Thực trạng và giải pháp nhằm củng cố, nâng cao cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan xuất khẩu ở tỉnh Hà Tây

LỜI MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết: Thực hiện đổi mới nông nghiệp, nông thôn cả nước nói chung, vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) nói riêng đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, ổn định và liên tục. Đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế có vai trò quan trọng của ngành nghề tiểu thủ công nghiệp (TTCN). Việc phát triển ngành nghề TTCN không chỉ tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động mà còn góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa (CNH), hiện đạ

doc97 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1347 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nhằm củng cố, nâng cao cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan xuất khẩu ở tỉnh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i hóa (HĐH) và góp phần xóa đói giảm nghèo. Theo số liệu điều tra của tổ chức quốc tế Nhật Bản (JICA) năm 2004, cả nước có 2017 làng nghề, trong đó riêng vùng ĐBSH chiếm 43% số làng nghề toàn quốc. Để phát triển ngành nghề nông thôn, Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương chính sách, nhất là Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn, Nghị định 66/2006/NĐ-CP ngày 7/7/2006 về phát triển ngành nghề nông thôn. Chính vậy, ngành nghề nông thôn, làng nghề đã có những bước chuyển mình phát triển và đóng góp không nhỏ vào sự thay đổi diện mạo nông thôn mới như: Bắc Ninh, Hà Tây, Nam Định,…Đặc biệt tỉnh Hà Tây, là một trong số các tỉnh có nhiều làng nghề khá phát triển của vùng ĐBSH. Ngành nghề TTCN ở Hà Tây khá đa dạng, trong đó đặc biệt là nghề mây, tre đan. Nghề mây, tre đan được phát triển ở Hà Tây từ thế kỷ XVII, và phát triển mạnh ở huyện Chương Mỹ, huyện Phú Xuyên và huyện Thường Tín,…Trong quá trình phát triển, đã hình thành nhiều loại hình liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan khá hiệu quả, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động nông nghiệp nông thôn. Hơn nữa, ngành nghề mây, tre đan cũng góp phần tích cực trong việc xóa đói giảm nghèo trong nông thôn nói chung, trong các làng nghề nói riêng. Tuy nhiên, quá trình phát triển nghề mây, tre đan của Hà Tây chủ yếu lao động bằng thủ công là chính, năng suất lao động thấp, giá đầu vào tăng ảnh hưởng đến hiệu quả và khă năng cạnh tranh. Cơ chế liên kết giữa các hộ và cơ sở chủ yếu tự phát và tùy thuộc vào thị trưởng nên bấp bênh và rủi ro cao, khả năng tiếp cận thị trường hạn chế,…Hơn nữa, từ trước đến nay đã có nhiều nghiên cứu về thị trường và các ngành hàng nông sản, nhưng còn thiếu các nghiên cứu về cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan. 2. Mục đích: Từ thực tiễn trên trong quá trình thực tập tốt nghiệp, mục đích của đề tài là: hệ thống hoá cơ sở khoa học về cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan xuất khẩu; đánh giá thực trạng cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan xuất khẩu tỉnh Hà Tây; đề xuất một số giải pháp củng cố và nâng cao cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm. 3. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là cơ chế liên kết giữa các tác nhân trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan xuất khẩu. Nghiên cứu mức độ quan hệ chặt chẽ của cơ chế liên kết được thể hiện thông qua các cam kết và trách nhiệm của mỗi bên thực hiện các cam kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. 4. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu tập trung chủ yếu ở hai huyện Chương Mỹ và Phú Xuyên của tỉnh Hà Tây. Đây là hai huyện có nhiều làng nghề mây, tre đan và đại diện cho hai vùng địa lý khác nhau của Hà Tây. Huyện Chương Mỹ đại diện cho vùng bán sơn địa và huyện Phú Xuyên đại diện cho vùng thấp của tỉnh Hà Tây. 5. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu là phương pháp thống kê,phân tích, so sánh từ đó phân tích các mối quan hệ hợp tác, quan hệ lợi ích, phân phối lợi ích giữa các tác nhân. Áp dụng phương pháp SWOT nhằm tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm. 6. Nội dung: Về nội dung, đề tài chia thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm. Chương này làm rõ các khái niệm về cơ chế, liên kết; nội dung và các hình thức liên kết kinh tế; đặc điểm và vai trò của hàng mây, tre đan; các yếu tố ảnh hưởng và kinh nghiệm thực hiện của một số nước. Chương 2: Thực trạng cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm hàng mây, tre đan của tỉnh Hà Tây. Chương này tập trung phân tích cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan của tỉnh Hà Tây thông qua tình hình sản xuất và tiêu thụ. Từ đó có những nhận xét về ưu điểm và tồn tại cần giải quyết. Chương 3: Định hướng phát triển và một số giải pháp thực hiện và nâng cao cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, với phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn chắc không tránh khỏi nhiều thiếu xót, mong các thầy cô góp ý, chỉnh sửa để hoàn thiện thêm. