Lời cam đoan
Em xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do bản thân viết, không sao chép ở bất cứ luận văn hay chuyên đề nào. Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước khoa và toàn trường .
Sinh viên
Nguyễn Kim Phượng
Lời cảm ơn
Em xin chân thành cảm ơn giảng viên: Thạc sĩ Bùi Huy Nhượng đã giúp đỡ em hoàn thành tốt luận văn của mình.
Qua đây em xin cảm ơn các cô, chú, anh, chị trong công ty thương mại xuất nhập khẩu Hà Nội đã tạo cơ hội cho em trong việc cung cấp các tài liệu cần thiế
95 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1227 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại Công ty Thương mại XNK Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội ngày 3/05/2003
Sinh viên
Nguyễn Kim Phượng
Lời nói đầu
Mỗi người trong số chúng ta đang sử dụng những kết quả của hàng chục các giao dịch quốc tế diễn ra hàng ngày. Đồng hồ báo thức kèm radio của bạn có thể được sản xuất tại Trung Quốc, những bản tin mà bạn đang nghe được phát đi từ đài BBC của Anh. Bạn mặc áo phông GAP sản xuất tại Ai Cập, quần bò Levis sản xuất tại Băngladet và đi giày Nike được gia công ở Việt Nam với các phụ kiện được sản xuất ở một vài nước khác. Bạn bước vào chiếc xe Toyota của mình (được sản xuất ở Nhật Bản) và nghe nhạc Pop từ đĩa CD phát hành tại Hà Lan do một ban nhạc Thuỵ Điển trình bày. Tại một quán cà phê địa phương, bạn có thể thưởng thức cà phê chế biến từ hạt cà phê trồng ở Colombia, thậm chí không cần bước chân ra khỏi thị trấn nhỏ bé của mình nhưng bạn có thể mua bất cứ một sản phẩm nào được sản xuất ở bất cứ quốc gia nào mà bạn muốn. Bất kể sống ở đâu đi nữa thì bạn sẽ luôn bị bao quanh bởi hàng hoá nhập khẩu - tất cả hàng hoá và dịch vụ được một nước mua từ các tổ chức ở các nước khác. Tất cả những điều đó đã nói lên được tầm quan trọng của hoạt động nhập khẩu.
Hoạt động nhập khẩu là một trong những bộ phận quan trọng của thương mại quốc tế. Nhập khẩu cho phép bổ sung những sản phẩm trong những chưa sản xuất được hoặc sản xuất không hiệu quả và đem lại lợi ích cho các bên tham gia. Đặc biệt là đối với Việt Nam đang tiến lên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong khi sản xuất công nghiệp chưa phát triển thì nhu cầu hàng nhập khẩu ngày càng tăng.
Công ty thương mại xuất nhập khẩu Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước được thành lập từ những năm 1980, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Sở Thương mại Hà Nội. Là một doanh nghiệp đa ngành hàng với hoạt động kinh doanh nhập khẩu là hoạt động chủ đạo, đem lại doanh thu và lợi nhuận chủ yếu cho công ty. Trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của mình, công ty đã sớm khằng định vai trò trong việc phục vụ tiêu dùng và sản xuất trong nước, góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong quá trình thực tập, nhận thức rõ vai trò của hoạt động nhập khẩu, những thành quả cũng như những tồn tại trong hoạt động kinh doanh của Công ty, được sự giúp đỡ tận tình của ban Lãnh đạo, đặc biệt là Phòng Kinh doanh Xuất nhập khẩu I và sự chỉ bảo động viên của giảng viên- Thạc sỹ Bùi Huy Nhượng, tôi mạnh dạn chọn đề tài " Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại Công ty Thương mại Xuất nhập khẩu Hà Nội".
Kết cấu đề tài gồm ba phần:
Chương I: Những vấn đề chung về hoạt động nhập khẩu hàng hoá
Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu của công ty Thương mại Xuất nhập khẩu Hà Nội thời gian qua
Chương III: Những giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở công ty Thương mại Xuất nhập khẩu Hà Nội
Chương I
Những vấn đề chung về nhập khẩu hàng hóa
i. Khái niệm, chức năng và vai trò của nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân.
1. Khái niệm nhập khẩu.
Khái niệm: Nhập khẩu được hiểu là việc mua bán và trao đổi hàng hoá dịch vụ của nước này với nước khác và dùng ngoại tệ để trao đổi.
Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu.
+ Hoạt động nhập khẩu là hoạt động mua bán ở phạm vi quốc tế, nó không chỉ là hành vi mua bán riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ mua bán rất phức tạp, có tổ chức từ bên trong ra bên ngoài. Vì thế, hoạt động nhập khẩu hàng hoá một mặt đem lại nhiều hiệu quả kinh tế cao, mặt khác nó có thể gây ra những hậu quả khôn lường bởi vì nó phải đối đầu với cả một hệ thống kinh tế ở bên ngoài, mà một nước tham gia nhập khẩu không dễ dàng khống chế được.
+ Hoạt động nhập khẩu là hoạt động giao dịch buôn bán giữa những người có quốc tịch khác nhau, thị trường vô cùng rộng lớn, khó kiểm soát, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh, các quốc gia khác nhau tham gia vào hoạt động giao dịch, buôn bán này phải tuân thủ theo những tập quán, thông lệ quốc tế cũng như của các địa phương.
+ Hoạt động nhập khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng về cả không gian lẫn thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, song cũng có thể kéo dài hàng năm, có thể tiến hành trên phạm vi lãnh thổ một nước hoặc của nhiều nước khác.
+ Hoạt động nhập khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện từ nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị và cả công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động trao đổi này đều nhằm mục đích đem lại lợi ích cho các quốc gia.
+ Hoạt động nhập khẩu là hoạt động được tổ chức, thực hiện với nhiều nhiệm vụ, nhiều khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá nhập khẩu, thương nhân giao dịch, các bước tiến hành đàm phán kí kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi nhận hàng hoá và thanh toán. Mọi khâu, mọi nhiệm vụ đòi hỏi phải được nghiên cứu đầy đủ, kỹ lưỡng, đặt chúng trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt được lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
2. Chức năng của nhập khẩu.
Nhập khẩu có một số chức năng cơ bản sau
+ Hoạt động nhập khẩu làm biến đổi cơ cấu giá trị sử dụng của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo hướng có lợi cho việc đẩy mạnh phát triển sản xuất và nâng cao mức sống của nhân dân trong nước. Chức năng này thể hiện ở việc hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng làm lợi cho nền kinh tế quốc dân về mặt giá trị sử dụng, góp phần làm cho nền kinh tế đất nước phát triển một cách nhịp nhàng, cân đối và đạt tốc độ tăng trưởng cao.
+ Hoạt động nhập khẩu góp phần nâng cao hiệu quả nền kinh tế quốc dân nhờ việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên cơ sở sử dụng triệt để những khả năng và lợi thế của phân công lao động quốc tế, nhằm nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng, khai thác các năng lực của nền kinh tế thế giới.
+ Hoạt động nhập khẩu khai thác mọi năng lực và thế mạnh về hàng hoá, công nghệ, vốn… của các nước và các khu vực trên thế giới phù hợp với hoàn cảnh trong nước để thúc đẩy quá trình tái sản xuất, tiêu dùng phát triển kịp thời với tiến trình chung của nhân loại. Trên cơ sở đó nền sản xuất trong nước tiếp thu được những tiến bộ về kinh tế và công nghệ của thế giới, sử dụng những hàng hoá và dịch vụ tốt và rẻ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, tiêu dùng.
+ Hoạt động nhập khẩu tạo điều kiện đưa các nước khác hướng vào nước ta vừa làm kinh tế vừa phát triển sản xuất giúp nền kinh tế nước ta hướng ra nước ngoài, sẽ có điều kiện cân đối xuất nhập khẩu, tiến lên có thể xuất siêu. Và như vậy có thể tích luỹ và tăng tích luỹ cho tái sản xuất mở rộng, kinh tế quốc dân vững mạnh thì uy tín chính trị cao và có điều kiện góp phần thúc đẩy tiến bộ chung của của nhân loại .
+ Hoạt động nhập khẩu phát triển có liên quan mật thiết và thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như: Thông tin và liên lạc quốc tế, tài chính tín dụng quốc tế, du lịch quốc tế…tạo điều kiện cho việc mở rộng, hợp tác đầu tư quốc tế và hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
+ Hoạt động nhập khẩu góp phần làm cho quá trình liên kết kinh tế xã hội nước ta với nước ngoài chặt chẽ và mở rộng, góp phần vào sự ổn định kinh tế chính trị của đất nước.
3. Vai trò của nhập khẩu.
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng trong thương mại quốc tế. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến tình hình sản xuất, đời sống. Nhập khẩu để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại cho sản xuất và các hàng hoá cho tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế nghĩa là nhập khẩu những thứ mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Làm như vậy tác động tích cực tới sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về sức lao động, vốn, cơ sở vật chất, tài nguyên và khoa học công nghệ. Nhìn chung hoạt động nhập khẩu có những vai trò chủ yếu sau:
a. Đối với nền kinh tế thế giới.
+ Thông qua hoạt động nhập khẩu, nền kinh tế của các quốc gia có điều kiện “xích lại” gần nhau hơn, góp phần vào xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế, các nước trên thế giới có thể khai thác được lợi thế của nước mình, sử dụng tốt các nguồn tài nguyên, nhân lực...
+ Hoạt động nhập khẩu sẽ tạo cơ hội cho các quốc gia cùng nhau trao đổi phương pháp quản lý, thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến… Đây là yếu tố then chốt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nó không những làm phát khối lượng sản phẩm mà còn phát triển chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí lao động xã hội.
+ Hoạt động nhập khẩu góp phần tạo sự liên kết kinh tế giữa các nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới, thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như hoạt động dịch vụ thương mại, bảo hiểm, du lịch quốc tế…
+ Hoạt động nhập khẩu tăng cường hợp tác và chuyên môn hoá quốc tế, là một mắt xích quan trọng trong quá trình phân công lao động quốc tế, góp phần vào nâng cao uy tín của quốc gia trên thị trường quốc tế.
+ Hoạt động nhập khẩu kích thích sản xuất và tiêu dùng trong mỗi quốc gia, từ đó làm cho khối lượng sản phẩm và nhu cầu trong nền kinh tế thế giới tăng lên
b. Đối với nến kinh tế Việt Nam.
Với mỗi chức năng cơ bản nói trên, chúng ta thấy rằng nhập khẩu có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế nước ta, cụ thể như sau:
+ Nhập khẩu thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bởi vì nhập khẩu đòi hỏi sự đồng bộ về kỹ thuật nên sẽ tạo ra dây chuyền hiện đại kéo theo sự đổi mới trong đội ngũ cán bộ kỹ thuật và quản lý, tạo ra kỷ luật chặt chẽ trong đội ngũ nhân công, gây ý thức lao động hiệu quả.
+ Nhập khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung ứng đầu vào cho sản xuất, nâng cao khả năng sản xuất trong nước, giúp quốc gia khai thác đựơc lợi thế so sánh của mình, khai thác được tính lợi thế nhờ quy mô khi tham gia vào thương mại quốc tế. Nhập khẩu thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội, tiết kiệm được chi phí và thời gian, tạo sự đồng đều về trình độ phát triển kinh tế xã hội, góp phần xoá bỏ tình trạng độc quyền trong nước.
+ Nhập khẩu bổ xung kịp thời những mất cân đối của nền kinh tế, bù đắp những thiếu hụt về cầu do sản xuất trong nước không đáp ứng được. Không những thế nhập khẩu còn tạo ra những nhu cầu mới cho xã hội, tạo nên sự phong phú cho chủng loại hàng hoá, mẫu mã sản phẩm, chất lượng cho thị trường. Điều đó có nghĩa là nhập khẩu góp phần tạo ra sự cân đối giữa cung và cầu trong nước, đảm bảo cho sự phát triển cân đối và ổn định, khai thác một cách tối đa tiềm năng và khả năng của nền kinh tế vào vòng quay kinh tế.
+ Nhập khẩu cũng là đa dạng hoá mặt hàng, chủng loại, quy cách, mẫu mã, chất lượng các loại hàng hoá góp phần cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân. Nhập khẩu máy móc thiết bị, đầu tư xây dựng là nơi thu hút hàng triệu lao động, vừa giải quyết công ăn việc làm, hạn chế tệ nạn xã hội, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh.
+ Nhập khẩu tạo ra sự phát triển thực chất của sản xuất xã hội và thanh lọc các đơn vị sản xuất yêú kém. Nhờ nhập khẩu mà các luồng thông tin được khai thông, các mối quan hệ được sử dụng tích cực.
+ Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu, góp phần nâng cao chất lượng sản xuất hàng xuất khẩu tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài, đặc biệt là nước nhập khẩu.
+ Nhập khẩu tạo cơ sở để các nước mở rộng các quan hệ với các nước khác trên thế giới, đồng thời gắn liền sản xuất trong nước với phân công lao động thế giới. Chính vì vậy mà hoạt động nhập khẩu là một trong những nội dung chính trong chính sách kinh tế đối ngoaị của mỗi nước đối với phần còn lại của thế giới.
