Thực trạng và giải pháp nhằm giảm thiểu chênh lệch vùng tại Việt Nam

Tài liệu Thực trạng và giải pháp nhằm giảm thiểu chênh lệch vùng tại Việt Nam: MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình vận động và phát triển của các vùng lãnh thổ, có những vùng phát triển nhanh hơn và có những vùng phát triển mạnh hơn, nảy sinh một vấn đề mang tính xã hội sâu sắc và gay cấn, đó là chênh lệch phát triển giữa các vùng, hay gọi tắt là chênh lệch vùng. Chênh lệch vùng là hiện tượng khách quan và là một trong nhiều vấn đề( trên phương diện tổ chức và quản lý kinh tế- xã hội lãnh thổ) mà nhiều quốc gia trên thế giới luôn phải đối mặt và tốn nhiều công sức để khắ... Ebook Thực trạng và giải pháp nhằm giảm thiểu chênh lệch vùng tại Việt Nam

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2558 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nhằm giảm thiểu chênh lệch vùng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c phục mặt tiêu cực của chênh lệch vùng. Cũng như nhiều quốc gia trong khu vực ASEAN và các nước khác, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với việc giải quyết chênh lệch vùng. Chênh lệch này thấy rõ giữa các vùng phát triển và vùng chậm phát triển, giữa khu vực đô thị và khu vực nông thôn, giữa các tỉnh và ngay trong nội bộ từng tỉnh. Chẳng hạn như khu vực đô thị chỉ chiếm 25,8% dân số song lại đóng góp tới 53,6% GDP cả nước, ngược lại khu vực nông thôn với 74,2% dân số, nhưng chỉ làm ra 46,4% GDP. Các vùng phát triển của nước ta chỉ chiếm có 22,8% diện tích, 40% dân số song đóng góp tới 59,4% GDP cả nước. Chênh lệch thu nhập giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn tới 9,6 lần, giữa vùng phát triển và vùng chậm phát triển( vùng khó khăn) tới 1,8-2 lần. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trưong chính sách nhằm giảm thiểu sự chênh lệch giữa các vùng, nhất là giữa vùng phát triển và vùng khó khăn, giữa khu vực đô thị và khu vực nông thôn nhằm phát triển nền kinh tế theo hướng hài hòa, hợp lý và bền vững. Trên cơ sở những vấn đề lý luận và kinh nghiệm giải quyết chênh lệch vùng của một số quốc gia trên thế giới, phân tích đánh giá thực trạng chênh lệch vùng, từ đó chúng tôi đề xuất các giải pháp nhằm từng bước giảm thiểu chênh lệch về kinh tế giữa khu vực nông thôn và khu vực thành thị, giữa vùng phát triển và vùng khó khăn ở nước ta. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Quan niệm và bản chất của chênh lệch vùng. 1.1 Khái niệm và phân loại. a. Quan niệm . Chênh lệch vùng là sự chênh lệch về trình độ phát triển, mức sống dân cư, giữa các vùng được so sánh với nhau tại một thời điểm nhất định. Sự chênh lệch này được phản ánh cả về mặt lượng và chất của sự hơn kém. Đơn vị đo bằng lần hoặc %. b. Phân loại. Xét về khía cạnh kinh tế có hai loại hình mất cân bằng( chênh lệch vùng): - Sự chênh lệch về thu nhập và mức sống. - Sự mất cân bằng về phân bố dân cư và phân bố các hoạt động kinh tế. 1.2. Bản chất và nguyên nhân. a. Bản chất Bản chất của chênh lệch vùng là chênh lệch về trình độ phát triển và chênh lệch về mức sống. Sự chênh lệch này có thể diễn ra ngay trong nội bộ từng tỉnh, chênh lệch giữa các tỉnh và giữa các vùng. Chênh lệch giữa các vùng xảy ra giữa vùng phát triển và vùng chậm phát triển, giữa vùng duyên hải và vùng nội địa, giữa đô thị và nông thôn… Sự chênh lệch về trình độ phát triển được thể hiện qua chênh lệch về tốc độ phát triển, trình độ công nghệ. Những vùng có mật độ dân cư đông đúc và trình độ công nghiệp hóa càng cao thì quy mô hoạt động kinh tế của chúng càng lớn, và ngược lại, những vùng có mật độ dân cư thưa thớt và trình độ công nghiệp hóa thấp thì quy mô hoạt động kinh tế của chúng càng nhỏ. Chênh lệch về trình độ phát triển được thể hiện thông qua cơ cấu kinh tế lãnh thổ vùng. Cơ cấu kinh tế vùng phản ánh việc khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có cũng như mức thu nhập của người dân vùng đó. Những vùng có dân cư thưa thớt