về công tác thi hành án trong phạm vi cả nước, có phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phương một số nhiệm vụ cụ thể nhưng không phải là phân cấp hoàn toàn. Theo đó, Cơ quan thi hành án dân sự được tổ chức theo 3 cấp là Trung ương, tỉnh, huyện. Cơ quan thi hành án dân sự địa phương được tổ chức độc lập với Sở Tư pháp, Phòng tư pháp, trực thuộc hệ thống dọc từ Trung ương đến cấp huyện, đồng thời chịu sự lãnh đạo của Ủy ban nhân dân địa phương. Ưu điểm của mô hình tổ chức Cơ quan thi hành án theo kiểu này thể hiện sự tương đối độc lập của hoạt động thi hành án dân sự. Do đó, không thể phân cấp hoàn toàn cho địa phương trực tiếp quản lý như các hoạt động trong lĩnh vực hành chính. Bởi vì, nếu phân cấp việc thi hành án cho từng địa phương thì hoạt động nghiệp vụ của Chấp hành viên dễ bị lệ thuộc, việc áp dụng pháp luật sẽ không thống nhất. Mặt khác, hiện nay ngày càng có nhiều cơ quan nhà nước, trong đó có Ủy ban nhân dân là người phải thi hành án trong các vụ kiện hành chính, lao động, kinh tế, dân sự… vì vậy nếu thực hiện phân cấp hoàn toàn cho địa phương trực tiếp quản lý công tác thi hành án sẽ có thể dẫn đến tình trạng thiếu khách quan. Hơn nữa, xuất phát từ nguyên tắc "cơ quan nào quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ thì đồng thời quản lý về tổ chức" thì việc giao cho Bộ Tư pháp, với tư cách là cơ quan quản lý chuyên môn, nghiệp vụ, thực hiện quản lý về tổ chức cán bộ phục vụ công tác thi hành án là hợp lý. Nếu không có sự quản lý chỉ đạo thống nhất trong công tác thi hành án thì sự phối hợp, kết hợp để giải quyết đối với những trường hợp thi hành án liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, ở nhiều địa phương khác nhau sẽ rất khó khăn. Tuy nhiên, nhược điểm của mô hình này là không đặt ra sự quản lý của Sở Tư pháp, cơ quan giúp Ủy ban nhân dân quản lý công tác tư pháp ở địa phương. Và điều này có thể khắc phục bằng việc quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác thi hành án ở địa phương. Mô hình này vẫn đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng đối với tổ chức và hoạt động thi hành án thông qua tổ chức Đảng trong ngành tư pháp theo ngành dọc hoặc tổ chức Đảng ở địa phương nơi có Cơ quan thi hành án. Quan điểm thứ hai: Giữ nguyên qui định về tổ chức Cơ quan thi hành án dân sự cũng như về quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự ở địa phương như hiện nay. Theo đó, Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ quản lý công tác thi hành án dân sự và tổ chức thi hành án dân sự thống nhất trong cả nước. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự ở địa phương, cơ quan tư pháp giúp ủy ban nhân dân cùng cấp và cơ quan tư pháp cấp trên trong việc quản lý nhà nước về công tác thi hành án ở địa phương. Theo lập luận của quan điểm này thì việc tách Cơ quan thi hành án địa phương ra khỏi cơ quan tư pháp cấp tỉnh, cấp huyện, để thành lập Cơ quan thi hành án trực thuộc ngành dọc là không phù hợp với chủ trương cải cách Bộ máy hành chính, cải cách tư pháp của Nhà nước ta hiện nay. Hơn nữa, công tác thi hành án luôn gắn với hoạt động của cơ quan tư pháp cấp tỉnh, cấp huyện là những cơ quan tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp về hoạt động tư pháp và hành chính tư pháp. Ngoài ra, Điều 43 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân qui định Ủy ban nhân dân có nhiệm vụ tổ chức và chỉ đạo công tác thi hành án ở địa phương theo quy định của pháp luật. Quy định như vậy là xuất phát từ yêu cầu của công tác thi hành án phải gắn với tình hình thực tế ở địa phương. