Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xà phòng Hà Nội

Chương 1 hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Vốn. Khái niệm vốn và đặc trưng. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD), bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải có đầy đủ ba yếu tố về lao động: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Quá trình SXKD chính là quá trình kết hợp các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm, dịch vụ trên thị trường. Để có được ba yếu tố trên cho quá trình SXKD, doanh nghiệp cần một lượng vốn tiền tệ nhất định. Với số tiền này

doc50 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1324 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xà phòng Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, doanh nghiệp sẽ đầu tư mua sắm các loại tài sản, thiết bị, nguyên vật liệu (NVL) cần thiết cho hoạt động SXKD, đồng thời trả lương cho người lao động. Đến khi làm ra sản phẩm, dịch vụ, doanh nghiệp đem đi tiêu thụ và thu tiền về. Từ số tiền này, doanh nghiệp để lại một phần để trích lập các quĩ dự trữ cho quá trình SXKD tiếp theo. Các tư liệu lao động và đối tượng lao động mà doanh nghiệp đầu tư mua sắm cho hoạt động SXKD chính là hình thái hiện vật của vốn kinh doanh. Như vậy, ta có thể nêu khái niệm của vốn kinh doanh như sau: “Vốn của doanh nghiệp là giá trị ứng trước của tư liệu sản xuất của doanh nghiệp đưa vào SXKD nhằm mục tiêu sinh lời” Muốn quản lí tốt và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, trước hết chúng ta phải hiểu được những đặc trưng cơ bản của vốn doanh nghiệp trong các doanh nghiệp cụ thể là: Một là, vốn phải được biểu hiện bằng một lượng giá trị thực của những tài sản được sử dụng để sản xuất ra một lượng giá trị khác. Điều này có nghĩa là chỉ những giá trị tài sản được sử dụng vào quá trình SXKD một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như: nhà xưởng, đất đai, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu… mới được coi là vốn kinh doanh. Hai là, vốn phải được vận động để sinh lời. Tiền tệ chỉ được coi là vốn kinh doanh khi chúng được đưa vào SXKD và sinh lời. Trong quá trình vận động vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng là hình thái tiền tệ. Để đảm bảo cho quá trình đầu tư thì số vốn đó phải có giá trị tăng lên. Ba là, vốn phải được tập trung, tích tụ đến một lượng nhất định mới có thể phát huy tác dụng phục vụ SXKD và để đầu tư, mở rộng sản xuất. Vì thế, các doanh nghiệp phải luôn khai thác mọi tiềm năng vốn để đầu tư vào SXKD. Bốn là, vốn có giá trị về mặt thời gian. Điều này có nghĩa là khi sử dụng vốn chúng ta cần phải xem xét đến yếu tố thời gian của vốn. Xét trên quan điểm kinh doanh, mỗi đồng vốn bỏ ra phải không ngừng vận động và sinh lời. Nhưng mỗi đồng vốn thu được trong tương lai lại không thể bằng một đồng vốn có ở thời điểm hiện tại. Sự khác biệt đó là do giữa chúng có yếu tố thời gian và rủi ro. Chính vì vậy khi quyết định bỏ vốn ra đầu tư, doanh nghiệp cần phải quan tâm đến yếu tố thời gian. Năm là, vốn phải được gắn với chủ sở hữu. Đặc trưng này làm cho đồng vốn khi đưa vào SXKD mới được sử dụng hợp lý vì nó gắn chặt vào quyền lợi kinh tế của chủ sở hữu đó. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường, không thể để những đồng vốn vô chủ vì nếu thế sẽ dẫn đến hiện tượng sử dụng vốn lãng phí, kém hiệu quả. Sáu là, vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền của các tài sản hữu hình mà còn được biểu hiện bằng tiền của các tài sản vô hình như vị trí địa lý, nhãn hiệu bản quyền, bằng phát minh sáng chế… Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ thì tài sản vô hình ngày càng phong phú và đa dạng. Những tài sản này càng giữ vai trò quan trọng trong việc tăng khả năng cạnh tranh và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Vì vậy tất cả tài sản này của doanh nghiệp phải được lượng hoá qui giá trị. Đây là việc làm cần thiết cho các doanh nghiệp. Bảy là, trong nền kinh tế thị trường vốn phải được quan niệm là hàng hoá - hàng hoá đặc biệt. Những người có vốn nhàn rỗi có thể đem đến thị trường vốn để cho người tạm thời thiếu vốn vay. Nhưng khác với hàng hoá thông thường, vốn khi được bán sẽ không mất đi quyền sở hữu mà chỉ mất đi quyền sử dụng. Người mua quyền sử dụng vẫn phải trả cho người bán một khoản tiền theo một tỉ lệ nhất định gọi là lãi suất. Trên đây là những đặc trưng cơ bản của vốn kinh doanh. Các doanh nghiệp cần hiểu được các đặc trưng của vốn kinh doanh từ đó có một tầm nhìn sâu và rộng về vốn kinh doanh để quản lý, sử dụng có hiệu quả hơn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. 1.1.2. Phân loại vốn. Nếu căn cứ vào đặc điểm chu chuyển của vốn trong quá trình SXKD, ta có thể chia vốn thành hai loại: vốn cố định và vốn lưu động. 1.1.2.1. Vốn cố định. Khi đầu tư thành lập một doanh nghiệp, các doanh nghiệp đều phải bỏ ra số vốn đầu tư ứng trước nhất định để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ hữu hình và vô hình. Số vốn này được gọi là vốn cố định (VCĐ) của các doanh nghiệp. Vậy: Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định (TSCĐ), mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng. Vốn cố định được biểu hiện thông qua hình thái vật chất là TSCĐ của doanh nghiệp. TSCĐ của doanh nghiệp bao gồm rất nhiều loại, mỗi loại có những đặc điểm khác nhau về tính chất kỹ thuật, thời gian sử dụng...Vì vậy để quản lý tốt TSCĐ cũng như quản lý tốt vốn cố định, doanh nghiệp cần phải tiến hành phân loại TSCĐ. Nếu căn cứ vào hình thái biểu hiện có thể chia TSCĐ thành hai loại là TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình. Trong đó : - TSCĐ hữu hình: Là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất, là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay nhiều chức năng nhất định trong quá trình SXKD, có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ SXKD nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu. Đó là toàn bộ vốn đầu tư xây dựng, mua sắm thiết bị công nghệ... của doanh nghiệp để tạo ra năng lực kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm: nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị các loại, phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn, TSCĐ khác. - TSCĐ vô hình: Là TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ SXKD của doanh nghiệp như: quyền sử dụng đất, quyền phát hành, bản quyền, bằng sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, phần mềm máy vi tính, giấy phép và giấy nhượng quyền... Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu đầu tư vào TSCĐ hữu hình và vô hình. Từ đó lựa chọn các quyết định đầu tư hay điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho phù hợp và có hiệu quả nhất. 1.1.2.2. Vốn lưu động : Để cho quá trình SXKD được diễn ra thường xuyên liên tục, ngoài VCĐ doanh nghiệp còn phải bỏ ra một lượng vốn nhằm hình thành các tài sản lưu động (TSLĐ) và số vốn đó được gọi là vốn lưu động (VLĐ). Như vậy VLĐ là biểu hiện bằng tiền toàn bộ TSLĐ của doanh nghiệp phục vụ cho quá trình SXKD. Việc nghiên cứu kết cấu VLĐ có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý vốn của doanh nghiệp. Nó giúp doanh nghiệp thấy rõ hơn được tính hợp lý hay không của kết cấu VLĐ tại mỗi thời điểm, từ đó có các biện pháp điều chỉnh hợp lý hơn đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả hơn, tránh được các rủi ro trong cơ chế thị trường. VLĐ của doanh nghiệp được biểu hiện thông qua TSLĐ, TSLĐ của doanh nghiệp là những tài sản tiền tệ hoặc là những tài sản có thể chuyển thành tiền tệ trong chu kì kinh doanh. Nó bao gồm: Vốn bằng tiền, hàng hoá tồn kho, các khoản ứng trả trước, các khoản phải thu, đầu tư tài chính ngắn hạn, chi phí sự nghiệp. 