Thực trạng và giải pháp nhằm đẩy nhanh phát triển kinh tế trang trại của tỉnh sơn la trong thời gian tới

Mục lục Lời nói đầu. chương I: cơ sở lý luận chung về kinh tế trang trại. 1.Khái niệm và bản chất của kinh tế trang trại. 2.Căn cứ để xác định kinh tế trang trại. 3.Đặc trưng của kinh tế trang trại. 4.Điều kiện ra đời và phát triển của kinh tế trang trại. 5.Các loại hình kinh tế trang trại. 6.Kinh tế trang trại ở một số nước và ở nước ta. 7.Các chỉ tiêu phân tích. Chương II: thực trang phát triển kinh tế trang trại của tỉnh sơn la. I. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội có ảnh hưởng đế

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nhằm đẩy nhanh phát triển kinh tế trang trại của tỉnh sơn la trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n phát triển kinh tế trang trại của tỉnh. 1. Đặc điểm tự nhiên. 2. Đặc điểm kinh tế xã hội. II. Tình hình phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Sơn la. 1. Vài nét về tình hình phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh. 2. Tình hình về chủ trang trại. 3. Các yếu tố sản xuất của trang trại. III. Kết quả và hiệu quả sản xuất của trang trại. 1. Kết quả sản xuất của trang trại. 2. Hiệu quả sản xuất của trang trại. IV. Kết luận chung về thực trạng phát triển kinh tế trang trại của tỉnh. Chương III: phương hướng và giải pháp nhằm phát triển kinh tế trang trại của tỉnh trong thời gian tới. I. Phương hướng phát triển. 1. Phương hướng chung phát triển kinh tế trang trại nông nghiệp nước ta. 2. Phương hướng phát triển kinh tế trang trại của tỉnh Sơn la. II. Các giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế trang trại ở Sơn la trong thời gian tới. 1. Giải pháp về đất đai. 2. Giải pháp về lao động. 3. Giải pháp về đầu tư tín dụng. 4. Giải pháp về khoa học công nghệ. 5. Giải pháp về thị trường và phát triển công nghệ chế biến. 6. Giải pháp về thuế. 7. Giải pháp về bảo hộ tài sản đã đầu tư của trang trại. 8. Giải pháp về đầu tư xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn. 9. Nâng cao trình độ dân trí và trình độ chuyên môn cho các chủ trang trại. Kết luận và kiến nghị. Tài liệu tham khảo Lời nói đầu Trải qua các thời kỳ cách mạng Đảng ta luôn khẳng định vai trò to lớn và vị trí quan trọng của vấn đề phát triển kinh tế nông nghiệp - nôngthôn. Cong cuộc đổi mới của Đảng ta trong những năm qua cũng lấy nông nghiệp - nông thôn làm địa bàn trọng điểm, là khâu đột phá và đã dành được nhiều thành tựu to lớn. Kinh tế nhiều thành phần được phát triển với nhiều hình thức phong phú, đa dạng khơi dậy nhiều nguồn lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển năng động hơn. Bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân có nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Kinh t+ế trang trại được khẳng định là cơ sở kinh doanh nôn- lâm - ngư nghiệp, là hình thức kinh doanh nhỏ trực tiếp sản xuất ra nông sản hàng hoá cho xã hội, là đối tượng để tổ chức lại nền nông nghiệp - nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá. Kinh tế trang trại được coi là một kiểu tổ chức sản xuất phù hợp với đặc thù kinh tế nông thôn miền núi là một hướng đi mới đúng đắn của quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn Sơn la hiện nay. Phát triển kinh tế trang trại đã đưa lại những thành tựu đáng khích lệ về kinh tế xã hội, đã đưa bộ mặt nông thôn Sơn la lên một bước phát triển mới. Song kinh tế trang trại vẫn còn là một vấn đề khá mới mẻ, cần được nghiên cứu, tổng kết nhằm cung cấp thêm những tư liệu cần thiết để từ đó có thể tìm ra được một hướng đi đúng đắn hơn trong việc phát triển kinh tế trang trại ở Sơn la hiện nay. Mục đích nghiên cứu: Tập cho mình một phương pháp nghiên cứu khoa học nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn bằng lý luận mà nhà trường đã trang bị. Đánh giá được thực trạng phát triển của kinh tế trang trại ở Sơn la hiện nay để từ đó đưa ra được những giải pháp nhằm thúc đẩy kinh tế trang trại tiếp tục phát triển. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp chuyên khảo. - Phương pháp chuyên gia. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế trang trại của Sơn la về quy mô, số lượng, loại hình sản xuất của trang trại. - Phạm vi đề tài nghiên cứu kinh tế trang trại trên 10 Huyện thị của Sơn la. Kết cấu của đề tài: Đề tài bao gồm 3 chương Chương I: Lý luận chung về kinh tế trang trại. Chương II: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở Sơn la. Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm đẩy nhanh phát triển kinh tế trang trại của tỉnh thời gian tới. Đề tài này được hoàn thành với sự giúp đỡ của các thầy, các bạn trong khoa, được chỉ dẫn nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn - Thầy Hoàng Văn Định, đượ sự giúp đỡ của các phòng ban sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Sơn la. Do thời gian có hạn, trình độ nghiên cứu còn hạn chế nên nội dung của luận văn này không tránh khỏi những sai sót. Vậy kính mong các thầy cô giáo và các bạn đóng góp ý kiến để luận văn này được hoàn chỉnh hơn. Chương I. cơ sở lý luận chung về kinh tế trang trại 1. Khái niệm và bản chất của kinh tế trang trại. Trên thế giới, trang trại đã có quá trình hình thành và phát triển trên 200 năm. Nhiều công trình nghiên cứu cho rằng trang trại là loại hình sản xuất chuyển từ tự cấp tự túc khép kín của hộ tiểu nông vươn lên sản xuất hàng hoá, tiếp cận với thị trường, từng bước thích nghi với kinh tế thị trường cạnh tranh. Sự hình thành kinh tế trang trại gắn liền với quá trình thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp. Mô hình kinh tế trang trại được coi là phù hợp và đạt hiệu quả kinh tế cao tronh sản xuất nông nghiệ. Chính C Mác đã kết luận ở tác phẩm cuối cùng của mình " Ngay ở nước Anh có nền công nghiệp phát triển, hình thức sản xuất nông nghiệp có thuận lợi không phải là các xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn mà là các trang trại gia đình không dùng lao động làm thuê"... Kinh tế trang trại là vấn đề không còn mới mẻ với các nước tư bản phát triển và đang phát triển. Song đối với nước ta đây vẫn còn là vấn đề rất mới, do nước ta mới chuyển sang nền kinh tế thị trường nên việc nhận thức chưa đầy đủ về kinh tế trang trại là điều không thể tránh khỏi. Cho tới nay ở mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi địa phương hay đứng trên các phương diện khác nhau các nhà khoa học đưa ra các khái niệm khác nhau về kinh tế trang trại. Trong thời gian qua những vấn đề lý luận về kinh tế thị trường đã được các nhà khoa học và các nhà hoạt động thực tiễn nghiên cứu trao đổi trên các diễn đàn và các phương tiện thông tin đại chúng. Cho đến nay một số vấn đề cơ bản vẫn tiếp tục được nghiên cứu, trao đổi và hoàn thiện. ở đây các nhà nghiên cứu đã đề cập đến các quan điển sau: Quan điểm 1: "kinh tế trang trại ( hay kinh tế nông trại, lâm trại, ngư trại... ) là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã hội, dựa trên cơ sở hiệp tác và phân công lao động xã hội bao gồm một số người lao động nhất định, được chủ trang trại tổ chức trang bị những tư liệu sản xuất nhất định để tiến hành hoạt động kinh doanh phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường và được nhà nước bảo hộ ". Quan điểm trên khẳng định trang trại là một đơn vị sản xuất hàng hoá cho nền kinh tế thị trường và vai trò của người chủ nông trại trong quá trình sản xuất kinh doanh nhưng chưa thấy được vai trò của các hộ gia đình trong các hoạt động kinh tế và sự phân biệt giữa người chủ với người lao độnh khác. Quan điểm 2 Cho rằng: " kinh tế trang trại là kinh tế hộ nông dân sản xuất hàng hoá ở mức độ cao". Quan điểm này cho thấy đặc trưng cơ bản quyết định của kinh tế trang trại là sản xuất hàng hoá nhưng chưa thấy ddược vị trí, vai trò quan trọng của kinh tế trang trại trong nền kinh tế thị trường và chưa thấy được vai trò của người chủ trang trại trong quá trình sản xuất kinmh doanh. Quan điểm 3 cho rằng: " kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông lâm, ngư nghiệp của các thành phần kinh tế khác ở nông thôn, có sức đầu tư lớn, có năng lực quản lý trực tiếp quá trình phát triển sản xuất kinh doanh, có phương thức tạo ra tỷ xuất sinh lời cao trên đông vốn bỏ ra,có trinh độ đưa thành tựu khoa học cong nghệ mới kết tinh trong hàng hoá tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường ,mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao ". Quan điểm trên khẳng đinh nền kinh tế thị trường là tiền đề chủ yếu cho việc phát triển kinh tế trang trại. Đồng thời khẳng định vị trí vai trò của chủ trang trại trong quá trình quản lý kinh doanh của trang trại . Trong Nghi quyết TW số 06/NQ -TW 10/11/1998 cũng đã khẳng định "trang trại gia đình, thực chất là kinh tế sản xuất hàng hoá với quy mô lớn hơn, sử dụng lao động, tiền vốn của gia đình chủ yếu là để sảu suất kinh doanh có hiệu quả. Qua các quan điểm trên có thể rút ra nhận xét về kinh tế trang trại như sau: -Bản chất của kinh tế trang trại là kinh tế hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp (kể cả lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản ).Hành hoá, trang trại có quy mô (về đất đai ,vốn,lao động,thu nhập ...)Tương đối lớn so với mức trung bình của kinh tế hộ tại địa phương ,tương ứng với từng nghành sản xuất cụ thể. Hình thức huy động các nguồn lực (đất đai,lao động,vốn,..) Không nên đề cập trong khi đưa ra khái niệm trang trại nhưng việc huy động và sử dụng các nguồn lực đó phải đảm bảo tính hợp pháp,đươc nhà nước bảo hộ và chủ trang trại phải chịu trách nhiệm huy động và sử dung các nguồn lực đó. Ngoài hoạt động nông nghiệp,các hoạt động nghàng nghề dịch vụ cũng cần được phải tính vào lĩnh vực và phạm vi hoat động của trang trại để đảm bảo tính hệ thống của mô hình kinh tế này. Xuất phát từ những quan điểm trên, theo khái niệm chung nhất về kinh tế trang trại là : kinh tế trang trại là một hình thức sản xuất tổ chức sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp có mục đích chính là sản xuất hành hoá, có tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một chủ trang trại độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất khác tập chung đủ lớn với phương thức tổ chức qủan lý sản xuất tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, kế hoạch sản xuất kinh doanh tự chủ luôn gắn với thị trường. 