và thu nhập thấp thường chỉ có các ngành sản xuất chủ yếu dựa vào kahi thác tài nguyên thiên nhiên, với phát triển nông nghiệp là chủ yếu,sản xuất theo kiểu tự cung tự cấp, sản phẩm hàng hóa không nhiều. Những vùng có thu nhập cao, nguồn nhân lực dồi dàovới kỹ năng chuyên môn cao, có lợi thế về vị trí địa lý và phát triển kết cấu hạ tầng( sân bay, cảng biển,đường giao thông) tương xứng với nguồn tài nguyên,… thường mạnh về công nghiệp chế tác. b. Nguyên nhân Theo quan điểm hệ thống, vùng là một hệ thống, mà trong đó do có sự khác biệt về các yếu tố phát triển sẽ không có sự phát triển đồng đều ở tất cả các lãnh thổ trong cùng thời gian. Trong một vùng có thể xảy ra xu hướng phát triển kinh tế- xã hội mạnh ở nơi này nhưng lại phát triển chậm hơn ở nơi kia, thậm chí có nơi lâm vào tinh trạng kém phát triển hoặc trì trệ. Chính vì xu thế này đã đưa đến sự phát triển không cân đối về mặt kinh tế- xã hội giữa các vùng hợac giữa các lãnh thổ trong một vùng lớn, nghĩa là trình độ phát triển kinh tế- xã hội của các vùng đạt được sẽ khác nhau. Vì thế, sự chênh lệch giữa các vùng tồn tại như môt tất yếu. Chênh lệch vùng về mức sống được thể hiện qua chênh lệch về thu nhập, về chi tiêu và mức thụ hưởng văn hóa, tinh thần và các chỉ tiêu xã hội khác. Do điều kiện về tự nhiên, đất đai, khí hậu, nguồn nước và lịch sử phát triển kinh tế mà sự phân vố dân cư trên các vùng khác nhau; khác nhau về mật độ dân số, cơ cấu dân số, trình độ lao động, về đặc điểm văn hóa , phong tục tập quán sinh họat và sản xuất, xã hội. Tỷ lệ lao động nam và nữ, cơ cấu lao động theo lứa tuổi khác nhau cũng ảnh hưởng nhiều tới chi phí lao động. Thêm vào đó là những chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế. Tất cả những điều đó đều là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự chênh lệch năng suất lao động và mức sống giữa các vùng. Đối với những vùng đồ thị hoặc đồng bằng có lịch sử phát triển kinh tế lâu đời, nơi tập trung nhiều lao động có tay nghề cao là điều kiện để phân bố những ngành đòi hỏi lao động có kỹ năng, kỹ xảo và ở đó tạo ranhững sản phẩm đóng góp nhiều cho quốc gia và thu nhập cao hơn. Ngược lại, ở những vùng trung du miền núi là nơi khó khăn, tập trung ít lực lượng lao động có kỹ thuật nên năng suất lao động, thu nhập, hiệu quả kinh tế trong nhiều trừơng hợp thương thấp hơn so với các vùng phát triển và đô thị. Tóm lại có thể khái quát lại những nguyên nhân chính dẫn đến sự chênh lệch phát triển vùng ở những nội dung sau: - Thứ nhất, sự phân bố các nguồn lực tự nhiên và nguồn lực nhân đạo: những tài nguyên thiên nhiên như dầu lửa, than đá, đất đai, nguồn nước,… là những nhân tố thuận lợi cho sự phát triển kinh tế. Sự phân bố các tài nguyên này không đồng đều. Ở những khu vực được thiên nhiên ưu đãi thì kinh tế và đời sống của người dân tốt hơn rất nhiều. Tuy nhiên, cần nhận thức một vấn đề là nguồn lực tài nguyên sẽ cạn dần và không tái tạo được. Sự phân bố nguồn lực nhân tạo có vai trò hơn trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế vùng. - Thứ hai, những khó khăn trong việc điều chỉnh lao động: sự phát triển kinh tế không thể tách rời nhân tố lao động. Có thể nói lao động là yếu tố quan trọng nhất của quá trình hoạt động kinh tế. Muốn có sự phát triển đồng đều giữa các vùng lãnh thổ thì phải có sự phân bố đồng đều lực lượng lao động. trong nền kinh tế thị trường thị nền kinh tế lao động cũng được điều tiết theo cơ chế thị trường. Xét về mặt lý thuyết, để lấy lại sự cân bằng về lao động, thu nhập sự phát triển kinh tế giữa các vùng thì có thể điều chỉnh lực lượng lao động bằng cách di dân. Nhưng trong thực tế, vấn đề di dân lại vấp phải các rào cản về: yếu tố khoảng cách, yếu tố tâm lý, yếu tố quan hệ, các yếu tố khác. Xu hướng di dân có đặc điểm là pgụ thuộc vào lứa tuổi. Mặc dù việc việc di cư và di chuyển lao động giúp cho việc lấy lại sự cân bằng về phát triển nhưng thực ra nó lại rất dễ gây ra một sự mất cân bằng khác. Vì lực lượng