1.1.3 Nguồn hình thành vốn Đối với một doanh nghiệp thì nguồn vốn là toàn bộ các nguồn tài chính mà doanh nghiệp có thể khai thác và sử dụng trong một thời kì nhất định để đáp ứng nhu cầu SXKD của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, vốn của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. - Nếu căn cứ vào phạm vi hình thành, nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm 2 loại: nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài. + Nguồn vốn bên trong của doanh nghiệp là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động được từ kết quả SXKD như: lợi nhuận để lại, các khoản dự phòng, dự trữ, tiền khấu hao TSCĐ... Đây là nguồn vốn rất quan trọng đối với sự phát triển của công ty. + Nguồn vốn bên ngoài của doanh nghiệp là nguồn vốn doanh nghiệp có thể huy động được từ các nguồn như: nguồn vốn liên doanh, liên kết, nguồn vốn tín dụng, nguồn vốn huy động từ thị trường vốn... Khi nguồn vốn bên trong đã sử dụng hết nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu SXKD thì đây là nguồn vốn cần thiết vừa giúp doanh nghiệp có đủ vốn, vừa tạo cho doanh nghiệp có một cơ cấu vốn linh hoạt. Theo cách phân loại này người quản lý thấy được những ưu điểm, nhược điểm khi sử dụng từng nguồn vốn vào SXKD. Do đó, việc lựa chọn nguồn vốn nào sử dụng cho có hiệu quả là vấn đề đòi hỏi các nhà quản lý doanh nghiệp hết sức cẩn trọng. - Nếu căn cứ thời gian huy động vốn và sử dụng vốn, nguồn vốn của doanh nghiệp được chia thành 2 loại: nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. + Nguồn vốn ngắn hạn: là nguồn vốn doanh nghiệp có thể sử dụng và đáp ứng nhu cầu tạm thời thường là có thời hạn dưới một năm. Chẳng hạn các khoản vay ngắn hạn ngân hàng, các khoản nợ phải trả cho người bán, các khoản phải nộp ngân sách, các khoản phải trả công nhân viên… Nguồn vốn này thường mang tính chất tạm thời. + Nguồn vốn dài hạn: là nguồn vốn có tính chất ổn định mà doanh nghiệp có thể sử dụng và đáp ứng nhu cầu lâu dài trên một năm. Chẳng hạn nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn. Theo cách phân loại này, các nhà quản lý có thể xem xét huy động các nguồn vốn phù hợp với thời gian sử dụng, đảm bảo vừa đáp ứng kịp thời cho nhu cầu vốn cho SXKD, vừa nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn. 1.2. Hiệu quả sử dụng vốn 1.2.1. Khái niệm Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là mối tương quan giữa kết quả đạt được theo mục tiêu đã xác định trong một thời kì nhất định với số vốn bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nó là chỉ tiêu quan trọng khi xem xét đánh giá hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp đó. Nguồn lực chính giúp doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu xác định của mình là vốn, nếu trình độ quản lí, khai thác và sử dụng vốn của doanh nghiệp tốt, có hiệu quả thì sẽ rút ngắn được thời gian cũng như các chi phí khác phải bỏ ra để doanh nghiệp đạt được các mục tiêu của mình và ngược lại. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp bao gồm hiệu quả sử dụng vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn cố định. Việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là mục tiêu của doanh nghiệp qua các thời kì phát triển. Qua mỗi một thời kì phát triển, doanh nghiệp có những mục tiêu khác nhau nhưng mục đích cuối cùng là hiệu quả kinh tế, là lợi nhuận và sự ổn định để phát triển. 1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn Việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện thông qua hệ thống các chỉ tiêu sau * Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nói chung: - Chỉ tiêu vòng quay tổng vốn: Chỉ tiêu này cho biết bình quân một đồng vốn tham gia vào SXKD tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hay doanh thu thuần. Vòng quay tổng vốn = Tổng doanh thu(thuần) trong kỳ Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ - Chỉ tiêu doanh lợi tổng vốn: là chỉ tiêu đo lường mức độ sinh lời của tổng vốn, nó phản ánh một đồng vốn sử dụng bình quân tham gia tạo ra mấy đồng lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế. Doanh lợi tổng vốn = Lợi nhuận trước thuế (sau thuế) trong kỳ Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ - Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu: mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là nhằm tạo ra lợi nhuận cho chủ sở hữu. Doanh lợi vốn chủ sở hữu là chỉ tiêu đánh giá mức độ thực hiện chỉ tiêu này. Doanh lợi vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận sau thuế trong kỳ Vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ - Chỉ tiêu doanh lợi doanh thu: chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu mà doanh nghiệp thực hiện trong kì có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Doanh lợi doanh thu = Lợi nhuận trước thuế (sau thuế) trong kỳ Doanh thu(thuần) trong kỳ Trên đây là các chỉ tiêu phán ánh tình hình sử dụng vốn kinh doanh nói chung của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào các chỉ tiêu trên thì ta không thể thấy được việc sử dụng vốn có hiệu quả hay không là do tình hình sử dụng vốn cố định hay là sử dụng vốn lưu động vì vậy để xem xét một cách toàn diện tình hình sử dụng vốn kinh doanh thì chúng ta cần phải nghiên cứu các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả vốn cố định và vốn lưu động. * Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định: - Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định: chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định bình quân có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu (thuần) trong kỳ. Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Doanh thu (thuần) trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ - Chỉ tiêu doanh lợi vốn cố định: chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định trong kì tham gia tạo ra tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế hay sau thuế. Doanh lợi vốn cố định = Lợi nhuận trước thuế(sau thuế) trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ - Chỉ tiêu hàm lượng VCĐ : chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu hay doanh thu thuần trong kỳ cần bao nhiêu đồng vốn cố định. Hàm lượng VCĐ = Vốn cố định bình quân trong kỳ Doanh thu (thuần) trong kỳ Ngoài ra hiệu quả sử dụng vốn cố định còn được đánh giá thông qua chỉ tiêu hiệu suất sử dụng TSCĐ - Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định: phản ánh một đồng tài sản cố định trong kì tham gia tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hay doanh thu thuần. Hiệu suất sử dụng TSCĐ = Doanh thu (thuần) trong kỳ Nguyên giá TSCĐ bình quân * Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng VLĐ : - Số vòng quay vốn lưu động: chỉ tiêu này phản ánh trong kì vốn lưu động quay được mấy vòng. Số vòng quay vốn lưu động = Doanh thu (thuần) trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ - Chỉ tiêu số ngày của một vòng luân chuyển: chỉ tiêu này phản ánh số ngày cần thiết để vốn lưu động có thể quay được một vòng. Số ngày một vòng luân chuyển = Số ngày trong kỳ Số vòng quay vốn lưu động - Doanh lợi vốn lưu động: chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động tham gia vào sản suất trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế. Doanh lợi vốn lưu động = Lợi nhuận trước thuế (sau thuế) trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ - Chỉ tiêu hàm lượng VLĐ: phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu cần có mấy đồng vốn lưu động. Hàm lượng VLĐ = Vốn lưu động bình quân trong kỳ Doanh thu (thuần) trong kỳ Trên đây là một số chỉ tiêu cơ bản để đánh giá tình hình sử dụng vốn kinh doanh nói chung cũng như vốn cố định và vốn lưu động nói riêng. Khi phân tích đánh giá đòi hỏi các nhà quản trị phải căn cứ vào từng điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp để đưa ra những nhận xét hợp lí, có căn cứ khoa học. 1.2.