2. Căn cứ để xác định trang trại. Cho đến nay tiêu chuẩn để xác định thế nào là mội trang trại vẫn là vấn đề còn nhiều tranh cãi, thiếu thống nhất. Thực tế cho thấy, giữa các địa phương còn có sự khác biệt rất lớn trong việc xác định tiêu chuẩn trang trại Theo kết quả tổng hợp số liệu của các địa phương tính đến ngày01/7/1999 cả nước ta có 90.160 trang trại (theo khái niệm trang trại của các địa phương), nhưng theo quy định của tổng cục thống kê cả nước có 45.372 trang trại. Theo quy định của tổng cục thống kê thì một trang trại phải hội tụ đủ 4 yếu tố sau: - Diện tích trang trại phải trên 2ha (đối với khu vực Bắc trung bộ );3ha (đối với khu vực Nam bộ ), đối với trang trại trồng cây ăn quả, đối với trang trại lâm nghiệp diện tích từ 10ha trở lên, đối với trang trại thuỷ sản diện tích từ 2 ha trở lên. - Có sử dụng lao động làm thuê từ hai lao động/năm trở lên. - Chủ trang trại có kiến thức nông lâm ngư nghiệp. - Lấy sản suất hàng hoá làm hướng chính và có thu nhập vượt trội hẳn so với mức trung bình. Theo ban kinh tế TW thì kinh tế trang trại không thể căn cứ vaò diện tích mà nên căn cứ vào. - Giá trị tài sản mà chủ trang trại dựa vaò quá trình sản xuất kinh doanh (thường lớn hơn 100 triệu đồng Việt nam ). - Số lượng công nhân mà chủ trang trại thuê mướn thường xuyên (lớn hơn 10 người). - Giá trị hàng hoá và xuất sinh lờido trang trại tạo ra trong một thời gian nhất định, trong một năm cao hơn 30% so với mức bình quân của hộ nông dân trong vùng. - Chủ trang trại là người quản lý ,điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại, ở tỉnh Sơn la hiện nay chưa có tiêu chí thống nhất để xác định kinh tế trang trại, mỗi cơ quan, mỗiđịa phương dựa trên tiêu chí xác định trang trại khác nhau, theo Hội nông dân, hội làm vườn, người ta xác định kinh tế trang trại theo các tiêu chí sau: - Là hội viên hội nông dân tỉnh - Thu nhập bình quân 10triệu/năm (đã trừ chi phí). Gần đây nhất (tháng3/1999)theo thống kê của sở nông nghiệp và phát triển nông thôn thì cứ hộ nông dân nào có đủ 2 điều kiện sau thì được coi là trang trại . - Diện tích canh tác lớn hơn 1ha. - Thu nhập bình quân lớn hơn 10triệu đồng/trang trại (sau khi đã trừ chi phí), theo tiêu thức trên, Sơnla hiện nay có 4.705 trang trại Từ những tiêu chí xác định trang trại của các tác giả, các cơ quan ban nghành, các địa phương ở trên, quan điểm của em vè vấn đề này là việc sớm hình thành một hệ thống tiêu thức đảm bảo tính khoa học trong việc xác định mô hình kinh tế trang trại là hết sức cần thiết và cấp bách, nhưng hệ thống đó phải phù hợp với từng vùng, từng địa phương, từng loại nghành nghề, bởi lẽ kinh tế trang trại thường bcó tính mềm rẻo, có khả năng dung nặp các quy mô khác nhau (tư nhỏ đến vừa và lớn), các hình thức sở hữu khác nhau (từ cá đến tập thể quốc doanh ), các trình độ khoa học và công nghệ, kế đến là tiêu chí về quy mô năng lực sản xuất (đất đai,lao động ,vốn) và kết quả sản xuất (giá trị sản xuất, thu nhập ..), tuy nhiên về quy mô năng lực sản xuất và kết quả sản xuất của trang trại không nên áp dụng cứng nhắc mà phải phù hợp với từng vùng sinh thái, loại hình sản xuất của trang trại, từng địa phương mà cần phải đáp ứng sự phù hợp với yếu tố thời gian. Bởi cùng với thời gian khoa học pháttriển không ngừng thì trình độ sản xuất kinh doanh của trang trại được nâng lên. Do vậy, theo thời gian tiêu chí xác định trang trại cũng phải thay đổi cho phù hợp từ những quan điểm khác nhau nêu trên, đồng thời xuất phát từ bản chất của kinh tế trang trại nông nghiệp mang tính chất là sản xuất hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị trường, vì vậy tiêu chí trực tiếpư nhất để nhận dạng trang trại là: giá trị sản lượng và giá trị sản lượng hàng hoá tính chung và tính trên đơn vị diện tích. Bên cạnh tiêu chí trực tiếp còn có các tiêu chí gián tiếp để nhận dạng trang trại sau: - Quy mô diện tích của trang trại. - Quy mô vốn của trang trại. - Quy mô về đàn gia súc - Số lượng lao động. Các tiêu chí trên có thể xét trên phạm vi cả nước hoặc từng vùng cụ thể cho phù hợp. 3. Đặc trưng của kinh tế trang trại. Kinh tế trang trại thực chất là một cấp độ trong quá trình phát triển của kinh tế hộ từ sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá. Tuy vậy giữa chúng có những đặc trưng cơ bản sau đây: Bảng 1: So sánh sự khác nhau về một số đặc trưng cơ bản giữa kinh tế trang trại và kinh tế hộ tiểu nông tự cấp, tự túc. stt Tiêu thức Kinh tế trang trại Kinh tế tiểu nông 1 Mục đích sản xuất. Chủ yếu sản xuất để bán. Chủ yếu thoả mãn nhu cầu tiêu dùng. 2 Quy mô diện tích. Trên diện tích tập trung đủ lớn. Manh mún, phân tán. 3 Quy mô vốn. Yêu cầu tích luỹ vốn lớn. yêu cầu vốn ít. 4 Trình độ sản xuất. Cao, có khả năng áp dụng phương tiện máy móc, kỹ thuật công nghệ hiện đại. Thấp, mang nặng tính thủ công. 5 Khả năng tích luỹ sản xuất. Nhiều. ít. 6 Lao động. Vừa sử dụng lao động vừa sử dụng lao động thuê ngoài Chủ yếu sử dụng lao động gia đình. C.Mác đã phân biệt chủ trang trại với tiểu nông : 'Người chủ trang trại bán ra thị trường hầu hết sán phẩm làm ra, còn người chủ hộ gia đình tiêu dùng đại bộ phận sản phẩm làm ra và mua bán càng ít càng tốt'. Quy mô sản xuất hàng hoá được thể hiện qua tỷ xuất hàng hoá là đặc trưng cơ bản nhất của kinh tế trang trại. Đây là tiêu chuẩn hàng đầu và quan trọng nhất để phân biệt hộ nông dân sản xuất tiểu nông với hệ nông dân sản xuất theo kinh tế trang trại. Từ sự phân tích trên, ta thấy kinh tế trang trại có những đặc trưng sau: - Mục đich sản xuất là tạo ra các sản phẩm hàng hoá cung cấp cho thị trường nhằm thu lợi nhuận cao. - Có sự tập chung tích tụ cao hơn dõ rệt so với mức bình quân của các hộ kinh tế gia đình trong vùng về các điều kiện sản xuất như đất đai ,vốn ,lao động. - Người chủ trong trang trại cũng là người trực tiếp lao động sản xuất. - Sản xuất đi vaò chuyên môn hoá cao hơn,áp dung nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật nên giá trị sản phẩm thu nhập và giá trị sản phẩm hàng hoá ngày càng tăng. Một số tác giả cho rằng :sở hữu tài sản gia đình và quản lý điều hành trực tiếp của chủ trang trại cũnh là đặc điểm chung của kinh tế trang trại. Những đặc điểm này có thể phần nào phù hợp với các mô hình kinh tế trang trại ở Việt nam hiện nay. Nhưng qua nghiên cứu cho thấy vẫn có những chủ trang trại hoàn toàn không có tư liệu sản xuất mà đi thuê toàn bộ các cơ sở của một trang trại khác để sản xuất, từ đất đai, mặt nước rừng cây, kho tàng,bến bãi, máy móc, thiết bị... (ở Mỹ, năm 1998 giá thuê hàng năm toàn bộ trang trại bằng 0,5-0,8% tổng giá trị tài sản của trang trại theo giá thị trường). 4. điều kiện ra đời và phát triển của kinh tế trang trại. Chúng ta đã biết trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản, Anh là nước tiến hành công nghiệp hoá sớm nhất. Lúc bấy giờ người ta quan niệm một cách đơn giản rằng trong nền kinh tế hàng hoá, nông nghiệp cũng phải xây dựng như công nghiệp theo hướng tập trung quy mô lớn. vì vậy, ruộng đất được tích tụ tập trung, xí nghiệp nông nghiệp tư bản được xây dựng, nhiều trang trại gia đình bị phá sản hoặc phân tán và người ta hy vọng với mô hình này, số lượng nông sản tạo ra nhiều hơn với giá rẻ hơn so với gia đình phân tán. Nhưng người ta quên mất một đặc điểm cơ bản của nông nghiệp khác với công nghiệp là nó tác động vào sinh vật, vào cây trồng cũng như vật nuôi, điều đó không phù hợp với sản xuất tập trung quy mô lớn và việc sử dụng lao động làm thuê tập trung chỉ đêm lại hiệu quả kinh tế thấp. Chính C.Mác lúc đầu cũng nghĩ rằng trong công trình tư bản chủ nghĩa, xây dựng các xí nghiệp chứa nước theo hướng quy mô lớn tập trung là tất yếu. Nhưng về cuối đời chính C. Mác chứ không phải ai khác đã nhận định lại: "ngay ở nước Anh với nghành công nghiệp phát triển, hình thức sản xuất nông nghiệp có lợi nhất không phải là các xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn mà là các trang trại gia đình không dùng lao động làm thuê". Cho đến cuối thế kỷ XIX, trang trại gia đình trở thành mô hình sản xuất phổ biến nhất trong nền nông nghiệp thế giới. Loại hình kinh doanh này gồmb có người chủ cùng với gia đình hoặc có khi có một vài công làm thuê ít nhiều có tham gia sinh hoat với gia đình. Loại hình kinh doanh nay có sứ chống đỡ lớn trong các cuộc khủng hoảng. Trang trại gia đình được hình thành, phát triển từ các hộ tiểu nông. Một khi đã hội tụ được các điều kiện như vốn, kỹ thuật, thị trường thì tiểu nông tự phá vỡ cái vỏ ốc tự cấp, tự túc của mình để dần dần đi vào quỹ đạo của sản xuất hàng hoá. Sản xuất chính là đặc điểm cơ bản đánh dắu sự khác biệt giữa trang trại với tiểu nông: trong khi người chủ trang trại bán toàn bộ hay phần lớn sản phẩm của mình làm ra thì người tiểu nông tiêu dùng đại bộ phận nông sản do mình sản xuất và đối vơí anh ta mua bán càng ít càng tốt. Sau gần hai thế kỷ tồn tại và phát triển,vị trí của kinh tế trang trại gia đình với quy mô nhỏ bé, phân tán sẽ khônh phù hợp với phương thức sản xuất tư bản và sớm muộn cũng bị các xí nghiệp nông nghiệp tư bản đào thải dưới sức ép của quy luật thị trường. Song trên thực tế, không những kinh tế trang trại gia đình trụ lại được mà nó còn trở thành lực lượng nông nghiệp chủ yếu ngay ở các nước nông nghiệp phát triển. ở nước ta những loại hình sản xuất kinh doanh giống như trang trại gia đình hiện nay đã được ra đời từ rất sớm. Ngay từ thế kỷ XIII nhà Trần đã khuyến khích phát triển những thái ấp, điền trang của các vương tôn quý tộc. Năm 1266, nhà trần quyết định: " Cho các vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần triệu tập những người tiêu tán không có sản nghiệp làm nô tỳ để khai khẩn ruộng hoang lập điền trang" - Đại việt sử ký toàn thư, Hà nội 1967 tập II trang 33. Như vậy việc tổ chức đồn điền có từ thời nhà trần, nhưng đến triều Lê Thánh Tông mới chính thức mở rộng quy mô, thành lập các sở đồn điền nhằm mục đích phát triển sản xuất nông nghiệp và tăng cường việc cung cấp lương thực. Theo sách cương mục, từ năm 1481, 43 đồn điền đã được xây dựng dưới thời nhà Lê. Các sở đồn điền đều có chánh phó đồn điền sứ trông coi, có thể mộ dân hay dùng lực lượng tù binh, người bị tội để khai khẩn đất hoang thành ruộng đất và thành lập làng xóm. Ruộng đất ở các sở đồn điền thuộc sở hữu và quản lý trực tiếp của Nhà nước trung ương, không ban cấp đồn điền cho quan lại. Đến khi thực dân Pháp chiếm song nước ta, chúng lại cho phép tư bản thực dân phát triển đồn điền. Các công ty tài chính và bọn thực dân có quyền thế đua nhau lập đồn điền. Năm 1927, chỉ riêng ở Bắc kỳ đã có 155 đồn điền rộng từ 200 ha đến 8500 ha. ở Nam kỳ và cao nguyên Trung kỳ nhiều tên thực dân đã có đồn điền rộng hàng vạn ha. Đến năm 1930, số ruộng đất do thực dân chiếm đoạt để lập đồn là 1,2 triệu ha bằng 1/4 tổng diện tích đất canh tác nước ta lúc bấy giờ. Đồn điền được phân chia làm 2 loại: loại trồng lúa và loại trồng cây công nghiệp. Đến sau Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (1988 ),nông thôn nước ta đã có sự phát triển mới. Mỗi hộ nông dân trở thành một đơn vị tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Cái lồng bao cấp được tháo gỡ từng phần, sản xýt hàng hoá dần dần chiếm lĩnh trận địa tự cấp, tự túc mà từ bao đời nay người nông dân đã dẫm chân tại chỗ. Tiếp sau Nghị quyết 10 của Bộ chính trị là Luật đất đai (1993 ), luật này giao quyền sử dụng ổn định lâu dài cho người nông dân với các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê thừa kế và thế chấp. Cùng với Nghị quyết 10 và Luật đất đai, các chính sách thuế khoá, tín dụng, khuyến nông đã là chỗ dựa vững chắc để các hộ tiểu nông chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hình thành các trang trại không chỉ ở những vùng đã quen sản xuất hàng hoá, mà ở cả những vùng chỉ quanh quẩn sau hàng rào tự cấp,tự túc,tỷ xuất ha ngf hoá được nâng lên không chỉ ở những nơi có bình quân ruộng đất caomà cả nhưng nơi đất chật, người đông.sự tăng trưởng kinh tế nổi bật trong nông nghiệp nước ta những năm qua không chỉ là hệ quả của sự gia tăng các yếu tố sản xuất mà phần lớn là do sự thay đổi thể chế trong các hợp tác xã. 5. Các loại hình kinh tế trang trại. a. Phân loại theo hình thức tổ chức quản lý. Theo cách phân loại này có trang trại gia đình, trang trại liên doanh và trang trại hợp doanh kiểu cổ phần: Trang trại gia đình là loại hình có tính phổ biến nhất trong cả nước. Đó là kiểu trang trại độc lập sản xuất kinh doanh do người chủ hộ hay một người thay mặt gia đình đứng ra quản lý. Thông thường mỗi trang trại là của một hộ gia đình,nhưng có những nơi quan hệ huyết thống còn đậm nét thì có khi mấy gia đình cùng tham gia quản lý kinh doanh một cơ sở. Trang trại liên doanh do 2-3 trang trại gia đình hợp thành một trang trại lớn với năng lực sản xuất lớn hơn, đủ sức cạnh tranh với các trang trại lớn, tuy nhiên mỗi trang trại thành viên vẫn có sức tự chủ điều hành sản xuất. đối tượng liên doanh đều