Như vậy có thể nói đẩy mạnh nhập khẩu sẽ tạo động lực cần thiết cho việc giải quyết các vấn đề thiết yếu của nền kinh tế mỗi quốc gia, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giúp các nước khai thác triệt để lợi thế của mình trong phân công lao động quốc tế. Điều này nói lên tính khách quan của việc tăng cường nhập khẩu trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước.
c. Đối với các doanh nghiệp.
+ Qua hoạt động nhập khẩu, các sản phẩm nhập ngoại có tính cạnh tranh cao, chất lượng, mẫu mã tốt buộc các doanh nghiệp sản xuất trong nước phải đổi mới, cải tiến công nghệ chất lượng, dịch vụ sản phẩm để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm nội địa. Qua đó hiệu quả sản xuất được nâng cao, người lao động tìm được việc làm, đời sống cán bộ công nhân được nâng cao.
+ Hoạt động nhập khẩu là hoạt động trên phạm vi quốc tế rất phức tạp vì có sự giao lưu của nhiều nền kinh tế khác nhau về văn hoá, chính trị, tập quán, ngôn ngữ… Vì vậy, buộc các doanh nghiệp nhập khẩu phải luôn hoàn thiện và đổi mới công tác quản trị kinh doanh, các cán bộ, các cá nhân luôn luôn phải học hỏi kinh nghiệp, nâng cao nghiệp vụ … Điều đó làm nâng cao năng lực chuyên môn của các thành viên trong doanh nghiệp.
+ Hoạt động nhập khẩu hàng hoá có vai trò làm tăng thế lực và uy tín của công ty cả ở thị trường trong nước và trị thường quốc tế. Lợi nhuận do kinh doanh đem lại cho phép công ty đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mở rộng các lĩnh vực kinh doanh cả về chiều sâu lẫn chiều rộng, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên, góp phần giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội, cải thiện và phát triển các mối quan hệ trong kinh doanh.
+ Hoạt động nhập khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp liên doanh liên kết giữa các chủ thể trong và ngoài nước một cách tự giác, xuất phát từ lợi ích của cả hai bên, tạo ra sức mạnh chủ thể trong doanh nghiệp một cách thiết thực.
Như vậy nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia, nó tồn tại như là một nhu cầu cần thiết mà không một quốc gia nào có thể phủ nhận. Một quốc gia muốn phát triển mạnh đòi hỏi phải có một chiến lược nhập khẩu hợp lý và hiệu quả.
II. Các hình thức của hoạt động nhập khẩu.
Trong sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới thì hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng cũng phát triển phong phú với nhiều hình thức. Tuy nhiên, có một số hình thức nhập khẩu sau đây hay được sử dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp .
1. Hình thức nhập khẩu trực tiếp ( Nhập khẩu tự doanh)
a. Khái niệm:
Hoạt động nhập khẩu trực tiếp hay còn gọi là nhập khẩu tự doanh là hình thức nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp thực hiện nhập khẩu trực tiếp các hàng hoá và dịch vụ mà không qua một tổ chức trung gian nào.
b. Đặc điểm:
+ Doanh nghiệp phải chịu mọi chi phí và rủi ro cũng như phải chịu mọi trách nhiệm pháp lý về hoạt động nhập khẩu của mình.
+ Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu nhiều hơn so với các hình thức nhập khẩu khác. Doanh nghiệp nhập khẩu đóng vai trò là người bán trực tiếp, do đó nếu nhập khẩu có quy cách, chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, giá cả phù hợp sẽ nâng cao uy tín doanh nghiệp , thu được lãi cao.
+ Doanh nghiệp phải chịu mọi nghĩa vụ thuế liên quan đến lĩnh vực nhập khẩu như thuế nhập khẩu, thuế mặt hàng…
c. Quy định của chính phủ Việt Nam đối với hình thức nhập khẩu trực tiếp.
Pháp luật Việt Nam quy định về quyền kinh doanh nhập khẩu như sau:
+ Thương nhân là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật được phép nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã đăng ký trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
+ Các chi nhánh thuộc Tổng công ty, công ty được nhập khẩu theo uỷ quyền của Tổng giám đốc Tổng công ty, giám đốc công ty phù hợp với nội dung trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Tổng công ty, công ty.
+ Trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh nhập khẩu, doanh nghiệp phải đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu tại cục hải quan tỉnh, thành phố. Tổng cục hải quan xây dựng hệ thống mã số nói trên và hướng dẫn việc đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu.
+ Đối với doanh nghiệp thành lập theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, hoạt động nhập khẩu được thực hiện theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các văn bản pháp luật có liên quan.
2. Nhập khẩu uỷ thác.
a. Khái niệm
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một loại hàng hoá nhưng lại không có quyền tham gia nhập khẩu trực tiếp, đã uỷ thác cho một doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên uỷ thác sẽ tiến hành đàm phán với nước ngoài để nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác và được nhận một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác.
Hay nói cách khác nhập khẩu uỷ thác là doanh nghiệp nhập khẩu đóng vai trò trung gian nhập khẩu, làm thay cho đơn vị cần nhập khẩu nhữmg thủ tục cần thiết để nhập hàng và hưởng phầm trăm chi phí ủy thác theo giá trị hàng nhập khẩu.
b. Đặc điểm của nhập khẩu uỷ thác.
+ Trong hoạt động nhập khẩu này doanh nghiệp nhận uỷ thác không phải bỏ vốn, xin hạn nghạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường hàng nhập mà chỉ đóng vai trò làm đại diện bên uỷ thác giao dịch với nước ngoài, kí kết hợp đồng và làm các thủ tục nhập khẩu hàng cũng như thay mặt bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất.
+ Bên uỷ thác phải tự nghiên cứu thị trường, lựa chọn mặt hàng, đối tượng giao dịch và chịu mọi chi phí có liên quan.
+ Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác thì doanh nghiệp chỉ được tính phí uỷ thác chứ không được tính doanh thu và không phải chịu thuế doanh thu.
+ Khi nhập khẩu uỷ thác thì doanh nghiệp nhận uỷ thác phải lập hai hợp đồng: Một hợp đồng ngoại giữa doanh nghiệp nhập khẩu với đối tác nước ngoài và một hợp đồng nội giữa doanh nghiệp nhận uỷ thác với doanh nghiệp uỷ thác.
+ Hình thức nhập khẩu uỷ thác có ưu điểm là mức độ rủi ro thấp, trách nhiệm ít, người đứng ra nhập khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng, đặc biệt là không cần vốn để mua hàng, phí uỷ thác tuy ít nhưng nhận tiền nhanh và ít thủ tục và rủi ro.
c. Quy định của chính phủ Việt Nam về nhập khẩu uỷ thác.
Pháp luật Việt Nam quy định rõ về điều kiện doanh nghiệp được nhập khẩu uỷ thác như sau:
+ Thương nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc mã số doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu được uỷ thác nhập khẩu hàng hoá phù hợp với nội dung của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
+Thương nhân đã đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu được nhận uỷ thác nhập khẩu hàng hoá phù hợp với nội dung giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
+ Việc uỷ thác nhập khẩu và việc nhận uỷ thác nhập khẩu các mặt hàng nhập khẩu có điều kiện do bộ thương mại hướng dẫn cụ thể.
+ Nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên uỷ thác nhập khẩu và bên nhận uỷ thác nhập khẩu được quy định cụ thể trong hợp đồng uỷ thác nhập khẩu do các bên tham gia kí kết thoả thuận.
3. Hình thức nhập khẩu liên doanh.
a. Khái niệm
Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho hai bên theo nguyên tắc lãi cùng chia, lỗ cùng chịu.
b. Đặc điểm
+ So với nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp ít chịu rủi ro hơn bởi vì mỗi
doanh nghiệp nhập khẩu chỉ phải góp phần vốn nhất định và quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên cũng tăng lên theo vốn góp. Việc phân chia chi phí, các loại thuế theo tỷ lệ góp vốn, lãi lỗ tuỳ theo hai bên thoả thuận phân chia.
+ Trong nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập hàng về sẽ được tính kim ngạch nhập khẩu nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ thì chỉ tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chỉ chịu thuế doanh thu trên số hàng đó.
+ Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp phải thực hiện hai hợp đồng. Một hợp đồng mua hàng với nước ngoài và một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác.
c. Quy định về hiệp hội ngành hàng nhập khẩu.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì thương nhân kinh doanh cùng ngành hàng, không phân biệt thành phần kinh tế thì được phép thành lập Hiệp hội ngành nhập khẩu trên cơ sở tự nguyện để phối hợp hoạt động và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên đồng thời đảm bảo lợi ích quốc gia.
4. Hình thức nhập khẩu đổi hàng.
a. Khái niệm.
Nhập khẩu hàng đổi hàng (cùng với trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu) là một phương thức trao đổi hàng hoá, trong đó nhập khẩu kết hợp chặt chẽ với xuất khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đi có giá trị tương ứng bằng lượng hàng nhập về. Mục đích của hoạt động nhập khẩu đổi hàng là không chỉ thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhằm để xuất khẩu hàng thu lãi.
b. Đặc điểm.
+ Hàng hoá nhập khẩu và xuất khẩu có sự cân bằng về mặt hàng, giá cả,
tổng giá trị hàng giao nhau và cân bằng về điều kiện giao hàng.
+ Doanh nghiệp nhập khẩu đổi hàng được tính cả kim ngạch nhập khẩu và kim ngạch xuất khẩu, doanh số trên cả hàng nhập khẩu và xuất khẩu.
+ Hình thức của hợp đồng nhập khẩu đổi hàng là có thể chỉ lập bằng một hợp đồng với hai doanh mục hàng hoá hoặc hai hợp đồng mà mỗi hợp đồng một danh mục hàng hoá hay một văn bản nguyên tắc (có thể là một hợp đồng khung, một thoả thuận chung hoặc bản ghi nhớ) trên cơ sở văn bản nguyên tắc, người ta kí kết các hợp đồng mua bán cụ thể để thực hiện.
+ Trong hợp đồng nhập khẩu đổi hàng thường có điều kiện đảm bảo đối lưu. Sự đảm bảo này có thể được thực hiện bởi một trong những phương pháp: dùng thư tín dụng, dùng một tài khoản đặc biệt tại Ngân hàng, dùng người thứ ba, phạt về việc giao hàng thiếu hoặc chậm giao…
5. Hình thức nhập khẩu tái xuất.
a. Khái niệm
Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu vào trong nước nhưng không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một nước khác nhằm thu lợi nhuận, những hàng nhập khẩu này không qua chế biến ở nước tái xuất. Như vậy, nhập khẩu tái xuất luôn thu hút ba nước tham gia: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu,nước tái xuất.
b. Đặc điểm
+ Doanh nghiệp tái xuất phải thực hiện hai hợp đồng: một hợp đông nhập khẩu và một hợp đồng xuất khẩu.
+ Doanh nghiệp nhập khẩu tái xuất được tính kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu, doanh số bán tính trên giá trị hàng xuất khẩu do đó phải chịu thuế doanh thu.
+ Hàng hoá nhập khẩu không nhất thiết phải qua nước tái xuất mà có thể chuyển thẳng sang nước thứ ba nhưng trả tiền phải luôn do nước tái xuất thu từ người nhập khẩu và trả cho nước xuất khẩu. Nhiều khi người tái xuất còn thu được lợi thế về tiền hàng do thu nhanh trả chậm.
6. Hình thức nhập khẩu theo đơn đặt hàng.
a. Khái niệm
Nhập khẩu theo đơn đặt hàng là hình thức đơn vị ngoại thương chịu mọi chi phí và mọi rủi ro để nhập khẩu hàng hoá cho đơn vị đặt hàng trên cơ sở đơn đặt hàng của đơn vị đặt hàng còn đơn vị đặt hàng có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền.
b. Đặc điểm
+ Đơn vị ngoại thương phải kí kết hợp đồng với đối tác nước ngoài theo đúng đơn đặt hàng về các mặt tên hàng, số lượng, quy cách, chất lượng sản phẩm, điều kiện kỹ thuật và thời hạn giao hàng.
+ Đối với hình thức này phương thức thanh toán thường áp dụng là: nhờ thu có chấp nhận, có cải tiến.
Với các hình thức nhập khẩu đa dạng như trên, việc áp dụng hình thức nào còn phụ thuộc vào bản thân doanh nghiệp nhập khẩu (khả năng tài chính, chiến lược kinh doanh, hiệu quả kinh tế…) nhu cầu trong nước và phù hợp với quy định của pháp luật.
III. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu hàng hoá
1. Các nhân tố vĩ mô
a. Nhân tố chính trị pháp luật
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu được tiến hành thông qua các chủ
thể ở hai hay nhiều môi trường chính trị pháp luật khác nhau, thông lệ về thị trường cũng khác nhau. Tất cả các doanh nghiệp khi tham gia vào thương mại quốc tế trước tiên phải tuân thủ pháp luật thương mại trong nước và phải phù hợp với pháp luật của nước mình giao dịch cũng như pháp luật quốc tế.
Khi doanh nghiệp tiến hành một hoạt động nhập khẩu hàng hoá, trước tiên phải nghiên cứu các vấn đề cơ bản sau:
+ Các qui định về khuyến khích, hạn chế hay cấm vận nhập khẩu một số mặt hàng. Mỗi quốc gia khác nhau có qui định về vấn đề này khác nhau.
+ Các qui định về quyền lợi và nghĩa vụ khi tiến hành nhập khẩu hàng hoá đó.