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả công tác của Cơ quan thi hành án dân sự ở địa phương, đề nghị làm rõ và quy định cụ thể hơn việc phân cấp nhiệm vụ cho địa phương trong công tác thi hành án dân sự và qui định rõ trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan tư pháp cấp tỉnh, cấp huyện trong việc giúp ủy ban nhân dân địa phương cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thi hành án dân sự địa phương. Chúng tôi cho rằng, quan điểm thứ nhất là hợp lý hơn: Vì theo mô hình này sẽ khắc phục được những hạn chế, bất cập trong tổ chức thi hành án dân sự mà chúng tôi đã phân tích ở phần trước. Theo đó tổ chức thi hành án dân sự sẽ được xây dựng cụ thể như sau: Xây dựng hệ thống Cơ quan thi hành án dân sự theo mô hình Tổng cục thi hành án thuộc Bộ Tư pháp. Tổng cục thi hành án có nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành án trong phạm vi toàn quốc, do Bộ Tư pháp trực tiếp phụ trách và theo hệ thống dọc từ Trung ương đến địa phương trong phạm vi toàn quốc; Tổng cục không ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đối tượng quản lý của Tổng cục là những tổ chức và cá nhân hoạt động liên quan đến chuyên ngành, chịu sự điều chỉnh của pháp luật về chuyên ngành đó. Cơ cấu của Tổng cục gồm cơ quan Tổng cục và Cục ở cấp tỉnh. Riêng ở cấp huyện không nhất thiết huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh nào cũng đều có Chi cục thi hành án mà Chi cục thi hành án sẽ được tổ chức thành các khu vực, trực thuộc trực tiếp sự quản lý của Cục thi hành án tỉnh. Theo mô hình này thì hệ thống Cơ quan thi hành án trong quân đội được tổ chức ở Trung ương (Cục thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng), ở các quân khu và quân chủng Hải quân có thi hành án quân khu. + Tổng cục thi hành án thuộc Bộ Tư pháp có Tổng cục trưởng, các Phó tổng cục trưởng, Chấp hành viên và các chức danh khác. Cục thi hành án dân sự có các Ban chức năng để giúp Tổng cục trưởng tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Tổng cục thi hành án. + Cục thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng có Cục trưởng, các Phó cục trưởng, Chấp hành viên và các chức danh khác. Cục thi hành án dân sự có thể có các Phòng chức năng để giúp Cục trưởng tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Cục thi hành án. + Cục thi hành án tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Cục thi hành án tỉnh) có: Cục trưởng, các Phó cục trưởng, Chấp hành viên và các chức danh khác. Cục thi hành án các tỉnh có các Phòng chức năng để giúp Cục trưởng Cục thi hành án tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Cục thi hành án. + Chi cục thi hành án khu vực có: Chi cục trưởng, Phó chi cục trưởng, Chấp hành viên và các chức danh khác. + Về nhiệm vụ, quyền hạn: Tổng cục thi hành án thuộc Bộ Tư pháp, Cục thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng và Cục thi hành án tỉnh thực hiện hai nhiệm vụ chính là quản lý thi hành án và trực tiếp tổ chức thi hành án. + Về cơ chế quản lý: các Cơ quan thi hành án chịu sự quản lý thống nhất hệ thống tổ chức và hoạt động của Bộ Tư pháp từ Trung ương đến địa phương. Cơ quan thi hành án cấp dưới chịu sự chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ của Cơ quan thi hành án cấp trên. Cơ quan thi hành án địa phương chịu sự quản lý về mặt Nhà nước của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp nơi Cơ quan thi hành án đặt trụ sở theo qui định của pháp luật. Cơ quan thi hành án trong quân đội chịu sự quản lý, chỉ đạo thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và chịu sự quản lý nhà nước của Bộ trưởng Bộ Tư pháp theo qui định của pháp luật. 3.2.1.2. Đổi mới về thủ tục thi hành án dân sự - Quy định rõ trong Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi, Bộ luật tố tụng dân sự mới và các văn bản khác về quyền hạn cũng như trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng phải triệt để áp dụng biện pháp kê biên tài sản của người phạm pháp hoặc của người phải thực hiện nghĩa vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án sau này. - Cần sớm có văn bản qui định cụ thể về trách nhiệm bồi thường do sai phạm trong quá trình thi hành án, theo đó xác định cụ thể trách nhiệm của cá nhân Chấp hành viên, Thủ trưởng Cơ quan thi hành án, Viện kiểm sát, các cá nhân và cơ quan có liên quan đến quá trình thi hành án. - Các cơ quan tư pháp đặc biệt là các cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án cần kiên quyết đưa ra và xét xử nghiêm những trường hợp cản trở, chống đối và không chấp hành án nhằm lập lại kỷ cương thi hành án, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đúng như Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 11/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự đã nêu rõ: các cơ quan, tổ chức, kể cả các cơ quan Nhà nước phải tự nguyện thi hành án, nếu không tự nguyện thi hành, thì Cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp tổ chức thi hành án theo qui định của Pháp luật. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân cố tình dây dưa, cản trở hoạt động thi hành án, cần được xử lý nghiêm minh theo qui định của pháp luật. Đối với những cá nhân cản trở, chống đối việc thi hành án, mà có đầy đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm, thì phải kiên quyết truy cứu trách nhiệm hình sự, tổ chức xét xử lưu động một số vụ điển hình để tuyên truyền rộng rãi, làm gương cho những đối tượng khác. - Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ, thông tin thường xuyên giữa Cơ quan thi hành án, người được thi hành án với cơ quan đăng ký quyền sở hữu, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, cơ quan công chứng... nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan thi hành án trong quá trình thực thi nhiệm vụ. - Tăng thêm thẩm quyền cho Cơ quan thi hành án và Chấp hành viên như: Cho phép Cơ quan thi hành án được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi Tòa án thụ lý vụ án theo yêu cầu của đương sự trong trường hợp có dấu hiệu tẩu tán tài sản, với điều kiện người yêu cầu phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của sự kiện, phải thanh toán các chi phí cần thiết cũng như bồi thường thiệt hại xảy ra do yêu cầu không đúng; cho phép Chấp hành viên được quyền ra lệnh dẫn giải đương sự trong trường hợp đã tống đạt giấy báo hợp lệ nhiều lần mà vẫn không có mặt; được áp dụng biện pháp chế tài với người thứ ba, trong trường hợp không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên; được khám xét hoặc áp dụng các biện pháp truy tìm tài sản của người phải thi hành án khi có căn cứ cho rằng họ cố tình giấu giếm, đồng thời làm rõ mối quan hệ giữa chức danh Chấp hành viên và Chấp hành viên trưởng. - Cơ quan thi hành án có quyền yêu cầu người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ lao động bắt buộc để lấy tiền thực hiện nghĩa vụ với người được thi hành án. 3.2.2. Vấn đề xã hội hóa thi hành án dân sự Quan điểm 1: Tổ chức lại hệ thống Cơ quan thi hành án theo hướng việc thi hành án sẽ do Thừa phát lại (hay Thừa thành viên) thực hiện. Hoạt động thi hành án là một dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp và Thừa phát lại sẽ được tổ chức dưới hình thức Văn phòng hay Công ty hợp doanh đặt ở các khu vực, vận dụng như mô hình Thừa phát lại của Việt Nam trước đây và của Cộng hòa Pháp. Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp thống nhất quản lý tổ chức Thừa phát lại, trong đó một số nội dung sẽ do Sở tư pháp thực hiện theo phân cấp của Bộ Tư pháp. Trong hoạt động Thừa phát lại, cần gắn kết hoạt động của Thừa phát lại với hoạt động của Tòa án, theo đó Tòa án sẽ ra các quyết định nhân danh Nhà nước để sử dụng quyền lực nhà nước, như quyết định thi hành án, quyết định cưỡng chế thi hành án. Quan điểm 2: Cho rằng ở Việt Nam không thể chỉ xác định trong một vài năm tới là có thể áp dụng được mô hình xã hội hóa tương đối triệt để đối với hoạt động thi hành án dân sự mà cần phải từ 10 đến 15 năm nữa. Vì dân trí của chúng ta còn quá thấp. Hơn nữa, với một lực lượng đội quân chính qui, cùng với sự hỗ trợ từ phía cảnh sát, chính quyền các cấp mà việc tổ chức thi hành án còn khó khăn thì khó có thể nói rằng các tổ chức tư nhân có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ dịch vụ thi hành án. Theo chúng tôi, cần nghiên cứu, xác định mức độ can thiệp của Nhà nước đối với hoạt động thi hành án: Lĩnh vực nào thuộc trách nhiệm của Nhà nước, lĩnh vực nào cần xã hội hóa, và xã hội hóa như thế nào. Đây là vấn đề cần được quan tâm trong tổng thể quá trình xã hội hóa một số hoạt động của cơ quan tư pháp nói chung, phải được xây dựng một cách cụ thể trên các phương diện về tổ chức, và hoạt động, về thủ tục và thẩm quyền… Từ đó kiến nghị những giải pháp cụ thể về mô hình và bước đi phù hợp, mang tính khả thi cao. Trước hết, cần khẳng định trong điều kiện hiện nay ở nước ta, việc xã hội hóa từng bước thi hành án dân sự là cần thiết vì nó mang lại những lợi ích như: giảm tải khối lượng công việc của Cơ quan thi hành án dân sự đang ngày càng tăng lên, góp phần giải quyết tình trạng tồn đọng án, tạo điều kiện cho Cơ quan thi hành án tinh lọc, kiện toàn, tinh giảm biên chế, làm gọn nhẹ bộ máy, tiết kiệm một cách đáng kể cho ngân sách nhà nước; giúp cho việc nâng cao chất lượng thi hành án dân sự nhờ có sự cạnh tranh giữa cơ quan, tổ chức thi hành án; làm thay đổi phong cách lề lối làm việc, thái độ phục vụ, khắc phục tệ quan liêu cửa quyền, nhũng nhiễu nhân dân, tạo thêm khả năng lựa chọn cho người dân phù hợp với điều kiện, khả năng cụ thể của mình. Vấn đề đặt ra là phải xác định đúng phạm vi những nội dung hoạt động thi hành án dân sự có thể và cần được xã hộ hóa. Việc xã hội hóa phải phù hợp với những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử cụ thể của từng giai đoạn phát triển của xã hội. Ngoài ra, phải tính đến yếu tố tâm lý, tập quán, truyền thống, môi trường pháp lý ở từng vùng, miền khác nhau. Theo quy định của pháp luật hiện hành có hai loại việc được đem ra thi hành theo phương thức khác nhau. Thứ nhất, loại việc do Cơ quan thi hành án chủ động thi hành, không phụ thuộc vào ý chí của đương sự, bao gồm: các bản án, quyết định về trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa, phạt tiền… Thứ hai, là tất cả các việc còn lại mà Cơ quan thi hành án chỉ ra quyết định thi hành án khi đương sự có đơn yêu cầu. Đây là căn cứ quan trọng để phân định phạm vi những việc xã hội hóa. Đối với loại việc thứ nhất nhằm bảo vệ " lợi ích công" thì chi phí tiền bạc, phương tiện đều do ngân sách nhà nước gánh chịu. Cơ quan thực hiện công việc này cũng phải là cơ quan công quyền với đội ngũ công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Đối với loại việc thứ hai, có thể coi là "lợi ích tư" của công dân, nên để bảo vệ các quyền lợi đó họ phải chịu các chi phí cần thiết. Nhà nước không nên làm cả những việc này và nên coi đó là một loại hình dịch vụ pháp lý đặc biệt và giao cho các tổ chức, cá nhân đảm nhiệm trên cơ sở thỏa thuận tự nguyện của đương sự nhằm giảm bớt gánh nặng cho Bộ máy công quyền, tăng nhanh tốc độ và hiệu quả giải quyết việc thi hành án dân sự. Tuy nhiên, việc xã hội hóa công tác thi hành án cũng phải thực hiện từng bước với hình thức tổ chức thích hợp. Qua nghiên cứu tổ chức thi hành án một số nước trên thế giới, chúng ta thấy có ba hình thức tổ chức thi