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp là kết quả tổng thể của hàng loạt các biện pháp kinh tế, kĩ thuật và tài chính. Trong đó biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có tác động mạnh mẽ thúc đẩy hiệu quả SXKD của doanh nghiệp. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một sự cần thiết đối với bản thân doanh nghiệp. Điều này xuất phát từ các lý do sau: Một là, xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp. Bất kì doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động SXKD cũng hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp liên quan đến tất cả hoạt động SXKD của doanh nghiệp, đó là nguồn tích luỹ cơ bản để tái sản xuất giản đơn cũng như tái sản xuất mở rộng. Vì vậy, lợi nhuận được coi là một trong những đòn bẩy quan trọng, là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Do đó, trong quá trình sản xuất việc sử dụng vốn vào kinh doanh như thế nào để thu được lợi nhuận cao là mục tiêu phấn đấu của các doanh nghiệp. Hai là, xuất phát từ vị trí, vai trò của vốn trong quá trình SXKD. Bất kì doanh nghiệp nào để tiến hành SXKD cũng đều cần có vốn. Vốn là điều kiện quyết định và ảnh hưởng đến toàn bộ các hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Với vai trò quan trọng đó, đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Ba là, xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo toàn vốn và mục tiêu phát triển của mỗi doanh nghiệp. Như đã nói ở trên, mục tiêu hàng đầu của mỗi doanh nghiệp là lợi nhuận mà muốn thu được lợi nhuận thì doanh nghiệp phải bảo toàn và phát triển được vốn kinh doanh. Hơn nữa, mục tiêu của doanh nghiệp không đơn thuần là lợi nhuận mà còn có các mục tiêu khác như: mở rộng và phát triển hoạt động SXKD... Vì vậy, muốn đạt được các mục tiêu trên đòi hỏi doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả vốn kinh doanh. Bốn là, xuất phát từ tình hình quản lí và sử dụng vốn ở các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, giữa các doanh nghiệp luôn tồn tại sự cạnh tranh quyết liệt đòi hỏi các doanh nghiệp phải năng động nhạy bén, nắm bắt nhu cầu thị trường, đổi mới thiết bị, cải tiến qui trình công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm… Mặt khác trong điều kiện hiện nay, các doanh nghiệp thực sự là các đơn vị kinh tế tự chủ trong tổ chức quản lí, tạo lập và sử dụng vốn … Muốn thế, doanh nghiệp cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của mình. Như vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp có một ý nghĩa quan trọng. Nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. 1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn 1.2.4.1 Nhân tố chủ quan Một là, việc xác định nhu cầu vốn. Nếu doanh nghiệp xác định nhu cầu về vốn chính xác sẽ giúp cho doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn, ngược lại nếu không chính xác sẽ gây nên sự thừa vốn hoặc thiếu vốn cho SXKD. Nếu thừa vốn sẽ gây ra tình trạng ứ đọng vốn trong sản phẩm tiêu thụ. Nếu thiếu vốn thì quy trình sản xuất sẽ gặp khó khăn làm chu kì sản xuất bị kéo dài, chất lượng sản phẩm không đảm bảo. Do vậy việc xác định nhu cầu về vốn cũng là một trong những nhân tố chủ quan của doanh nghiệp ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Hai là, việc bố trí cơ cấu vốn: cơ cấu vốn SXKD là tỷ trọng từng loại vốn trong tổng vốn kinh doanh. Tuỳ từng loại hình SXKD mà cơ cấu vốn SXKD khác nhau. Nếu cơ cấu vốn SXKD được bố trí hợp lý sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng vốn nhưng ngược lại nếu cơ cấu vốn SXKD bố trí không hợp lí sẽ dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu một loại tài sản nào đó làm cho hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh bị giảm đi. Ba là, việc chọn phương án đầu tư. Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn SXKD của doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp lựa chọn phương án đầu tư đúng đắn, tức là đầu tư để sản xuất ra các sản phẩm, hàng hoá có mẫu mã đẹp, chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng thì doanh nghiệp sẽ thu được nhiều lợi nhuận. Điều này có nghĩa là vốn của doanh nghiệp được sử dụng có hiệu quả. Ngược lại, nếu doanh nghiệp lựa chọn phương án đầu tư sai, bỏ vốn ra sản xuất những sản phẩm hàng hóa mà thị trường không có hoặc chưa có nhu cầu, chất lượng kém… thì việc tiêu thụ sẽ rất khó. Từ đó gây ra tình trạng ứ đọng vốn và làm giảm hiệu quả sử dụng VKD. Bốn là, trình độ quản lý và trình độ kỹ thuật công nghệ của doanh nghiệp. Nếu trình độ quản lý của doanh nghiệp tốt, tay nghề của công nhân cao sẽ góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp đồng thời giúp doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm dược đồng vốn. Ngược lại nếu trình độ quản lí yếu kém, trình độ kĩ thuật thấp sẽ dẫn đến việc sử dụng vốn không có hiệu quả, thể hiện ở khâu quản lí vốn SXKD chưa chặt chẽ dẫn đến việc sử dụng vốn lãng phí, phân tích tình hình tài chính chưa sát thực tế, tay nghề của người lao động thấp không phù hợp với yêu cầu của công việc. Vì vậy đây chính là nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Năm là, lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận của doanh nghiệp được dùng để tính các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh cũng như vốn cố định và vốn lưu động. Do đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu lợi nhuận đạt được cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là tốt và ngược lại. Chính vì thế phấn đấu tăng lợi nhuận của doanh nghiệp cũng chính là tăng hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Ngoài những nhân tố chủ quan trên, hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp còn chịu tác động của những nhân tố khách quan sau. 1.2.4.2 Nhân tố khách quan Một là, những tác động của nền kinh tế. Nếu nền kinh tế biến động theo chiều hướng xấu, lạm phát cao, sức mua của đồng tiền giảm dẫn đến sự gia tăng giá các loại vật tư hàng hoá đầu vào trong khi sản phẩm lại không bán được do sức mua của thị trường giảm. Điều này làm cho vốn SXKD của doanh nghiệp bị giảm hiệu quả sử dụng. Ngược lại, nếu nền kinh tế biến động tốt, lạm phát giảm, sức mua của đồng tiền ổn định sẽ làm cho hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp được nâng cao. Hai là, những rủi ro trong quá trình doanh nghiệp tiến hành hoạt động SXKD. Trong quá trình hoạt động SXKD, rủi ro là điều mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng không tránh khỏi. Rủi ro có thể do thiên tai, do cạnh tranh mà doanh nghiệp không thể lường trước được. Nhân tố này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn SXKD của doanh nghiệp. Ba là, những tác động của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật. Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển đã cho ra đời hàng loạt các máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại. Nếu doanh nghiệp nào không biết ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất thì sẽ rơi vào tình trạng lạc hậu, làm cho sản phẩm sản xuất ra năng suất thấp, chất lượng kém, không đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường và không thể đem lại lợi nhuận. Ngược lại nếu doanh nghiệp nào biết ứng dụng khoa học kĩ thuật hiện đại thì khả năng cạnh tranh sẽ rất cao, lợi nhuận nhiều. Do vậy, đây cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Trên đây là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Để hạn chế những tác động tiêu cực của các nhân tố trên, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đòi hỏi doanh nghiệp phải xem xét, nghiên cứu một cách thận trọng từng nhân tố để đưa ra các biện pháp kịp thời cụ thể. Chương 2 Thực trạng sử dụng vốn tại công ty Xà phòng Hà Nội Khái quát về Công ty Xà phòng Hà Nội. 