di cư chủ yếu ở lứa tuổi lao động sung sức, khỏe mạnh lại có trình độ học vấn cao hơn nên có thể nói rằng di cư đã làm mất đi lực lượng nòng cốt của địa phương này sang địa phương khác và như vậy lại tạo ra một sự mất cân bằng mới. - Thứ ba, về vấn đề vốn đầu tư: sự mất cân băng giữa các khu vực đô thị với khu vực nông thôn còn chịu ảnh hưởng mạnh của yếu tố vốn đầu tư. Muốn phát triển kinh tế cho một vùng lãnh thổ thì không thể không thu hút và huy động vốn. Các trung tâm tài chính thường đặt ở các khu vực đô thị. Với khoảng cách càng xa thì chi phí cho việc sử dụng vốn càng lớn và tính an toàn cho vốn càng kém hơn. Đây chính là những rào cản cho việc huy động và cung cấp vốn đầu tư cho phát triển các vùng xa. - Thứ tư, về thành tựu của sự đổi mới: những phát minh mới, kỹ thuật mới, công nghệ mới luôn là đông lực quan trọng nhất của sự phát triển. Nhưng những thành tựu mới này lại không xuất hiện và được đưa vào khai thác đồng đều giữa các vùng lãnh thổ mà nó thường xuất hiện trước ở các điểm trung tâm rồi dần dần mới lan truyền ra các vùng xung quanh theo dạng thẩm thấu. Do đó càng làm mất cân bằng cho sự phát triển. - Thứ năm, về quá trình phát triển lũy tích và mang tính chu kỳ: sự phát triển kinh tế luôn diễn ra theo cơ chế số nhân và có tính chu kỳ. - Thứ sáu, quan hệ giữa mất cân bằng với giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội. Mức độ cân bằng ở các nước là khác nhau và phụ thuộc rõ nét vào giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội. Ở các nứơc kém phát triển, mức độ mất cân bằng chưa lớn, ở các nước đang phát triển thi mức độ mất cân bằng rất cao, còn với các nước công nghiệp thì mức độ mất cân bằng giảm đi và đạt đến xu hướng đồng đều. 2. Hệ thống chỉ tiêu sử dụng để phân tích chênh lệch vùng 2.1 Nhóm chỉ tiêu về kinh tế- xã hội Nhóm chỉ tiêu về kinh tế: - Chênh lệch về tốc độ tăng trưởng GDP. - Chênh lệch về GDP/người. - Chênh lệch về thu nhập và chi tiêu bình quân đầu người. Nhóm chỉ tiêu về xã hội: - Chênh lệch về giáo dục, chăm sóc sức khỏe. - Chênh lệch về cơ hội việc làm(thông qua chỉ tiêu về tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở khu vực nông thôn). 2.2 Các công cụ đánh giá sự chênh lệch a. Dùng bảng biểu và bản đồ Qua công tác thống kê sẽ nắm được các số liệu về thu nhập, việc làm, mức sống…ở từng khu vực. Các số liệu này được trình bày trong các bảng biểu hoặc chuyển tải vào các bản đồ và sẽ là công cụ tốt để phân tích mức độ mất cân bằng giữa các vùng. b. Sử dụng đường cong Lorenzt. Đường cong Lorenzt được dùng phổ biến để đánh giá tình trạng mất cân bằng. Ví dụ để đánh giá mức độ mất cân bằng trong thu nhập của một quốc gia người ta vẽ đường cong lũy tích của thu nhập với dân số. Nếu không có sự mất cân bằng thì đồ thị thu nhập lũy tích sẽ là đường thẳng chéo 45*. Tuy nhiên, đường đồ thị này thường cong lõm xuống, và độ cong càng lớn thì chứng tỏ mức độ mất cân bằng càng cao. c. Sử dụng phương pháp chỉ số - Chỉ số Gini: Việc sử dụng đường cong Lorenzt cho phép quan sát được độ mất cân bằng chỉ số Gini bằng cách chia diện tích của vùng lõm so với đường chéo cho diện tích tam giác. Ở nước nào chỉ số này càng lớn thì mức độ mất cân bằng càng cao. - Chỉ số mức tập trung của ngành: chỉ số này đánh giá mức độ tập trung của một loại hình hoạt động kinh tế nào đó tại một vùng hay khu vực. Trong đó: ICij: chỉ số mức tập trung của ngành j trong khu vực i. Pij: số lao động của ngành j trong khu vực i. Pi: tổng số lao động của ngành trong khu vực. Pj: tổng số lao động của ngành j trong toàn quốc hoặc toàn vùng. P: tổng số lao động của các ngành trong toàn quốc hoặc vùng. - Chỉ số địa phương hóa( location quotient) Trong đó: Pij và Pj giải thích như trên. Mi: dân số của khu vực i. M: tổng số dân của cả nước hoặc vùng. 3. Sự cần thiết của việc nghiên cứu vấn đề chênh lệch vùng Nhịp độ tăng trưởng GDP ở các vùng khó khăn có xu hướng thấp hơn mức trung bình của cả nước, trong khi đó nhịp độ tăng