+ Các qui định chung do pháp luật hay các thông lệ quốc tế đề ra.
b. Các nhân tố kinh tế xã hội
Sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, sản xuất trong nước phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu phát triển.
Sự phát triển của hoạt động thương mại trong nước và quốc tế cũng góp phần hạn chế và kích thích nhập khẩu, bởi nó quyết định sự chu chuyển hàng hoá trong nội bộ nền kinh tế nước nhà và nền kinh tế thế giới. Sự biến động của nền kinh tế thế giới sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường hàng hoá trong nước và thế giới, do vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động nhập khẩu.
Hệ thống tài chính ngân hàng pháp triển sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động nhập khẩu nói riêng và hoạt động thương mại quốc tế nói chung. Hoạt động nhập khẩu liên quan mật thiết tới hoạt động thanh toán quốc tế thông qua hệ thống các Ngân hàng giữa các quốc gia. Hệ thống tài chính Ngân hàng phát triển sẽ càng tạo điều kiện thuận lợi cho cho việc thanh toán quốc tế diễn ra nhanh chóng, hoàn hảo do đó có lợi cho hoạt động nhập khẩu.
Thanh toán quốc tế thường sử dụng những đồng tiền của các quốc gia khác nhau, do vậy tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng lớn tới hoạt động nhập khẩu.
Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển cũng ảnh hưởng lớn tới hoạt động nhập khẩu. Bởi vì hoạt động nhập khẩu không thể tách rời khỏi hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống giao thông vận tải, kho tàng bến bãi....Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển sẽ càng thuận lợi và hạ thấp chi phí cho các doanh nghiệp nhập khẩu.
2. Các nhân tố vi mô.
a. Cơ chế tổ chức bộ máy của doanh nghiệp.
Nếu cơ chế bộ máy tổ chức quản lý của doanh nghiệp sắp xếp hợp lý sẽ giúp cho các nhà lãnh đạo sử dụng tốt hơn nguồn lực của mình, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ngược lại, nếu bộ máy cồng kềnh, không hợp lý sẽ lãng phí và hạn chế hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
b. Nhân tố về con người.
Trình độ chuyên môn và năng lực làm việc của mỗi thành viên trong doanh nghiệp là yếu tố cơ bản quyết định sự thành công trong kinh doanh. Các nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu nếu được thực hiện bởi các cán bộ nhanh nhạy, năng động, sáng tạo, có trình độ cao và có kinh nghiệm thì chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao.
c. Nhân tố về vốn và trang thiết bị vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp.
Vốn là yếu tố không thể thiếu trong kinh doanh, doanh nghiệp có vốn lớn thì càng có nhiều cơ hội nắm bắt những thời cơ hấp dẫn trong kinh doanh và càng có nhiều lợi nhuận hơn.
Trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật thực chất cũng là vốn của doanh nghiệp. Nếu trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, hợp lý sẽ góp phần làm tăng tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp.
IV. nội dung của hoạt động nhập khẩu.
Sơ đồ 1: Nội dung của hoạt động nhập khẩu.
Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng
Tổ chức thực hiện hợp đồng
Nhập khẩu
Nghiên cứu
thị trường
Xây dựng kế hoạch nhập khẩu
1. Nghiên cứu thị trường.
Có thể nói rằng thị trường ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá, ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hoá thì ở đó xuất hiện khái niệm về thị trường. Nghiên cứu thị trường là công việc đầu tiên và rất cần thiết đối với bất kỳ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, trong bất kỳ lĩnh vực nào đặc biệt là doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Nghiên cứu thị trường trong kinh doanh thương mại quốc tế có thể hiểu là một loại các thủ tục, kỹ thuật được đưa ra để giúp các nhà kinh doanh có đầy đủ thông tin về thị trường từ đó đưa ra các quyết định chính xác.
Nghiên cứu thị trường là một quá trình tìm kiếm khách quan và có hệ thống, cùng với sự phân tích các thông tin cần thiết để giải quyết các vấn đề trong hoạt động thương maị quốc tế. Bởi vậy, nghiên cứu thị trường đang ngày càng đóng một vai trò quan trọng để giúp các nhà kinh doanh đạt hiệu quả cao trong công tác xuất nhập khẩu.
Nghiên cứu thị trường của một doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường bao gồm các công đoạn sau:
a. Nghiên cứu thị trường trong nước và xác định hàng hoá nhập khẩu
Đây là một trong những nội dung cơ bản và cần thiết đầu tiên của các doanh nghiệp có ý định gia nhập vào thị trường thương mại quốc tế. Việc đầu tiên là phải xác định được mặt hàng mình sẽ nhập khẩu sao cho phù hợp với năng lực và đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh.
Mặt hàng mà doanh nghiệp lựa chọn nhập khẩu phải đạt tiêu chuẩn phù hợp với nhu cầu thị trường trong nước và phù hợp với khả năng cung ứng của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi phải có sự phân tích, đánh giá kỹ khả năng nội tại của doanh nghiệp cũng như dự đoán được những khó khăn và thuận lợi của doanh nghiệp khi quyết định nhập khẩu mặt hàng này để tiêu thụ trong nước. Khi lựa chọn mặt hàng nhập khẩu, các nhà kinh doanh phải chú ý các vấn đề sau đây:
Thứ nhất: Mặt hàng thị trường đang cần là gì ?
Doanh nghiệp cần khảo sát kỹ thị trường trong nước để biết được hiện tại thị trường đang có nhu cầu về những mặt hàng nào mà doanh nghiệp có khả năng nhập khẩu. Khi nghiên cứu thị trường trong nước doanh nghiệp phải tìm hiểu kỹ khía cạnh thương phẩm để hiểu rõ giá trị, công dụng, nắm được những đặc tính của nó và những yêu cầu của thị trường về hầng hoá đó như : quy cách sản phẩm bao bì, cách trang trí bên ngoài, cách lựa chọn phân loại…
Thứ hai: Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào?
Mỗi loại mặt hàng đều có thói quen tiêu dùng riêng, thể hiện ở thời gian tiêu dùng, thị hiếu tiêu dùng, quy luật biến động của quan hệ cung cầu mặt hàng đó.
Thứ ba: Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống?
Chu kỳ sống của sản phẩm là tiến trình phát triển việc tiêu thụ của sản phẩm đó bao gồm bốn giai đoạn : (i) thâm nhập, (ii) phát triển, (iii) bão hoà,(iv) thoái trào. Do vậy doanh nghiệp nhập khẩu phải nắm được mặt hàng doanh nghiệp dự tính nhập khẩu đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống để đưa ra cá._.c biện pháp cần thiết để nâng cao doanh số bán hàng và thu được nhiều lợi nhuận.
Thứ tư: Tình hình sản xuất mặt hàng đó trong nước như thế nào?
Doanh nghiệp cần nắm được khả năng sản xuất và nguồn cung cấp chủ yếu của mặt hàng đó, thời vụ sản xuất, công nhân, tay nghề, nguyên lý chế tạo, tốc độ phát triển mặt hàng đó.
Thứ năm: Chính sách quản lý của Nhà nước về mặt hàng đó như thế nào?
Doanh nghiệp cần biết rõ mặt hàng doanh nghiệp dự định nhập khẩu có được Nhà nước cho phép nhập khẩu hay không ? Có hạn ngạch nhập khẩu hay không? Có được Nhà nước khuyến khích nhập khẩu hay không?…
b. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng.
Đối với doanh nghiệp nhập khẩu việc nghiên cứu dung lượng thị trường hàng hoá cần nhập khẩu là rất quan trọng. Có thể hiểu dung lượng thị trường của một hàng hoá là khối lượng hàng hoá đã được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định trong một thời gian nhất định thường là một năm.
Dung lượng thị trường không cố định mà nó thay đổi tuỳ theo tình hình do tác động của nhiều nhân tố tổng hợp trong những giai đoạn nhất định. Các nhân tố làm thay đổi có rất nhiều nhưng có thể chia ra làm ba nhóm căn cứ vào thời gian ảnh hưởng của chúng đối với thị trường.
* Nhóm nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến đổi có tính chất chu kỳ: Đó là những nhân tố quan trọng như
+ Sự vận động của tình hình kinh tế của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phương tây: Đây là nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường hàng hoá. Phân tích ảnh hưởng của sự vận động tình hình kinh tế trên thế giới đối với sự biến đổi dung lượng thị trường có thể trên phạm vi thế giới, khu vực. Đặc biệt là sự vận động của các nước giữ vai trò chủ yếu trên thị trường nhập khẩu hàng hoá chủ yếu thuộc đối tượng nghiên cứu.
+ Tính chất thời vụ trong quá trình sản xuất, phân phối và lưu thông hàng hoá: Do đặc điểm của sản xuất lưu thông và tiêu dùng các loại hàng hoá rất khác nhau nên sự ảnh hưởng của nhân tố này đối với thị trường hàng hoá cụ thể rất đa dạng về phạm vi và mức độ.
* Nhóm các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến đổi của dung lượng thị trường: Các nhân tố thuộc đối tượng này rất nhiều, nó ảnh hưởng tới sự biến đổi của dung lượng thị trường hàng hoá trong thời gian tương đối dài. Ví dụ như nhân tố tiến bộ khoa học công nghệ, các biện pháp chính sách của nhà nước, thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng, ảnh hưởng của hàng hoá thay thế.
* Nhóm các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường:
Các nhân tố này như hiện tượng đầu cơ đột biến về cung cầu, các yếu tố tự nhiên như hạn hán, lũ lụt, động đất…
Trên đây là những nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường. Khi nghiên cứu thị trường hàng hoá khác nhau phải vào đặc điểm của chúng để đánh giá đúng ảnh hưởng của các nhân tố. Điều quan trọng là khi phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đối với sự thay đổi dung lượng thị trường là phải xác định nhân tố nào có nghĩa quyết định tới xu hướng phát triển của thị trường trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai.
c. Nghiên cứu về giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới.
Nghiên cứu về giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới là vấn đề hết sức quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành nhập khẩu. Giá cả hàng hoá trên thị trưòng phản ánh quan hệ cung cầu hàng hoá đó trên thị trường thế giới. Vấn đề xác định đúng đắn giá cả hàng hoá trong kinh doanh thương mại quốc tế có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả của hoạt động nhập khẩu.
Trong buôn bán quốc tế giá cả hàng hoá được coi là giá tổng hợp, trong đó bao gồm giá vồn hàng bán, bao bì, chi phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm và các loại chi phí khác tuỳ theo các bước thực hiện của các bên tham gia. Nghiên cứu giá cả hàng hoá bao gồm nghiên cứu giá cả của mặt hàng nhập khẩu tại từng thời điểm trên từng thị trường, xu hướng biến động của giá cả thị trường và các nhân tố ảnh hưởng tới nó.
Khi nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới cần nghiên cứu các vấn đề sau:
* Giá quốc tế:
Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với một loại hàng hoá nhất định trên thị trường thế giới. Giá đó phải là giá của những giao dịch thương mại thông thường, không kèm theo một điều kiện giao dịch nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi được.
Trong thực tiễn kinh doanh thương mại quốc tế những giá sau được coi là giá quốc tế:
+ Đối với những hàng hoá không có trung tâm giao dịch thuyền thống trên thế giới thì có thể lấy giá của những nước xuất khẩu hoặc của những nước nhập khẩu chủ yếu biểu thị bằng ngoại tệ có thể tự do chuyển đổi được.
Ví dụ như giá than có thể lấy giá than xuất khẩu của Mỹ hoặc có thể lấy giá nhập khẩu của Nhật Bản tính bằng USD của Mỹ
+ Đối với những hàng hoá thuộc đối tượng buôn bán ở sở giao dịch hoặc ở các trung tâm bán đấu giá thì có thể tham khảo giá ở các trung tâm này.
+ Đối với máy móc thiết bị việc định giá quốc tế tương đối khó bởi vì máy móc thiết bị rất đa dạng vì vậy trong thực tế người ta căn cứ vào giá cả của các hãng sản xuất và cung trong thị trường đóng vai trò chủ yếu.
* Dự đoán xu hướng biến động của giá cả.
Xu hướng biến động của giá cả các loại hàng hoá trên thế giới biến động rất phức tạp. Có lúc tăng giảm cá biệt, có trường hợp ổn định nhưng nói chung xu hướng đó có tính chất tạm thời. Để có thể dự đoán được xu hướng biến động của giá cả trên thị trường phải dựa vào các kết quả ngiên cứu và dự đoán tình hình thị trường từng loại hàng hoá, đồng thời đánh giá các nhân tố tác động đến xu hướng biến đổi giá cả. Các nhân tố tác động đến giá cả hàng hoá trên thị trường hàng hoá rất nhiều nhưng có thể phân loại theo nhiều cách khác nhau. Sau đây xin giới thiệu một số nhân tố tác động đến biến động hàng hoá trên thế giới:
+ Nhân tố chu kỳ.
Chu kỳ tức là sự vận động có tính chất quy luật tình hình kinh tế của các nước phương Tây. Nhân tố này ảnh hưởng rất lớn tới xu hướng biến động của giá cả các loại hàng hoá trên thị trường thế giới. Sự vận động có tính chất quy luật của các nước phương Tây sẽ làm cho quan hệ cung cầu thay đổi do đó làm thay đổi dung lượng thị trường thị trường.
+ Nhân tố lũng đoạn và giá cả.
Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đối với việc hình thành và biến động giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới. Lũng đoạn làm xuất hiện nhiều mức giá khác nhau đối với một loại hàng hoá, thậm chí có trường hợp trên cùng một thị trường. Tuỳ theo người mua và người bán mà trên thị trường thế giới xuất hiện hai loại giá lũng đoạn cao và giá lũng đoạn thấp. Giá lũng đoạn cao là giá bán các thiết bị máy móc do các nhà tư bản công nghiệp ở các nước tư bản có nền công nghiệp phát triển tạo ra, giá lũng đoạn thấp là giá nguyên vật liệu của các nhà sản xuất nhỏ ở các nước kém phát triển bán cho các nhà tư bản ở các nước phát triển.
+ Nhân tố cạnh tranh: Cạnh tranh có thể làm cho giá biến động theo xu hướng khác khau, nó phụ thuộc vào đối tượng tham gia cạnh tranh là người mua hay người bán.
Cạnh tranh giữa những người bán với nhau xảy ra khi lượng cung trên thị trường cao hơn lượng cầu trên thị trường, kết quả là làm cho giá sẽ giảm xuống.
Cạnh tranh giữa những người mua với nhau xảy ra khi lượng cầu trên thị trường cao hơn lượng cung trên thị trường, kết quả là làm cho giá sẽ tăng lên.
+ Nhân tố lạm phát
Giá của hàng hoá không những được quyết định bởi giá trị của hàng hoá mà còn quyết định bởi giá trị của tiền tệ của những nước có vị trí quan trọng trong thương mại quốc tế: Ví dụ như USD, Fr…. Do đặc điểm của nền kinh tế hiện nay giá trị đồng tiền luôn luôn thay đổi, nó gắn liền với vấn đề lạm phát. Lạm phát làm cho giá cả hàng hoá tăng lên ở các mức độ khác nhau.
Ngoài các nhân tố trên giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới còn phụ thuộc vào một số nhân tố như tính thời vụ, chính sách của Nhà nước, an ninh chính trị quốc gia…
Trên đây là một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới sự biến động giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng của các nhân tố không phải cố định mà tuỳ theo tình hình thị trường trong từng giai đoạn cụ thể mà có những thay đổi nhất định.
d. Lựa chọn đối tác kinh doanh.
Lựa chọn đối tác kinh doanh bao gồm vấn đề lựa chọn nước để giao dịch và lựa chọn thương nhân giao dịch.
* Lựa chọn nước giao dịch.
Để lựa chọn nước giao dịch doamh nghiệp cần nghiên cứu các yếu tố sau:
+ Tình hình sản xuất của nước đó.
+ Khả năng và chất lượng hàng nhập khẩu .
+ Chính sách và tập quán thương mại của nước đó.
+ Tình hình kinh tế, chế độ chính trị và thái độ của chính phủ nước đó đối với mặt hàng mà doanh nghiệp định nhập khẩu.
* Chọn thương nhân để giao dịch.
Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng nói chung là những người hay tổ chức có quan hệ giao dịch với doanh nghiệp nhằm thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hoá hay các dịch vụ, các hợp đồng hợp tác kinh tế hoặc hợp tác kỹ thuật liên quan tới việc cung cấp hàng hoá. Xét về tính chất hay mục đích hoạt động, khách hàng trong thương mại quốc tế có thể chia làm ba loại: các hãng công ty, các liên đoàn kinh doanh và các cơ quan Nhà nước.
Những nội dung cần thiết nghiên cứu để lựa chọn thương nhân bao gồm:
+ Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh và khả năng cung cấp hàng hoá của hãng.
+ Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật.
+ Thái độ và quyết định kinh doanh là chiếm lĩnh thị trường ầy cố gắng lấy độc quyền về hàng hoá.
+ Uy tín của bạn hàng.
Trong việc lựa chọn thương nhân để giao dịch, tốt nhất là nên lựa chọn đối tượng trực tiếp, tránh những đối tác trung gian. Trừ trường hợp doanh nghiệp muốn thâm nhập vào các thị trường mới mà mình chưa có kinh nghiệm.
Việc lựa chọn các đối tượng giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện cần thiết để thực hiện thắng lợi các hợp đồng thương mại quốc tế, song nó phụ thuộc vào kinh nghiệm của những người làm công tác giao dịch.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế trong thương mại quốc tế nói chung và trong kinh doanh nhập khẩu nói riêng là rất cần thiết. Đó là bước chuẩn bị và là tiền đề để doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế có hiệu quả cao nhất.
2. Xây dựng phương án kinh doanh.
Sau khi nghiên cứu thị trường doanh nghiệp có đầy đủ các thông tin cần thiết về dung lượng thị trường, về loại hàng cũng như nguồn hàng và giá cả nhập khẩu. Các thông tin về đối tác, cạnh tranh…. doanh nghiệp sẽ tiến hành xây dựng các kế hoạch nhập khẩu.
Yêu cầu của việc xây dựng chiến lược, kế hoạch nhập khẩu là phải rõ ràng, cụ thể, có những mục tiêu rõ ngắn hạn và dài hạn và phải lập ra nhiều phương án. Trong các phương án cần chỉ rõ cách tính doanh thu, lỗ, lãi dự đoán cũng như những thuận lợi và khó khăn khi tiến hành.
Việc xây dựng các phương án nhập khẩu bao gồm các bước sau:
Bước 1: Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân
Trong bước này, người lập phương án rút ra những nét tổng quát về tình hình, phân tính thuận lợi khó khăn trong kinh doanh.
Bước 2: Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh:
Việc lựa chọn thời cơ, mặt hàng, điều kiện và phương thức kinh doanh phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tính những tình hình có liên quan.
Bước 3: Đề ra mục tiêu
Những mục tiêu đề ra trong một phương án kinh doanh bao giờ cũng là những mục tiêu cụ thể nh : sẽ mua được bao nhiêu hàng ? với giá bao nhiêu ? và mua ở thị trường nào ?….
Bước 4: Đề ra biện pháp thực hiện
Những biện pháp này là những công cụ để đạt tới mục tiêu đề ra, bao gồm những biện pháp trong nước (như đầu tư vào sản xuất, cải tiến bao bì, ký hợp đồng kinh tế…) và các biện pháp ở nước ngoài.
Bước 5: Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh và lựa chọn phương án tối ưu
Hiệu quả kinh tế của một hoạt động kinh tế được đánh giá thông qua các chỉ tiêu khác nhau, trong đó chủ yếu là các chỉ tiêu sau:
+ Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ: Tỷ suất ngoại tệ là tổng số tiền Việt Nam thu được khi phải chi tiêu một đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu.
+ Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi( Rb): Rb được tính bằng lãi cộng khấu hao và chia cho tổng số tiền bỏ ra kinh doanh.
+ Chỉ tiêu điểm hoà vốn.
+ Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn.
Sau khi mỗi phương án đều có những chỉ tiêu này, doanh nghiệp sẽ so sánh và lựa chọn ra phương án mà có lợi nhất cho doanh nghiệp và phù hợp với mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra.
Tóm lại, việc xây dựng chiến lược kế hoạch nhập khẩu thường bao gồm những điểm sau: Nhận định tình hình hàng hoá, thị trường và khách hàng, dự đoán xu hướng thị trường và thương nhân, mục tiêu tối đa và tối thiểu, biện pháp, hành động cụ thể, sơ bộ đánh giá hiệu quả.
3. Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu.
a. Giao dịch
Trong kinh doanh thương mại quốc tế có một số hình thức giao dịch sau:
* Giao dịch thông thường
Giao dịch thông thường là hình thức giao dịch có thể thực hiện ở mọi nơi mọi lúc, trong đó người bán và người mua trực tiếp quan hệ với nhau bằng cách gặp mặt hoặc qua thư từ, điện tín để bàn bạc và thoả thuận với nhau các điều kiện giao dịch. Những nội dung này được thoả thuận một cách tự nhiên, không ràng buộc với lần giao dịch trước, việc mua không nhất thiết gắn liền với việc bán. Phương thức giao dịch này có ưu điểm là hai bên có thể thảo luận một cách trực tiếp dễ dàng, giảm chi phí trung gian và dễ thâm nhập thị trường.
* Giao dịch qua trung gian
Trong hình thức giao dịch này có người thứ ba làm trung gian giữa người bán và người mua. Người trung gian phổ biến trên thị trường là các đại lý và môi giới.
Đại lý: là các tư nhân hay pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo sự uỷ thác của người uỷ thác. Quan hệ giữa người uỷ thác và người nhận uỷ thác là quan hệ hợp đồng đại lý. Căn cứ vào quyền hạn được uỷ thác người ta chia ra làm ba loại đại lý đó là : đại lý toàn quyền, tổng đại lý và đại lý đặc biệt.
Sử dụng đại lý có nhiều thuận lợi như: doanh nghiệp sẽ có những thông tin chính xác về thị trường, giảm bớt chi phí nghiên cứu thị trường. Song hình thức này có nhược điểm là gây mất liên lạc trực tiếp với đối tác chính thức của mình và lợi nhuận bị chia sẻ.
* Giao dịch tại hội chợ triển lãm
Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ tổ chức vào một thời gian nhất định, tại một địa điểm nhất định, ở đó ngưới bán trưng bày hàng hoá của mình và tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng.
Triển lãm là việc trưng bày, giới thiệu những thành tựu của một ngành, một nền kinh tế nào đó. Ngày nay, triển lãm không chỉ là nơi trưng bày mà còn là nơi thương nhân hoặc tổ chức kinh doanh tiếp xúc giao dịch, ký kết hợp đồng.
Trên đây là một số phương thức giao dịch, buôn bán chủ yếu trên thị trường quốc tế, căn cứ vào mặt hàng nhập khẩu, đối tượng giao dịch và khả năng của nhà kinh doanh để lựa chọn phương thức giao dịch sao cho phù hợp.
b. Đàm phán
Trong giao dịch thương mại quốc tế, các bên thường có sự khác biệt về chính kiến, về luật pháp, tập quán, ngôn ngữ, tư duy truyền thống và về quyền lợi. Những sự khác biệt đó dẫn đến sự xung đột và để giải quyết xung đột đó các bên cần có sự trao đổi với nhau. Sự trao đổi ý kiến như thế trong thương mại quốc tế gọi là đàm phán thương mại.
Vì vậy, ta có thể định nghĩa đàm phán trong kinh doanh thương mại quốc tế là quá trình trao đổi ý kiến của các chủ thể trong một xung đột nhằm đi tới thống nhất cách nhận định, thống nhất quan niệm, thống nhất cách xử lý các vấn đề nảy sinh trong quan hệ mua bán giữa hai hay nhiều bên.
Trong thương mại quốc tế những vấn đề thường trở thành nội dung của một cuộc đàm phán là: tên hàng, phẩm chất, số lượng, điều kiện bao bì đóng gói, giao hàng, giá cả, thanh toán, bảo hiểm, khiếu nại, phạt, thưởng, bồi thường thiệt hại, trọng tài…..
* Các hình thức đàm phán
Trong giao dịch ngoại thương thường có những hình thức đàm phán sau:
+ Đàm phán qua thư tín
Hình thức đàm phán này có ưu điểm là tiết kiệm được nhiều chi phí trong cùng một lúc lại có thể giao dịch với nhiều khách hàng ở nhiều nước khác nhau. Người viết thư có điều kiện để cân nhắc, suy nghĩ, tranh thủ ý kiến của nhiều người và có thể khéo léo giấu kín ý định thực sự của mình. Chính vì những ưu điểm trên mà giao dịch qua thư tín là hình thức giao dịch thường xuyên được áp dụng trong nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên phương pháp này tốn nhiều thời gian chờ đợi, dễ bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, đồng thời với một đối tác khéo léo già dặn thì việc phán đoán ý đồ của họ qua lời lẽ trong thư là việc rất khó khăn.
+ Đàm phán qua điện thoại
Hình thức này có ưu điểm là nhanh chóng, giúp người giao dịch tiến hành đàm phán một cách khẩn trương, đúng thời cơ cần thiết. Tuy nhiên phí tổn điện thoại giữa các nước rất cao, các cuộc trao đổi bằng điện thoại thường bị hạn chế về mặt thời gian, các bên không thể trình bày chi tiết. Mặt khác, trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng, không có gì làm bằng chứng cho những thoả thuận, quyết định trong trao đổi. Bởi vậy, điện thoại chỉ được dùng trong những trường hợp cần thiết, thật khẩn trương, sợ lỡ thời cơ hoặc trong những trường hợp mà mọi điều kiện đã thoả thuận xong, chỉ còn chờ xác nhận một vài chi tiết.
+ Đàm phán trực tiếp.
Đàm phán trực tiếp là việc hai bên trực tiếp gặp mặt nhau tại cùng một địa điểm vào cùng một thời gian để đi đến thoả thuận về một vấn đề nào đó hoặc cùng nhau ký kết một hợp đồng. Đây là một hình thức đàm phán quan trọng trong quá trình đi đến thoả thuận ký kết hợp đồng bởi lẽ hình thức này giúp các bên giải quyết vấn đề nhanh chóng và nhiều khi là lối thoát cho những đàm phán gián tiếp đã kéo dài mà không đạt được kết quả.