là anh em, họ hàng hay bạn bè thân thiết, ở các nước chău á do quy mô trang trại nhỏ nên loại trang trại liên doanh rất có ít, ở Mỹ trang trại liên doanh có nhiều hơn, nhưng chỉ chiếm 10% tổng số trang trại và 16% đất đai. Trang trại hợp doanh tổ chức theo nguyên tắc một công ty cổ phần hoạtđộng trong lĩnh vực sản xuất, chế biến ,tiêu thụ nông sản. Loại trang trại này thường có quy mô lớn, thực hiện chuyên môn hoá sản xuất, sử dụng lao động làm thuêl à chủ yếu, ở Mỹ năm 1982, bình quân một hợp doanh nông nghiệp có 1 triệu 52 ngàn USD giá trị đất đai và công trình, 144 ngàn USD máy móc và thiết bị, 4 ôtô vận tải ,1,3 máy gặt đập liên hợp, 9 công nhân thường xuyên và 18 công nhân thời vụ . Trong trang trại hợp doanh nông nghiệp được chia làm 2 loại : Hợp doanh gia đình và hợp doanh phi gia đình. b. Phân loại theo cơ cấu sản xuất. Cơ cấu này được xác định căn cứ vào điều kiiện tự nhiên, trình độ sản xuất và đặc điểm thị trường của từng vùng. Nhiều trang trại kinh doanh tổng hợp kết hợp nông nghiệp với tiểu thủ công nghiệp như các nước Chău á, kết hợp nông nghiệp với lâm nghiệp như các nước Bắc ău, kết hợp trồng trọt với chăn nuôi ở nhiều nước khác. ở những nước mà nông nghiệp phát triển như mỹ, Canađa, Tây ău thì cơ cấu sản xuất theo hướng chuyên môn hoá như nuôi gà, vỗ béo lợn, nuôi bò thịt hoặc bò sữa, chuyên trồng cây ăn quả hay trồng rau, trồng hoa và cây cảnh..., lại có những trang trại chuyên sản xuất nông sản hay lâm sản làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, có khi kết hợp sản xuất với chế biến nông, lâm sản ở trình độ sơ chế hoặc tiến lên tinh chế. c. Phân loại theo cơ cấu thu nhập. Lâu nay, phân loại theo cơ cắu thu nhập là hình thức phổ biến, ở những nước nông nghiệp kém phát triển, nguồn sống chính dựa vào nông nghiệp thì đương nhiên cơ cấu thu nhập của trang trại là dựa vào hoàn toàn hay phần lớn là nông nghiệp. Người ta gọi đó là những "trang trại thuần nông". Theo đà phát triển của công nghiệp, số trang trại thuần nông ngày một giảm (ở Đài loan năm 1960 49,3% số trang trại là thuần nông, đến năm 1980 tỷ lệ này còn 9%, ở Nhật bản năm 1950, số trang trại thuần nông chiếm 50%, đến 1985 tỷ lệ này còn giảm xuống 15%). Ngược lại số trang trại có thu nhập chủ yếu ngoài nông nghiệp ngày càng tăng. Những trang trại có nguồn thu nhập chính từ nông nghiệp thường là cơ sở sản xuất nông nghiệp quy mô vừa và lớn,thu nhập từ nông nghiệp đủ sức trang trải nhu cằu sinh hoạt và tái sản xuất. Các trang trại có từ thu nhập nông nghiệp và ngoài nông nghiệp thường có quy mô nhỏ, thu nhập từ nông nghiệp không đủ đáp ứng các nhu cầu nên phải đi làm thêm ngoài trang trại trên địa bàn noong thôn, có khi cả ở thành phố để tăng thêm thu thập, không ít các trang trại loại này bị lỗ, nhưng không bị xoá sổ, vì đã có thu nhập ngoài nông nghiệp bù đắp. d. Phân loại theo hình thức sở hữu tư liệu sản xuất. Trường hợp phổ biến là người chủ trang trại có sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất từ đất đai,công cụ máy moc đén chuồng trại , kho bãi. Riêng về sở hữu ruộng đấ, ở nhiều nước 70-80% số chủ trang trại có ruộng đất riêng, ở Mỹ năm 1982, số chủ trang trại có sỡ hữu hoàn toàn về đất đai chiếm 59%, sở hữu một phần là 29,3% và thuê hoàn toàn ruộng đất là 11,7%. Chủ trang trại chỉ có sở hữu một phần tư liệu sản xuất,còn một phần đi thuê người khác. Trường hợp không phải là cá biệt tuy trang trại có đất đai nhưng phải đi thuê máy móc, chuồng trại, kho bãi. Chủ trang trại hoàn toàn không có tư liệu sản xuất mà đi thuê toàn bộ cơ sở của một trang trại hoặc của nhà nước để sản xuất, không chỉ máy móc, thiết bị, kho tàng, chuồng trại mà cả đất đai, mặt nước, rừng căy, ở Mỹ năm1988, giá thuê hàng năm toàn bộ một trang trại bằng 1-8,8% tổng giá trị tài sản của trang trại ấy. Theo giá thị trường tuỳ từng vùng và loại hình trang trại . Thực tế các nước phát triển cho thấy sở hữu tư liệu sản xuất không phải là yếu tố quyết định thành bại của trang trại, ở mỹ, không ít nhưỡng chủ trang trại đi thuê tư liệu sản xuất để kinh doanh có lợi nhuận cao không kém các chủ trang trại có quyên sở hữu về tư liệu sản xuất. 6. Kinh tế trang trại ở một số nước và ở nước ta. 6.1 Sự phát triển kinh tế trang trại ở một số nước trên thế giới. Trải qua hơn hai thế kỷ tồn tại và phát triển, kinh tế trang trại được khẳng định là mô hình kinh tế phù hợp đạt hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất nông lâm nghiệp ở mỗi khu vực, mỗi quốc gia có điều kiện tự nhiên, xã hội khác nhau cho nên các mô hình trang trại khác nhau. Có những chủ trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp như: Kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, nông nghiệp với lâm nghiệp (ở các nước Bắc ău), kết hợp nông nghiệp với các nghành nghề khác ở nông thôn (ở các nước châu á), cũng có những trang trại sản xuất cao như trang trại chuyên sản xuất ngũ cốc ở Mỹ hay Tây ău . Về quy mô trang trại cũng có sự thay đổi tuỳ theo từng nước. Cao nhất là các trang trại ở Bắc mỹ và Mỹ, quy mô bình quân một trang trại khoảng 180 ha, thấp nhất là các nước Chău á, quy mô diện tích bình quân từ 0,9-4,5 ha. Quy mô về số lượng trang trại cũng có sự thay đổi qua từng thời kỳ, từng giai đoạn gắn liền với qúa trình hiện đại hoá. ở pháp, 1802 có 5.6720.000 trang trại, đến năm 1892 có 5703.000 trang trại, tăng 31000 trang trại, nhưng từ đó số lượng các trang trại liên tục giảm.đến 1987 chỉ còn 893000 trang trại. Trongkhi đó quy mô diện tích liên tục tăng, năm 1802 quy mô trung bình một trang trại chỉ có 5,9 ha đến năm 1929 là 11,6 và đến năm 1987 tăng lên 29ha/1 trang trại. (xem biểu 3) ở Tây đức cũng vậy, năm có 5.276.000 trang trại đến năm 1907 là 5.736.000 trang trại, tăng 46.000 trang trại, nhưng từ năm 1907 đến 1985 số lượng các trang trại lại liên tục giảm, đến năm 1985 chỉ còn 83.000 trang trại, ngược lại, quy mô diện tích của một trang trại lại có xu hướng tăng lên. Năm 1882 là 6ha/1 trang trại đến năm 1949 là 11ha và năm 1985 là 15ha/1 trang trại (xem biểu 2) Biểu 2: sự phát triển trang trại ở Tây đức. 1882 1895 1907 1949 1960 1971 1985 1.Số lượng trang trại (1000.trang trại ) 5276 5558 5736 2051 1709 1075 938 2.Diện tích bình quân (ha/trang trại ) 6,0 5,8 5,7 11 13 14 15 Nguồn:-Nguyễn Điền ,Trần Đức- Kinh tế trang trại gia đình trên thế giới và chău á, Hà Nội 1993. - Đào Thế Tuấn- Quá trình phát triển trang trại gia đình- Tạp chí thông tin lý luận 6/1992. Biểu 3 : Sự phát triển trang trại ở Pháp 1802 1892 1908 1928 1950 1960 1970 1987 1.Số lượng TT (1000 TT) 5672 5703 5505 3966 2285 1588 1263 982 2.Diện tích BQ (Ha/TT) 5,9 5,8 6,0 11,6 14,0 19,0 23,0 29,0 Nguồn: Như biểu 2. ở Mỹ tình hình phát triển trang trại cũng theo xu thế các nước Chău ău nhưng chậm hơn 3-4 thập kỷ (xem biểu 4). Biểu 4: sự phát triển trang trại ở Mỹ 1900 1910 1930 1940 1950 1960 1970 1980 1985 1990 1.Số lượng TT ( 1000 TT ) 5737 6404 6546 6350 5530 3960 2630 2300 2220 2140 2.diện tích BQ ( Ha/TT) 24,0 39,0 61,0 72,0 86,0 120,0 151,1 173,0 182,0 190,0 Nguồn: Như biểu số 2. Đối với một số nước công nghiệp mới như Đài loan và Hàn quốc, tình hình phát triển trang trại cũng theo quy luật chung: khi bước vào công nghiệp hoá thì trang trại phát triển mạnh, khi công nghiệp hoá đã phát triển thì trang trại giảm về số lượng (xem biểu 5 ,6 ). Biểu số 5: Sự phát triển trang trại ở Đài loan 1955 1960 1970 1988 1. Số lượng trang trại (1000 trang trại ) 714 808 916 730 2. Diện tích bình quân (ha/trang trại ) 1,1 0,91 0,83 1,2 Biểu số 6: Sự phát triển trang trại ở Hàn Quốc 1953 1965 1975 1980 1. Số lượng trang trại (1000 TT ) 2249 2507 2379 1772 2. diện tích bình quân (ha/TT) 0,86 0,9 0,95 1,2 Như vậy lúc đầu công nghiệp hoá tác động tích cực đến sản xuất nông - lâm nghiệp cho nên số lượng trang trại tăng nhanh. khi công nghiệp hoá đạt đến mức độ cao thì một mặt công nghiệp thu hút lao động từ nông nghiệp, mặt khác nó lại tác động làm tăng năng lực sản xuất của các trang trại bằng việc trang bị máy móc thay thế lao động thủ công. Do vậy số lượng các trang trại giảm nhưng quy mô diện tích và giá trị tổng sản lượng được cung cấp từ trang trại lại tăng lên. * Các yếu tố sản xuất của trang trại: - Ruộng đất: phần lớ._.n trang trại sản xuất trên ruộng đất thuộc sở hữu của gia đình. Nhưng cũng có trang trại phải đi thuê một phần hoặc toàn bộ ruộng đất tuỳ vào từng nước. ở Anh, Năm 1985 có 60% trang trại có ruộng đất riêng, 22% thuê một phần và 18% thuê toàn bộ. Năm 1990 có 70% trang trại gia đình có ruộng đất riêng, 30% trang trại phải đi thuê một phần hay toàn bộ ruộng đất. ở Đài Loan, Năm 1981 có 84% trang trại có ruộng đất riêng, 9% đi thuê một phần và 7% thuê toàn bộ ruộng đất để sản xuất kinh doanh. - Vốn sản xuất: Nhìn chung, để mở rộng sản xuất kinh doanh các trang trại ngày càng có xu hướng sử dụng nhiều vốn vay từ bên ngoài. ở Mĩ, năm 1960 tổng số vốn vay của trang trại là 10 tỷ USD, năm 1970 là 54,5 tỷ USD, năm 1985 là 88,5 tỷ USD. ở Nhật Bản năm 1970 là nước có khoản đầu tư lớn nhất cho nông nghiệp, quỹ tài trợ sản xuất lúa gạo chiếm 44% ngân sách cho đầu tư nông nghiệp. - Máy móc thiết bị phục vụ sản xuất: ở các trang trại công cụ sản xuất bao gồm súc vật cày kéo, máy móc động lực cơ điện, công cụ máy nông nghiệp và các chuồng trại nhà kho. Đến nay ở các nước phát triển đã tăng cường sử dụng máy móc hiện đại với mức độ cơ giới hoá ngày càng cao, từng bước tự động hoá tin học hoá trong sản xuất. Hình thức sử dụng máy móc do một hiệp hội đứng ra quản lý đang ngày càng phổ biến. ở Nhật Bản năm 1985, 67% trang trại có máy kéo nhỏ, 20% trang trại có máy kéo lớn. - Sử dụng lao động trong các trang trại: Số lượng lao động trong các trang trại ở mỗi nước không còn phụ thuộc vào quy mô sản xuất mà chủ yếu phụ thuộc vào trình độ công nghệ sản xuất nông nghiệp. Một trang trại có quy mô 25- 30 ha chỉ sử dụng 1- 2 lao động gia đình và từ 1- 2 lao động làm thuê thời vụ. Thậm trí ở Mĩ trang trại lớn hơn 100 ha chỉ sử dụng 2 lao động chính. ở một số nước Châu á như Nhật Bản năm 1990 mỗi trang trại có khoảng 3 lao động, nhưng chỉ có 1,3 lao động làm nông nghiệp. Từ quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại trên thế giới nên ta có thể rút ra một số nhận xét sau: - Phát triển kinh tế trang trại là thích hợp và đạt hiệu quả kinh tế cao. - Quy mô trang trại ở mỗi nước là khác nhau, nhưng có xu hướng ngày càng tăng lên. - Đất đai của trang trại thuộc nhiều loại sở hữu khác nhau, trong đó chủ yếu là đất thuộc sở hữu của hộ gia đình. Người chủ trang trại có toàn quyền quyết định phương hướng sản xuất kinh doanh của trang trại sao cho đạt hiệu qủa cao nhất. - Cơ cấu thu nhập của trang trại thay đổi theo chiều hướng giảm thu từ nông nghiệp, trong khi đó thu từ các ngành phi nông nghiệp ngày càng tăng. - Các chủ trang trại ngày càng chú trọng hơn vào việc đầu tư ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh và tổ chức quản lý của trang trại nhằm đáp ứng tốt hơn mục tiêu sản xuất hàng hoá của loại hình tổ chức sản xuất hàng hoá này. - Trong chính sách của Chính phủ các nước đều có xu hướng thống nhất là kích thích, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để kinh tế trang trại thực sự phát huy được nội lực và ưu thế của nó trong quá trình phát triển hướng tới một nền nông nghiệp văn minh. 6.2. Tình hình chung về phát triển kinh tế trang trại ở Việt nam. Mặc dù đã xuất hiện từ rất lâu, nhưng kinh tế trang trại ở Việt nam chỉ phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, có thể xem thực hiện chỉ thị 100 Ban bí thư TW khoá IV, NQ10 của Bộ chính trị về phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ nông