trưởng dân số lạicao hơn mức trung bình của cả nước. Do đó, GDP/ người của các vùng này trong thời gian qua và chắc chắn trong thời gian tới sẽ tiếp tục có chiều hướng ngày càng dãn xa. Đây là điều rất đáng báo động, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có những chính sách điều chỉnh thích hợp mới giảm bớt được phần nào sự chênh lệch giữa các vùng. Chênh lệch vùng chứa đựng hai mặt của một vấn đề: mặt tiêu cực và mặt tích cực. Về mặt tiêu cực: ta biết rằng vùng nghèo thường là vùng hẻo lánh xa xôi, có khi giàu tiềm năng về tài nguyên nhưng lại kém phát triển về kinh tế, thu nhập của dân cư thấp do không được đầu tư. Ngược lại, những vùng có vị trí địa lý thuận lợi tuy tiềm năng tự nhiên không lớn nhưng giao thông thuận lợi và dân cư đông đúc lại là vùng phát triển. Sự chênh lệch đó tạo ra các dong di chuyển tài nguyên và lao động từ các vùng nghèo( vùng kém phát triển) ra các vùng giàu( vùng phát triển). Sự di chuyển đó hình thành nên hai không gian: không gian tích cực( được tập trung và có cả sức hút lẫn sức đẩy lớn) và không gian thụ động( không gian bị hút là chủ yếu). Điều đó dẫn đến sực chênh lệch về kinh tế, đời sống xã hội giữa các cộng đồng, tầng lớp dân cư giữa các vùng và có thể tạo ra sự xung đột gây hậu quả xã hội khó có thể đo lường được. Về mặt tích cực: xét theo khía cạnh khác, các quốc gia căn cứ vào thựuc trạng chênh lệch vùng để tìm cách khắc phục cũng như kích thích phát triển kinh tế của các chậm phát triển và từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn cho toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Các vùng phát triển kích thích quá trình đô thị hóa nhanh hơn và lan tỏa kinh tế đến các vùng chậm phát triển. Đồng thời tạo cơ hội cho người dântự điều tiết việc làm và thu nhập. HIỆN TRẠNG CHÊNH LỆCH VÙNG Ở VIỆT NAM 1. Chênh lệch vùng giữa đô thị và nông thôn. 1.1 Chênh lệch vùng giữa đô thị và nông thôn trên phạm vi cả nước Xét trên phạm vi cả nước, giữa khu vực đô thị và khu vực nông thôn có sự chênh lệch đáng kể về GDP và GDP/ người, về thu nhập và chi tiêu cũng như một số chỉ tiêu xã hội khác. 1.1.1. Chênh lệch về GDP và GDP/ người Do có sự khác biệt về mức độ phát triển kinh tế và kết cấu hạ tầng biểu hiện qua các thông số về mức độ tập trung các sơ sở sản xuất, mức tăng trưởng kinh tế cũng như về mức độ tập trung kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội giữa đô thị và nông thôn. Ở đô thị, tập trung nhiều đầu mối giao thông, có sẵn các điều kiện phát triển sản xuất, do đó các hoạt động kinh tế sôi động hơn, các hoạt động văn hóa- nghệ thuật cũng ở trình độ cao hơn so với khu vực nông thôn , đặc biệt là nông thôn miền núi, khó khăn, nơi có trình độ phát triển thấp hơn nên đãtạo ra những chênh lệch nhất đinh về kinh tế. Sự phát triển của khu vực nông thôn nói chung vẫn dựa vào cơ cấu sản xuất truyền thống, chưa tạo được tiềm lực cho phát triển lâu dài. Cơ cấu ngành nghề ở nông thôn mang nặng tính thuần nông nên không sử dụng hết lực lượng lao động sẵn có. Hai vùng sản xuất nông sản hàng hóa lớn là Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên có xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng lao động làm việc trong nông nghiệp: Đồng bằng sông Cửu Long từ 72,4% năm 1994 lên 78,8% năm 2003 và Tây Nguyên tương ứng từ 77% lên 91%. Khu vực dịch vụ và nông thôn cả nứơc chưa tạo được chỗ làm để thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp. Đó là sự bất cập lớn nhất, hạn chế tốc độ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn nứơc ta hiên nay. GDP2005 = 21 tỉ USD, mức tăng = 8,4%/năm Tỷ trọng nông thôn / GDP = 20,9% (2005) Năm Tốc độ tăng GDP Tốc độ tăng của NN Tốc độ tăng của CN Tốc độ tăng của DV 2004 7,7 3,5 10,3 7,5 Cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta hiện nay chuyển dịch chậm và không đều ngay trong các vùng lớn và các địa phương.Trong khi vùng Đông Nam Bộ có cơ cấu ngành nghề của các hộ nông thôn khá tiến bộ: 64% nông nghiệp và 36% phi nông nghiệp, thì các vùng còn lại cơ cấu ngành nghề của các hộ vẫn mang tính thuần nông và chuyển dịch rất chậm, nhất là miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Hai tỷ lệ tương ứng của vùng Tây Bắc là 93% và 7%; vùng Đông Bắc là 88,4% và 11,6%; vùng Tây Nguyên là 91% và 91% và 9%; vùng Bắc Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long là 78,8% và 21,2% Tỷ lệ đô thị hóa của Việt Nam đã tăng từ 20,7% năm 1995 lên 24,2% năm 2000 và 25,8% năm 2003. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đô thị ( theo GDP ) khoảng 8,2% giai đoạn 1996-2003, gấp khoảng 1,4 lần mức tăng trưởng của khu vực nông thôn. Năm 2003, khu vực đô thị hóa với 25,8% dân số làm ra 77,2% GDP cả nước. GDP bình quân đầu người đạt khoảng 22,4 triệu đồng, trong khi đó, khu vực nông thôn tập trung tới 74,2% dân số, chỉ làm ra 22,8% GDP và GDP bình quân đầu người mới đạt khoảng 2,3 triệu đồng, bằng 31% mức bình quân cả nước và bằng khoảng hơn 10% mức bình quân của khu vực đô thị. Mức tăng trưởng kinh tế khu vực nông thôn tính theo GDP giai đoạn 1996-2003 chỉ đạt khoảng 5,8%. Như vậy, đến năm 2003, chênh lệch giữa khu vực đô thị và khu vực nông thôn về dân số là 0,35 lần, chênh lệch về mật độ dân số là 3,2 lần. Từ năm1995 đến năm 2003, mức chênh lệch về GDP giữa hai khu vực này ngày càng dãn ra nhưng GDP/người đã có sự thu hẹp. Năm 1995, mức chênh lệch về GDP (giá thực tế) là 2,7 lần, GDP/người là 10,32 lần thì đến năm 2003 hai chỉ tiêu trên là 3,39 lần và 9,74 lần. Mức chênh lệch trên cho thấy trong vòng gần 10 năm chỉ tăng thêm 0,25% đối với GDP và về GDP/người đã giảm được 0,06%. Bảng 2. Một số chỉ tiêu về dân số, GDP và GDP/người của khu vực đô thị và nông thôn Chỉ tiêu Dân số (1.000 người) GDP (tỷ đồng, giá thực tế) GDP/người (triệu đồng, giá thực tế) 1995 2003 1995 2003 1995 2003 Cả nước 71.995,5 80.902,4 232.394 605.596 3,23 7,5 1. khu vực đô thị 14.938,1 20.869,5 169.529,3 467.512 11,35 22,4 %so cả nước 20,7 25,8 71,4 77,2 351,4 298,7 2. khu vực nông thôn 57.057,4 60.032,9 62.864,7 138.074 1,10 2,3 %so cả nước 79,3 74,2 28,6 22,8 34,06 30,67 3. chênh lệch giữa đô thị và nông thôn 0,26 0,35 2,7 3,39 10,32 9,74 Nguồn: Tổng cục thống kê: Niên giám Thống kê 1995, 2003, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 1996, 2004 và xử lý của các tác giả. 1.1.2. Chênh lệch về thu nhập và chi tiêu bình quân tháng Hơn 10 năm qua, Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, nhờ đó thu nhập của dân cư liên tục tăng song có sự khác biệt lớn giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn, chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư của hai khu vực này là 6,95% giai đoạn 1996-2000 và 7,5% giai đoạn 2001-2005. Năm 2002, thu nhập bình quân đầu người một tháng tính chung cả nước theo giá hiện hành đạt 356 nghìn đồng, tăng 20,6% so với năm 2000. Thu nhập bình quân đầu người một tháng ở khu vực thành thị đạt 622 nghìn đồng, tăng 18,4%; ở khu vực nông thôn đạt 275 nghìn đồng, tăng 22,3% so với năm 1999. Thu nhập bình quân đầu người một tháng năm 1996, 1999 và 2002 ở khu vực thành thị gấp khu vực nông thôn 2,71 lần, 2,30 lần và 2,26 lần. Như vậy, thu thập của hộ gia đình thành thị vẫn cao hơn nhiều ở nông thôn. Bảng3: Thu nhập bình quân đầu người một tháng phân theo thành thị, nông thôn Năm 1996 Năm 1999 Năm 2002 Cả nước 226,7 295,0 365,2 1. Thành thị 509,4 516,7 622,0 2. Nông thôn 187,9 225,0 275,1 Chênh lệch giữa thành thị và nông thôn (lần) 2,71 2,30 2,26 1. Thu nhập cao nhất 519,58 741,6 877,1 2. Thu nhập thấp nhất 74,33 97,0 107,7 Chênh lệch giữa hai nhóm thu nhập 6,99 7,65 8,14 Nguồn: Tổng cục thống kê: Niên giám thống kê 2003, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2004. Theo điều tra của Tổng cục Thống kê, nếu chia các hộ điều tra thành 10 nhóm thu nhập, mỗi nhóm 10% số hộ theo độ dốc đi lên của thu nhập bình quân đầu người, thì thu nhập giữa nhóm có thu nhập cao nhất và có thu nhập thấp nhất có khoảng