* Các bước đàm phán
Quá trình đàm phán bao gồm các bước sau:
Hỏi giá: là việc bên mua đề nghị bên bán cho biết những điều kiện về giá cả và các điều kiện mua hàng như tên hàng, qui cách, phẩm chất, số lượng, thời
gian giao hàng mong muốn.
Phát giá hay chào hàng: là hành vi mà một bên giao dịch, người phát giá đưa ra điều kiện giao dịch mua bán một loại hàng hoá nào đó cho bên kia. Theo điều 50 Luật Thương mại Việt Nam. Một chào hàng muốn hợp pháp phải bao gồm những điều khoản chủ yếu sau: tên hàng, số lượng, qui cách, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời gian giao hàng.
Đặt hàng: là lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được đưa ra dưới hình thức đặt hàng, người mua phải nêu rõ hàng hoá mà mình định mua.
Hoàn giá: là khi một bên trong giao dịch mua bán nhận được chào hàng hoặc đơn đặt hàng nhưng không đồng ý hoàn toàn với nội dung đó mà đưa ra một lời đề nghị mới thì đề nghị mới này gọi là hoàn giá.
Chấp nhận: là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào hàng mà phía bên kia đưa ra và trong trường hợp đó coi như hợp đồng đã ký.
Xác nhận: là việc hai bên mua bán sau khi đã thống nhất thoả thuận với nhau về điều kiện giao dịch ghi lại bằng văn bản và gửi cho đối tác, mỗi bên sẽ giữ một văn bản xác nhận.
c. Ký kết hợp đồng nhập khẩu
* Chuẩn bị hợp đồng nhập khẩu
Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn đến việc ký kết hợp đồng nhập khẩu. Điều 81 khoản 4 Luật Thương mại Việt Nam quy định: “Hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài phải được lập thành văn bản".
Hợp đồng dưới hình thức văn bản có thể lập được bằng nhiều cách:
+ Hợp đồng gồm một văn bản trong đó ghi rõ nội dung mua bán, mọi điều
kiện giao dịch đã thoả thuận và có chữ ký cả hai bên.
+ Hợp đồng gồm nhiều văn bản như những thư từ giao dịch, ví dụ gồm hai văn bản: đơn chào hàng cố định của người bán và chấp nhận của người mua.
Hình thức văn bản là hình thức tốt nhất trong việc bảo vệ quyền lợi của cả hai bên. Nó xác định rõ ràng mọi quyền lợi và nghĩa vụ của bên mua và bên bán, tránh được những hiểu lầm do không thống nhất về quan niệm. Ngoài ra, hình thức văn bản còn tạo thuận lợi cho thống kê, theo dõi kiểm tra việc ký kết và thực hiện hợp đồng.
* Một số đặc điểm cần lưu ý khi ký kết hợp đồng
Cần có sự thoả thuận thống nhất với nhau tất cả mọi điều khoản cần thiết trước khi ký kết. Một khi đã ký kết rồi thì việc thay đổi một điều khoản nào đó sẽ rất khó khăn và bất lợi.
Văn bản hợp đồng thường do một bên dự thảo. Trước khi ký kết cần xem xét lại kỹ lưỡng, phải cẩn thận đối chiếu với thoả thuận đã đạt được trong đàm phán, tránh việc đối phương có thể thêm vào hợp đồng một cách khéo léo những điểm chưa thoả thuận và bỏ qua không ghi vào những điều đã thống nhất.
Những điều khoản trong hợp đồng phải xuất phát từ những đặc điểm của hàng hoá định mua bán, từ những điều kiện hoàn cảnh tự nhiên, xã hội… của nước người bán, người mua, từ đặc điểm và quan hệ của cả hai bên. Trong hợp đồng không có những điều khoản trái với luật lệ hiện hành ở nước người bán hoặc nước người mua.
Người đứng ra ký kết hợp đồng phải là người có thẩm quyền được ký kết. Ngôn ngữ được sử dụng trong hợp đồng là ngôn ngữ mà cả hai bên cùng thông thạo và nhất trí sử dụng.
4. Tổ chức thực hiện hợp đồng
Sơ đồ 2: Tổ chức thực hiện hợp đồng
Thuê tàu và mua bảo hiểm
Làm thủ tục hải quan
Nhận hàng NK và kiểm tra
Xin giấy phép nhập khẩu
Làm thủ tục thanh toán
Khiếu nại và giải quyết khiếu nai
a. Xin giấy phép nhập khẩu.
Khi đối tượng hàng hoá của hợp đồng thuộc phạm vi phải xin giấy phép nhập khẩu, doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ xin giấy phép bao gồm: hợp đồng, phiếu hạn ngạch (nếu hàng thuộc diện quản lý bằng hạn ngạch), hợp đồng uỷ thác nhập khẩu (nếu là hợp đồng uỷ thác), đơn xin phép nhập khẩu…
Việc cấp giấy phép nhập khẩu được phân công như sau:
Bộ Thương mại (các phòng cấp giấy phép) cấp giấy phép hàng mậu dịch.
Tổng cục Hải quan cấp giấy phép nhập khẩu hàng mẫu, hàng biếu, hàng triển lãm…
b. Thuê tàu và mua bảo hiểm
ở Việt Nam các đơn vị kinh doanh nhập khẩu thường mua bảo hiểm tại Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam. Có hai loại hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng bảo hiểm bao và hợp đồng chuyến.
Tuỳ theo điều kiện mua bán giữa hai bên, việc mua bảo hiểm cho hàng hoá thuộc về người mua hay người bán. Tuỳ tính chất của hàng hoá và đoạn đường chuyên chở mà người mua bảo hiểm chọn điều kiện thích hợp cho mình.
c. Làm thủ tục Hải quan
Bước 1: Khai báo Hải quan
Thời gian khai báo hải quan chia làm hai giai đoạn.
- Giai đoạn 1: chủ tàu phải khai báo và nộp cho hải quan bản khai báo hàng nhập khẩu. Với tàu biển, chậm nhất là 12 giờ kể từ khi tàu tới phao số 0. Với máy bay, ô tô. xe lửa, thời gian là ngay sau khi phương tiện vận chuyển tới cửa khẩu.
- Giai đoạn 2: chủ hàng khai báo và nộp tờ khai hải quan trong vòng 30 ngày kể từ ngày tới cửa khẩu. Khi nộp tờ hải quan phải kèm theo: hợp đồng nhập khẩu, bảng kê chi tiết, vận đơn, phiếu đóng gói, hoá đơn thương mại …
Bước 2: Đưa hàng hoá tới địa điểm quy định để kiểm tra
Địa điểm kiểm tra hải quan bao gồm các cửa khẩu như: cửa khẩu biên giới đường bộ, ga tàu lửa liên vận quốc tế, bưu cục ngoại dịch, trạm trả hàng nội địa…Khi kiểm tra hàng hoá, nếu thấy hàng bị lỗi, hỏng, thiếu thì hàng cần phải lưu giữ vào kho hải quan và lập biên bản, đợi công ty bảo hiểm cùng cơ quan thương kiểm tiến hành kiểm nghiệm, đưa ra quyết định chính thức để bảo lưu " quyền đòi bồi thường" bảo vệ quyền lợi.
Bước 3: Thực hiện quyết định của hải quan
Sau khi kiểm tra giấy tờ và hàng hóa, hải quan sẽ ra quyết định: cho hàng qua biên giới (thông quan), cho hàng qua biên giới có điều kiện (ví dụ như phải khắc phục sửa chữa, làm lại bao bì…), cho hàng hoá qua biên giới khi chủ hàng đã nộp thuế nhập khẩu hoặc không cho phép nhập khẩu hàng hoá. Các chủ hàng phải có nghĩa vụ nhập khẩu nghiêm túc các quyết định trên, nếu vi phạm sẽ thuộc vào tội hình sự.
d. Giao nhận hàng và kiểm tra
Giao nhận hàng: người mua có thể trực tiếp hoặc uỷ thác cho một đơn vị khác làm thủ tục giao nhận hàng. Nếu trực tiếp giao nhận thì cần phải chuẩn bị các thủ tục cần thiết cho việc giao nhận hàng như: vận đơn, hoá đơn thương mại, phiếu đóng gói. Nếu uỷ thác cho đơn vị khác thì phải cử người theo dõi việc giao nhận, bốc xếp hàng hoá và đôn đốc những cơ quan hữu quan lập các biên bản cần thiết liên quan đến quá trình giao nhận hàng nếu phát sinh.
Kiểm tra hàng
Đây là một công việc quan trọng khi làm các thủ tục nhập khẩu hàng hoá. Cần chú trọng kiểm tra hàng hoá về cả chủng loại, số lượng để đảm bảo rằng hàng đúng với yêu cầu trong hợp đồng.
Trong quá trình kiểm tra hàng hoá nếu phát hiện thấy hàng thiếu hụt, đổ vỡ thì người nhận hàng lập tức phải mời cơ quan giám định, bảo hiểm và đại diện của người bán đến để lập biên bản. Biên bản lập kịp thời rất có giá trị trong khiếu nại
e. Làm thủ tục thanh toán.
Hiện nay, điều kiện thanh toán thường áp dụng trong các hợp đồng nhập khẩu là thư tín dụng (L/C) hoặc chuyển tiền (T/T) nên nghĩa vụ thanh toán mà người mua phải thực hiện là mở, thanh toán thư tín dụng hoặc thực hiện chuyển tiền bằng điện. Tuỳ vào phương thức thanh toán mà có các thủ tục khác nhau.
f. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Khiếu nại là một trong những phương pháp để giải quyết các tranh chấp trong việc thực hiện các hợp đồng ngoại thương mà theo đó các bên tranh chấp tiến hành đàm phán vàthương lượng theo nguyên tắc mặt ddối mặt nhằm đem lại một kết quả pháp lý có thể thoả mãn hoặc không thoả mãn yêu cầu của người đi khiếu nại
Khi người mua nhận thấy người bán vi phạm hợp đồng thì có thể khiếu nại. Để khiếu nại thành công thì cần phải:
- Khiếu nại kịp thời trong thời gian khiếu nại, thời gian này có thể ghi trong hợp đồng hoặc áp dụng theo luật pháp.
Khiếu nại phải kèm theo đầy đủ các hồ sơ liên quan: vận đơn, phiếu đóng gói, hoá đơn thương mại, biên bản giám định của các cơ quan giám định hoặc của cơ quan bảo hiểm .
Chương II
phân tích hoạt động nhập khẩu tại công ty thương mại xuất nhập khẩu Hà nội
I. quá trình hình thành phát triển của công ty thương mại xuất nhập khẩu hà nội
1. Quá trình hình thành và phát triển:
- Công ty thương mại XNK Hà Nội tiền thân là Công ty dịch vụ quận Hai Bà Trưng được thành lập từ năm1984 theo quyết định số 4071/QĐ-UB ngày 15/9/1984 của UBND thành phố Hà Nội. Công ty là một đơn vị kinh doanh thương mại hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân, có tài khoản tiền Việt Nam và ngoại tệ tại Ngân hàng, có con dấu riêng và chịu sự quản lý toàn diện của UBND quận Hai Bà Trưng và hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của Sở thương mại thành phố Hà Nội. Công ty được thành lập và đi vào hoạt động trong giai đoạn Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp trong mọi lĩnh vực trên phạm vi cả nước, theo mô hình hướng nội, chủ yếu dựa vào việc khai thác các nguồn lực trong nước và phát triển sản xuất, phục vụ cho nhu cầu sử dụng của thị trường nội địa là chính. Cho nên chức năng nhiệm vụ của Công ty trong thời gian này chủ yếu là các dịch vụ phục vụ đời sống nhân dân như cắt uốn tóc, may đo, giặt là quần áo và kinh doanh đồ dùng gia đình, hàng nông sản (gạo, lạc, chè…) Với tổ chức bộ máy gồm có:
+ Chủ nhiệm và hai phó chủ nhiệm
+ Các phòng ban chuyên môn, nghiệp vụ quản lý, các cửa hàng...
Trong những năm đầu hoạt động công ty chủ yếu kinh doanh ở địa bàn nhỏ hẹp, số lượng bạn hàng ít, kinh doanh nội địa là chính, phục vụ nhu cầu nhân dân trong quận và thủ đô Hà Nội, các hợp đồng kinh tế đối ngoại hầu như không có.
- Sau khi Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) đã nhất trí và thông qua đường lối đổi mới kinh tế của quốc gia là dân chủ hoá đời sống kinh tế, chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chuyển quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng nền kinh tế mở, đa dạng hoá và đa phương hoá các hình thức để hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực. Để phù hợp với định hướng phát triển của Đảng và nhà nước công ty dịch vụ quận Hai Bà Trưng đổi tên thành Công ty sản xuất kinh doanh hàng XNK Hai Bà Trưng theo quyết định số 2687/QĐ-UB ngày 4/11/1992của UBND thành phố Hà Nội, với chức năng và nhiệm vụ được bổ sung như sau:
+ Tổ chức sản xuất, thu mua gia công hàng XK và bao bì đóng gói.
+ Thực hiện liên doanh, liên kết trong hoạt động kinh doanh với các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước.
- Thực hiện Nghị định 388/HĐ-BTngày 20/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thành lập và tổ chức lại doanh nghiệp Nhà nước và theo quyết định số 316/QD-UB ngày 19/1/1993. Theo quyết định số 540/QD-UB ngày 1/4/1994 của UBND thành phố Hà Nội, Công ty chính chức mang tên Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng.