dân và đặc biệt sau khi luật đất đai ra đời năm 1993 thì kinh tế trang trại thực sự có bước phát triển khá nhanh và đa dạng. Nếu theo quy định của tổng cục thống kê về tiêu chuẩn trang trại ( Quyết định số 359/1998/QĐ - TCTK ngày 01/07/1998 ) thì cả nước có 45.372 trang trại. Trong đó chia theo hướng sản xuất có 37.949 trang trại trồng cây công nghiệp lâu năm và cây hàng năm, chiếm 83,6%; 1306 trang trại nuôi trồng thuỷ sản, chiếm 3,8%; 2559 trang trại kinh doanh tổng hợp đa nghành, chiếm 5,6%. Chia theo vùng kinh tế: Vùng Đông Bắc có 3.491 trang trại, chiếm 7,7%; Vùng Tây Bắc có 238 trang trại chiếm 0,5%; Vùng Đồng Bằng Sông Hồng có 1394 trang trại chiếm 9,2%; Vùng Duyên Hải Miền Trung có 2.706 trang trại, chiếm 4,6%; Vùng Tây Nguyên có 6.333 t, chiếm 4,6%; Vùng Tây Nguyên có 6.333 trang trại, chiếm 13,6%; Vùng Đông Nam Bộ có 8402 trang trại, chiếm 18,5%; Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long có 19259 trang trại, chiếm 42,4%. Số LĐ bình quân/ trang trại là 2,8 người, lao động thuê ngoài theo thời vụ 11,5 người. Bình quân 1 trang trại trồng trọt có 5,3 ha đất nông nghiệp, lâm nghiệp có 26,8ha nuôi trồng thuỷ sản có 10,7ha. chăn nuôi có 528 con trâu,bò; 530 con gia cầm. Vốn sản xuất bình quân của 1 trang trại là 60,2 triệu đồng; thu nhập bình quân 1 trang trại là 22,6 triệu đồng (thu nhập đã trừ chi phí ). Về quy mô diện tích của mỗi trang trại ở nước ta theo điều tra của cục thống kê cho thấy: trang trại < 1ha chiếm 15%; từ 1 - 5 ha chiếm 28%; từ 5- 10 ha chiếm 34%; từ 10- 20 ha chiếm 16%; từ 20 - 50 ha chiếm 4% và trên 50 ha chiếm 3%. Ngoài việc góp phần làm giàu cho các chủ trang trại, phát triển kinh tế trang trại ở Việt nam trong những năm qua đã giải quyết việc làm tại chỗ cho hơn 50.000 lao động làm thuê thường xuyên và 520.000 lao động làm thuê theo thời vụ tạm thời ở nông thôn. Tổng số vốn huy động đâu tư phát triển kinh tế trang trại ước tính là 2.730,8 tỷ đồng, thu nhập hàng năm từ các hoạt động kinh tế của trang trại là 1.023,6tỷ đồng. Ngoài ra các trang trại còn đóng góp đáng kể vào việc bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao độ che phủ của rừng từ 22% lên 28%. kinh tế trang trại đã tự khẳng định vai trò của mình trên hầu khắp các vùng kinh tế: đồi núi, đồng bằng, ven biển. Vùng đồi núi nước ta từ Bắc Bộ đến Trung Bộ, Tây nguyên và Đông Nam Bộ có lợi thế về quỹ đất phát triển nông - lâm nghiệp với 9,3 triệu ha đất rừng và 9,6 triệu ha đất trống đồi núi trọc, có thời tiếta khí hậu thuận lợi cho phát triển trồng rừng, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc theo mô hình kinh tế trang trại. Trong những năm gần đây đã xuất hiên ngày càng nhiều các mô hình kinh tế trang trại của các hộ gia đình từ miền xuôi lên trồng rừng, trồng cây công nghiệp, cây cà phê, chè, hạt tiêu, điều,cao su...., chăn nuôi trâu bòvới quy mô nhỏ, vừa và lớn. Vùng ven biển: nước ta có triều dài bờ biển trên 2000km với các eo biển, bãi biển, đầm phà, rừng ngập mặn. Diện tích của vung địa lý này ước tính vào khoảng 400.000ha là vùng lãnh hải rộng lớn có điều kiện thuận lợi để phát triển nuôi trồng, khai thác thuỷ hải sản. ở các vùng ven biển từ Bắc đến Nam đã xuất hiện các mô hình trang trại nuôi tôm, cua, cá, ngao..... với đủ mọi quy mô. Đến năm 1997, vùng ven biển có15.666 trang trại có quy mô từ 5 - 20 ha. Vùng Đồng Bằng: Đồng bằng là nơi sản xuất ra 70 - 80% sản lượng lương thực, thực phẩm của cả nước và là nơi xuất khẩu toan bộ lúa gạo. Đồng bằng là nơi đát trật, người đông, lao động dồi dào, cơ sở hạ tầng phát triển, gần thị trường, có điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Đồng Bằng Sông Cửu Long có quỹ đất tương đối dồi dàonên nhiều hộ nông dân đã thực hiện sản xuất theo mô hình trang trại với đủ môị quy môtừ 1 - 30 ha. Có trên 50% tổng số 1,8 triệu hộ nông dân Đồng Bằng Sông Cửu Long sản xuất nông sản hàng hoá, trong đó khoảng 400.000 hộ nông dân là trang trại gia đình với nhiều dạng khác nhau thông qua đấu thầu đất đai, mặt nước hoang hoá, nhận khoán thâm canh, phát triển chăn nuôi, kinh doanh tổng hợp, nuôi trồng các loại cây con đặc sản như: hoa, cây cảnh, ba ba, rùa. ở vùng Đồng Bằng Sông Hồng hiện nay có ít nhất 10 - 12% số hộ nông dân sản xuất kinh doanh hàng hoá. * Nhận xét về tình hình và xu thế phát triển kinh tế trang trại ở Việt nam hiện nay: - Mô hình kinh tế trang trại ngày nay phát triển rộng khắp trên mọi vùng kinh tế của đất nước và ngày càng chứng tỏ là loại hình sản xuất kinh doanh mới có hiệu quả trong nông nghiệp, nông thôn. - kinh tế trang trại khá đa dạng về quy mô, loại hình sản xuất,cơ cấu nghành nghề, thành phần của chủ thể ... Nhưng đều đem lại hiệu quả kinh tế xã hội, môi trường sinh thái rõ rệt nhờ phát huy tốt nội lực, khai thácmọi nguồn tiềm năn, cơ hội của mình. - Kết quả và hiệu quả kinh tế xã hội - môi trường lớn nhất là kinh tế trang trại đã góp phần biến những vùng đất hoang hoá, khô cằn hoặc ngập nước quanh năm thành những vùng kinh tế trù phú, toạ thêm việc làm, tăng của cải vật chất cho cộng đồng và xã hội. Bên cạnh những thành tựu đạt được, thực tế phát triển kinh tế trang trại ở Việt nam trong những năm qua đã đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi Nhà nước, các cấp, các nghành và trước hết là các chủ trang trại quan tam nhằm: Một mặt phát huy tốt nội lực của trang trại, mặt khác hạn chế những mặt trái của quá trình phát triển kinh tế trang trại gây ra như vấn đề công ăn việc làm ở nông thôn do tích tụ ruộng đất, tranh chấp đất đai, phá rừng nguyên sinh, rừng ngập mặn..,làm ảnh hưởng tới lợi ích của người nông dân, của cộng đồng, của xã hội trước mắt cũng như trong tương lai. 7. Các chỉ tiêu phân tích. Căn cứ vào đặc điểm cụ thể của kinh tế trang trại tỉnh Sơn La, em xác định hệ thống chỉ tiêu sau để phản ánh và đánh giá thực trạng kinh tế trang trại của tỉnh trong quá trình nghiên cứu. a. các chỉ tiêu phản ánh các yêú tố sản xuất của trang trại. - Đất đai bình quân 1 trang trại . - Vốn sản xuất bình quân một trang trại . - Lao động bình quân một trang trại. Cơ cấu lao động theo lao động( lao động gia đình, lao động thuê ngoài ). b. các chỉ tiêu phản ánh kết quả , chi phí hiệu quả và tình hình sản xuất hàng hoá của trang trại. *các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại. Tổng doanh thu của trang trại là tổng là tổng trang trại tính bằng tiền của các loại sản phẩm được sản xuất ra ở trang trại bao gồm phần giá trị để lại tiêu dùng (tiêu dùng cho sinh hoạt và cho tái sản xuất) và giá trị sản phẩm bán ra trên thị trường. - Tổng chi phí: Là toàn bộ các khoản chi phí vật chất bao gồm các khoản chi phínguyên vật liệu: giống, phân bón, thuốc trừ sâu, lao động và các khoản chi phí dịch vụ bên ngoài:Bảo vệ thực vật, dịch vụ thuỷ lợi. - Lợi nhuộn : Là giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ do các nghành sản xuất tạo ra trong một năm hay một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Lợi nhuộn được tính theo công thức : TN=TR-CT Trong đó: TN: Lợi nhuận. TR: Tổng doanh thu . TC: Tổng chi phí. * Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế. Doanh thu / Chi phí = Tổng doanh thu / Tổng chi phí. Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng chí bỏ ra cho sản xuất kinh doanh thì trang trại thu được bao nhiêu đồng thu. Lợi nhuận / Chi phí = Tổng lợi nhuận / Tổng chi phí. chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng chi bỏ ra cho sản xuất kinh doanh thì trang trại thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Doanh thu / lao động = Tổng doanh thu / Tổng số lao động . Trong đó: Tổng ssố lao động bao gồm cả lao động gia đình và lao động thuê ngoài. Chỉ tiêu này cho biết cứ một lao động tham gia vào sản xuất kinh doanh thì trang trại thu được bao nhiêu đồng doanh thu . Thu nhập / Lao động = Tổng doanh thu / Tổng số lao động. Chỉ tiêu này cho biết cứ một lao động tham gia vào sản xuất kinh doanh thì đưa lại cho trang trại bao nhiêu đồng thu nhập . Doanh thu / Diên tích = Tổng doanh thu /Tổng diện tích . Chỉ tiêu này cho biết cứ một đơn vị diên tích (Ha) canh tác thì trang trại thu được bao nhiêu đồng thu nhập Chỉ tiêu này cho biết cứ một đơn vị diên tích (Ha) canh tác thì trang trại thu được bao nhiêu đồng doanh thu. Thu nhập / Diện tích = Tổng thu nhập / Tổng diên tích. Chỉ tiêu này cho biết cứ một đơn vị diện tích (ha)canh tác thì trang trại thu được bao nhiêu đồng thu nhập. CHƯƠNG II Thực trạng và phát triển kinh tế trang trại của Sơn La I. Đặc điểm tư nhiên, kinh tế- xã hội có ảnh hưởng đến phát triển kinh tế trang trại của tỉnh 1. Đặc điểm tự nhiên. a. vị trí địa lý. Sơn La là một tỉnh miền núi nằm ở phía tây của tổ quốc,được chính phủ công nhận là tỉnh vùng cao, ở vào vị trí địa lý khoảng 20039'- 22002' vĩ độ Bắc và 103011' kinh độ Đông. Nhìn chung địa hình mang tính đồi núi thấp, độ cao trung bình vào khoảng 600-700m, các hệ thống núi trong tỉnh đều chạy theo hướng Tây bắc -Đông nam và cùng với dải Hoàng liên sơn. ở phía Bắc có dải cao nguyên đá vôi ở giữa, chúng chia lãnh thổ Sơn La thành hai khu vực sông lớn là sông mã Sông Đà, từ mỗi dãy núi lớnlại có nhiều nhánh núi nhỏ đâm ra theo các hướng khác nhau. Do đó đặc điển nổi bật của địa hình ở đây là độ dốc lớn, mức độ chia ngang và chia cắt său mạnh cho nên đai bộ phận đồng ruộng của Tỉnh rất nhỏ hẹp, manh mún, chủ yéu là ruộng bậc thang, trên 80% diện tích có độ dốc trên 35độ và khoảng 5% diện tích có độ dốc dưới 15độ. Sơn La có gần 200 km đường biên giáp nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào anh em,Sơn La đã có chiều dài trên 200km và chiều ngang hẹp, chỗ hệp nhất chỉ có 45km. Sông Đà và sông Mã chay song song theo chiều dài của Tỉnh. Phía bắc là các dẫy núi cao liên tiếp, trung bình có độ cao 1200 m, Trong đó có đỉnh Su pu phin cao 2874m. Giữa Tỉnh có dẫy núi Siu Sung Chảo Chai khá cao từ huyên thuận chău kéo dài qua huyện Mai Sơn, Yên Châu về giáp Hoà Bình. Trải dài theo chiều dài của tỉnh là hai cao nguyên đólà cao Mộc chău kéo dài từ huyện Yên Chău đến suối Rút độ cao trung bình 1000 m với bề mặt tương đối bằng phẳng và cao nguyên Sơn La kéo dài từ Thuận Châu đến Cò Nòi huyện Mai Sơn, địa hình ở đây cao 500-700 m, đồng thời cũng là đường phân thuỷ giữa sông Đà và sông Mã. Địa hình bị chia cắt său và mạnh tạo cho Sơn La có nhiều vùng khí hặu khác nhau với nhiều chủng loại căy con khác nhau. b. Đất đai. Sơn La có diên tích tự nhiên 1.405.500 ha, rộng thứ 5 trong 61 tỉnh thành trong cả nước, nhưng chỉ có 13% là diện tích tự nhiên (trên 18 vạn ha) có độ dốc dưới 25độ,còn lại phần lớn đất đai (83%) ở độ dốc cao. Một số đặc điểm đáng chú ý là trong tổng số đất nông nghiệp đang được sử dụng của Sơn La hiên nay chỉ có khoảng 40% có độ dốc dưới 25độ,còn lại 30%có độ dốc trên 25độ và 30%có độ dốc trên 35độ. Do nông nghiệp canh tác tren dốc có độ dốc cao cho nên sau một thời gian canh tác đất nhanh chóng bị rửa trôi,bạc màu không phù hợp cho sản xuất nông nghiệp nữa mà phải chuyển sang trồng cây công nghiệp . Tiềm năng mở rộng còn khoảng 7 vạn ha. Trong đó có 4 vạn ha có độ dốc dưới 25 và phải tận dụng khoảng 3 vạn ha ở độ dốc 20 - 30 làm đồng cỏ chăn nuôi, trồng cây dài ngày như chè, cây ăn quả. Nhưng do điều kiện địa hình phân tán chia cắt, nhiều điểm ở quá xa khu dân cư, đường giao thông chưa phát triển nên việc khai thác đưa vào sử dụng 7 vạn ha đất nông nghiệp hoang hoá này đòi hỏi khối lượngvốn đầu tư khá lớn. Nếu tính bình quân theo đầu người thì đất canh tác của tỉnh Sơn La không phải là quá thấp so với bình quân chung cả nước, nhưng hệ số lần trồng trên một đơn vị diện tích còn đạt thấp, mới chỉ đạt 1,1 - 1,5 lần vì địa hình, thời tiết khí hậu khó khăn ( khô hanh vào vụ đông xuân ). Ruộng nước chỉ có 15 nghìn ha vừa qua đã bị ngập 1 ngàn ha do việc xây dựng thuỷ điện Hoà Bình. Đất trồng lúa nương hiện còn khoảng 3 - 4 vạn ha, nhưng nếu xét về mặt địa hình thì chỉ có 1 vạn ha là có thể tồn tại một cách hợp lý. Trong 4 vạn ha đang được sử dụng trồng lúa nương thì có trên 1 vạn ha có độ dốc trên 45 và 2 vạn ha thích hợp với việc trồng cây màu lương thực như ngô, sắn. Đặc biệt Sơn La vẫn còn quỹ đất khoảng 2,2 vạn ha có thể dùng cho cây công nghiệp dài ngày. Tuy là tỉnh có khả năng lớn về lâm nghiệp ( trên 79% diện tích tự nhiên có thể dùng cho phát triển lâm nghiệp ). Song diện tích rừng bình quân theo đầu người chưa hết 1 ha. Từ những năm 1950cho đến những năm 1980 rừng Sơn La bị tàn phá nặng nề, từ diện tích che phủ đạt 45% vào cuối những năm 1980. Nhưng đến nay rừng đang được chú trọng khôi phục và phát triển nên đã nâng độ che phủ, tính đến 31/12/1998 là trên dưới 20%. Biếu số 7: Hiện trạng đất đai của tỉnh Sơn La. Các chỉ tiêu Toàn Quốc Tỉnh Sơn La Diện tích (Ha) Cơ cấu (%) Diện tích (Ha) Cơ cấu (%) Tổng diện tích tự nhiên 32.868.095 100 1.405.500 100 I.