cách lớn và tăng theo các năm. Năm 2000, thu nhập bình quân của nhóm hộ giàu nhất ( nhóm 10 ) lớn gấp 12 lần nhóm hộ nghèo nhất ( nhóm 1 ). Năm 2002, tỷ lệ này tăng lên 13,75 lần. Tính chung trên cả nước, chênh lệch giữa nhóm thu nhập cao nhất với nhóm thu nhập thấp nhất ngày càng dãn ra, năm 996 là 6,33 lần đến năm 2002 là 8,1 lần; ở khu vực thành thị là 7,7 và 8 lần; ở khu vực nông thôn là 5,8 và 6 lần. Theo chỉ tiêu này cho thấy khu vực thành thị có mức tăng trưởng kinh tế cao hơn khu vực nông thôn và cũng là nơi có sự chênh lệch về thu nhập lớn hơn ở nông thôn. Về chỉ tiêu này, cũng theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê, tính chung cả nước mức chi tiêu cho đời sống năm 2002 bình quân đầu người một tháng ( theo giá hiện hành ) đạt 269 nghìn đồng, tăng 21,7% so với năm 2000, bình quân mỗi năm tăng 8,6%, cao hơn giai đoạn 1996-2000 (6,6%). Chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người một tháng ở khu vực nông thôn đạt 211 nghìn đồng, khu vực thành thị đạt 461 nghìn đồng ( gấp 2,2 lần khu vực nông thôn ). Đáng lưu ý là chi tiêu cho giáo dục, đào tạo: bình quân giai đoạn 2000-2003 chi cho một người đi học một năm hết 627 nghìn đồng, tăng 14,6% so với giai đoạn 1997-1998. Tuy nhiên, mức chi tiêu của hộ gia đình cho giáo dục có khác nhau giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn, giữa các vùng và các nhóm thu nhập. Ở khu vực thành thị chi tiêu cho giáo dục bình quân một người đi học một năm là 1,255 triệu đồng, gấp ba lần so với khu vực nông thôn. Chi tiêu cho giáo dục bình quân một người đi học trong năm của nhóm hộ nghèo nhất chỉ có 236 nghìn đồng, trong khi nhóm hộ giàu nhất là 1,418 triệu đồng, gấp 6 lần. Trong chi tiêu, tỷ trọng chi tiêu cho ăn uống tuy có giảm nhưng còn ở mức cao. Chi tiêu cho ăn uống giảm từ 66% năm 1993 xuống còn 63% năm 2000 và 57% năm 2002. Trong thành phần chi tiêu cũng thể hiện sự chênh lệch giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn, giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo. Năm 2002, về cơ cấu chi tiêu, chi tiêu cho ăn uống ở khu vực thành thị là 52%, ở khu vực nông thôn là 61%; của nhóm hộ giàu nhất là 50%, nhóm hộ nghèo nhất là 70%. Nhóm các hộ giàu nhất có mức chi không phải ăn uống lớn gấp 7,5 lần so với nhóm hộ nghèo nhất, trong đó chi về nhà ở, điện nước, vệ sinh gấp 10,4 lần; chi tiết và đồ dùng gia đình gấp 7,6 lần; chi y tế sức khỏe gấp 4 lần; chi đi lại và bưu điện gấp 15,8 lần; chi giáo dục gấp 6 lần; chi văn hóa, thể thao, giải trí gấp 95,4 lần. 1.1.3. Chênh lệch về tỷ lệ thất nghiệp thành thị Thiếu việc làm bao gồm tất cả những người có việc làm nhưng muốn làm thêm, sẵn sàng làm thêm và có khả năng làm thêm. Đến năm 2003, số lao động thiếu việc làm ở khu vực thành cả nước là 0,429 triệu người, chiếm 4,29% tỷ lệ lao động khu vực thành thị cả nước. Năm 1996 cả nước có 662 nghìn người thất nghiệp với tỷ lệ thất nghiệp chung là 1,97%; năm 2003 là 940 nghìn người với tỷ lệ là 2,297%; trong khi đó ở thành thị là 5,6%, nông thôn 1,2% ( chênh lệch giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn là 4,67 lần ). Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị năm 2003 so với năm 2000 giảm 0,07%, song số người thất nghiệp tăng thêm 177 nghìn người. Với các điều kiện tự nhiên về kinh tế - xã hội khác nhau, chính sách đầu tư phát triển kinh tế - xã hội mỗi vùng khác nhau cũng dẫn đến sự chênh lệch khác nhau giữa các vùng về tỷ lệ thất nghiệp thành thị. Các vùng có tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 10% có tỷ lệ thất nghiệp cao như Đồng bằng sông Hồng: 6,77% Đông Nam Bộ: 6,08%; trong khi đó vùng có tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng từ 7-9% thì tỷ lệ thất nghiệp lại thấp hơn như Tây Nguyên: 4,4%, Tây Bắc: 5,19% và Đồng bằng Sông Cửu Long: 5,26%. Tỷ lệ nghèo chung theo chuẩn của Ngân hàng Thế giới tính theo số liệu chi tiêu cả nước và các vùng năm 2001-2002 đều giảm. Năm 2002 tỷ lệ nghèo cả nước là 28,9%, giảm so với mức 37,4% của năm 1997-1998. Theo nguồn quốc gia, năm 2003 tỷ lệ nghèo là 10,3%. 