hành án dân sự là: thi hành án công, do công chức nhà nước thực hiện, hình thức bán công vừa do công chức thực hiện vừa do viên chức thi hành đảm nhiệm và thi hành án tư nhân. Mỗi mô hình đều có những ưu khuyết điểm. Mô hình công đảm bảo hiệu lực cưỡng chế của Nhà nước, tạo tâm lý tin tưởng, an toàn về phía người dân, nhất là người nghèo, nhưng mặt trái là tốn kém kinh phí của Nhà nước và dễ phát sinh tệ quan liêu, sách nhiễu; mô hình tư nhân thì mức độ xã hội hóa rất cao, ngân sách nhà nước đỡ tốn kém, nhưng đòi hỏi phải có các điều kiện như: nền kinh tế - xã hội phát triển ở mức độ nhất định, môi trường pháp lý, văn hóa pháp lý phát triển, đặc biệt ý thức tuân thủ pháp luật của người dân và cơ quan, tổ chức phải rất cao; hệ thống pháp luật phải đồng bộ. Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, theo chúng tôi có thể áp dụng hình thức tổ chức thi hành án bán công, vừa phù hợp với trình độ dân trí, vừa thích ứng với sự chuyển đổi của nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay. Để triển khai việc này phải có kế hoạch từng bước tách riêng chế độ công chức thi hành án đối với khoản thi hành án về tịch thu tài sản, phạt tiền, thu nợ cho Nhà nước, các quyết định khẩn cấp tạm thời... Đồng thời áp dụng chế độ thi hành án theo yêu cầu của người được thi hành án và người phải thi hành án (trong trường hợp này, họ phải trang trải các chi phí mà Chấp hành viên bỏ ra ở mức độ hợp lý). Điều cần lưu ý là phải kết hợp bộ máy thi hành án công với bán công để vừa công chức hóa cán bộ ở mức cần thiết cho việc thực hiện chính sách chung của Đảng và Nhà nước (bảo vệ lợi ích công, đối tượng chính sách), vừa từng bước xã hội hóa thi hành án dân sự phù hợp với thực tiễn cuộc sống. KẾT LUẬN Thi hành án dân sự là một nội dung quan trọng của hoạt động nhà nước. Trong Nhà nước pháp quyền vai trò pháp chế luôn được đề cao, pháp luật được đảm bảo thực hiện. Pháp chế đòi hỏi phải chấp hành nghiêm chỉnh các phán quyết nhân danh công lý mà Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền đã tuyên. Thông qua hoạt động thi hành án, những bản án, quyết định của Tòa án và của cơ quan có thẩm quyền được thực thi, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức được bảo vệ, công bằng xã hội được bảo đảm. Phán quyết của Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước sẽ chỉ là quyết định trên giấy nếu không được tổ chức thi hành hoặc thi hành không đầy đủ trên thực tế. Hoạt động thi hành án kém hiệu quả sẽ làm vô hiệu hóa toàn bộ hoạt động của các cơ quan tố tụng ở giai đoạn trước, gây tổn hại đến trật tự, kỷ cương làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào tính nghiêm minh của pháp luật. Vì vậy, thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng có vai trò rất lớn trong việc góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thời gian qua, hoạt động thi hành án đã có những chuyển biến và đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì hiệu quả hoạt động của các Cơ quan thi hành án dân sự chưa thật sự đáp ứng yêu cầu thực tế đặt ra. Số lượng án còn tồn đọng chưa được thi hành chiếm tỷ lệ đáng kể, nhiều cơ quan Nhà nước và cá nhân không chấp hành bản án, không tự nguyện thi hành án, thậm chí còn có sự can thiệp không đúng pháp luật vào việc thi hành án. Nhìn lại thực tế qua hơn 10 năm chuyển giao công tác thi hành án dân sự từ Tòa án nhân dân các cấp sang các cơ quan của Chính phủ thì cơ chế quản lý, tổ chức, thủ tục thi hành án đã và đang bộc lộ khá nhiều bất cập. Các bất cập đó ở mức độ khác nhau đang tác động trực tiếp, gián tiếp vào hoạt động thi hành án. Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004 ra đời là kết quả tất yếu của quá trình phát triển pháp luật thi hành án dân sự. Với những sửa đổi, bổ sung so với Pháp lệnh 1993, Pháp lệnh 2004 đã đưa ra được nhiều giải pháp khắc phục tình trạng án tồn đọng. Tuy nhiên, để đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn hiện nay, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả thi hành án dân sự thì chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật thi hành án dân sự. Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004 mới chỉ là bước khởi đầu, tạo tiền đề cho cả quá trình xây dựng pháp luật thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng. Vì vậy, yêu cầu đổi mới tổ chức, thủ tục thi hành án dân sự đang đặt ra một cách cấp bách. Để thực hiện điều đó, trước hết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự. Việc hoàn thiện các chế định pháp luật thi hành án dân sự (đặc biệt là các chế định về tổ chức và thủ tục thi hành án dân sự) không chỉ nhằm tăng cường hiệu lực cưỡng chế thi hành án mang tính quyền lực Nhà nước mà còn khuyến khích sự tự nguyện, tự thỏa thuận, nâng cao ý thức trách nhiệm và chủ động thi hành án của đương sự, từng bước tiến tới cơ chế thi hành án dân sự chủ yếu theo đơn yêu cầu của đương sự, và chuyển dần theo hướng xã hội hóa thi hành án dân sự. Vấn đề đặt ra ở đây là cần có sự tham khảo một cách nghiêm túc, có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài, trên cơ sở đó vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp vào thực tiễn Việt Nam. Đó cũng là một đòi hỏi khách quan xuất phát từ nhu cầu mở rộng giao lưu kinh tế và hội nhập quốc tế trong điều kiện hiện nay. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới. Bộ Tư pháp (2003), Báo cáo số 10/BC-THA về một số tồn tại trong công tác thi hành án dân sự và giải pháp, kiến nghị. Bộ Tư pháp (2003), Báo cáo số 361/BC-BTP về tổng kết 10 năm công tác thi hành án dân sự. Bộ Tư pháp (2004), Công văn số 135/TP-THA về thi hành Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004. Bộ trưởng Bộ Tư pháp (1994), Quyết định 141/QĐ/QLTA-THA phân cấp quản lý về mặt tổ chức các Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và Phòng thi hành án, Đội thi hành án, (Nxb Chính trị quốc gia, Tìm hiểu pháp luật thi hành án dân sự, Hà Nội, 1999). Công báo, năm 1945, 1960. Cộng hòa Pháp, Luật số 91-650, ngày 9/7/1991 về cải cách thủ tục thi hành án dân sự (bản dịch của Nhà pháp luật Việt - Pháp). Chủ tịch nước, Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, Việt Nam quốc dân Công báo năm 1950. Chính phủ (1993) Nghị định 69/CP quy định về thủ tục thi hành án dân sự, (Nxb Chính trị quốc gia, Tìm hiểu PL THADS, Hà Nội, 1999). Chính phủ (1993) Nghị định 30/CP quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên, (Nxb Chính trị Quốc gia, Tìm hiểu PL THADS, Hà Nội, 1999). Chính phủ (2002), Nghị định số 86/2002/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ, Công báo, số 59 (1647) ngày 25 tháng 11 năm 2002. Chính phủ (2003), Báo cáo số 77/CP-PC về công tác thi hành án năm 2003. Chính phủ (2003), Tờ trình số 1087/CP-PC về Dự thảo Pháp lệnh thi hành án dân sự (sửa đổi). Chính phủ (2004), Dự thảo Nghị định quy định về thủ tục, cưỡng chế và xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự (sửa đổi). Chính phủ (2004), Dự thảo Nghị định quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án dân sự (sửa đổi) Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ Ba Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ Bảy Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ Chín Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa pháp lại, Mã số 95-98/114/ĐT. Đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước, Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới và tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam, Mã