Đất nông nghiệp 7.954.079 24,20 245.962 17,5 1.Trồng cây hàng năm 5.575.809 70,10 165.532 67,3 2.Trồng cây lâu năm 548.831 6,90 15.249,50 6,2 3.Ao hồ phục vụ NN 1.423.780 17,90 40.583,70 16,5 4.Đất vườn 79.541 1,00 3.935,40 1,6 5.Đồng cỏ chăn nuôi 326.117 4,10 20.661 8,4 II.Đất lâm nghiệp 2.071.594 27,60 543.928 38,7 III.Đất dân cư 2.070.689 6,30 63.247,50 4,5 IV.Đất chuyên dùng 3.681.226 11,20 174.282 12,4 V.Đất chưa sử dụng 10.089.584 30,70 518.630 36,9 1.Đất bằng 1.442.810 14,30 35.266,80 6,8 2.Đồi núi 7.668.084 76,00 440.835,50 85,0 3.Mặt nước 978.689 9,70 42.527,60 8,20 Nguồn: Sở Địa chính Sơn La Hiện nay Sơn La còn khoảng 70 vạn ha đất trống đồi núi trọc có khả năng phát triển lâm nghiệp (trong đó khoảng 8 vạn ha có thể phát triển nông nghiệp). Đây là tiềm năng khá lớn về mặt đất đai mà trong tương lai Sơn La có thể khai thác được. c. Đặc điểm khí hậu Do ảnh hưởng của vị trí địa lý, độ cao địa hình nên khí hậu Sơn La có những nét đặc thù riêng, song nhìn chung vẫn mang tính khí hậu gió mà chí tuyến. Vì cấu trúc địa hình như trên mà lãnh thổ bị che khuất cả hai luồng gió chính, cho nên mùa đông rất khô hanh và mùa hè có gió lào khô nóng. Do địa hình cao (trên 500m ) nên khí hậu ở đay mang tính nhiệt đới rõ rệt. * Chế độ nhiệt: Sơn La là một trong những tỉnh có thời lượng mặt trời chiếu sáng rất cao, gần như quanh năm (từ tháng1đến tháng 11) nên lượng bức xạ tổng cộng của Sơn La lớn (135,1 KCal/cm/ năm)và cán cân bức xạ cao (76,9 KCal/cm/ năm), nhưng kết hợp với chế độ toàn lưu, độ cao địa hình làm cho nhiệt độ ở đây giảm xuống. Biểu 8: Nhiệt độ trung bình tháng (0 C) Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Thị xã 11,4 16,7 17,7 22,8 24,8 24,9 24,9 24,6 23,8 21,3 18,2 15.3 H. Mộc Châu 12,1 13,6 16,8 20,3 22,3 23,0 23,0 22,5 21,4 19,0 15,9 13.3 Nguồn: Đài KTTV tỉnh Sơn La Chế độ nhiệt cũng phân ra hai mùa, mùa Đông khô kéo dài từ tháng 10 tới tháng 3 năm sau, mùa hè nóng ẩm từ tháng 4 tới tháng 9. Nằm trong khu vực Tây Bắc, Sơn La là một trong những nơi có khả năng đạt tới giá trị nhiệt độ tuyệt đối rất cao, ở những vùng thung lũng có lúc đạt tới 420 C vào tháng 6, tháng 7, cũng có vùng mà nhiệt độ tới thấp có thể xuống tới giá trị nhỏ nhất so với nhiều nơi khác và thường sảy ra vào tháng 1. Biểu 9: Nhiệt độ tối thấp và tối cao tuyệt đối có thể có Địa điểm Tối cao Tối thấp Với mức bảo đảm Tới cao tuyệt đối Với mức bảo đảm Tới thấp tuyệt đối 25% 10% 5% 25% 10% 5% Thị xã Sơn La 37,8 38,8 39,7 40,5 1,2 0,2 -1,2 -3,0 Huyện Mộc Châu 33,9 34,6 35,2 35,7 0,7 -0,1 -0,2 --- Nguồn: Đài KTTV tỉnh Sơn La * Đặc điểm chế độ nhiệt: Chế độ mưa, ẩm cũng bị phân thành 2 mùa rõ rệt. + Mùa Đông: mùa ít mu2ưa, lượng mưa dưới 10% lượng mưa cả năm, độ ẩm không khí xuống thấp tới 75 - 76%, tháng 12 và tháng 1 là nhưngtx tháng có lượng mưa thấp. Mùa này là mùa khô hanh kéo dài, đồng thời lại thường có hiện tượng sương muối ( như tháng 11, 12/ 1999) nên việc gieo trồng gặp rất nhiều khó khăn. + Mùa mưa: Với quy ứoc mùa mưa là thời kỳ mà lương mưa tháng đạt trên 100mm thì ở Sơn La mùa mưa bắt đầu vào tháng 5 và kéo dài tới tháng 9, trong mùa này lượng mưa chiếm tới 90% lượng mưa của cả năm. Sơn La là một Tỉnh tương đối ít mưa so với nhiều nơi khác ( lượng mưa trung bình 1200 - 1600mm), trung bình hàng năm có 123 ngày mưa, thung lũng Yên Châu bị chắn ở phía Đông và phía Tây nên có lượng mưa thấp nhất tỉnh, lượng mưa cả năm chỉ đạt dưới 1200mm và cũng là nơi thiếu độ ẩm trầm trọng vào mùa đông. Biểu 10: Lượng mưa trung bình tháng và năm (mm) Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Thị xã 11 25 42 103 173 263 259 273 153 44 10 116 H. Mộc Châu 4 17 34 79 130 222 270 314 214 58 17 18 Nguồn: Đài KTTV tỉnh Sơn La d. Thuỷ văn, nước ngầm Các đặc điểm địa lý đặc biệt là khí hậu và địa hình đã ảnh hưởng trực tiếp đến đặc điểm và chế độ thuỷ văn của tỉnh Sơn La. Như trên đã nói, Tỉnh Sơn La là một trong những tỉnh có lưọng mưa ít ( 1200 - 1600mm/ năm), lưọng bốc hơi tới 841mm/ năm, hơn nữa các phức hệ đất đá trong vùng có khả năng thấm nước tốt nên ở đây nước ít, lượng dòng chảy nhỏ ( dưới 201/s/km). Tỉnh có mật độ lưới sốnguối trung bình 0,5 - 1,8km/km. Các sông chính đều chảy theo hướng núi: hướng Tây Bắc, Đông Nam, đại bộ phận sông suối Sơn La chảy trên các sườn dốc thung lũng hẹp nên lắm thác ghềnh và thuỷ chiều rất thất thường. Trong thuỷ chế có mùa lũ và mùa cạn kéo dàitừ tháng 5 đến tháng 10 và từ tháng 10 đến tháng 5 năm sau. Lãnh thổ Sơn La thuộc lưu vực của 2 con sông lớn là sông Đà và sông Mã. Sông Đà chảy quanh tỉnh với chiều dài khoảng 239km, diện tích lưu vực trên 10. 000km với 14 phụ lưu lớn, độ chênh lệch trên 100m nên có nhiều thác. Sông Mã chảy trong tỉnh với chiều dài 93 km, diện tích lưu vực khoảng 4000km với 11 phụ lưu lớn. Biểu 11: Bảng đặc trưng dòng chảy Sông Đà Địa điểm Lưu lượng bình quân năm (m3/s) Tổng lượng nước năm Lưu lượng lớn nhất đo được (m3/s) Hệ số dòng chảy Tên trạm thuỷ văn Sông Đà 1.744 56,4 21.000 0,64 Hoà Bình Nguồn: Sở thuỷ lợi tỉnh Sơn La e. Thổ nhưỡng. Phần lớn đất đai Sơn La phát triển trên vùng đá vôi với hiện tượng cát mạnh, một phần tồn tại phát triển trên đá sa thạch và phiến thạch, một số dạng sườn và bồi tích. Đặc điểm của đất đai Sơn La là tầng đất mặt khá dày, thấm nước tốt, tỷ lệ đạm cao. Tuy nhiên tính chất lý hoá của đất có xu hướng biến đổi theo chiều hướng xấu dần do quá trình canh tácnương dẫy và ruộng bậc thangkhông bón phân trong thời gian dài. Sơn La có các loại đất chủ yếu sau: + Đất đỏ vàng phát triển trên các loại đá cục khác nhau. Phân bổ ở vùng đồi núi thấp nằm giữa dãy Hoàng Liên Sơn và các caom nguyên đá vôi. Đất có thành phần cơ giới trung bình, nơi nào còn lớp phủ thực vật có hàm lượng mùn cao, còn một số nơi bị sói mòn mạnh. + Đất mùn trên núi phân bổ ở cacá vùng núi phía Nam tỉnh với độ dốc lớn, quá trình rửa trôi mạnh. + Đất phát triển trên cao nguyên đá vôi, ở đây phổ biến là nhóm đất tàn tích tại chỗ của đá vôi ( đất đỏ đá vôi ). Ngoài ra còn đất phù xa ven sông Đà và sông Mã, lượng đất này có lượng mùn cao, thành phần cơ giới tập trung, giàu chất hữu cơ. f. Động thực vật. Rừng tự nhiên ở Sơn La bịphá hoại nghiêm trọng nhưng đang được trú trọng phát triển nghề rừng ( ưóc tính chung cho cả vùng Tây Bắc năm 1994 độ che phủ chỉ còn 9 - 10% nay đã được nâng lên khoảng 20% ). Cỏ tranh, lau lách, cây bụi phát triển trên địa bàn rộng, Rừng tốt chỉ còn lác đác vài vệt, tập chung ở các vùng núi cao, xa khu dân cư. Rừng ở đay là kiểu rừng lá rộng hỗn giao nhiệt đới. ở một dải hẹp có khí hậu khô như sông Mã ta có thể gặp các thực bì lá kim mà đại diện điển hình nhất là cây Du Sam. Vùng đồi núi thấp huyện Phù Yên rừng còn tương đối rậm, tại đây các cây có nguồn gốc ôn đới xen kẽ với các cây nhiệt đớinhư dẻ, re, xen với vàng tâm, trò chỉ... thực vật trồng gồm có các câycông nghiệp dài ngày như hồi, trẩu, chè... Về động vật: Tuy nằm trong khu Tây Bắc nhưng do rừng bị tàn phá nhiều nên tại Sơn La ít gặp các loại thú ăn thịt lớn như hổ, báo mà chỉ có nai, hoẵng, chó, sơn dương, trong các loài chim thì có công, trĩ, giẽ, hoạ mi... Trong các loại côn trùng có ích phải kể đến cánh kiến cỏ, cánh kiến trắng, ong mật... Nuôi thả các loài côn trùng này là nghề cổ truyền của nhân dân Sơn La, đặc biệt là ong đang rất được trú trọng phát triển. ở Sơn La ngoài các loài cá nước ngọt thông thường ở các nơi khác ta còn có thể gặp các loài cá đặc hữu như cá chày, cá chiên, cá nén.... Trong tương lai sông Đà sẽ là một thuỷ vực có nguồn lợi thuỷ sản lớn. 2. Đặc điểm kinh tế xã hội. a. Dân số và lao động. Toàn tỉnh Sơn La có 9 huyện và 1 thị xã, gồm 12 dân tộc anh em cùng sinh sống, cơ cấu dân tộc hầu như ổn định, dân tộc thái chiếm 55,6%, dântộc kinh 18%, H’ Mông 12%, Mường 8,1%, ngoài ra còn có các dân tộc khác như: Khơ mú, Kháng, Sinh mun... Dân số toàn tỉnh Sơn La đến 31/12/1999 có 881.383 người, tuy mật độ dân số thấp 62 người/km nhưng phân bố không đều, khó khăn cho quy hoặch vùngvà bước đầu có mâu thuẫn giữa mật độ dân số và đất canh tác. Dân số thành thị có 112.642 người chiếm 12,27%, dân số nông thôn 768.741 người chiếm 87,22%, số người trong độ tuổi lao động 414.250 người, chiếm 47% dân số toàn tỉnh. Sự phân bố lãnh thổ của chỉ tiêu mật độ dân số phản ánh rõ điều kiện phát triển nông lâm nghiệp. * Vấn đề lao động và sử dụng lao động: + Lao động nông nghiệp đặc biệt chiếm tỷ lệ cao: 91% + Lao động trong công nghiệp, dịch vụ: 9% Ngay ở thị xã Sơn La lao động nông nghiệp cũng chiếm tới 64%, gần bằng tỷ lệ lao động của cả nước. Việc dân cư tập trung quá đông ở nông thôn đã gây ra áp lực lớn trong việc giải quyết công ăn việc làm và nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân. Đồng thời điều này cũng đặt ra một yêu cầu cấp bách là phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng hiệu quả cao hơn. b. Kinh tế - xã hội. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong những năm qua tình hình kinh tế xã hội của Sơn La đã được phát triển với nhịp độ cao. Nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong tỉnh ( GDP ) liên tục nhiều năm đạt 6 - 8%. Xu hướng phát triển kinh tế hàng hoá tiếp tục được duy trì và phát triển, một số mặt được củng cố, nhất là nông - lâm nghiệp nhiều loại nông sản hàng hoá đã có khối lượng tương đối khá. Sản xuất công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tuy không ít khó khăn nhưng tỷ trọng đang tăng dần, trạng thái tự cấp, tự túc nặng nề căn bản được khắc phục, mức độ thuần nông đã giảm bớt. Có thể nhận định rằng, nền kinh tế liên tục phát triển và chuyển dịch đúng hướng theo xu hướng phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước phù hợp với nhu cầu của thị trường, hướng theo xuất khẩu và sát với lợi thế của địa phương, từng bước đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá. c. Giáo Dục - Y tế - Văn hoá. + Công tác giáo dục đã được xã hội hoá cao, mạng lưới giáo dục đã được mở rộng tới tận các bản. Việc mở các lớp gép, các lớp cắm bản, lớp " linh hoạt ", là một sáng tạo thực sự phù hợp với thực thế miền núi, đáp ứng nhu cầu học tập, nâng cao dân trí của con em dân tộc ít người. Công tác giáo dục đã kết hợp chặt chẽ đa dạng hoá đào tạo giữa tập trung trong việc đào tạo thế hệ trẻ ( nhất là dân tộc ít nhười với cả việc bồi dưỡng, chuẩn hoá đội ngũ cán bộ giáo viên). Được sự đồng ý giúp đỡ của Bộ đại học hiện nay Sơn La đã mở được 1 trường đại học tại chức ngay tại thị xã Sơn La. Việc này tạo điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ cho tỉnh, tạo nhiều thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế xã họi của Tỉnh. + Mạng lưới y tế đã vươn tới tận xã, số giường bệnh trung bình của mỗi xã là 3,2 giường, bệnh viện cấp huyện trở lên có quy mô giường bệnh là 154 giường/huyện. Là một Tỉnh đặc thù miền núi y tế Sơn La còn gặp nhiều khó khăn. - Còn rất thiếu cán bộ, y bác sỹ, đặc biệt là cán bộ y bác sỹ có trình độ chuyên môn cao. - Trang thiết bị y tế còn rất thô sơ, thiếu thốn so với nhu cầu chữa bệnh của nhân dân. - Hàng năm vẫn còn sảy ra sốt suất huyết ở các làng bản, bệnh biếu cổ còn thịnh hành mặc dù mạng lưới y tế thường xuyên cấp phát thuốc và chữa trị. + Văn hoá: Trên cơ sở thế mạnh về truyền thông văn hoá dân tộc, hoạt động văn hoá ở tỉnh có nhiều khởi sắc và đạt được nhiều thành tựu. Duy trì và phát huy mạnh mẽ các hoạt động văn hoá vừa đảm bảo được sinh hoạt văn hoá tinh thần cho nhân dân và các dân tộc vừa phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đã đưa hoạt động văn hoá thể thao tham gia giao lưu đối ngoại tại Lào, Thái Lan đạt kết quả tốt. Duy chỉ có hiệu quả việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hoá tại trường văn hoá nghệ thuật tỉnh, đẩy mạnh các hoạt động thể thao quần chúng, xây dựng được cơ sở vật chất và trang thiết bị cho các nhà văn hoá trung tâm, thư viện và phương tiện nghe nhìn cho vùng cao. d. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật. + Giao thông: Hệ thống giao thông của tỉnh Sơn La kém phát triển, chỉ có quốc lộ 6 chạy qua trung tâm nối các huyện xuống Hoà Bình, Hà Nội. Ngoài quốc lộ 6 giao thông giữa các huyện, xã chủ yếu là đường cấp phối, đường đất nên mùa mưa đi lại khó khăn. Hiện nay Nhà nước đang đầu tư nâng cấp tuyến đường Phù Yên - Thanh Sơ ( Vĩnh Phúc ) và Sơn La - Sông Mã tạo nhiều thuận lợi cho giao lưu kinh tế. Nhìn chung giao thông giữa các huyện còn kém phát triển ảnh hưởng rất lớn đến việc giao lưu hàng hoá, chuyển giao khoa học kỹ thuật, còn cần sự đầu tư rất lớn của nhà nước cũng như của nhân dân địa phương. + Thuỷ lợi: Tỉnh đã chú trọng đầu tư phát triển hệ thống thuỷ lợi để phục vụ sán xuất nông nghiệp. Tuy nhiên các công trình đầu tưe xây dựng chưa nhiều chưa đáp ứng được nhu cầu tưới tiêu cho nông nghiệp, phần lớn còn là các công trình nhỏ, diện tích tưới tiêu ít và phân tán. Các công trình phần lớn được xây dựng từ lâu nên đến nay đã bị hư hongr nhiều, các đập dâng nước bị dò dỉ, hầu hết các công trình lấy nước của các hồ chứa thường bị hở nên gây thất thoát nước lớn, giảm khả năng tích nước của hồ. Các công trình thuỷ kợi không được xây dựng đồng bộ, chỉ xây các công trình đầu mối, còn các công trình tiếp theo không hoặc ít được xây dựng nên hạn chế khả năng tưới của công trình. Biểu 12: Bảng tổng hợp các loại công trình của tỉnh Sơn La. STT Tên công trình Đơn vị tính Số lượng 1 Hồ chứa nước Cái 107 2 Đập Xây - 41 3 Đập dọ thép - 145 4 Phai tạm (gỗ, đá) - 1.029 5 Kênh mương Km 115,8 6 Trạm bơm Trạm 14 Nguồn: Sở thuỷ lợi tỉnh Sơn La Công tác thuỷ nông tuy đã được chú ý phát triển nhưng vẫn chưa đạt với tầm quan trọng của nó, cho nên trong việc khai thác sử dụng nước còn chưa hiệu quả, nhiều lãng phí. Thuỷ lợi là một trong những yếu tố sản xuất quan trọng hàng đầu của nông nghiệp, do đó để các công trình thuỷ lợi phục vụ tốt hơn cho sản xuất cần phải có biện pháp sữa chữa nâng cấp các công trình hiện nay. Phải có chính sách tốt hơn đối với công tác quản lý thuỷ nông. + Điện: Hiện nay trong tỉnh đã có tuyến đường 35 KV đến tận trung tâm 10 huyện thị trong tỉnh. Nhưng có một số xã vùng cao, vùng sâu chưa có điện. Có một số hộ vùng cao s._.ầu tư còn hạn chế, trang trại sử dụng lao động gia đình là chủ yếu, việc thuê lao động chỉ mang tính thời vụ theo nhu cầu của từng công việc cụ thể, hình thức thuê chỉ là sự thoả thuận gữa hai bên, đôi khi qua môi giới mà không có hợp đồng lao động. Do đó, các quyền lợi của người lao động không được bảo đảm, đặc biệt về bảo hộ lao động, về bảo hiểm... *Luật đất đai hiện nay đã quy định mức hạn điền cho các vùng, cho các loại hình trang trại. Nên chăng vấn đề đặt ra cần tích tụ, tập trung ruộng đất phù hợp với khả năng tổ chức quản lý,vốn của trang trại... để phát huy tối đa tiềm năng của chủ trang trại, tạo ra khối lượng lớn sản phẩm cho xã hội, những phần diện tích vượt quá mức hạn điền cần có chính sách cho thuê. *Việc bố trí cây trồng còng thiếu quy hoạch, hiệu quả sử dụng đất đai vẫn còn thấp, đặc biệt các trang trại nông – lâm kết hợp sản xuất còn mang nặng tính quảng canh, khai thác tự nhiên là chính, đầu tư thâm canh còn nhiều hạn chế cho nên năng suất thấp, sản lượng bấp bênh. *Lao dedộng chủ yếu là lao động thủ công, năng suất lao động chưa cao.Ngành nghề phi nông ngiệp phát triển chậm, công nghiệp chế biến nông sản phẩm chưa được quan tâm đầu tư tương xứng, do vậy hạn chế đến việc nông cao chất lượng, giá trị sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm tươi sống. *Thị trường giá cả bấp bênh, ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của các chủ trang trại. *Thiếu vốn đầu tư cho sản xuất, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Hiện nay vốn vay mới chỉ đáp ứng được khoảng 60 –70% nhu cầu của các chủ trang trại. *Trình độ chuyên môn của người lao động và chủ trang trại còn rất nhiều hạn chế, ảnh hưởng nhiều đến quá trình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. *Cơ sở hạ tầng kém phát triển, nhất là ở vùng sâu, vùng xa làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình khai thác những tiềm năng kinh tế và lợi thế của trang trại. *Đến nay vẫn chưa có một quy định nào cho phép Đảng viên làm kinh tế trang trại. Cần nghiên cứu đề ra chủ trương khuyến khích Đảng viên làm kinh tề trang trại, song phải chấp hành tốt Chủ Trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. *Hiện nay đã bắt đầu xuất hiện tượng dư thừa nông sản vào lúc mùa vụ mà việc tác động lại thị trường lại vượt quá khả năng của các chủ trang trại.Nhà nước cần có chính sách kích cầu và bao tiêu nông sản phẩm cho các trang trại. Tuy nhiên những mặt đạt được của kinh tế trang trại vẫn là chủ yế, góp phần đáng kể vào việc phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn, tăng tỷ suất nông – lâm sản hàng hoá, huy động đượch nguồn vốn sẵn có trong dân cho đầu tư phát triển nông nghiệp, tạo việc làm và tăng thu nthập cho một bộ phận lao động dư thừa ở nông thôn. Kinh tế trang trại là nhân tố mới cho việc thực hiện CNH- HĐH nông nghiệp – nông thôn, là mắt xích cho sự liên kết, hợp tác gtiữa các thành phần kinh tế trong nông thôn. Chương iii Phương hướng và những giải pháp nhằm phát triển kinh tế trang trại tỉnh sơn la trong thời gian tới i.phương hướng phát triển Hiện nay, hình thức kinh tế trang trại đang tăng nhanh về số lượng với nhiều thành phần kinh tế tham gia, nhưng chủ yếu vẫn là trang trại hộ gia đình nông dân và một tỷ lệ đáng kể của hộ gia đình cán bộ, công nhân viên chức chưa nghỉ hưu và đã nghỉ hưu. Hầu hết hết các trang trại có quy mô dưới mức hạn điền với nguồn gốc đa dạng, sử dụng lao động gia đình là chủ yếu: một số trang trại có thuê lao động thường xuyên và lao động thời vụ, tiền công lao động được thỏa thuận giữa hai bên. Hầu hết vốn đầu tư của các trang trại là vốn tự có và vốn vay, vốn vay của các tổ chức tín dụng chiếm tỷ lệ thấp.Phần lớn trang trại phát huy được lợi thế của vùng dựa trên cơ sở kinh doanh tổng hợp, lấy ngắn nuôi dài. Sự phát triển của kinh tế trang trại đã góp phần khai thác thâm nguồn vốn nhàn dỗi trong dân, góp phần phủ xanh đất trống đồi núi trọc, đất hoang hoá, nhất là ở các vùng miền núi, trung du, ven biển; tao thêm việc làm cho lao động nông thôn, góp phần tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo; tăng thêm nông sản hàng hoá cho xã hội. Một số trang trại đã góp phần sản xuất và cung ứng giống tốt, làm dịch vụ kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân trong vùng. Tuy nhiên quá trình phát triển kinh tế trang trại trên bình diện toàn quốc nói chung và tỉnh Sơn La nói riêng đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết kịp thời: -Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương kề phát triển kinh tế trang trại, song còn nhiều vấn đề mà chính sách cần giải quyêt và làm rõ như: Vấn đề giao đất, vấn đề thuê mướn, sử dụng lao động; vấn đề cán bộ, Đảng viên làm kinh tế trang trại, vấn đề hoạt động và thuế của trang trại... Những vấn đề đó chậm được giải quyết đã phần nào hạn chế khả năng khai thác nguồn lực phong phú ở nhiều vùng trong toàn tỉnh. -Hiện còn khoảng 30% trang trại chưa được giao đất, thuê đất ổn định lâu dài nên chủ trang trại chưa thực sự yên tâm đầu tư sản xuất kinh doanh. -Hầu hết các địa phương có trang trại phát triển chưa làm tốt công tác quy hoạch sản xuất, thuỷ lợi, giao thông, điện nước sinh hoạt,thông tin liên lạc... -Phần lớn chủ trang trại còn thiếu hiểu biết về thị trường, khoa học kỹ thuật và quản lý, thiếu vốn sản xuất để đầu tư phát triển lâu dài, các chủ trang trại thường lúng túng và chịu thua thiệt khi giá nông sản xuống thấp. Từ những yêu cầu trên thì việc tìm ra một hướng đi đúng đắn cho kinh tế trang trại phát triển là một đòi hỏi cấp bách cần được giải quyết kịp thời. 1.Phương hướng chung phát triển kinh tế trang trại nông nghiệp nước ta. Phương hướng phát triển kinh tế trang trại nước ta là thúc đẩy sự hình thành và phát triển các trang trai gia đình nhất là ở các tỉnh trung du, miền núi và ven biển. Đa dạng hoá các loại hình kinh tế trang trại về quy mô, cơ cấu kinh doanh về sở hữu, sử dụng các yếu tố sản xuất và phương thức quản lý. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn hình thành và phát triển các trang trại trong thời gian qua, ngáy 02 tháng 02 năm 2000 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 03/NQ-CP về kinh tế trang trại. Đây là một văn bản mang tính định hướng mới,kịp thời và phù hợp nhất với sự phát triển kinh tế trang trại hiện nay. Để kinh tế trang trại tiếp tục phát triển cần theo các định hướng sau: *Nhà nước khuyến khích phát triển và bảo hộ kinh tế trang trại. Các hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát triển kinhtế trang trại được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài theo pháp luật để sản xuất kinh doanh. *Nhà nước đặc biệt khuyến khích việc đầu tư khai thác và sử dụng có hiệu quả đất trống đồi núi trọc ở trung du, miền núi, biên giới, hải đảo, tận dụng khai thác các loại đất hoang hoá, ao hồ đầm, bãi bồi ven sông, ven biển, mặt nước, eo vịnh, đầm phá để sản xuất nông- lâm- ngư nghiệp theo hướng chuyên canh với tỷ suất hàng hoá cao. Đối với vùng đất hẹp, người đông khuyến khích phát triển kinh tế trang trại sử dụng ít đất, nhiều lao động, thâm canh cao gắn với chế biến và thương mại dịch vụ, làm ra nông sản có giá trị kinh tế lớn. Ưu tiên giao đất, cho thuê đất đối với những hộ nông dân có vốn, kinh nghiệm sản xuất, quản lý, có yêu cầu mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp mà có nguyện vọng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài trong nghiệp. *Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát huy kinh tế tự chủ của hộ nông dân, phát triển trang trại đi đôi với chuyển đổi hợp tác xã cũ, mở rộng các hình thức kinh tế hợp tác, liên kết sản suất kinh doanh giữa các hộ nông dân, các trang trại, các nông lâm trường quốc doanh, doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác để tạo động lực và sức mạnh tổng hợp cho nông nghiệp nông thôn phát triển. *Nhà nước hỗ trợ về vốn, khoa học công nghệ, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho các trang trại phát triển bền vững. *Nhà nước tăng cường công tác quản ý để các trang trại phát triển lành mạnh, có hiệu quả. 2.Phương hướng phát triển kinh tế trang trại của tỉnh Sơn La. Kinh tế trang trại đã mở ra một con đường phát triển mới cho kinh tế nông nghiệp – nông thôn Sơn La. Việc phát triển kinh tế trang trại trong những năm qua đã đem lại những hiệu quả kinh tế- xã hội rõ rệt. Để kinh tế trang trại tiếp tục phát triển và phát huy tốt sức mạnh của nó trong thời gian tới thì việc phát triển kinh tế trang trại của tỉnh cần thực hiện theo những định hướng sau: *Tỉnh khuyến khích và bảo hộ kinh tế trang trại phát triển, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, khuyến khích mọi dân tộc trên địa bàn tỉnh tham gia phát triển kinh tế trang trại. *Thực hiện rà soát lại quy hoạch đất đai theo từng vùng để đảm bảo sự phát triển trang trại theo đungs định hướng, đồng thời phù hợp với điều kiện thực tế của từng vùng, khắc phục tình trạng phát triển các trang trại quá phân tán và ở xa khu trung tâm huyện thị, xây dựng các khu trang trại theo từng chủng loại cây con, tập trung để đảm bảo khả năng quy hoạch kết cấu hạ tầng, từng bước hình thành khu kinh tế mới tập trung, góp phần từng bước hình thành khu kinh tế mới tập chung, góp phần từng bước xây dựng nông thôn mới. Trước mát thực hiện quy hoạch theo 3 vùng sau: -Đối với vùng cao, vùng sâu, vùng xa giao thông, đi lại khó khăn thì nên tập trung chăn nuôi đại gai súc kết hợp với kiêm thịt sữa, phát triển trang trại cây dược liệu, xây dựng phòng hộ và bảo tồn thiên nhiên. -Đối với vùng lòng hồ sông Đà nên tập trung phát triển trang trại cá lồng, cây ăn quả, nuôi ong, trồng rừng phòng hộ, rừng nguyên liệu giấy sợi. -Đối với vùnh quốc lộ 6 nên phát triển trang trại trồng cây công nghiệp, cây ăn quả,rừng kinh tế (nguyên liệu ván, sợi, tre ép... ), chăn nuôi. đông thời đảm bảo tính chuyên canh của trang trại. *Đẩy mạnh công tác khuyến nông nhằm đưa khoa học kỹ thuật mới vào các trang trại một cách nhanh chóng và có hiệu quả cao. *Đẩy mạnh hơn nữa các trang tráỉan xuất kinh doanh hai loại cây công nghiệp xuất khẩu chủ lực là chè và cà phê. Đối với cà phê khẳng định giống chủ lực là catimo và tránh trồng ở các vùng có sương muối. *Tổ chức mạng lưới công nghiệp chế biến nông lâm sản tốt hơn nữa: Chú trọng quy mô vừa và nhỏ cùng với cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới khi có vùng nguyên liệu, sử dụng công nghệ thiết bị tiên tiến kết hợp với tổ chức dịch vụ chế biến và sơ chế sản phẩm các trang trại sản xuất ra theo hướng sơ chế tại chỗ, tập trung chế biến tại công ty kinh doanh sau khi thu gom sản phẩm dẫ sơ chế từ các trang trại. *Tập trung đầu tư phát triển các loại hình trang trại vừa và nhỏ đang phát huy hiệu quả, đồng thời chú trọng phát triển các trang trại lớn. ii.các giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh sơn la trong thời gian tới 1.Giải pháp về đất đai. Trong sản xuất nông nghiệp thì đất đai là yếu tố quan trọng nhất không thể thay thế, không có đất đai thì không có sản xuất nông nghiệp. Để giải quyết tốt các vướng mắc, những bất cập như hiện nay trong quan hệ ruộng đất nhằm đưa lại sự tự chủ, tự quyết và chủ động trong sản xuất kinh doanh của các trang trại thì tronh chính sách giao đất, giao rừng cần thực hiện theo những nội dung sau: *Hộ nông dân có nhu cầu và khả năng sử dụng đất để phát triển kinh tế trang trại được tỉnh giao đất hoặc cho thuê đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Nghi định 85/1999/NĐ-CP vàNĐ163/1999/NĐ-CP. Hộ gia đình trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản tại địa phương có nhu cầu và khả năng sử dụng đất để mở rộng sản xuất thì ngoài phần đất đã được giao trong hạn mức của tỉnh còn được UBND xã cho thuê đất để phát triển trang trại. Hộ gia đình phi nông nghiệp có nguyện vọng và khả năng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài từ sản xuất nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản được UBND xã cho thuê đất. Diện tích đất được giao, được thuê phụ thuộc vào quỹ đất của địa phương và khả năng sản xuất kinh doanh của chủ trang trại. *Hộ gia đình, cá nhân được quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất,thuê đất hoặc thuê lại quyền sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đìn, cá nhân khác để phát taiển trang trại theo quy định của Pháp luật. Người nhậnchuyển nhượng hoặc cho thuê quyền sử dụng đất hợp pháp có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Pháp luật về đất đai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hộ gia đình, cá nhân đã được giao hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất vượt quá mức sử dụng đất trước ngày 01 tháng 01 năm 1999 để phát triển trang trại thì được tiếp tục sử dụng và chuyển sang thuê phần diện tích đất vượt mức theo qui định của Pháp luật về đất đai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nhưng chưa được giao, chưa được thuê, hoặc đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận trước ngày ban hành Nghị quyết 03/2000/NQ-CP về kinh tế trang trại ngày 02 tháng 02 năm 2000, nếu không có tranh chấp, sử dụng đất đúng mục đích thì được xem xét để giao hoặc cho thuê đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. *Sở Địa chính cần khẩn chương hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để các chủ trang trại yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. 2.Giải pháp về lao động Theo điều tra, hầu hết số lao động tham gia trong các trang trại chỉ có trình độ văn hoá đến cấp phổ thông cơ sở, đa số các chủ trang trại không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, họ sản xuất dựa vào kinh nghiệm là chính, điều này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại. Do đó việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lựcvà việc sử dụng nguồn lực là một vấn đề quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của trang trại. Để làm tốt điều này cần phải thực hiện một số giải pháp sau: *Nâng cao trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, khoa học kỹ thuật cho người lao động, trước hết là các chủ trang trại.Mở các lớp đào tạo và tập huấn kỹ thuật canh tác, kỹ thuật chăn nuôi, phòng chống dịch bệnh... cho lao động của trang trại, hộ nông dân ngay tại địa phương thông qua tổ chức khuyến nông, lâm. *Tỉnh khuyến khích và tạo điều kiện hỗ trợ để các chủ trang trại mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, tạo được nhiều việc làm cho lao động nông thôn, ưu tiên sử dụng lao động của hộ nông dân không đất, thiếu đất sản xuất nông nghiệp, hộ nghèo thiếu việc làm. Chủ trang trại được thuê lao động không hạn chế về số lượng, trả công lao động theo sự thoả thuận của hai bên đúng theo qui định của Pháp luật, chủ trang trại phải trang bị đồ bảo hộ cho người lao động theo từng loại ngành nghề, và có trách nhiệm với người lao động khi gặp rủi ro, tai nạn, ốm đau... trong thời gian làm việc theo hợp đồng đã ký kết. *Đối với các địa bàn có điều kiện về kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa... chủ trang tại được ưu tiên vay vốn từ chương trình xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho lao động thiếu việc làm ở trong vùng, có chính sách thu hút lao động ở những vùng đông dân cư đến phát triển sản xuất. 3.Giải pháp về vốn. Như trên đã phân tích phần lớn các trang trại của Tỉnh Sơn La đều dựa vào vốn tự có, lượng vốn vay rất ít, trong khi đó nhu cầu vốn của trang trại còn rất lớn để phát triển sản xuất. Vì vậy Nhà nước cần thực hiện chính sách hỗ trợ vốn vay cho các chủ trang trại theo các hướng sau: *Căn cứ vào quy hoạch phát triẻn sản xuất nông - lâm – ngư nghiệp trên các địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, tỉnh có chính sách đầu tư kết cấu hạ tầng về giao thông, điện, nước sinh hoạt, thuỷ lợi, thông tin, cơ sở chế biến... để khuyến khích các hộ gia đình, cá nhân phát triển sản xuất nông - lâm -ngư nghiệp. *Trang trại phát triển sản xuất kinh doanh được vay vốn tín dụng thương mại của Ngân hàng thương mại, chủ trang trại được dùng tài sản được hình thành từ vốn vay để đảm bảo tiền vay theo quy định của Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng. *Thực hiện chính sách cho chủ trang trại vay theo dự án đầu tư đã được cấp có thẩm quyền duyệt, lãi suất vốn vay thấp, thời hạn vay theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Cho vay theo hình thức này sẽ giúp các chủ trang trại yên tâm sản xuất kinh doanh đồng thời ràng buộc chủ trang trại có nghiax vụ tạo ra vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến trên địa bàn, tạo được nhiuề việc làm và đáp ứng theo chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. *Đối với những vùng sâu, vùng xa, những hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc có chí làm giàu và có khả năng làm giàu, tỉnh nên giao cho Ngân hàng người nghèo ưu tiên cho những hộ này vay vốn đầu tư sản xuất, lập trang trại, tạo mô hình và hướng dẫn nông dân trong vùng phát triển nông- lâm – ngư nghiệp. Nhà nước cũng phải hình thành quỹ hỗ trợ cho các chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn, trong điều kiên nguồn vốan có hạn chỉ nên hình thành qũy hỗ trợ cho các dự án có tác dụng tích cực cả về kinh tế và xã hội: *Qũy hỗ trợ mua máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp và ngành nghề nông thôn, thực hiện bán các máy móc, công cụ sản xuất cho các đơn vị sản xuất (trang trại và hộ gia đình) theo hình thúc trả góp với lãi suất ưu đãi hoặc trả bằng nông sản hàng hoá. *Các cơ sở sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệpvới quy mô vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn được vay vốn trung, dài hạn với lãi suất ưu đãi, sản phẩm xuất khẩu được ưu tiên miễn giảm thuế. Những hộ nông dân thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất tập trung quy mô lớn có nhu cầu vay vốn để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất chế biến, đầu tư xây dựng cơ bản vườn cây... thì được vay vốn với lãi suất ưu đãi, thời hạn vốn vay tối thiểu bằng thời gian mà cây con đã thu hoạch sản phẩm đầu tiên. 4.Giải pháp về khoa học công nghệ. Để sản phẩm sản xuất ra có thể tiêu thụ được, các trang trại cần có sự trợ giúp tích cực và thoả đáng hơn nữa từ phía Nhà nước. Muốn vậy, Nhà nước cần đầu tư cao cho khoa học và công nghệ, đồng thời có biện pháp hữu hiệu trong việc khuyến khích huy động tối đa sự tham gia của các thành phàn kinh tế, các tổ chức và các nhà khoa học vào nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ nông nghiệp- nông thôn. Trước hết là đổi mới hệ thống nghiên cứu khoa học gồm cả cơ chế quản lý tài chính nhân sự để tạo điều kiện hình thành các trung tâm nghiên cứu khoa học thực sự có đủ năng lực tạo ra những đột phá về khoa học công nghệ, xoá bỏ tình trạng bao cấp manh mún , phân tán hình thức kém hiệu quả trong nghiên cứu khoa học. Ngày nay, khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng trực tiếp nâng cao hiệu quả và năng suất lao động, khoa học công nghệ ở đây được hiểu cả trong sản xuất và trong cung ứng vật tư sản xuất (giống vật nuôi, cây trồng) lẫn tiêu thụ sản phẩm sản xuất. Nếu chủ trang trại không có giống tốt về cây trồng, vật nuôi sẽ dẫn đến năng suất, chất lượng sản phẩm kém, sản phẩm sẽ khó tiêu thụ, thậm chí không tiêu thụ được. Để hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại đạt hiệu quả cao hơn, về mạt khoa học công nghệ cần thực hiện một số giải pháp sau: *Tăng cường nhập khẩu công nghệ tiến bộ của nước ngoài, nhất các loại giống cây trồng, vật nuôi và máy móc thiết bị có năng suất, chất lượng cao và phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng địa phương, từng loại hình trang trại... *Tập trung đổi mới giống cây trông, vật nuôi, công nghệ chế biến, tăng cường công tác cham sóc, bảo vệ cây trồng, vật nuôi, áp dụng công nghẹ sau thu hoạch, các biện pháp bảo vệ và tăng độ phì nhiêu của đất, bảo vệ nguồn nước. *Thực hiện quy hoạch, xây dựng các công trình thuỷ lợi để tạo nguồn nước cho sản xuất, chủ trang trại tự bỏ vốn hoặc vay từ nguồn vốn tín dụng để xây dựng các hệ thống dẫn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt của trang trại. *Sở NN&PTNT quy hoạch đầu tư phát triển các vườn ươm giống cây công nghiệp, cây lâm nghiệp và các cơ sở sản xuất con giống hoặc hỗ trợ một số trang trại có điều kiện sản xuất giống để đảm bảo giống tốt , giống có chất lượng cao cung cấp cho các trang trại và các hộ nông dân trong vùng. *Khuyến khích chủ trang trại góp vốn vào quỹ hỗ trợ phát triển khoa học, kỹ thật áp dụng vào trang trại và làm dịch vụ kỹ thuật cho nông dân trong vùng. *Tổ chúc dịch vụ kỹ thuật như dịch vụ giống, dịch vụ bảo vệ thực vậ, thú y... cho trang trại theo nhiều hình thức, khoán gọn khâu bảo về, khoán theo công đoạn dịc vụ... *Tăng cường hệ thống khuyến nông, khuyến lâm trên cơ sở xã hội hoá, giúp trang trại và nông dân cải tiến phương pháp và kỹ thuật canh tác. Hệ thống khuyến nông có vai trò tích cực trong việc phổ biến, tập huấn, ứng dụng vào thực tiễn những tiến bộ khoa học như : đưa giống cây, con có chất lượng, năng suất cao, tập huấn IPM cho nông dân... Đi đôi với việc củng cố có hoàn thiện hệ thống khuyến nông cần phải sây dựng hệ thống khuyến nghề ở khu vực nông thôn. Cũng như khuyến nông, khuyến nghề có nhiệm vụ phổ biến, tập huấn, chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để hỗ trợ người dân nông thôn phát huy các khả năng của mình, khuyến nghề cũng phải được tổ chức thống nhất từ TW đến địa phương và trực thuộc Bộ NN&PTNT. 5.Giải pháp về thị trường và phát triển công nghệ chế biến. Trang trại với mục đích sản xuất kinh doanh chính là tạo ra sản phẩm hàng hoá để cung cấp cho thị trường nhằm thu lợi nhuận cao.đói vơi tất cả các ơn vị sản xuất hàng hoá , thị trường gồm :thị trường đầu vào và thị trường đầu ra . cùng với sự phát triển năng động của cơ chế thị trường sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gây gắt thì thị trường đầu racũng ngày càng quan trọng ,có thể nói là vẫn đề có tính quyết định bởi nếu nông sản phẩm sản xuất ra mà không bán được thì không những không phát triển được sản xuất mà còn dẫn đến sự phá sản .đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp thì thị trường đầu ra lại càng trở nên quan trọng ,vì các sản phẩm của nông nghiệp là những sản phẩm tươi sống, rất dễ hư hỏng, xuống cấp. Do vậy việc tiêu thụ và tiêu thụ được ngay nông sản phẩm là vẫn đề then chốt quyết định việc phát triẻn sản xuất. Chính vì vậy các giải pháp về thị trường là vẫn đề lớn cần được giải quyết tốt .Muốn vậy cần phải giải quyết tốt các vẫn đề sau : -Trước hết cần khẩn trương xây dựng , hoàn thiện công tác quy hoạch và phát triển các vùng chuyên môn hoá sản xuất với khối lượng lớn. Trên cơ sở đầu tư xây dựng mới, mở rộng nâng cấp các cơ sở chế biến nông sản để tiêu thụ sản phẩm, nguyên liêuụ của kinh tế trang trại. -Mở rộng và phát triển hệ thống tiêu thụ, trtong đó nhấn mạnh vai trò của các doanh nghiệp thương mmại nhà nước ở những vùng trọng yếu, khuyến khích sự thham gia của mọi thành phần kinh để giải quyết đâùu ra cho các trang traị, hộ nông dân. Tăng cường các lôại phương tiện vận chuyển, bảo quảnn với trang thiết bị hiện đại , hạn chế tổn thất sau thu hoạch. Khuyến khích và thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển kinh tế hợp tác trên nguuyên tắc tự nguyện của các chủ thể nhằm tiết kiệm chi phí, chủ động ttrong viiệc tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ cung ứng vật tư cho các trang trại. -Cho phép các trang traị uỷ thác xuất khẩu hoặc xuất khẩu trực tiếp của trạng trại. Nhà nnước tăng cường công tác dự báo thị trường bằng nhiều hình thức cung cấp kịp thời thông tin thị truờngcho các trang trại cần có chính sách bảo hộ sản xuất, giảm bớt mất mát cho các trang trại khi gặp biến động bất thường do thiên tai và trên thị trường trong nước và trên thhế giới gây ra. -Khuyến khích phát triển trợ nông thôn,các trung tâm mua bán nông sản và vật tư nông nghiệp. Tạo điều kiiện cho các chủ trang trại được tiếp cận và tham gia các trương trình dự án hộp tác, hội trợ triển lãm trong và ngoài nước. 6. Giải pháp về thuế Để khuyến khích hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế trang trại, nhất là những vùng đất trống, đồi núi trọc, vùng sâu, vùng xa, thực hiện miễn thuế cho các trang trại từ 1-3 năm tuỳ theo loại hình sản xuất kinh doanh và địa bàn canh tác của trang trại. Các trang trại được giảm tiền thuế đất theo qui định của pháp luật về đất đai khi thuê đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá để trồng rừng sản xuất, trồng cây lâu năm và khi thuê diện tích ở các vùng nước tự nhiên chưa có đầu tư cải tạo vào mục đích sản xuất nông, lâm ngư nghiệp. Thực hiện miễn giảm thuế cho các sản phẩm hàng hóa của các trang trại tham gia xuất khẩu. 7.Chính sánh bảo hộ tài sản Tài sản có vốn đầu tư hợp pháp của chủ trang trại không bị quốc hữu hoá, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Trong trường hợpp vì lý do quốc phòng, vì an ninh và lợi ích quốc gia nhà nước cần thu hồi đất được giao, được thuê của chủ trang trại thì chủ trang được thanh toán bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm công bố quyết định thu hồi. 8.Giải pháp về đầu tư xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn có ý nghĩa hết sức quan trọng, là tiền đề cho việc sử dụng và khai thác có hiệu quả các nguồn lực ở khu vực này.Trên thực tế, ở đâu có đường giao thông thuận lợi,có diện sản xuất thì ở đó kinh tế phát triển nhanh hơn.Do nguồn vốn có hạn nên trước mắt cần lựa chọn các cụm kinh tế- văn hoá của từng vùng, ưu tiên vùng cao biên giới, vùng xa, vùng sâu trước. Các cụm kinh tế- văn hoá này gồm từ 2 - 4 xã gần nhau và được đầu tư xây dựng hoàn chỉnh các công trình như: đường giao thông, điện cho sinh hoạt và sản xuất, nước sach, chợ nông thôn, trường, trạm... các cụm kinh tế văn hoá này là sự khởi điểm thực hiện thô thị hoá ngay trong khu vực nông thôn, mặt khác chúng còn là các trung tâm kimh tế gắn người sản xuất với tiêu dùng, gắn thị trường khu vực với thị trường bên ngoài.Trên cơ sở sản xuất phát triển mà đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện nâng cao. Cùng với việc xây dựng các cụm kinh tế- văn hoá cần hỗ trợ nâng cấp và hoàn thiện các tuyến đường giao thông theo hướng nhựa, bê tông hoá với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Sự hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà nước chỉ mang tính chât khởi đầu, trêncơ sở đó tập tung huy động nội lực, nguồn vốn đầu tư nước ngoài tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. 9.Nâng cao trình độ dân trí và trình độ chuyên môn của các chủ trang trại Như trên đã phân tích, trình độ văn hoá của chủ trang trại và lao động trong các trang trại là rất thấp, đa số chỉ học đến cấp trung học cơ sở, diều này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại. Bởi vì, khi có trình độ văn hoá thấp việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, việc nắm bắt những thông tin về thị trường của trang trại là hết sức khó khăn. Nhà nước cần hỗ trợ hơn nữa trong việc nâng cao trình độ dân trí như: mở thêm trường lớp, mở thêm các lớp xoá mù chữ, các lớp cắm bản, hỗ trợ sách vở, đồ dùng học tập... Còn đối với chủ trang trại và lao động trong trang trại tham gia sản xuất kinh doanh cần phải được nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật dưới nhiều hình thức như: mở các lớp tập huấn, hướng dẫn về kỹ thuật sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, kết hợp với hệ thống truyền thanh, truyền hình để mở các lớp học đào tạo từ xa về tìm hiểu thị trường, về hướng dẫn thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong nông nghiệp. Kết luận và kiến nghị 1.Kết luận Kinh tế trang trại là một hình kinh tế mới có hiệu quả và phù hợp với điều kiện của nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay. Nó mang tính quy luật chuyển từ sản xuất tự cung, tự cấp của hộ gia đình sang sản xuất hàng hoá với quy mô lớn. Kinh tế trang trại đã và đang được phát triển rộng khắp trên các vùng của cả nước với nhiều loại hình và quy mô khác nhau. Kinh tế trang trại đã góp phần phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng đồng thời tạo ra nhiều hàng hoá và việc làm cho xã hội. Kinh tế trang trại đã huy động và sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả đồng thời là nhân tố tích cực, đi đầu trong sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn hiện nay. 2.kiến nghị. Để tiếp tục phát triển kinh tế trang trại trong thời gian tới cần phải giải quyết một số vấn đề sau: *Quá trình chỉ đạo phát triển trang trại với hai loại cây chủ lực xuất khẩu là chè và cà phê, cần kết hợp hợp lý giữa chất lượng từng trang trại với việc mở rộng quy mô diện tích có hiệu quả. *Cần có chính sách kinh tế phù hợp nhằm mở đường cho kinh tế ngư trại, lâm trại hình thành và phát triển. *Sở địa chính cần khẩn chương hoàn thiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để các chủ trang trại yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. *Đổi mới chính sách thuế sử dụng các loại đất, thuỷ lợi phí,cơ chế tín dụng và chính sách tiêu thụ sản phẩm, chính sách bình ổn giá cả nhằm tạo nên môi trường kinh tế, pháp lý thuận lợi cho kinh tế phát triển đúng hướng và hiệu quả. *Có chính sách phát triển công nghiệp – dịch vụ nông thôn, cải tiến cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, tạo điều kiện hình thành các ngành nghề mới trong nông thôn. *Sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của các điều kiệ tự nhiên nên tính rủ ro lớn. Do đó cần có chính sách bảo hiểm đối với từng loại cây con, từng mùa vụ một cách hợp lý nhằm giảm bớt tối đa những thiệt hại cho các trang trại khi có thiên tai, hoả hoạn xảy ra, giúp trang trạicó thể ổn định và phát triển sản xuất. *Các giải pháp kinh tế- xã hội nêu trên cần được thực hiên một cách nhất quán và đồng bộ thì mới có hiệu quả. Tài liệu tham khảo 1.Trang trại gia đình ở Việt nam và trên thế giới. NXB Chính trị quốc gia, Hà nội – 1995 2.Sự thay đổi của hộ nông dân sau Nghị quyết 10. Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp, Hà nội –1995. 3.Kinh tế trang trại gia đình trên thế giới và Châu á, NXB Thống kê, Hà nội –1993 4.Phát triển quản lý trang trại trong kinh tế thị trường, NXB Nông nghiệp, Hà nội –1993. 5.Kinh tế trang trại khu vực miền núi, NXB Thống kê, Hà nội – 1996 6.Lê Trọng – Phát triển và quản lú kinh tế trang trại trong nền kinh tế thị trường- NXB Nông nghiệp, Hà nội 1993. 7.Báo cáo tình hình phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Sơn La các năm 1993,1994,1995,1996,1997,1998. Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Sơn La. 8.Nguyễn Điền- Kinh tế hộ nông dân và mô hình kinh tế trang trại của Việt Nam – Những vấn đề kinh tế thế giới số 57/1999. 9.Trần Trác- Tìm hiểu thêm về kinh tế trang trại- Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 208, tháng 11/1999. 10.Nguyễn Thế Nhã- Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở nước ta- Hội thảo Trường ĐHKTQD Hà nội, thang 9/1999. 11.Tạp chí kinh tế phát triển Trường ĐHKTQD Hà nội năm 1998, 1999. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV583.doc