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty xà phòng Hà Nội Công ty Xà phòng Hà Nội là doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập thuộc tổng công ty hoá chất Việt Nam, được thành lập theo quyết định số 323 ngày 27/5/1993 của Bộ trưởng Bộ Công Nghiệp. Công ty Xà phòng Hà Nội nằm trên đường Nguyễn Trãi, số 233b, quận Thanh Xuân - Hà Nội với tổng diện tích mặt bằng là 50000 m2, tiếp giáp với Nhà máy thuốc lá Thăng Long và Công ty cao su sao vàng. Ngành nghề kinh doanh của công ty là công nghiệp sản xuất hoá chất tẩy rửa tổng hợp, sản xuất kinh doanh các mặt hàng như: hoá mỹ phẩm, bao bì và in nhãn mác trên sản phẩm carton, bao giấy, bao và chai nhựa các loại. Nhà máy xà phòng Hà Nội được khởi công xây dựng từ năm 1958 và bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 1960. Toàn bộ số vốn đầu tư xây dựng ban đầu do Trung Quốc viện trợ. Từ năm 1960 đến năm 1990, nhà máy hoạt động dưới sự chỉ đạo của Bộ Công Nghiệp nặng, sản xuất kinh doanh theo chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước. Khi đó nền kinh tế nước ta đang trong thời kì kinh tế kế hoạch hoá tập trung, việc tiêu thụ sản phẩm do nhà nước bao tiêu nên sản phẩm của nhà máy hầu như được tiêu thụ khắp cả nước, đặc biệt là ở khu vực phía Bắc. Do vậy, Nhà máy xà phòng Hà Nội gần như độc quyền về sản phẩm. Từ năm 1991 đến năm 1993, do có sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, nhà máy được giao quyền tự chủ trong quản lý, sử dụng vốn kinh doanh. Năm 1993, để phù hợp với luật tổ chức công ty, Nhà máy xà phòng Hà Nội đã đổi tên thành Công ty xà phòng Hà Nội, thực hiện quản lý, tổ chức và sản xuất theo mô hình công ty. Từ tháng 12/1994 trở về đây, trong xu thế phát triển của nền kinh tế cả nước, công ty đã liên doanh với hãng Unilever của Hà Lan, toàn bộ công ty trước đây được tách thành 2 doanh nghiệp: Doanh nghiệp 1: Công ty xà phòng Hà Nội. Doanh nghiệp 2: Công ty liên doanh Lever Việt Nam. Công ty Xà phòng Hà Nội đóng vai trò là công ty mẹ, hàng năm thu về 1 khoản lợi nhuận căn cứ vào giá trị số vốn góp ban đầu (36%). 2.1.2.Đặc điểm tổ chức sản xuất, tổ chức quản lí sản xuất ở Công ty Xà phòng Hà Nội. 2.1.2.1.Đặc điểm tổ chức sản xuất. Ngành nghề kinh doanh của công ty là công nghiệp sản xuất chất tẩy rửa tổng hợp, kinh doanh xuất nhập khẩu vật tư hoá chất, sản xuất kinh doanh các mặt hàng như: hoá mỹ phẩm, bao bì ... Cơ cấu tổ chức sản xuất của công ty được chia thành các phân xưởng sản xuất. Hiện nay công ty có 3 phân xưởng chính là phân xưởng chất tẩy rửa, phân xưởng bao bì carton, phân xưởng kem giặt, và một phân xưởng phụ là phân xưởng cơ điện. Công ty Xà phòng Hà Nội sản xuất những loại sản phẩm khác nhau, nguyên liệu sản xuất mỗi loại sản phẩm khác nhau, vì thế quá trình công nghệ sản xuất mỗi loại sản phẩm không giống nhau. ở đây xin giới thiệu qui trình công nghệ sản xuất xà phòng kem của công ty ( sơ đồ 01 ). 2.1.2.2.Đặc điểm tổ chức quản lí sản xuất. Hiện nay tổng số cán bộ công nhân viên của công ty là 219 người, trong đó nhân viên quản lí là 50 người. Để hoàn thành tốt công tác kinh doanh, bộ máy quản lí của công ty được tổ chức khoa học, chặt chẽ theo sơ đồ 02 (trang bên). Trong đó: - Giám đốc là người đứng đầu bộ máy quản lí, là đại diện pháp nhân của công ty trong các quan hệ đối tác và chịu trách nhiệm về tất cả kết quả hoạt động kinh doanh của công ty cũng như thực hiện chế độ đối với nhà nước. - Phó giám đốc phụ trách kỹ thuật: có nhiệm vụ giúp việc cho giám đốc, phụ trách về mặt kĩ thuật, sản xuất, điều độ công tác sản xuất, tình hình sản xuất kinh doanh, công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty. - Phòng kế hoạch - tài vụ: có nhiệm vụ tổ chức thực hiện các nghiệp vụ tài chính kế toán, thống kê theo đúng qui định của nhà nước. Theo dõi và thường xuyên báo cáo về tình hình tài chính cho giám đốc đồng thời lập kế hoạch và giao kế hoạch cho các phân xưởng, theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch, cung cấp vật tư, bảo quản kho tàng, vật liệu, thành phẩm. Hiện nay công ty áp dụng hình thức nhật ký chung để hạch toán các nghiệp vụ kinh kế phát sinh. Tổ chức bộ máy kế toán- tài chính của công ty được bố trí theo sơ đồ 03 (trang bên). - Phòng hành chính nhân sự: có nhiệm vụ tổ chức, quản lí cán bộ, đề xuất việc thực hiện bộ máy quản lí, xây dựng, ban hành và thực hiện các tiêu chuẩn cấp bậc kĩ thuật, kiểm tra, sát hạch tay nghề... - Phòng đào tạo tiền lương: có nhiệm vụ duyệt và quản lí quĩ tiền lương của công ty. - Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu: có nhiệm vụ quản lí các hoạt động liên quan đến xuất khẩu các sản phẩm của công ty và nhập khẩu các loại vật tư, máy móc, thiết bị, phụ tùng hoá chất. - Phòng dự án - xây dựng cơ bản: có nhiệm vụ giám sát, quản lí các hoạt động xây dựng cơ bản của công ty. Lập và tổ chức thực hiện các kế hoạch về xây dựng cơ bản. - Các phân xưởng: sản xuất theo chỉ đạo của công ty. 2.1.3.Kết quả sản xuất kinh doanh ở công ty trong những năm gần đây Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, bên cạnh những thuận lợi, Công ty xà phòng Hà Nội nói riêng và các doanh nghiệp khác nói chung đã gặp rất nhiều khó khăn như: khó khăn về thị trường tiêu thụ... Nhưng với nỗ lực và quyết tâm cao của ban lãnh đạo cũng như của tất cả cán bộ công nhân viên toàn công ty trong 2 năm 2001 và 2002, công ty đã đạt được những kết quả đáng kể. Kết quả đó được thể hiện thông qua bảng sau (trang bên). Qua bảng 01 công ty ta thấy: - Giá trị sản lượng năm 2002 so với năm 2001 tăng 10.482.090.000đ tương ứng với tỉ lệ tăng 30,47%. - Doanh thu bán sản phẩm và cung cấp dịch vụ năm 2002 giảm 31.391.414.648đ tương ứng với tỉ lệ giảm 19,18%. Việc giảm doanh thu năm 2002 của công ty chủ yếu là do doanh thu kinh doanh thương mại của công ty giảm đi. Nguyên nhân là từ tháng 8/2002 công ty chấm dứt hoạt động nhập uỷ thác vật tư, nguyên liệu cho công ty Lever- Việt Nam. - Lợi nhuận trước thuế năm 2002 tăng 6.777.195.674đ tương ứng với tỷ lệ tăng 23,95%. Việc này chủ yếu là do lợi nhuận thu về từ hoạt động liên doanh tăng lên. Tuy nhiên, lợi nhuận của công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng tăng lên, chứng tỏ công ty đã tổ chức sản xuất, tổ chức sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả hơn. - Về các khoản chi phí: + Giá vốn hàng bán năm 2002 là 127.867.658.060đ giảm đi 32.760.441đ so với năm 2001 với tốc độ tăng là 20,4%. Với việc giảm doanh thu thì giá vốn hàng bán giảm cũng là điều dễ hiểu. Hơn nữa tốc độ giảm giá vốn hàng bán còn nhanh hơn tốc độ giảm của doanh thu chứng tỏ công ty đã giảm được chi phí tăng lợi nhuận. + Chi phí bán hàng năm 2002 so với năm 2001 tăng 802.962.739đ tương ứng 104,26%. Chi phí bán hàng tăng lên trong khi doanh thu lại giảm xuống chứng tỏ doanh nghiệp chưa tiết kiệm được chi phí bán hàng. Doanh nghiệp cần xem xét và khắc phục ở kỳ sau. + Chi phí quản lí doanh nghiệp giảm 509.439.959đ tương ứng 15,39%. Đây là kết quả của việc công ty đã cố gắng giảm chi phí dịch vụ mua ngoài. + Hàng bán bị trả lại năm 2002 giảm 32.247.487đ. Đây là kết quả của việc trong năm 2002, công ty đã quản lí, xem xét chặt chẽ hơn các hợp đồng bán hàng do đó giảm đáng kể lượng hàng bị trả lại. Tuy nhiên cũng có 1 lượng nhỏ hàng hoá bị trả lại do chất lượng không đạt tiêu chuẩn. Đây là điều không có lợi cho công ty. - Nghĩa vụ phải nộp cho nhà nước năm 2002 là 26.866.664.168đ so với năm 2001 giảm 