Trụ sở tại: 53 Lạc Trung Hà Nội
Tên giao dịch quốc tế: hai ba trung Import Export company
Tên viết tắt: HABAMEXCO
Tel: 6360229 Fax: 6360227
Tài khoản tiền Việt Nam: 36110158 Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội
Tài khoản ngoại tệ: 361111370425 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Vốn điều lệ: 2240711400đ
Vốn cố định: 189000000đ
Vốn lưu động: 2016211000 đ
Phạm vi kinh doanh:
+ Xuất khẩu: Hàng may mặc, thêu ren, thủ công mỹ nghệ, vải sợi, vật liệu xây dựng, nông sản, thực phẩm và thực phẩm chế biến…
+ Nhập khẩu: Máy móc thiết bị, vật tư sản xuất, các mặt hàng XK nói trên, hàng điện máy, xe đạp, xe máy, hàng vật liệu xây dựng và trang trí nội thất…
- Để phù hợp với quy mô và nhiệm vụ được giao, công ty đã được UBND quận Hai Bà Trưng giao lại cho UBND thành phố Hà Nội do Sở thương mại Hà Nội trực tiếp quản lý với tên gọi mới là Công ty thương mại XNK Hà Nội theo quyết định số 2894/QĐ-UB ngày 23/5/2001.
Trụ sở tại: 142 Phố Huế
Tên giao dịch quốc tế: Trade Import and Export Ha Noi Company
Tên viết tắt: HACIMEX
Tel: Fax:
2. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu bộ máy quản lý của công ty
a. Chức năng và nhiệm vụ
Từ một công ty chỉ kinh doanh nội địa và các dịch vụ nhỏ khi mới thành
lập, đến nay với sự nỗ lực của mình, công ty đã phát triển thành một công ty thương mại xuất nhập khẩu tổng hợp với chức năng và nhiệm vụ được mở rộng như sau:
* Về chức năng: Với một lịch sử gần 20 năm, trải qua nhiều thăng trầm hiện công ty thương mại XNK Hà Nội đã hình thành cho mình một chức năng hoạt động đa dạng trên nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhiều mặt hàng, dưới nhiều hình thức và quy mô khác nhau cụ thể là:
+ Sản xuất, thu mua hàng thêu ren, may mặc thủ công mỹ nghệ xuất khẩu.
+ Sản xuất chế biến kinh doanh xuất nhập khẩu lương thực thực phẩm, dược liệu, nông lâm thuỷ hải sản và các mặt hàng khác.
+ Kinh doanh hàng điện tử, điện dân dụng, hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng và trang trí nội thất.
+ Kinh doanh xuất nhập khẩu máy móc thiết bị, vật tư nguyên vật liệu._., quốc gia, các tổ chức phi chính phủ và cá nhân xuất bản (như niên giám thống kê xuất nhập khẩu, thời báo kinh tế, các báo cáo tài chính...) Trong thời gian tới Công ty có thể nghiên cứu các thông tin thứ cấp từ các nguồn sau:
* Thông tin của các tổ chức quốc tế như các tổ chức chuyên ngành của liên hợp quốc (UNCTAD, WTO, ITC, ESCAP...) của các tổ chức khu vực (EU, ASEAN, WAFTA, EFTA...) và của các tổ chức quốc tế theo ngành hàng (OPEC...).
* Nguồn tin của các tổ chức chuyên ngành về thông tin (như trung tâm ngoại thương, phòng thương mại và công nghiệp...) và của các công ty dịch vụ liên quan đến xuất khẩu (Ngân hàng, các công ty bảo hiểm, các hãng quảng cáo...)
* Nguồn tin từ các tổ chức chuyên trách của chính phủ nước ngoài: ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thành lập các tổ chức chuyên trách nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Hoạt động của các tổ chức này là đặc biệt có ích đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nguồn tài chính hạn hẹp trong việc tìm kiếm hợp đồng với các bạn hàng nước ngoài. Công ty có thể thông qua các tổ chức chuyên trách của chính phủ nước ngoài để tìm kiếm bạn hàng và sản phẩm.
+ Đối với nguồn thông tin sơ cấp: Hiện tại công ty mới chỉ sử dụng phương pháp thu thập chủ yếu là phỏng vấn thông qua điện thoại hoặc phỏng vấn trực tiếp qua các câu hỏi được in sẵn. Để đạt hiệu quả cao hơn cho việc phát hiện nhu cầu để tiêu thụ tốt cho các mặt hàng nhập khẩu trực tiếp, công ty có thể thu thập bằng cách:
* Quan sát: Công ty có thể từ cán bộ, nhân viên điều tra nghiên cứu trực tiếp thị trường thông qua thiết bị kỹ thuật. Qua phương pháp này Công ty có thể thấy được những thông tin về hành vi và tập tính mua hàng của khách hàng từ đó đưa ra các biện pháp thích hợp cho các cửa hàng kinh doanh.
* Thử nghiệm thị trường: Đây là phương pháp thu thập thông tin về mối liên hệ nhân quả liên quan đến khách hàng qua hành vi ứng xử của họ trước những thử nghiệm của doanh nghiệp về các loại sản phẩm, giá cả, phương thức phân phối...
Khi thu thập thông tin tại các thị trường nước ngoài công ty cần chú ý một số vấn đề:
* Tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển cao, công tác thống kê thị trường tốt và thu nhập bình quân của dân cư khá cao thì các số liệu thống kê thị trường, nhất là đối với các mặt hàng phổ thông sẽ khá chính xác, phản ánh đúng nhu cầu thị trường, còn lại các nước khác, nhất là tại các nước đang phát triển và các nước NICS, các số liệu thống kê mới chỉ phản ánh một phần nhu cầu thị trường và cần kiểm định lại độ tin cậy của các số liệu đó.
* Các thông tin thứ cấp dù có đầy đủ và chính xác đến đâu chăng nữa thì cũng chỉ cung cấp những thông tin khái quát về thị trường, còn những thông tin chi tiết như tập tính tiêu dùng, ý kiến và thái độ của khách hàng chỉ có thể thông qua nghiên cứu trực tiếp thị trường.Vì thế, tại các thị trường nước ngoài nhất là tại các nước đang phát triển thì nguồn thông tin sơ cấp là chủ yếu phản ánh những vấn đề mà doanh nghiệp quan tâm.
* Khi nghiên cứu các thông tin sơ cấp tại thị trường nước ngoài, Công ty cần phải quan tâm đến nước ngoài đó có các hạn chế theo luật định cản trở theo luật định cản trở khả năng thu thập thông tin tại chỗ hay không. Tiếp đến là vấn đề ngôn ngữ cũng sẽ ảnh hưởng đến việc thu thập thông tin tại chỗ.
- Đối với việc xử lý thông tin.
Khi để có đủ các thông tin cần thiết về thị trường, điều quan trọng là Công ty phải xử lý các thông tin như thế nào để có kết quả tốt nhất. Đây là một vấn đề rất khó khăn không những chỉ đối với công ty i nói riêng mà hầu hết đối với các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh nói chung. Để xử lý tốt thông tin Công ty nên có những biện pháp sau:
+ Đẩy mạnh công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Chất lượng của nguồn nhân lực bao giờ cũng là nhân tố quyết định tính hiệu quả của hoạt động kinh doanh và khả năng khai thác thông tin bởi lẽ con người là nhân tố quyết định của mọi thành công. Nếu các nhân viên cán bộ phòng kinh doanh xuất nhập khẩu và phòng kế hoạch thị trường có trình độ cũng như kinh nghiệm trong việc xử lý thông tin thì hiệu quả nhập khẩu sẽ được nâng cao. Để có được nguồn nhân lực đảm nhận tốt việc xử lý thông tin công ty nên:
* Tiến hành đào tạo và đào tạo lại cán bộ chuyên ngành trong việc thu thập và xử lý thông tin để nhân viên đó có đủ khả năng và kinh nghiệm cần thiết xử lý được thông tin một cách tốt nhất. Những nhân viên không phù hợp với năng lực, sở trường của cán bộ Công ty có thể được sắp xếp vào vị trí khác sao cho phù hợp.
* Tuyển dụng thêm nhân viên mới có trình độ chuyên môn phù hợp.
* Đầu tư thêm chi phí cho công tác thu thập và xử lý thông tin một cách thoả đáng.
+ Sử dụng tối đa và hợp lý các phương pháp phân tích thị trường.
Khi đã có đầy đủ các thông tin đáng tin cậy về thị trường nước ngoài thì các chỉ tiêu định lượng và định tính liên quan đến các nội dung mà Công ty cần biết có thể phân tích trực tiếp từ các thông tin sẵn có. Tuy nhiên trường hợp này khá hiếm trong thực tế vì thông thường các thông tin thu được là không đầy đủ và người nghiên cứu chỉ có được những thông tin mang tính bao quát. Vì vậth, để xử lý chính xác thông tin thì Công ty có thể sử dụng các phương pháp như phương pháp chọn mẫu khách hàng, phương pháp thống kê phân tích thị trường, phương pháp chuyên gia, các phương pháp thống kê...
* Phân định rõ lại chức năng và nhiệm vụ giữa phòng kinh doanh xuất nhập khẩu và phòng kế hoạch thị trường cũng như các thành viên trong phòng kế hoạch thị trường.
Như trên đã phân tích chủ trương của Công ty là thực hiện giao khoán tự tìm khách hàng, nguồn hàng tới từng phòng kinh doanh xuất nhập khẩu. Vì vậy, phòng kinh doanh xuất nhập khẩu cũng phải tiến hành các hoạt động nghiên cứu thị trường như phòng kế hoạch thị trường. Bên cạnh đó phòng kế hoạch thị trường sau khi trình lên ban giám đốc các kết quả nghiên cứu thị trường sau đó ban giám đốc mới phân tới các phòng kinh doanh xuất nhập khẩu, điều này vừa làm tốn thời gian là mất cơ hội kinh doanh. Công ty có thể phân định lại rõ như sau:
+ Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu và phòng kế hoạch thị trường sẽ liên hệ trực tiếp với nhau trong các thương vụ, kế hoạch xuất nhập khẩu. Còn chiến lược nhập khẩu cho cả một giai đoạn, một kỳ kinh doanh cả hai phòng sẽ trao đổi và trình lên ban giám đốc phê duyệt.
+ Trong phòng kế hoạch thị trường có thể phân ra một bộ phận làm công tác nghiên cứu thị trường trong nước, một bộ phận nghiên cứu thị trường nước ngoài để các cá nhân có trình độ chuyên môn hoá cao. Chức năng và nhiệm cụ của từng bộ phận sẽ do trưởng phòng kế hoạch thị trường phân định sau khi được sự thông qua của ban giám đốc.
2. Hoàn thiện công tác xây dựng kế hoạch, chiến lược nhập khẩu
Khi tiến hành xây dựng kế hoạch chiến lược nhập khẩu cho một mặt hàng cụ thể trưởng phòng kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ cùng với phòng kế hoạch thị trường phương án kinh doanh và đồng thời kiểm tra tính khả thi của chúng. Các phương án kinh doanh cho từng thương vụ sẽ do trưởng phòng kinh doanh xuất nhập khẩu và trưởng phòng kế hoạch thị trường xét duyệt, chỉ có chiến lược kinh doanh xuất nhập khẩu cho cả một giai đoạn, một kỳ kinh doanh mang tính chất quan trọng, ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh của toàn Công ty sẽ phải trình lên ban giám đốc.
Trong các phương án kinh doanh ngoài những chỉ tiêu, các tính toán dự kiến về số lượng, giá cả, các chi phí, lợi nhuận, Công ty phải quy định rõ những người nào chịu trách nhiệm thực hiện thương vụ đó để tránh hiện tượng kết quả tốt thì có người nhận, kết quả kém thì trốn tránh.
3. Hoàn thiện công tác giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng.
Trong kinh doanh thương mại nói chung và trong kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng, quá trình đàm phán diễn ra hàng ngày. Tuy nhiên không phải bất cứ cuộc đàm phán nào cũng thành công bởi vì sự thành công của cuộc đàm phán phụ thuộc vào một số nhân tố: Sự lựa chọn hình thức đàm phán, thành phần tham gia đàm phán và quy trình của cuộc đàm phán.
Công ty nên lựa chọn hình thức đàm phán phù hợp với tính chất của hợp đồng nhập khẩu và phù hợp với mối quan hệ bạn hàng và đối tác để có thể đạt được những điều khoản có lợi cho mình trong hợp đồng. Nếu hợp đồng nhập khẩu không mấy phức tạp, giá trị nhập khẩu hàng hoá không lớn, đối tác là bạn hàng truyền thống hoặc đã từng có quan hệ bạn hàng thì công ty có thể sử dụng hình thức đàm phán qua thư tín. Còn nếu hợp đồng nhập khẩu có nhiều điều khoản phức tạp, giá trị hàng hoá lớn, hay đối tác là bạn hàng mới thì nên áp dụng phương pháp đàm phán trực tiếp. Hình thức này cho phép Công ty trực tiếp trao đổi, thoả thuận với đối tác về các điều khoản mua bán trong hợp đồng, việc ký kết hợp đồng diễn ra nhanh chóng hơn, tận dụng được các ưu đãi trong thanh toán. Trong hình thức đàm phán trực tiếp cần chú ý:
+ Với đối tác giao dịch lần đầu thì khi bước vào cuộc đàm phán, Công ty phải nắm vững những thông tin liên quan đến họ. Điều đó sẽ mang lại thuận lợi trong cuộc đàm phán vì sự hiểu bạn hàng sẽ giúp Công ty luôn chủ động và chứng tỏ rằng Công ty đã có bề dày kinh nghiệm trên thị trường thế giới.