số 2000-58-198. Học viện Hành chính Quốc gia (2001), Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính Nhà nước chương trình chuyên viên, Phần II hành chính Nhà nước và công nghệ hành chính, Nhà in Khoa học và công nghệ. Lê Xuân Hồng (2002), Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Bùi Xuân Khánh (2002), Một số ý kiến về thủ tục thi hành án dân sự-kinh tế của Việt Nam từ cách tiếp cận của Luật so sánh, tài liệu Hội thảo "Đổi mới tư pháp dân sự trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi", Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật. Vũ Khoan - Phó thủ tướng Chính phủ (2003), Phát biểu tại Hội nghị tổng kết 10 năm công tác thi hành án dân sự, Báo Pháp luật, số 81 (1924) thứ sáu ngày 04/4/2003. Kỷ yếu Dự án VIE/95/017: Tăng cường năng lực xét xử tại Việt Nam: Phần về pháp luật tố tụng dân sự. Kỷ yếu Dự án VIE/95/001: Tăng cường năng lực pháp luật tại Việt Nam- Giai đoạn II: Báo cáo chuyên đề về một số lĩnh vực của khung pháp luật tại Việt Nam. Nguyễn Công Long (2002), Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Nông Đức Mạnh - Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Tăng cường vai trò và hiệu quả hoạt động của Quốc hội đáp ứng các yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Tạp chí Cộng sản, số 22 (tháng 8 năm 2002). Nhật Bản, Luật thi hành án dân sự ( Luật sửa đổi số 91 năm 1989 Bản dịch tại Hội thảo Luật thi hành án dân sự Nhật Bản, Hà Nội ngày 11/11/1998). Quốc hội (1992) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quốc hội (1995) Bộ luật dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quốc hội (1999) Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Minh Tâm (2001), Thử bàn mấy vấn đề lý luận về thi hành án, Tạp chí Luật học, số 2/2001. Thủ tướng Chính phủ (2001), Chỉ thị số 20/2001/CT-TTg về tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Thủ tướng Chính phủ (1993), Chỉ thị số 266/02/6/1993/CT-TTg về triển khai bàn giao và tăng cường công tác thi hành án dân sự trong tình hình trước mắt. Thứ trưởng Bộ Tư pháp - Lê Thị Thu Ba, Những sửa đổi, bổ sung của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, Bài phát biểu tại buổi họp báo ngày 17/02/2004 công bố Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004. Lê Anh Tuấn (2004), Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Nguyễn Quang Thái (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Nguyễn Thanh Thủy (2001), Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trường Đại học Luật Hà Nội (1996), Giáo trình Lý luận về Nhà nước và pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2003), công văn số 136/UBTVQH11 xin ý kiến mô hình tổ chức, quản lý cơ quan thi hành án dân sự ở địa phương. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993, (Nxb Chính trị quốc gia, Tìm hiểu pháp luật thi hành án dân sự, Hà Nội, 1999). Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, Phụ bản Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 4/2004. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (Nxb Đồng Nai, Tìm hiểu thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, 2000). Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp (2001), Xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Thông tin khoa học pháp lý, số 8/2001. Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp (2002), Vấn đề công nhận và thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài, Thông tin khoa học pháp lý, số 2/2002. Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp (2002), Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động thi hành án hiện nay, Thông tin khoa học pháp lý, số 6/2002. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2484.doc
Tài liệu liên quan