3.590.659.891đ tức là 11,79%. Lý do là phần lớn lợi nhuận của công ty trong năm 2002 dành để tái đầu tư cho nên không phải nộp thuế thu nhập bổ xung. - Qui mô vốn sản xuất kinh doanh bình quân của năm 2002 là 126.130.184.722đ, so với năm 2001 tăng 26.246.494.472đ tương ứng 26,28%. - Thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên (CBCNV) năm 2002 là 1.504.207đ/tháng tăng hơn năm 2001 là 132.023đ tương ứng là 9,62%. Điều này cho thấy đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty ngày càng được cải thiện và nâng cao. Nhận xét chung: Trong 2 năm qua, bên cạnh một số vấn đề còn tồn tại như hệ thống kiểm tra chất lượng sản phẩm chưa chặt chẽ dẫn đến sản phẩm đưa ra thị trường chất lượng chưa đồng đều, công tác tiếp thị và bán hàng của công ty tốn nhiều chi phí, mà chưa đảm bảo được sức cạnh tranh... công ty cũng đã chứng tỏ được sự phát triển ngày càng đi lên qua các chỉ tiêu như trong năm 2001, 2002 doanh thu đạt trên 100 tỷ, thu nhập người lao động bình quân trên 1,3 triệu đồng/ tháng, lợi nhuận thu về hàng năm hơn 20 tỷ đồng. Đây là những con số đáng ghi nhận của Công ty xà phòng Hà Nội. Thực trạng sử dụng vốn tại Công ty Xà phòng Hà Nội. 2.2.1.Thực trạng sử dụng vốn cố định. Tình hình thực tế ở công ty cho thấy tính đến thời điểm 31/12/2002, tổng VCĐ của ._.công ty là 67.716.246.751đ tăng 1.515.553.569đ với tỷ lệ tăng tương ứng là 2,29%. Để thấy rõ tình hình sử dụng VCĐ, chúng ta xem xét cơ cấu VCĐ qua bảng sau: Bảng 02: Cơ cấu vốn cố định ở công ty Xà phòng Hà Nội Đơn vị tính: Đồng Chỉ tiêu 31/12/2001 31/12/2002 Chênh lệch Số tiền TT(%) Số tiền TT(%) STĐ % 1.Giá trị còn lại của TSCĐ 10,189,419,184 15.39 11,894,514,263 17.57 1,705,095,079 16.73 2. Các khoản ĐTTCDH 55,335,280,000 83.59 55,335,280,000 81.72 - - 3. Chi phí XDCBDD 675,993,998 1.02 486,452,488 0.72 (189,541,510) (28.04) Tổng cộng 66,200,693,182 100.00 67,716,246,751 100.00 1,515,553,569 2.29 Qua bảng 02 ta thấy: VCĐ của công ty gồm có TSCĐ, các khoản ĐTTCDH, chi phí XDCBDD. Cụ thể: - TSCĐ của công ty tại 31/12/2002 là 11.894.514.263đ tăng 1.705.095.079đ với tỷ lệ tăng là 16,73%. - Các khoản đầu tư tài chính dài hạn tại thời điểm 31/12/2002 là 55.335.280.000đ chiếm 81,72% tổng VCĐ. Đây là số vốn do công ty dùng giá trị quyền sử dụng của 19.600m2 trong 11 năm 8 tháng kể từ tháng 10 năm 1994, phần còn lại là giá trị nhà xưởng, thiết bị, các công trình phụ trợ hiện có tại công ty và bằng tiền Việt Nam. Các khoản ĐTTCDH không có gì biến động về mặt số lượng nhưng về mặt tỷ trọng đã bị giảm đi 1,87%. Nguyên nhân là do trong năm 2002 công ty đã đầu tư xây dựng và mua sắm thêm một số TSCĐ. - Chi phí xây dựng cơ bản giảm đi 189.541.510đ với tỷ lệ giảm tương ứng là 28,04%. Để biết được tình hình sử dụng TSCĐ của công ty chúng ta cùng nghiên cứu bảng số 03 (trang bên). Từ bảng trên cho thấy: Nguyên giá TSCĐ đang dùng của công ty ở cuối năm so với đầu năm đã tăng lên cả về số lượng lẫn tỷ trọng. Điều này chứng tỏ năng lực sản xuất của công ty đã được cải thiện tích cực. Bên cạnh đó, số TSCĐ không cần dùng giảm 924.294.862đ, công ty không có TSCĐ chưa cần dùng. Như vậy năm 2002, những TSCĐ công ty đầu tư mua sắm đều được sử dụng. Điều này chứng tỏ việc quản lý sử dụng TSCĐ là khá tốt. Nhìn chung, công ty đang từng bước đầu tư đổi mới TSCĐ và kịp thời thanh lý các tài sản cố định hư hỏng hoặc hết thời gian sử dụng. Việc đầu tư đổi mới TSCĐ của công ty đã góp phần cải thiện môi trường làm việc cho công nhân viên, tạo khả năng thuận lợi thúc đẩy SXKD trong năm 2002. Tuy nhiên, việc trang bị máy móc thiết bị chưa đồng bộ, các thiết bị kiểm tra chất lượng chưa được đầu tư đúng mức đã làm giảm năng suất lao động và chất lượng sản phẩm của công ty. Do đó trong thời gian tới công ty cần có những biện pháp cụ thể đầu tư vào TSCĐ đảm bảo yêu cầu sản xuất và cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường. 2.2.2.Thực trạng sử dụng vốn lưu động. Chịu ảnh hưởng của đặc điểm ngành nghề kinh doanh nên trong cơ cấu VKD của công ty, tỷ trọng VLĐ gần tương đương tỷ trọng VCĐ. Tính đến cuối năm 2002, tổng VLĐ của công ty là 66.041.477.313đ chiếm 49,37% trong tổng VKD, tăng 13.739.525.119đ tương ứng với tỷ lệ tăng là 20,8% so với đầu năm. Để thấy rõ tình hình sử dụng VLĐ của công ty, trước hết ta xem xét cơ cấu VLĐ của công ty theo số liệu của bảng 04: Bảng 04: Cơ cấu vốn lưu động ở công ty Xà phòng Hà Nội Đơn vị tính: Đồng Tên chỉ tiêu 31/12/2001 31/12/2002 Chênh lệch Số tiền TT(%) Số tiền TT(%) STĐ % 1. Vốn bằng tiền 24,155,556,678 46.18 37,198,848,848 56.33 13,043,292,170 54.00 3. Các khoản phải thu 16,905,157,131 32.32 18,421,984,310 27.89 1,516,827,179 8.97 4. Hàng tồn kho 7,719,404,628 14.76 10,277,646,731 15.56 2,558,242,103 33.14 5. TSLĐ khác 3,521,833,759 6.73 142,997,426 0.22 (3,378,836,333) (95.94) Tổng cộng 52,301,952,196 100.00 66,041,477,315 100.00 13,739,525,119 26.27 Qua số liệu ở bảng ta thấy: -Vốn bằng tiền của công ty tính đến thời điểm 31/12/2002 là 37.198.848.848đ, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng VLĐ 56,33%, tăng 13.043.292.170đ tương ứng với tỷ lệ tăng 54%. Hơn nữa, tỷ trọng vốn bằng tiền đã tăng lên so với đầu năm. - Các khoản phải thu cũng chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng VLĐ. Đầu năm là 16.905.157.131đ, cuối năm là 18.421.984.320đ. Như vậy các khoản phải thu đã tăng lên 1.516.827.179 đ tương ứng với tỷ lệ tăng là 8,97%. - Ngoài ra, TSLĐ khác của công ty tính đến thời điểm 31/12/2002 là 142.977.426đ tương ứng với tỉ lệ giảm là 95,94% do các khoản thế chấp kí quĩ, kí cược ngắn hạn năm 2002 đã giảm 3.374.380.400đ tương ứng với tỷ lệ giảm là 100%. Nguyên nhân là trong năm 2002, do tạo được độ tin cậy với bạn hàng trong các hoạt động nhập khẩu vật tư, nguyên liệu nên công ty không bắt buộc phải thanh toán bằng hình thức L/C mà có thể sử dụng các hình thức khác như D/P, TTR. Do đó không cần phải ký quĩ, ký cược. Nhìn chung kết cấu vốn lưu động của công ty là chưa hợp lí, hàng tồn kho và các khoản phải thu chiếm tỷ trọng khá lớn, nhất là lượng vốn bằng tiền của công ty để ứ đọng quá lớn vì thế trong thời gian tới công ty cần có những giải pháp để sử dụng hiệu quả hơn VLĐ. 2.2.3. Thực trạng sử dụng vốn kinh doanh. Trên đây là thực trạng của VCĐ và VLĐ hay chính là thực trạng về VKD của công ty. Nhưng để có cái nhìn tổng thể về thực trạng vốn kinh doanh của Công ty xà phòng Hà Nội chúng ta cần xem xét cơ cấu vốn kinh doanh và nguồn vốn qua bảng sau: Bảng 05: Vốn và nguồn vốn kinh doanh ở công ty Xà phòng Hà Nội Đơn vị tính: Đồng Chỉ tiêu 31/12/2001 31/12/2002 Chênh lệch Số tiền TT(%) Số tiền TT(%) STĐ % 1. Vốn kinh doanh 118,502,645,378 100.00 133,757,724,066 100.00 15,255,078,688 12.87 - Vốn cố định 66,200,693,182 55.86 67,716,246,751 50.63 1,515,553,569 2.29 - Vốn lưu động 52,301,952,196 44.14 66,041,477,315 49.37 13,739,525,119 26.27 2. Nguồn vốn 118,502,645,378 100.00 133,757,724,066 100.00 15,255,078,688 12.87 - Nguồn vốn CSH 86,627,104,206 73.10 116,678,959,707 87.23 30,051,855,501 34.69 - Nợ phải trả 31,875,541,172 26.90 17,078,764,359 12.77 (14,796,776,813) (46.42) Tính đến ngày 31/12/2002, tổng vốn kinh doanh của công ty có 133.757.724.066đ, so với 31/12/2001 tăng 15.255.078.688đ tương ứng với tỉ lệ tăng 12,87%. Qui mô vốn kinh doanh của công ty đã tăng hơn so với năm 2001 chủ yếu là do sự tăng lên của vốn lưu động. Cụ thể: - Vốn lưu động của công ty tính đến thời điểm 31/12/2002 là 66.041.477.315đ chiếm tỷ trọng 49,37% trong tổng số vốn kinh doanh, so với thời điểm 31/12/2001 đã tăng lên 13.739.525.119đ tương ứng với tỉ lệ tăng là 26,27%. - Vốn cố định của công ty tính đến ngày 31/12/2002 là 67.716.246.751đ , chiếm 50,63% so với thời điểm 31/12/2001 tăng 