Sách lược chung trong đàm phán là phải giấu kín suy nghĩ của mình đồng thời phải tìm mọi cách thăm dò suy nghĩ, tâm lý của đối phương, phải biết quan sát thái độ của họ để có thể nắm bắt được điểm chết, từ đó dẫn đến dành quyền chủ động để dẫn tới thoả thuận những điều khoản có lợi cho mình.
Phải biết tạo ra sự cạnh tranh cho đối phương: cho đối phương biết họ không phải là đối tác duy nhất của Công ty.
Tránh thoả thuận nhanh: thỏa thuận quá nhanh sẽ không đủ thời gian để nắm bắt toàn bộ vấn đề xung quanh cuộc đàm phán. Tuy nhiên, trong trường hợp nhận thấy đối phương đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng thì thoả thuận nhanh chóng để có thể đem lại sự thành công bất ngờ cho Công ty.
+ Việc đàm phán phải đi tới thống nhất, đảm bảo được lợi ích cho cả hai bên và phải tuân thủ theo đúng các chính sách, luật pháp của các nước tham gia hợp đồng.
Để cuộc đàm phán, ký kết hợp đồng thành công, hứa hẹn một hiệu quả kinh doanh cao, Công ty nên lựa chọn đội ngũ những người tham gia đàm phán trên cơ sở những đánh giá sau: Có trình độ ngoại ngữ, có khả năng nắm bắt được tình hình một cách nhanh nhạy để có thể giải quyết được những khúc mắc trong khi đàm phán, có trình độ nghiệp vụ đàm phán, kỹ thuật chuyên ngành và nắm chắc các quy tắc trong đàm phán, các điều luật có liên quan đến luật pháp Việt Nam và luật của các nước đối tác. Người chịu trách nhiệm đàm phán phải có sự chuẩn bị đầy đủ các chi tiết về các điều khoản thoả thuận, có thông tin chính xác về đối phương và các phương án lựa chọn khác để sử dụng trong đàm phán.
Với hình thức đàm phán qua thư công ty nên áp dụng ba bước như sau:
Bước 1: Công ty chủ động dự thảo hợp đồng bằng văn bản và ký (2 hoặc 4 bản) sau đó fax cho phía đối tác nước ngoài.
Bước 2: Bên phía đối tác nước ngoài sau khi nhận bản fax hợp đồng thì xem xét, đánh giá , sửa đổi hoặc thống nhất với hợp đồng.
Bước 3: Nếu bên nước ngoài đồng ý với các điều khoản trong hợp đồng thì sẽ gửi lại xác nhận cho Công ty hợp đồng đã có chữ ký của họ. Nếu không đồng ý thì Công ty cần chủ động goi điện, thư từ, fax hoặc gặp gỡ trực tiếp để đi đến thỏa thuận thống nhất các điều kiện.
4. Hoàn thiện công tác thực hiện hợp đồng
Trong công tác thực hiện hợp đồng nhập khẩu, Công ty còn một số tồn tại trong khâu giao nhận và kiểm tra hàng hoá nhập khẩu và thanh toán hợp đồng. Để đạt kết quả cao hơn trong thời gian tới công ty của công tác thực hiện hợp đồng Công ty có thể áp dụng các biện pháp sau:
Trong khâu giao nhận và kiểm tra hàng hoá nhập khẩu .
+ Để rút ngắn thời gian làm thủ tục hải quan, tránh các rắc rối có thể xảy ra khi hiệu quả kiểm tra hàng hoá cần phải chuẩn bị các giấy tờ hợp lệ, sắp xếp hàng hoá có trật tự, thuận tiện cho việc kiểm tra của hải quan.
+ Đối với những hàng hoá đòi hỏi sự kiểm tra chất lượng mà với năng lực chuyên môn của cán bộ công nhân viên phu trách không đáp ứng được như việc kiểm tra các máy móc thiết bị, các nguyên liệu hoá chất có phù hợp với đúng yêu cầu trong hợp đồng nhập khẩu hay không Công ty nên thuê một công ty chuyên trách về lĩnh vực này, để đảm bảo nhập khẩu được mặt hàng phù hợp với yêu cầu của công ty . Khi hàng hoá kiểm tra không đúng như các điều khoản trong hợp đồng thì cần giữ nguyên hiện trạng và lập biên bản giám định để giữ cho đối tác đòi khiếu nại và bồi thường thoả đáng.
+ Kế hoạch giao nhận vận chuyển của Công ty phụ thuộc vào phương thức kinh doanh nhập khẩu phụ thuộc vào đơn đặt hàng của khách hàng nội địa. Trên cơ sở đó, Công ty sẽ quyết định xem sau khi nhận hàng tại cảng sẽ tiếp tục giao hàng cho khách tại đâu, như thế nào. Nếu giao hàng tại kho của mình, Công ty lựa chọn xem nên thuê loại phương tiện nào vận chuyển cho phù hợp với chi phí tiết kiệm nhất. Nói chung, Công ty có thể giao hàng cho khách hàng trong nước ngay tại cảng, tại cửa khẩu, ga sau khi đã hoàn thành các thủ tục hải quan để hàng hoá được giải phóng nhanh chóng. Trong hợp đồng nội cũng như hợp ngoại, Công ty phải có quy định chặt chẽ các điều khoản có liên quan đến giao hàng, nhận hàng, vận chuyển để tránh tình trạng hiểu lầm, tranh chấp dẫn đến chậm trễ trong giao nhận, vận chuyển hàng hoá, tổn thất trong kinh doanh.
+ Đối với việc thanh toán
Như trên đã phân tích, khó khăn lớn nhất trong khâu thanh toán của công ty là do thiếu vốn kinh doanh. Công ty có thể áp dụng các giải pháp để giải quyết thiếu vốn kinh doanh như sau:
+ Quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn, thu chi để đảm bảo thúc đẩy các hoạt động kinh doanh có số vốn lớn. Công tác kế toán phải hoàn thành tốt các nghĩa vụ, tổng hợp các kết quả kinh doanh, lập báo cáo kế hoạch.
+ Huy động vốn từ lợi nhuận để lại, các khoản tiền mặt tạm thời chưa sử dụng như quỹ khấu hao, quỹ tiền lương chưa đến kỳ thanh toán... Ghi chép, phản ánh chính xác kịp thời và có diễn biến của các nguồn vốn cung cấp, vốn vay, giải quyết các loại vốn phục vụ cho việc nhập khẩu. Theo dõi chặt chẽ công nợ, phản ánh và đề xuất các kế hoạch thu chi tiền mặt và các hình thức thanh toán khác. Quán triệt nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả từng khoản mục nhỏ nhất trong từng nhiệm vụ cụ thể.
+ Thực hiện liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Với hình thức này Công ty vừa tận dụng được vốn của đối tác, vừa chia sẻ được rủi ro. Đây cũng là xu hướng chung được rất nhiều công ty áp dụng.
+ Huy động vốn từ các cán bộ công nhân viên trong Công ty. Hình thức này vừa tạo được vốn, vừa khuyến khích can bộ công nhân viên phát huy hết năng lực của mình.
+ Tận dụng vốn từ các bạn hàng thông qua thanh toán trả chậm khi nhập hàng và xin ứng vốn trước khi xuất hàng. Dùng phương thức tín dụng hàng hoá bằng cách xây dựng mối quan hệ tốt đẹp và bền vững với bạn hàng. Biện pháp này đòi hỏi công ty phải có uy tín cao, nguồn hàng ổn định và chất lượng tốt.
+ Xây dựng các mối quan hệ với Ngân hàng tốt hơn, tạo lập và duy trì niềm tin của các Ngân hàng với công ty bằng các hoạt động cụ thể và thiết thực như trả lãi vay Ngân hàng đúng hạn, cung cấp những thông tin lành mạnh về tình hình tài chính của mình. Tranh thủ huy động khai thác các nguồn vốn vay dài hạn và trung hạn, trong nước và ngoài nước, thúc đẩy hoạt động kinh doanh tạo dựng uy tín với các tổ chức tín dụng để dễ dàng vay được vốn.
5. Giải pháp về mặt hàng nhập khẩu.
* Công ty cần xác định mặt hàng nhập khẩu chủ lực
Như trên đã phân tích, chủ trương của công ty là củng cố và phát triển hoạt động nhập khẩu, đáp ứng mọi nhu cầu về nhập khẩu nếu công ty có khả năng. Tuy nhiên từ thực trạng của hoạt động kinh doanh nhập khẩu thời gian qua, Công ty cần thiết phải xác định được mặt hàng nhập khẩu của lực. Trong các mặt hàng nhập khẩu thì mặt hàng điện tử gia dụng chiếm trung bình khoảng 27% tổng kim ngạch nhập khẩu, hoá chất 10%, vật tư 18%. Như vậy, trong thời gian tới cần tập trung vào nhập khẩu mặt hàng máy móc thiết bị, vật tư sản xuất và giảm dần kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng điện tử gia dụng. Sở dĩ như vậy là vì:
+ Chủ trương của nhà nước là khuyến khích nhập khẩu nhóm hàng máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất nên thủ tục nhập khẩu sẽ được ưu đãi hơn.
+ Nhu cầu về nhóm khách hàng thiết bị máy móc, vật tư sản xuất sẽ tăng lên do hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sinh hoạt và sản xuất sẽ gia tăng mạnh trong thời gian tới.
+ Nhu cầu các mặt hàng điện tử gia dụng trong nước đã bão hoà do số lượng các công ty sản xuất trong nước về nhóm mặt hàng này ngày càng nhiều.
+ Doanh nghiệp xác định được mặt hàng nhập khẩu chủ lực sẽ tập trung được nhiều vốn, nhân lực hơn đem lại hiệu quả cao hơn.
* Đa dạng hoá các mặt hàng nhập khẩu trực tiếp.
Công ty có các cửa hàng kinh doanh có trụ sở tại 142 phố Huế với diện tích khoảng 500 m2 và mặt tiền khoảng 25m rất thuận lợi cho việc kinh doanh, bán hàng nhập khẩu.. Trong thời gian tới, bên cạnh việc giảm tỷ trọng nhập khẩu các mặt hàng điện tử gia dụng công ty có thể nhập khẩu cá mặt hàng khác thay đổi tuỳ thuộc vào nhu cầu thị trường trong nước. Hiện nay thu nhập của người dân thành thị khá cao, mặt hàng kinh doanh không những đòi hỏi chất lượng mà mẫu mã, bao bì phải hấp dẫn. Vì vậy khi nhập khẩu các mặt hàng kinh doanh tiêu thụ công ty cần chú ý đến những điểm sau:
+ Tiến hành nhập khẩu các loại hàng hoá có nhãn hiệu nổi tiếng mà người tiêu dùng đã biết tiếng nhằm khai thác sự tín nhiệm của người tiêu dùng
+ Nhập khẩu các mặt hàng có xuất xứ rõ ràng, đa dạng về kiểu dáng, chủng loại, mầu sắc..
+ Mở rộng thêm mạng lưới tiêu thụ hàng hoá trong nước bằng việc đặt các chi nhánh ở các tỉnh.
+ Sửa chữa và xây dựng mới hệ thống các cửa hàng nhằm tạo lập lòng tin từ khách hàng
+ Tạo lập được mối quan hệ trực tiếp giữa các cửa hàng kinh doanh với bộ phận nghiên cứu thị trường trong nước của phòng kế hoạch thị trường, trong đó biện pháp nghiên cứu thị trường trong nước ngoài việc xác định mặt hàng nhập khẩu trực tiếp tiêu thụ, sẽ đưa ra những biện pháp nhằm thúc đẩy các hoạt động tiêu thụ hàng hoá một cách tốt nhất cho các cửa hàng, các cửa hàng sẽ nhận những chủ trương, những biện pháp của bộ phận nghiên cứu thị trường để thực hiện, đồng thời cũng đưa ra nhận xét, thông tin trong quá trình tiếp xúc với khách hàng để đưa ra điều chỉnh hợp lý nhất trong việc nâng cao hiệu quả bán hàng
6. Giải pháp về thị trường nhập khẩu
Công ty nên đa dạng hoá các thị trường nhập khẩu vì những lý do sau:
+ Chủ trương của Công ty là củng cố và duy trì các thị trường nhập khẩu, tuy nhiên việc đa dạng hoá hơn nữa các thị trường nhập khẩu sẽ giúp Công ty có lợi thế hơn trong việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu cũng như chất lượng và giá hàng hoá nhập khẩu.
+ Công ty có giao dịch với trên 30 nước trên thế giới, song chỉ tập trung ở các nước trong khu vực là chủ yếu. Tuy có lợi thế là tạo lập được uy thế của mình khi Việt Nam chính thức tham gia vào AFTA nhưng khi xảy ra biến cố về chính trị hay thể chế kinh tế như chiến tranh, khủng hoảng… sẽ gây ra ảnh hưởng lớn cho hoạt động nhập khẩu. Công ty có thể thăm dò một số thị trường ở khu vực khác như Bắc Mỹ, Châu Phi vừa tìm đối tác kinh doanh vừa tìm thị trường xuất khẩu và giảm được rủi ro khi có biến cố xảy ra.