1.1.4. Chênh lệch giữa các vùng về tỷ lệ nghèo Theo kết quả điều tra mức sống của Tổng cục Thống kê năm 2003, chênh lệch về tỷ lệ nghèo kể cả theo mức nghèo về lương thực – thực phẩm và nghèo chung giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn khá lớn: ở khu vực nông thôn chênh lệch về nghèo lương thực thực phẩm cao gấp ba lần so với khu vực thành thị và 5,4 lần về tỷ lệ nghèo chung. Bảng4: Tỷ lệ hộ nghèo các nghèo Tỷ lệ lương thực- thực phẩm Tỷ lệ nghèo chung 1999 2002 1997-98 2001-02 Toàn quốc 13,3 9,96 37,37 28,9 1. Thành thị 4,61 3,61 9,04 6,60 2. Nông thôn 15,96 11,99 44,85 35,7 Chênh lệch giữa thành thị và nông thôn (lần) 0,29 0,3 0,2 0,18 Nguồn: Tổng cục thống kê: Niên giám Thống kê 2003, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2004; và tính toán của các chuyên gia. 1.2 Chênh lệch giữa đô thị và nông thôn trên phạm vi 6 vùng 1.2.1 Chênh lệch về GDP/người Trên phạm vi 6 vùng, do mỗi vùng có những đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội, xuất phát điểm và vị trí, chức năng của từng vùng trong cơ cấu lãnh thổ quốc gia khác nhau mà sự chênh lệch giữa khu vực đô thị và khu vực nông thôn có những mức độ khác nhau; những vùng có kinh tế tăng trưởng nhanh, tỷ lệ đô thị hóa cao, tốc độ đô thị hóa nhanh thì ở đó sự chênh lệch về GDP/người giữa khu vực đô thị và nông thôn cao hơn; những vùng có kinh tế tăng trưởng thấp hơn, tỷ lệ đô thị hóa thấp hơn và tốc độ đô thị hóa chậm hơn, chênh lệch giữa khu vực đô thị và nông thôn ít hơn. Những số liệu sau đây chứng minh cho điều đó. - Vùng có tỷ lệ đô thị hóa cao thì chênh lệch về GDP/người cũng cao. Qua so sánh giữa các tỉnh, thành phố có tỷ lệ đô thị hóa cao và tỉnh có tỷ lệ đô thị hóa thấp trong mỗi vùng thấy rằng giữa tỉnh/thành phố có tỷ lệ đô thị hóa cao và tỉnh có tỷ lệ đô thị hóa thấp thì có sự chêch lệch lớn giữa các tỉnh đó với nhau. Sự chêch lệch về GDP/người giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn ngay trong một tỉnh cũng lớn. Bảng5: Một số chỉ tiêu về chênh lệch giữa khu vực đô thị - khu vực nông thôn phân theo vùng Các vùng Tăng trưởng kinh tế 2001-2005 (%) Tỷ lệ đô thị hóa năm 2003 (%) Tốc độ Đô thị hóa 2001-2005 (%) Chênh lệch GDP/người giữa khu vực đô thị và nông thôn năm 2003 (%) Cả nước 7,5 25,8 3,7 9,74 1. Trung du và miền núi phía Bắc 9,0 13,3 2,5 14,53 2. Đồng bằng sông Hồng 10,92 21,8 3,8 12,28 3. Duyên hải miền Trung 9,2 20,7 3,1 10,10 4. Tây Nguyên 7,26 27,3 3,5 3,64 5. Đông Nam Bộ 10,75 50,2 3,5 4,66 6. Đồng bằng sông Cửu Long 9,21 19,8 5,1 9,62 Nguồn: - Tổng cục Thống kê: Niên giám Thống kê 2003, Nxb. Thống kê,Hà Nội, 2004 - Sở Kế hoạch và đầu tư các tỉnh: Báo cáo thực hiện 2005 và kế hoạch 2006 - Xử lý và tính toán của chuyên gia - Vùng có tỷ lệ đô thị hóa thấp thì chênh lệch về GDP/người cũng thấp Năm 2003, vùng Trung du miền núi phía Bắc có tỷ lệ đô thị hóa là 14,6%; Bắc Cạn có tỷ lệ đô thị hóa là 15,7%, GDP/người là 2,5 triệu đồng; Lạnh Sơn có tỷ lệ đô thị hóa là 19,2%, GDP/người là 4,2 triệu đồng. Mức chệnh lệch giữa Bắc Cạn và Lạng Sơn về tỷ lệ đô thị hóa là 1,3 lần; GDP/người là 1,68 lần. Tây Nguyên có tỷ lệ đô thị hóa là 27,3% và GDP/người là 3,6 triệu đồng. Kon Tum có tỷ lệ đô thị hóa là 31,4% và GDP/người là 3,4 triệu đồng. Lâm Đồng có tỷ lệ đô thị hóa là 39,7% và GDP/người là 3,8 triệu đồng. Mức chênh lệch giữa Lâm Đồng và Kon Tum về tỷ lệ đô thị hóa là 1,45 lần và GDP/người là 1,11 lần. 1.2.2. Chênh lệch về thu nhập giữa thành thị và nông thôn trong mỗi vùng Mức chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người một tháng giữa nhóm thu nhập cao nhất và thu nhập thấp nhất ngày càng dãn ra. Đối với cả nước, năm 1996 mức chênh lệch là 6,99 lần, đến năm 1999 là 7,4 lần và năm 2002 đã tăng lên 8,1 lần. Đối với từng vung như sau: năm 1996, vùng Đồng bằng sông Hồng mức chênh lệch giữa nhóm có thu nhập cao nhất