1.515.553.569đ tương ứng với tỉ lệ tăng 2,29%. Nguyên nhân làm tăng vốn cố định là trong năm 2002, công ty đã xây dựng và mua sắm mới một số thiết bị như: nhà cửa vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị dụng cụ quản lí phục vụ cho hoạt động của công ty. Cùng với sự biến động về cơ cấu vốn, nguồn hình thành vốn của công ty cũng có sự biến động. - Đối với nợ phải trả: nợ phải trả của công ty chủ yếu là nợ ngắn hạn và có một phần nhỏ là nợ dài hạn, hoàn toàn không có nợ khác. Tổng nợ phải trả của công ty tính đến 31/12/2002 là 17.078.764.359đ chiếm tỷ trọng là 12,8% trong tổng nguồn vốn. So với thời điểm 31/12/2001, nợ phải trả đã giảm 14.796.776.815đ với tỷ lệ giảm là 46,42%. Nợ phải trả của công ty giảm chủ yếu là do giảm các khoản nợ ngắn hạn, trong đó phải trả cho người bán giảm 13.198.727.394đ. - Nguồn vốn chủ sở hữu (CSH): tính đến thời điểm 31/12/2002, nguồn vốn CSH của công ty là 116.678.959.707đ chiếm tỷ trọng 87,2%, trong đó vốn do ngân sách nhà nước cấp là 53.459.842.768đ, còn lại 63.219.116.939đ là vốn do công ty tự bổ xung. So với thời điểm 31/12/2001, nguồn vốn CSH của công ty đã tăng 30.051.855.501đ, với tỷ lệ tăng là 34,69%. Kết cấu của nguồn vốn thay đổi đã có tác động tích cực đến khả năng tự chủ tài chính của công ty như sau : Bảng 06: Phân tích khả năng tự chủ tài chính của công ty Xà phòng Hà Nội Chỉ tiêu ĐVT 31/12/2001 31/12/2002 Chênh lệch 1. Hệ số vốn CSH % 73.10 87.20 14.10 2. Hệ số nợ % 26.90 12.80 -14.10 Qua bảng 06 ta thấy hệ số vốn CSH của công ty đã tăng là 14,1% và hệ số nợ giảm 14,1%. Điều này chứng tỏ khả năng tự chủ tài chính của công ty ngày càng tăng cao. Xét trên lý thuyết thì việc hệ số nợ càng thấp bao nhiêu thì khả năng rủi ro tài chính sẽ giảm bấy nhiêu . Tuy nhiên khi hệ số nợ cao thì chủ sở hữu càng có lợi vì khi đó chủ sở hữu chỉ phải đóng góp 1 lượng vốn ít nhưng được sử dụng 1 lượng tài sản lớn hơn. Do đó công ty có thể tận dụng nó như 1 chính sách tài chính để gia tăng lợi nhuận. Để tìm hiểu sâu hơn, chúng ta đi vào xem xét khoản phải thu và phải trả nợ của công ty qua bảng 07 (trang bên). Thông qua số liệu ở bảng 07 ta thấy tại thời điểm 31/12/2001, số vốn công ty chiếm dụng được lớn hơn số vốn công ty bị chiếm dụng là 11.424.026.563đ. Nhưng đến 31/12/2002, số vốn công ty chiếm dụng được lại nhỏ hơn số vốn công ty bị chiếm dụng là 3.801.647.675đ. Nguyên nhân là: - Lượng vốn của công ty bị chiếm dụng tính đến 31/12/2002 là 18.421.984.310đ tăng lên 1.516.827.179đ với tỷ lệ tăng là 8,97%. Việc tăng lên là do trong năm 2002 để mở rộng thị trường tiêu thụ về khu vực phía Nam đồng thời để thu hút khách hàng công ty đã sử dụng chính sách kéo dài thời gian bán chịu. - Lượng vốn công ty chiếm dụng được tính đến ngày 31/11/2002 là 14.620.336.635đ giảm so với 31/12/2001 là 13.708.847.059đ với tỷ lệ giảm xuống là 48,39%. Tuy nhiên lượng vốn chiếm dụng được này không thuộc sở hữu của công ty nên khi sử dụng loại vốn này công ty phải cẩn trọng. Mặt khác nó lại là 1 nguồn vốn có lợi vì khi sử dụng nó công ty không phải trả chi phí sử dụng. Vì vậy công ty nên tận dụng tối đa những cơ hội sử dụng nguồn vốn này nhưng chỉ được sử dụng vào mục đích tạm thời và phải bảo đảm nguyên tắc hoàn trả theo đúng quy định. Qua những phân tích ở trên ta có thể đánh giá khái quát về tình hình tổ chức VKD của công ty như sau : - Về cơ cấu VKD: Trong tổng VKD của công ty thì VCĐ chiếm 50,63%, VLĐ chiếm 49,37%. Mặc dù công ty đã có sự cố gắng điều chỉnh cơ cấu vốn sao cho phù hợp với tình hình thực tế nhưng cơ cấu vốn này chưa hợp lý, chưa đem lại hiệu quả sử dụng cao. Trong cơ cấu TSCĐ, công ty chưa chú trọng đầu tư đồng bộ máy móc thiết bị cho hoạt động SXKD. Bên cạnh đó công ty còn để ứ đọng một lượng khá lớn vốn bằng tiền do lập kế hoạch chưa sát với thực tế. Do đó trong thời gian tới công ty cần xem xét lại cơ cấu vốn để đem lại hiệu quả sử dụng vốn cao nhất. - Về nguồn hình thành VKD: năm 2002 vốn CSH chiếm 87,2%, nợ phải trả chiếm 12,8%. Với cơ cấu nguồn như vậy công ty đã tài trợ cho nhu cầu dài hạn của mình hoàn toàn bằng nguồn vốn dài hạn (vay dài hạn và vốn CSH ), tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động bằng nguồn ngắn hạn (vay ngắn hạn và chiếm dụng ) và 1 phần bằng nguồn vốn dài hạn. Như vậy xét trên góc độ tài chính, với mô hình tài trợ này công ty đạt được sự an toàn cao trong kinh doanh. Trên đây là cơ cấu VKD và nguồn hình thành VKD của công ty. Trước khi đi vào phân tích hiệu quả sử dụng VKD của công ty, chúng ta cần xem xét đánh giá diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn của công ty năm 2002 qua bảng 08 (trang bên). Từ bảng ta thấy : - Về diễn biến nguồn vốn: trong năm 2002 công ty huy động được 30.702.547.650đ chiếm 72,72% từ nguồn vốn bên trong. Trong đó 23.920.422.621đ chiếm 56,66% là do công ty tăng quỹ đầu tư phát triển và 4.316.492.238đ là do công ty tăng quỹ dự phòng tài chính. Công ty còn huy động được 11.516.179.740đ chiếm 27,28% là do cải tiến và nâng cao công tác tổ chức, quản lý vốn lưu động. Như vậy trong năm 2002 công ty không huy động vốn qua hình thức đi vay. - Về sử dụng vốn: Tổng số vốn 42.218.727.390đ huy động được, công ty đã dùng 13.198.727.394đ tương ứng 31,26% để trả nợ cho người bán, 1.087.929.754đ tương ứng 2,58% để trả nợ vay dài hạn, trả nợ CBCNV nhằm giảm rủi do trong kinh doanh. Bên cạnh đó công ty dùng 2.345.896.847đ chiếm 5,56% để đầu tư mua sắm TSCĐ. Công ty còn dành 30,09% tương ứng số tiền là 12.703.301.315đ để tăng lượng tiền gửi ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán nhanh của công ty... Những phân tích ở trên đã cho ta cái nhìn tổng quát về diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn của công ty năm 2002. Vậy việc sử dụng VKD của công ty đã đem lại hiệu quả cao nhất hay chưa, chúng ta phải đi sâu vào phân tích hiệu quả sử dụng vốn của công ty. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Xà Phòng Hà Nội. Trước khi đi vào phân tích hiệu quả sử dụng VKD trong SXKD tại Công ty Xà phòng Hà Nội chúng ta cùng xem xét hiệu quả sử dụng tổng VKD của công ty qua bảng sau: Bảng 09: Hiệu quả sử dụng tổng vốn kinh doanh ở công ty Xà phòng Hà Nội Chỉ tiêu ĐVT Năm 2001 Năm 2002 Chênh lệch STĐ % 1.Tổng doanh thu thuần đ 193,142,771,341 167,795,456,649 (25,347,314,692) (13.12) 2. Tổng lợi nhuận sau thuế đ 24,663,652,508 35,044,253,889 10,380,601,381 42.09 3. Tổng VKD bình quân đ 99,883,690,250 126,130,184,722 26,246,494,472 26.28 5. Doanh lợi tổng vốn ( 2 : 3 ) 0.25 0.28 0.03 12.52 6. Vòng quay tổng vốn ( 1 : 3 ) vòng 1.93 1.33 (0.60) (31.20) Qua bảng ta thấy: - Vòng quay tổng vốn của công ty năm 2002 đã giảm đi 0,59 vòng tương ứng với tỷ lệ giảm là 35,99%. Nguyên nhân là do tổng doanh thu thuần đã giảm đi 25.347.314.692đ tương ứng với tỷ lệ giảm là 13,12%. Trong khi VKD bình quân lại tăng lên 26.246.494.472đ tương ứng với tỷ lệ tăng là 26,28%. - Doanh lợi tổng vốn năm 2002 lại tăng lên 0,03 tương ứng với tỷ lệ tăng là 12,52%. Lý do là tốc độ tăng lợi nhuận sau thuế lớn hơn tốc độ tăng VKD bình quân. Như vậy ta thấy vòng quay tổng VKD giảm chủ yếu là do ảnh hưởng của tổng doanh thu thuần còn doanh lợi tổng VKD tăng chủ yếu là do ảnh hưởng của tổng lợi nhuận sau thuế. Tuy nhiên khi đi sâu vào phân tích kết cấu tổng VKD, tổng doanh thu thuần, tổng lợi nhuận sau thuế qua bảng 15 (trang bên), ta sẽ thấy do ảnh hưởng của kết quả hoạt động tài chính quá lớn đã làm cho các chỉ tiêu trên phản ánh chưa chính xác hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty. Qua bảng ta thấy: - Tại 31/12/2002, trong tổng VKD là 133.757.724.066đ thì số vốn đầu tư tài chính dài hạn hay chính là số vốn góp liên doanh với tập đoàn Unilever của Hà lan là 