7. Giải pháp về hình thức nhập khẩu
Công ty mới chỉ có 2 hình thức nhập khẩu là nhập khẩu trực tiếp và nhập
khẩu theo đơn đặt hàng. Trong thời gian tới có thể đa dạng hoá các hình thức nhập khẩu để giúp Công ty chủ động và thu được nhiều lợi nhuận cũng như phân bố rủi ro trong nhập khẩu tốt hơn.
8. Một số giải pháp khác
Để hoạt động nhập khẩu được hoàn thiện hơn Công ty vẫn chủ trương đào tạo và phát triển đội ngũ nhân lực phục vụ cho hoạt động nhập khẩu . Mặt khác công ty nên thực hiện một số giải pháp sau:
+ Quy định rõ chế độ khen thưởng và xử phạt: Công ty nên quy định mức độ khen thưởng và phạt phải nghiêm minh, thích đáng. Có vậy mới vừa phát huy được tính năng động sáng tạo vừa nâng cao được tinh thần trách nhiệm của cán bộ công nhân viên.
+ Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, nắm bắt tốt tình hình diễn biến tư tưởng của bán bộ công nhân viên để có biện pháp khắc phục kịp thời. Tổ chức và thực hiện tốt các phong trào thi đua như phong trào thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng.
+ Tham gia các hội chợ triển lãm, các hội thảo khoa học chuyên ngành..
III. Kiến nghị đối với Nhà nước
Bên cạnh sự cố gắng nỗ lực của Công ty trong việc đẩy mạnh các hoạt động xuất nhập khẩu, để đạt những hiệu quả nhất định thì đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình kinh doanh nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng là Nhà nước tạo ra hành lang pháp lý hoàn thiện và môi trường cạnh tranh lành mạnh cụ thể là:
1. Hoàn thiện hệ thống thuế
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện nay là 32% trong khi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 25% cùng với rất nhiều ưu đãi khác nên thuế của họ có thể giảm xuống tới còn 20 – 15 %, thậm chí còn 10%. Vì vậy các doanh nghiệp trong nước còn thấy có sự phân biệt đối xử, chưa công bằng. Trong thời gian tới Nhà nước nên cùng áp dụng mức thuế thu nhập doanh nghiệp đối với toàn bộ các doanh nghiệp.
+ Xem xét lại mức thuế đối với doanh nghiệp thực sự sử dụng tiền từ lợi nhuận sau thuế để đầu tư, tái đầu tư theo hướng mở rộng sản xuất, nâng cao công nghệ, thay đổi, cải tiến kỹ thuật... Nhà nước nên hỗ trợ bằng cách giảm thuế gọi là khoản đầu tư chính đáng để doanh nghiệp phát triển sản xuất. Các doanh nghiệp muốn được giảm thuế theo khoản này phải có những đề án, những khoản thu chi rõ ràng chứng minh dùng lợi nhuận để lại để đầu tư, tái đầu tư.
2. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý và cải cách thủ tục hành chính.
Mặc dù thời gian qua nhà nước không ngừng hoàn thiện môi trường pháp lý như việc áp dụng luật doanh nghiệp thay luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân kể từ ngày 1/1/2000, xoá bỏ giấy phép xuất khẩu ...Nhưng hiện nay các doanh nghiệp đang gặp nhiều lúng túng trong việc triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho đúng đường hợp lối với các quyết định của Nhà nước bởi không chỉ nội dung của luật mà ngay cả các văn bản hướng dẫn thi hành còn rất nhiều vấn đề bất cập mâu thuẫn.
3. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc, tài chính ngân hàng để phục vụ tốt cho hoạt động kinh doanh. Đặc biệt Nhà nước nên đầu tư phát triển hệ thống tàu biển ,bến bãi, phương tiện bốc dỡ để các doanh nghiệp Việt Nam giành được thế chủ động trong việc đàm phán và kí kết các hợp đồng ngoại thương.
4. Hỗ trợ về vốn:
Đối với các doanh nghiệp khi tham gia vào kinh doanh quốc tế thì đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn, nhất là với doanh nghiêp nhập khẩu là chủ yếu. Hiện nay vốn ngân sách cấp chiếm tỷ trọng rất nhỏ các doanh nghiệp nhà nước cũng như các doanh nghiệp tư nhân nguồn vốn kinh doanh chủ yếu là vay Ngân hàng. Vì vậy Nhà nước nên thay đổi cơ chế cho vay tại các ngân hàng theo hướng đơn giản hoá các thủ tục, giảm lãi suất cho vay để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu.
Nên thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, hỗ trợ và khuyến khích lập quỹ bảo hiểm nhập khẩu, quỹ hỗ trợ nhập khẩu.
5. Hỗ trợ về thông tin:
Các doanh nghiệp ở nước ta nhìn chung là “đói thông tin” về thị truờng xuất nhập khẩu, vì vậy Nhà nước cần hổ trợ cho các doanh nghiệp trong việc xử lý thu thập thông tin về thị trường xuất nhập khẩu, giúp các doanh nghiệp đề ra phương án kinh doanh có hiệu quả cụ thể là:
* Nhà nước nên tổ chức cung cấp định kỳ hàng năm, hàng quý các ấn phẩm thị trường hàng hoá thế giới cho các doanh nghiệp về sức mua, nhu cầu tiêu thụ, các mặt hàng đang được khách hàng quốc tế ưa chuộng, giá cả..
* Nhà nước nên tạo lập kênh thông tin thương mại thông suốt từ thường vụ Việt Nam ở nước ngoài, Bộ thương mại đến các Sở thương mại và các doanh nghiệp. Nhà nước có thể mở các văn phòng tư vấn cho doanh nghiệp.
6. Kiểm soát chặt chẽ và xử phạt nghiêm minh đối với hành vi buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả, tham ô, tham nhũng… đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, kích thích các doanh nghiệp yên tâm sản xuất.
Kết luận
Nhập khẩu là một hoạt động kinh doanh không thể thiếu được đối với nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế như ngày nay thì một doanh nghiệp muốn đứng vững được trên thị trường và vươn lên chiến thắng cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng hoàn thiện tất cả các hoạt động kinh doanh của mình một cách tốt nhất. Có vậy doanh nghiệp mới có thể thực hiện được tiếp các mục tiêu và chiến lược kinh doanh khác.
Với những kết quả kinh doanh mànawCông ty thương mại xuất nhập khẩu Hà Nội đã đạt được trong hoạt động nhập khẩu thời gian qua mới chỉ là bước khởi đầu xong nó đã chứng tỏ Công ty đang trên đà phát triển, có rất nhiều triển vọng trong việc đạt được hiệu quả cao hơn nữa trong hoạt động nhập khẩu. Trong thời gian tới, Công ty còn phải cố gắng nhiều hơn nữa để đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu, góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước.
Qua quá trình thực tập tại công ty thương mại xuất nhập khẩu Hà Nội, tôi đã tập trung nghiên cứu hoạt động nhập khẩu của Công ty. Kết hợp những kiến thức đã được học cùng với thực tế, học hỏi kinh nghiệm của các cán bộ nghiệp vụ tôi đã đưa ra một số giải pháp cũng như kiến nghị đối với công ty và Nhà nước. Tuy nhiên, do thời gian và trình độ của bản thân còn nhiều hạn chế, nên những phân tích đánh giá, kiến nghị chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi hy vọng phần nào giúp Công ty khảo sát, tìm ra những giải pháp tối ưu nhằm mục đích duy nhất là hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty.
Danh mục Tài liệu tham khảo
Đặng Xuân Xuyến: Thị trường và doanh nghiệp - NXB Thống kê, năm 1995.
Vũ Hữu Tửu: Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương - NXB Giáo dục, năm 1998.
PTS. Nguyễn Cao Văn: Marketing Quốc tế - NXB Giáo dục, năm 1997.
PTS. Nguyễn Duy Bột: Thương mại quốc tế - NXB Thống Kê, năm 1997.
PTS. Nguyễn Thị Hường: Kinh doanh quốc tế - NXB Giáo dục, năm 2002.
Ts. Mai Văn Bưu, Ts. Phan Kim Chiến: Lý thuyết quản trị kinh doanh - NXB Khoa học và Kỹ thuật, năm 2000.
Niên giám thống kê- NXB Thống kê, năm 2001, năm 2002, năm 2003.
Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 34/2000, số 16/2002, số 10/2002, số 3/2003, số 27/2003.
Tình hình kinh tế xã hội năm 2002 của Thổng Cục Thống Kê.
Báo cáo kết quả kinh doanh các năm 1999, 2000, 2001, 2002.
Mục lục
Lời cam đoan 1
Lời cảm ơn 2
Lời nói đầu 3
Chương I: Những vấn đề chung về nhập khẩu hàng hoá 5
I. Khái niệm, chức năng và vai trò của nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân 5
1. Khái niệm nhập khẩu 5
2. Chức năng của nhập khẩu 6
3. Vai trò của nhập khẩu 7
II. Các hình thức của hoạt động nhập khẩu 11
1. Hình thức nhập khẩu trực tiếp ( nhập khẩu tự doanh) 11
2. Nhập khẩu uỷ thác 12
3. Hình thức nhập khẩu liên doanh 14
4. Hình thức nhập khẩu đổi hàng 15
5. Hình thức nhập khẩu tái xuất 15
6. Hình thức nhập khẩu theo đơn đặt hàng 16
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hợp đồng nhập khẩu hàng hoá 17
1. Các nhân tố vĩ mô 17
2. Các nhân tố vi mô 19
IV. Nội dung của hoạt động nhập khẩu 20
1. Nghiên cứu thị trường 20
2.Xây dựng phương án kinh doanh 28
3. Giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu 29
4. Tổ chức thực hiện hợp đồng 34
Chương II: thực trạng hoạt động nhập khẩu tại công ty thương mại xuất nhập khẩu hà nội 37
I. Quá trình hình thành phát triển của Công ty thương mại Xuất nhập khẩu Hà Nội 37
1. Quá trình hình thành và phát triển 37
2. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu bộ máy quản lý của công ty 39
3. Những đặc điểm kinh tế kỹ thuật của công ty 45
II. Thực trạng hoạt động nhập khẩu tại Công ty thương mại Xuất nhập khẩu Hà Nội 49
1. Tình hình nhập khẩu ở công ty 49
2. Đánh giá hoạt động của công ty 62
chương III: những giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở công ty thương mại xuất nhập khẩu hà nội 67
I. Phương hướng hoạt động nhập khẩu của Công ty 67
1. Phương hướng của Việt Nam đối với hoạt động nhập khẩu 67
2. Phương hướng đối với hoạt động nhập khẩu của công ty 70
II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở công ty Thương mại Xuất nhập khẩu Hà Nội 72
1. Hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường 72
2. Hoàn thiện công tác xây dựng kế hoạch chiến lược nhập khẩu 77
3. Hoàn thiện công tác giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng 77
4. Hoàn thiện công tác thực hiện hợp đồng 79
5. Giải pháp về mặt hàng nhập khẩu 81
6 Giải pháp về thị trường nhập khẩu 83
7. Giải pháp về hình thức nhập khẩu 84
8. Một số giải pháp khác 84
III. Kiến nghị đối với Nhà nước 84
1. Hoàn thiện hệ thống thuế 84
2. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý và cải cách thủ tục hành chính 85
3. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng 85
4. Hỗ trợ về vốn 85
5. Hỗ trợ về thông tin 86
6 Kiểm tra chặt chẽ và xử lý nghiêm minh 86
Kết luận 87
Danh Mục các bảng biểu
1. Sơ đồ 1: Nội dung của hoạt động nhập khẩu 17
2. Sơ đồ 2: Tổ chức thực hiện hợp đồng 31
3. Sơ đồ 3: Bộ máy quản lý của công ty 42
4. Sơ đồ 4: Sơ đồ vận động của àng hoá nhập khẩu 58
5. Biểu đồ 1: Kim ngạch nhập khẩu của công ty 51
6. Biểu đồ 2: Tình hình thực hiện kế hoạch nhập khẩu của công ty 53
7. Bảng 1: Cơ cấu lao động của công ty 46
8. Bảng 2: Thu nhập của nhân viên công ty qua các năm 48
9. Bảng 3: Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của công ty qua các năm 1998 và 2002 48
10. Bảng 4: Tình hình công nghệ và thiết bị của công ty năm 2002 49
11. Bảng 5: Kim ngạch nhập khẩu của công ty 50
12. Bảng 6: Tình hình thực hiện kế hoạch nhập khẩu của công ty 53
13. Bảng 7: Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của công ty 1999 đến 2002 55
14. Bảng 8: Thị trường nhập khẩu của công ty 59
15. Bảng 9: Những hình thức nhập khẩu của công ty trong giai đoạn 1999 đến 2002 60
16. Bảng 10: Kết quả hoạt động nhập khẩu của công ty từ năm 1999 đến năm 2002 61
17. Bảng 11: Cơ cấu doanh thu của công ty từ 1999 - 2002 62
18. Bảng 12: Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1998 - 2002 68
Giám đốc
Sơ đồ bộ máy quản lý của Công ty
Phó giám đốc 2
Phó giám đốc 1
Các cửa hàng
Phòng kinh doanh
phòng kế hoạch
Phòng kế toán tài vụ
Phòng tổ chức hành chính
Cửa hàng 272 Bạch Mai
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31518.doc