và nhóm có thu nhập thấp nhất là 6,13 lần; vùng Trung du miền Núi Bắc Bộ là 5,68 lần; vùng Bắc Trung Bộ là 5,73 lần; vùng duyên hải Nam Trung Bộ là 5,47 lần; vùng Tây Nguyên là 12,71 lần, vùng Đông Nam Bộ là 7,57 lần và vùng Đồng bằng sông Cửu Long là 6,36 lần. Năm 1999, vùng Đồng bằng sông Hồng là 7,0 lần; vùng Trung du miền búi Bắc Bộ là 6,78 lần; vùng Bắc Trung Bộ là 6,95 lần; vùng Duyên hải Nam Trung Bộ là 6,31 lần; vùng Tây Nguyên là 12,9 lần; vùng Đông Nam Bộ là 10,32 lần và Đồng bằng sông Cửu Long là 7,86 lần. Năm 2002, vùng Đồng bằng sông Hồng là 6,9 lần; vùng Trung du miền núi Bắc Bộ là 5,68 lần; vùng Bắc Trung Bộ và vùng duyên hải Nam Trung Bộ là 5,8 lần; vùng Tây Nguyên là 6,4 lần; vùng Đông Nam Bộ là 9,0 lần và vùng Đồng bằng sông Cửu Long là 6,6 lần. Trong giai đoạn 1999-2002, mức chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người một tháng của các vùng đều giảm, nhưng giảm mạnh nhất là vùng Tây Nguyên từ 12,9 lần xuống 6,4 lần và giảm ít nhất là vùng Đông bằng sông Hồng từ 7,0 lần xuống 6,9 lần. 2. Chênh lệch giữa vùng phát triển và vùng khó khăn 2.1 Chênh lệch giữa vùng phát triển và vùng khó khăn trên phạm vi cả nước 2.1.1 Chênh lệch về GDP và GDP/người Trong thời gian vừa qua, các vùng phát triển và vùng khó khăn đều có sự tăng trưởng, nhưng tốc độ tăng của các vùng khác nhau. Giai đoạn 1996-2003, tốc độ phát triển kinh tế của vùng phát triển bằng 1,37 lần mức trung bình của cả nước và gấp 1,6 lần mức tăng trưởng của vùng khó khăn. Vùng khó khăn có tốc độ tăng trưởng đã thấp hơn mức trung bình của cả nước song do tốc độ tăng dân số của các vùng này lại cao hơn mức trung bình của cả nước nên các chỉ tiêu về phát triển và GDP/người của vùng khó khăn ngày càng dãn xa so với vùng phát triển. - Cơ cấu kinh tế của các vùng có sự khác biệt rõ rệt Đối với các vùng phát triển, tỷ lệ khối công nghiệp và dịch vụ trong GDP luôn cao hơn mức trung bình của cả nước. Tỷ lệ của khối công nghiệp và dịch vụ đạt tới 80% GDP toàn vùng và bằng 1,06 lần của cả nước. Ngược lai, vùng khó khăn có tỷ lệ khối công nghiệp và dịch vụ trong GDP thấp, chỉ chiếm 12% GDP của vùng và hệ số so với cả nước chỉ bằng 0.16 lần. Bảng6: chênh lệch về cơ cấu kinh tế giữa vùng khó khăn, năm 2003 (tổng GDP = 100%) Tổng công nghiệp và dịch vụ Riêng công nghiệp Riêng dịch vụ Tỷ trọng so với GDP (%) So với cả nước (%) Tỷ trọng so với GDP (%) So với cả nước (%) Tỷ trọng so với GDP (%) So với cả nước (lần) Cả nước 75,4 1 39,2 1 36,2 1 1. Vùng phát triển 80 1,06 42 1,07 38 1,05 2. Vùng khó khăn 12 0,16 4 0,1 8 0,22 Chênh lệch giữa phát triển và vùng khó khăn (lần) 6,67 10,5 4,75 Nguồn: Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 2003, NXB. Thống kê, Hà Nội, 2004 Đối với các vùng khó khăn, chậm phát triển, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa rõ nét. Hoạt động kinh tế của các vùng này thời gian qua chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Song trình độ phát triển vẫn còn thấp kém, chưa tạo ra sản phẩm hàng hoá lớn. Hiệu quả sử dụng đất chưa cao. Thu nhập trên 1 hécta gieo trồng còn thấp xa so với mức trung bình của cả nước. Kết cấu hạ tầng nghèo, không đồng bộ và kém phát triển. - Tăng trưởng kinh tế và chênh lệch vùng. Trình độ phát triển của các vùng được thể hiện bằng hai chỉ tiêu tổng hợp là GDP bình quân đầu người và chỉ số phát triển con người (HDI). Chênh lệch giữa các vùng về GDP bình quân đầu người khá lớn (vùng cao nhất là Nam Bộ cao gấp 6,6 lần, vùng thấp nhất là Tây Bắc). Tuy nhiên, chênh lệch giữa các vùng về chỉ số HDI thấp hơn (chư yếu là do tỷ lệ biết chữ, tỷ lệ đi học và tuổi thọ của dân số ở các vùng tương đối đồng đều nhau). Bảng7: Chênh lệch và thứ hạng các vùng về trình độ phát triển kinh tế - xã hội Vùng GDP bình quân đầu người (2002) Chỉ số HDI Xếp hạng các vùng kinh tế Thu nhập bình quân/người GDP bình quân/người Về HDI Cả nước 6.26._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12155.doc
Tài liệu liên quan