55.335.280.000đ chiếm 41,370% tổng VKD. - Tại 31/12/2002, số lợi nhuận được chia từ góp vốn liên doanh là 35.007.633.644đ chiếm 99,869% trong tổng lợi nhuận sau thuế của công ty. Như vậy số vốn mà công ty góp vốn liên doanh chiếm gần một nửa tổng VKD, và khoản lợi nhuận thu về từ hoạt động này chiếm đến 99,896% tổng lợi nhuận sau thuế của công ty. Tuy số lợi nhuận này là kết quả của việc công ty đã dùng vốn của mình góp vốn liên doanh nhưng khi để cả số vốn, doanh thu, lợi nhuận từ hoạt động liên doanh này vào trong tổng VKD, tổng doanh thu, tổng lợi nhuận để tính các chỉ tiêu tính hiệu quả sử dụng VKD của công ty thì các khuyết tật trong hoạt động SXKD của công ty sẽ bị che dấu đi. Do đó để phản ánh một cách tương đối chính xác hiệu quả sử dụng vốn của công ty, từ đây trở đi sẽ tập trung nghiên cứu hiệu quả sử dụng phần vốn phục vụ cho hoạt động SXKD tại chính Công ty Xà phòng Hà Nội . Trước khi đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ trong SXKD tại công ty, chúng ta cần xem xét hiệu quả sử dụng TSCĐ trong SXKD tại công ty qua bảng sau: Bảng 11: Hiệu quả sử dụng TSCĐ trong SXKD tại Công ty xà phòng Hà Nội Chỉ tiêu ĐVT Năm 2001 Năm 2002 Chênh lệch STĐ % 1. Doanh thu thuần đ 163,574,295,484 132,215,128,318 (31,359,167,166) (19.17) 2. Lợi nhuận sau thuế đ (1,075,166,637) 22,157,893 1,097,324,530 102.06 3. NGTSCĐ bình quân đ 10,637,072,035 15,636,441,344 4,999,369,309 47.00 4. Hiệu suất sử dụng TSCĐ ( 1 : 3 ) 15.378 8.456 (6.922) (45.01) 5. Mức sinh lời của TSCĐ ( 2 : 3 ) (0.101) 0.001 0.102 101.40 Từ bảng trên ta thấy: Hiệu suất sử dụng TSCĐ trong SXKD tại công ty năm 2002 đã giảm so với năm 2001 là 6,922 tương ứng với tỉ lệ giảm là 45,014%. Đây cũng là điều dễ hiểu và là tất yếu đối với công ty vì trong năm 2002, do công ty chấm dứt hoạt động uỷ thác cho công ty Lever - Việt Nam làm doanh thu thương mại giảm 29.501.928.427đ. Đây chính là nguyên nhân làm doanh thu thuần từ SXKD giảm đi và đồng thời làm hiệu suất sử dụng TSCĐ giảm đi. Bên cạnh đó mức sinh lời của TSCĐ năm 2002 đã tăng lên 0,102 tương ứng với tỉ lệ tăng là 101,402%. Lí do là lợi nhuận sau thuế năm 2002 đã tăng lên 1.097.324.530đ tương ứng với tỉ lệ tăng là 102,061%. Lợi nhuận sau thuế tăng lên chủ yếu là do trong năm công ty đã giảm được lượng hàng bị trả lại, giảm chi phí quản lí doanh nghiệp ... Từ việc xem xét hiệu quả sử dụng TSCĐ trong SXKD tại công ty, ta đi đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ trong SXKD tại công ty thông qua một số chỉ tiêu ở bảng sau: Bảng 12: Hiệu quả sử dụng VCĐ trong SXKD tại Công ty xà phòng Hà Nội Chỉ tiêu ĐVT Năm 2001 Năm 2002 Chênh lệch STĐ % 1. Doanh thu thuần đ 163,574,295,484 132,215,128,318 (31,359,167,166) (19.171) 2. Lợi nhuận sau thuế đ (1,075,166,637) 22,157,893 1,097,324,530 102.061 3. VCĐ bình quân đ 8,739,075,738 11,623,189,967 2,884,114,229 33.003 4. Hiệu suất sử dụng VCĐ ( 1 : 3 ) 18.718 11.375 (7.342) (39.228) 5. Hàm lượng VCĐ ( 3 : 1 ) 0.053 0.088 0.034 64.548 6. Doanh lợi VCĐ ( 2 : 3 ) (0.123) 0.002 0.125 101.550 Qua bảng số liệu trên ta thấy: - Hiệu suất sử dụng VCĐ trong SXKD tại công ty năm 2002 đã giảm đi nhiều so với năm 2001. Năm 2002, công ty sử dụng bình quân 1 đồng VCĐ tham gia vào SXKD tạo ra 11,375 đồng doanh thu, còn năm 2001 tạo ra 18,718 đồng doanh thu. Như vậy, hiệu suất sử dụng VCĐ giảm 7,342 tương ứng với tỉ lệ giảm là 39,228%. Lí do là doanh thu năm 2002 đã giảm 19,171%, trong khi VCĐ bình quân lại tăng lên 33,003%. Trên thực tế năm 2002 để tạo ra 1 đồng doanh thu, công ty phải sử dụng thêm 0,034 đồng VCĐ so với năm 2001. Điều này chứng tỏ hiệu quả sử dụng VCĐ giảm. - Về doanh lợi VCĐ: năm 2002 cứ 1 đồng VCĐ đưa vào SXKD thì tham gia tạo ra được 0,002 đồng lợi nhuận, còn năm 2001 tạo ra (-0,123) đồng lợi nhuận. Như vậy trong năm 2002 cứ một đồng VCĐ đưa vào SXKD đã tạo ra nhiều hơn năm 2001 là 0,125 đồng hay doanh lợi VCĐ đã tăng 0,125 tương ứng với tỉ lệ tăng là 101,55%. Nguyên nhân là tốc độ tăng lợi nhuận sau thuế lớn hơn tốc độ tăng VCĐ bình quân. Để thấy rõ độ ảnh hưởng của từng nhân tố tới các chỉ tiêu chúng ta đi sâu nghiên cứu từng chỉ tiêu một: * Hiệu suất sử dụng VCĐ: tác động đến chỉ tiêu này gồm có 2 nhân tố là doanh thu thuần và VCĐ bình quân. Ta có: Hiệu suất VCĐ (HSVCĐ) = Doanh thu thuần(DTT) VCĐ bình quân(VCĐBQ) Tác động của nhân tố doanh thu: HSVCĐ(DTT) = DTT2002 - DTT2001 VCĐ BQ2001 VCĐ BQ2001 = 132215128318 - 163574295484 8739075738 8739075738 = - 3,588 Tác động của nhân tố VCĐ bình quân: HSVCĐ(VCĐBQ) = DTT2002 - DTT2002 VCĐBQ2002 VCĐBQ2001 = 132215128318 - 132215128318 11623189966,5 8739075738 = - 3,754 Tác động tổng hợp của hai nhân tố HSVCĐ = HSVCĐ(DTT) + HSVCĐ(VCĐBQ) = - 3,588 + (- 3,754) = - 7,342 Do doanh thu thuần năm 2002 giảm so với năm 2001 làm cho hiệu suất sử dụng VCĐ giảm 3,588, đồng thời VCĐ bình quân tăng 2.884.114.229đ với tốc độ tăng là 33,003% làm cho hiệu suất sử dụng VCĐ giảm 3,754. Tổng hợp tác động của hai nhân tố đã làm hiệu suất sử dụng VCĐ giảm 7,342 với tỷ lệ giảm 39,228%. * Chi tiêu doanh lợi VCĐ: Ta có: Doanh lợi VCĐ(DLVCĐ) = Lợi nhuận sau thuế(PST) VCĐ bình quân(VCĐBQ) - ảnh hưởng của nhân tố lợi nhuận sau thuế: DLVCĐ(PST) = PST 2002 - PST 2001 VCĐBQ 2001 VCĐBQ 2001 = 22157893 - - 1075166637 8739075738 8739075738 = 0,126 - ảnh hưởng của nhân tố VCĐ bình quân: DLVCĐ(VCĐBQ) = PST 2002 - PST 2002 VCĐBQ 2002 VCĐBQ 2001 = 22157893 - 22157893 11623189966,5 8739075738 = - 0,001 Tổng hợp ảnh hưởng của 2 nhân tố: DLVCĐ = DLVCĐ(PST) + DLVCĐ(VCĐBQ) = 0,126 + (- 0,001) = 0,125 Như vậy tuy VCĐ bình quân tăng làm cho doanh lợi VCĐ giảm 0,001 nhưng lợi nhuận sau thuế năm 2002 tăng làm doanh lợi VCĐ tăng lên 0,126. Tổng hợp ảnh hưởng của 2 nhân tố làm doanh lợi VCĐ tăng 0,125 với tỷ lệ tăng là 101,55%. Tóm lại, từ sự phân tích ở trên ta có thể rút ra nhận xét: Hiệu suất sử dụng VCĐ trong SXKD tại công ty năm 2002 đã giảm đi. Sự giảm sút này là không tốt vì nó sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng VKD trong SXKD tại công ty. Lí do là doanh thu thuần năm 2002 đã giảm. Nguyên nhân làm doanh thu thuần giảm như đã nêu ở trên là việc công ty đã chấm dứt nhập uỷ thác vật tư nguyên liệu cho công ty Lever Việt Nam, đồng thời do trong năm công ty đã tiến hành xây dựng mới và mua sắm mới một số TSCĐ. Tuy nhiên, doanh lợi VCĐ lại tăng lên đáng kể chứng tỏ hiệu quả sử dụng VCĐ đã tăng lên. Lý do là lợi nhuận sau thuế năm 2002 đã tăng lên 102,061%. Đó là kết quả cố gắng phấn đấu của toàn thể cán bộ công nhân viên công ty trong hoạt động SXKD. Ví dụ như: công ty đã quản lí chặt hơn các hợp đồng bán hàng làm giảm đáng kể lượng hàng bị trả lại, công ty đã cố gắng giảm chi phí quản lí doanh nghiệp bằng việc giảm các khoản chi phí dịch vụ mua ngoài và các khoản chi phí nhân viên quản lí... Tuy nhiên trong thời gian tới công ty cần chú trọng đầu tư máy móc thiết bị đồng bộ để tăng năng suất lao động đem lại hiệu suất sử dụng VCĐ trong SXKD tại công ty cao hơn. Đến cuối năm 2002, VLĐ trong SXKD tại công ty là 66.041.477.315đ chiếm 84,2% trong tổng VKD dùng trong SXKD tại công ty. Vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ trong SXKD tại công ty có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng VKD trong SXKD tại công ty. Chúng ta cùng xem xét một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng VLĐ trong SXKD tại công ty qua bảng sau: Bảng 13: Hiệu quả sử dụng VLĐ trong SXKD tại Công ty xà phòng Hà Nội Chỉ tiêu ĐVT Năm 2001 Năm 2002 Chênh lệch STĐ % 1. Doanh thu thuần đ 163,574,295,484 132,215,128,318 (31,359,167,166) (19.17) 2. Lợi nhuận sau thuế đ (1,075,166,637) 22,157,893 1,097,324,530 102.06 3. vật liệuĐ bình quân đ 35,809,334,512 59,171,714,756 23,362,380,244 65.24 4. Vòng quay VLĐ ( 1 : 3 ) vòng 4.568 2.234 (2.333) (51.084) 5. Kỳ luân chuyển BQ ( 360 : 4 ) ngày 79 161 82 104.433 6. Hàm lượng VLĐ ( 3 : 1 ) 0.219 0.448 0.229 104.433 7. Doanh lợi VLĐ ( 2 : 3 ) (0.030) 0.0004 0.030 101.247 Từ bảng 13 ta thấy, vòng quay VLĐ năm 2002 bị giảm đi nhưng doanh lợi VLĐ năm 2002 lại tăng lên. Cụ thể: - Vòng quay VLĐ giảm 2,333 tương ứng với tỉ lệ giảm là 51,084%. Lý do là doanh thu thuần năm 2002 đã giảm 19,17%, mà VLĐ bình quân lại tăng lên 65,241%. - Doanh lợi VLĐ tăng 0,03 tương ứng với tỉ lệ tăng là 101,247% có nghĩa là trong năm 2002 cứ một đồng VLĐ tham gia vào SXKD tạo ra nhiều hơn năm 2001 là 0,03 đồng lợi nhuận sau thuế. Lý do là tốc độ tăng lợi nhuận lớn hơn tốc độ tăng VLĐ bình quân. Sự tăng giảm của các chỉ tiêu là do ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Vì vậy, chúng ta cần phân tích từng chỉ tiêu để thấy được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố. * Chỉ tiêu vòng quay VLĐ Vòng quay VLĐ (VVLĐ) = DTT VLĐBQ ảnh hưởng của nhân tố doanh thu thuần VVLĐ(DTT) = DTT2002 - DTT2001 VLĐBQ 2001 VLĐBQ 2001 = 132215128318 - 163574295484 35809334512 35809334512 = - 0,875 ảnh hưởng của nhân tố VLĐ bình quân VVLĐ( VLĐBQ) = DTT2002 - DTT2002 VLĐBQ 2002 VLĐBQ 2001 = 132215128318 - 132215128318 59171714755,5 35809334512 = - 1,458 Tổng hợp ảnh hưởng của hai nhân tố: VVLĐ = VVLĐ(DTT) + VVLĐ( VLĐBQ) = - 0,875 + (- 1,458) = -2,333 Như vậy do doanh thu thuần năm 2002 so với 2001 giảm 31.391.414.648đ tương ứng với tỉ lệ giảm là 19,171%, làm cho vòng quay VLĐ giảm 0,875 vòng đồng thời VLĐ bình quân tăng lên 65,241% làm cho vòng quay VLĐ giảm 1,458 vòng. Tác động của hai nhân tố này làm cho vòng quay VLĐ giảm 2,333 vòng tương ứng với tỉ lệ giảm là 51,084%. Do vòng quay VLĐ giảm làm cho kì luân chuyển bình quân tăng 82 ngày, nghĩa là 1 vòng quay VLĐ chậm hơn 82 ngày. * Chỉ tiêu doanh lợi VLĐ: Doanh lợi VLĐ (DLVLĐ) = PST VLĐBQ ảnh hưởng của nhân tố lợi nhuận sau thuế: DLVLĐ(PST) = PST 2002 - PST 2001 VLĐBQ 2001 VLĐBQ 2001 = 22157893 - -1075166637 35809334512 35809334512 = 0,0306 ảnh hưởng của nhân tố VLĐ bình quân: DLVLĐ(VLĐBQ) = PST 2002 - PST 2002 VLĐBQ 2002 VLĐBQ 2001 = 22157893 - 22157893 59171714755,5 35809334512 = - 0,0002 Tổng hợp ảnh hưởng của 2 nhân tố: DLVLĐ = DLVLĐ(PST) + DLVLĐ(VLĐBQ) = 0,0306 + (- 0,0002) = 0,0304 Do lợi nhuận sau thuế năm 2002 tăng so với năm 2001 là 1.097.324.530đ tương ứng với tỉ lệ tăng là 102,061% làm cho doanh lợi VLĐ tăng 0,0306. Tuy nhiên do VLĐ bình quân tăng lên 23.362.380.244đ tương ứng với tỉ lệ tăng là 65,241% đã làm cho doanh lợi VLĐ giảm 0,0002. Tổng hợp ảnh hưởng của 2 nhân tố này làm cho doanh lợi VLĐ năm 2002 tăng lên 0,0304 tương ứng với tỉ lệ giảm là 101,247%. Qua sự phân tích trên ta thấy năm 2002 hiệu quả sử dụng VLĐ trong SXKD tại công ty đã tăng lên. Lí do là doanh lợi VLĐ đã tăng lên 0,03. Nguyên nhân doanh lợi VLĐ tăng lên chủ yếu là do lợi nhuận sau thuế đã tăng lên1.097.324.530đ. Tuy nhiên vòng quay VLĐ lại giảm đi 2,333 vòng đã làm giảm hiệu quả sử dụng VLĐ trong SXKD tại công ty. Nguyên nhân là trong năm 2002 công ty đã huy động quá nhiều VLĐ. Cụ thể là số vốn bằng tiền đã được huy động quá nhiều so với nhu cầu thực tế của công ty. Vì vậy đã làm giảm hiệu quả sử dụng VLĐ trong SXKD tại công ty. Bên cạnh đó các khoản phải thu và hàng tồn kho cũng ảnh hưởng không ít đến hiệu quả sử dụng VLĐ trong SXKD tại công ty do đó chúng ta cần xem xét một số chỉ tiêu về các khoản phải thu và hàng tồn kho qua bảng sau: Chỉ tiêu ĐVT Năm 2001 Năm 2002 Chênh lệch STĐ % 1. Doanh thu bán SP và cung cấp DV đ 163,625,912,164 132,234,497,516 (31,391,414,648) (19.18) 2.Giá vốn hàng bán đ 160,568,099,779 127,807,658,060 (32,760,441,719) (20.40) 3. Thuế VAT đầu ra phải nộp đ 14,825,986,759 10,808,673,211 (4,017,313,548) (27.1) 4. Hàng tồn kho bình quân đ 7,320,593,066 8,998,525,680 1,677,932,614 22.92 5. Các khoản phải thu bình quân đ 12,112,575,171.5 17,663,570,720.5 5,550,995,549 45.83 6. Vòng quay hàng tồn kho ( HTK) ( 2 : 4 ) vòng 21.93 14.20 (7.73) (35.25) 7. Số ngày một vòng quay HTK ( 360 : 6 ) ngày 16 25 9 54.43 8. Vòng quay các khoản phải thu ( ( 1 +3 ) : 5 ) vòng 14.73 8.1 ( 6.63) (45.01) 9. Kỳ thu tiền bình quân ( 360 : 8 ) ngày 24 44 20 81,83 Bảng 14: Các chỉ tiêu về các khoản phải thu và hàng tồn kho của công ty Từ số liệu ở bảng trên ta thấy: vòng quay hàng tồn kho đã giảm đi 7,73 vòng tương ứng với tỉ lệ giảm là 35,25%. Số vòng quay hàng tồn kho giảm làm cho số ngày một vòng quay hàng tồn kho tăng lên 9 ngày tương ứng với tỉ lệ tăng là 54,43%. Điều này chứng tỏ vốn của công ty đã bị ứ đọng vốn dưới hình thức hàng tồn kho mà chủ yếu là nguyên vật liệu tồn kho. Điều này là do việc lập kế hoạch về nhu cầu vốn vật tư hàng hoá dự trữ chưa chính xác làm cho lượng vốn bị ứ đọng nhiều. Nếu công ty tiến hành công tác lập kế hoạch nhu cầu vốn vật tư hàng hoá tốt hơn thì không những vẫn đảm bảo cho hoạt động XSKD diễn ra liên tục mà còn giảm được lượng vốn bị ứ đọng, đẩy nhanh vòng quay hàng tồn kho, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ. Cũng như vòng quay hàng tồn kho, vòng quay các khoản phải thu năm 2002 giảm đi 6,63 vòng tương ứng với tỉ lệ giảm là 45,01%. Do vòng quay các khoản phải thu giảm làm cho kì thu tiền bình quân tăng lên 20 ngày. Nguyên nhân là do khoản phải thu của khách hàng về cuối năm có xu hướng tăng lên. Đây là do việc công ty sử dụng chính sách tăng thời gian bán chịu cho khách hàng đồng thời cũng là do công tác thu hồi nợ của công ty là chưa tốt và chưa có hiệu quả. Vì vậy, trong kì kinh doanh tới công ty cần phải quan tâm hơn nữa đến công tác quản lí các khoản phải thu nhằm hạn chế vốn bị chiếm dụng và hạn chế những rủi ro có thể xảy ra. Mức VLĐ tiết kiệm hay lãng phí. Ta có: VLĐTK = M1 x (K1 - K0) 360 Trong đó: M1 là doanh thu thuần năm 2002 K1 là kỳ luân chuyển năm 2002 K0 là kỳ luân chuyển năm 2001 = 132215128318 x (161 - 79) 360 = 30115668116,8 Như vậy trong năm 2002, công ty đã sử dụng lãng phí tương đối 30.115.668.117 đồng VLĐ. Đây là khuyết điểm mà công ty cần phải khắc phục để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ trong SXKD tại công ty nói riêng và hiệu quả sử dụng VKD trong SXKD tại công ty nói chung. Chúng ta cùng xem xét hiệu quả sử dụng VKD trong SXKD tại công ty qua một số chỉ tiêu sau: Bảng 15: Hiệu quả sử dụng VKD trong SXKD tại Công ty xà phòng Hà Nội Chỉ tiêu ĐVT Năm 2001 Năm 2002 Chênh lệch STĐ % 1. Doanh thu thuần đ 163,574,295,484 132,215,128,318 (31,359,167,166) (19.171) 2. Lợi nhuận sau thuế đ (1,075,166,637) 22,157,893 1,097,324,530 102.061 3. VKD bình quân đ 44,548,410,250 70,794,904,722 26,246,494,472 58.917 4. Tỷ suất LN/DT (0.007) 0.0002 0.0067 (102.550) 5. Doanh lợi tổng vốn ( 2 : 3 ) (0.024) 0.0003 0.0244 101.297 6. Vòng quay tổng vốn ( 1 : 3 ) vòng 3.672 1.868 (1.804) (49.138) 7. Vốn chủ sở hữu BQ 74,632,113,546 101,653,031,956 27,020,918,410 36.205 8. Doanh lợi VCSH ( 2 : 7 ) (0.014) 0.0002 0.01 101.513 9. Vòng quay VCSH ( 1 : 7 ) vòng 2.192 1.301 (0.891) (40.657) Qua bảng ta thấy: Năm 2002, VKD của công ty quay được 1,868 vòng, giảm hơn năm trước 1,8043 vòng tương ứng với tỉ lệ giảm là 49,138%. Vòng quay VKD giảm đã làm giảm hiệu quả sử dụng VKD trong SXKD tại công ty. Ta có: Vòng quay VKD (VVKD) = DTT VKDBQ ảnh hưởng của nhân tố DTT VVKD(DTT) = DTT2002 - DTT2001 VKDBQ 2001 VKDBQ 2001 = 132215128318 - 163574295484 44548410250 44548410250 = - 3,335 - ảnh hưởng của nhân tố VKD bình quân VVKD(VKDBQ) = DT2002 - DT2002 VKDBQ 2002 VKDBQ 2001 = 132215128318 - 132215128318 70794904722 44548410250 = 1,531 Tổng hợp ảnh hưởng của 2 nhân tố VKD ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28810.doc
Tài liệu liên quan