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên thực hiện Lê Thị Dinh CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CƠ CHẾ LIÊN KẾT TIÊU THỤ SẢN PHẨM MÂY, TRE ĐAN XUẤT KHẨU. 1. Khái niệm về cơ chế và liên kết kinh tế: 1.1. Cơ chế: Theo Từ điển tiếng Việt, cơ chế là sự sắp xếp để phối hợp các bộ phận của một đoàn thể nhằm tạo một tác dụng chung. Hay có thể hiểu cơ chế là cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau. Cơ chế là cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau. Các cách thức hoạt động này được đúc rút từ thực tiễn sản xuất và đời sống mang tính khách quan, được con người nhận thức, thừa nhận và thực hiện. Cơ chế vận hành đúng là cơ chế có sự thống nhất giữa nhân tố khách quan và chủ quan. Ở mỗi giai đoạn khác nhau có những cơ chế điều chỉnh khác nhau, phụ thuộc vào những điều kiện khách quan và khả năng nhận thức chủ quan của con người. Hơn nữa, các khái niệm cho thấy “cơ chế” được dùng với hàm ý chỉ hiện tượng ở trạng thái động chứ không phải ở trạng thái tĩnh. Cho nên hiểu cơ chế chỉ là các quy định quản lý là hiểu theo trạng thái tĩnh, chưa bao quát toàn diện tính chất động của hiện tượng. Cơ chế quản lý như một hiện tượng đang chuyển động, không thể không nói tới con người hoạt động trong đó như là những chi tiết không thể thiếu của bộ máy quản lý. Con người nằm trong cơ chế , tham gia vào sự vận hành của cơ chế, bị cơ chế điều khiển, chứ không nằm ngoài cơ chế và điều khiển cơ chế. Quan hệ giữa cơ chế và con người là quan hệ giữa cục bộ với toàn bộ. Cho nên nó không chỉ bao gồm những quy định về cách thức vận hành mà còn bao gồm cả con người hoạt động theo những cách thức đã được định sẵn trong thiết kế cơ chế. Chính những hành động của tất cả chi tiết con người như vậy đã tạo nên cơ chế như là một bộ máy quản lý đang vận hành. Cần nhấn mạnh rằng cơ chế phải và chỉ có thể vận hành theo những cách thức định sẵn, phù hợp với những quy định pháp lý do các cơ quan có thẩm quyền ban hành, hoặc được cộng đồng thừa nhận và được mọi người tôn trọng thực hiện, trong đó mỗi chi tiết phải đóng đúng vai trò của mình. Chỉ cần một chi tiết hư mòn hay kém chất lượng, sự vận hành của cơ chế sẽ lập tức trục trặc. Cho nên cơ chế tự nó có khả năng phát hiện và đòi hỏi loại trừ những chi tiết, ở đây là những con người không phù hợp với nó. 1.2. Liên kết tiêu thụ sản phẩm: Theo Từ điển Tiếng Việt, hợp tác là chung sức, trợ giúp qua lại nhau. Còn Từ điển Kinh tế lại định nghĩa, hiệp tác, hình thức xã hội hóa lao động, hoạt động chung của nhiều người trong cùng một quá trình lao động hoặc trong quá trình lao động khác nhau có liên hệ với nhau. Từ điển ngôn ngữ học (1992) cho rằng “Liên kết” là kết lại với nhau từ nhiều thành phần hoặc tổ chức riêng rẽ. Liên kết kinh tế là sự phối hợp của hai hay nhiều bên và trong quá trình hoạt động, cùng mang lại lợi ích cho các bên tham gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa về kinh tế hiện nay, liên kết kinh tế đang ngày càng trở thành nhu cầu bức xúc, xuất hiện ở mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Cơ sở lý thuyết về liên kết ngành là một nhóm trong cùng một khu vực địa lý bao gồm các công ty, và các cơ quan được liên kết với nhau bởi sự đồng thuận và tương trợ. Như vậy, liên kết kinh tế là sự phối hợp của hai hay nhiều bên, không kể quy mô hay loại hình sở hữu. Mục tiêu của liên kết kinh tế là các bên tìm cách bù đắp sự thiếu hụt của mình, từ sự phối hợp hoạt động với các đối tác nhằm đem lại lợi ích cho các bên. Liên kết kinh tế có thể xuất hiện giữa các doanh nghiệp (DN) lớn, nhỏ với nhau (cùng lớn, cùng nhỏ, hay lớn với nhỏ) mà không phân biệt các doanh nghiệp thuộc loại hình sở hữu nào. 1.3. Cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm tiểu thủ công nghiệp: Hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là quá trình chuyển hóa từ nguyên liệu thô thành các hàng hóa dịch vụ cho người tiêu dùng được coi là các giai đoạn, các mắt xích liên hoàn trong một chuỗi hàng của các hoạt động sản xuất tổng thể. Ngành hàng là tập hợp các tác nhân kinh tế có những chức năng nhất định, quy tụ trực tiếp vào việc sản xuất ra những sản phẩm nhất định, được sắp xếp theo một trật tự nhất định trong từng mạch hàng, theo những luồng hàng với sự vận hành của luồng vật chất. Mỗi giai đoạn, mỗi mắt xích trong chuỗi hàng (ngành hàng) được thực hiện bởi các cá nhân, hộ, doanh nghiệp…Mỗi tác nhân có một hoặc một số chức năng, nhưng chức năng của tác nhân đứng sau bao giờ cũng tiếp nối chức năng của tác nhân đứng trước kề nó. Sản phẩm của tác nhân sau bao giờ cũng tiếp nối sản phẩm của tác nhân đứng trước kề nó, hoàn thiện hơn sản phẩm của các tác nhân đứng trước, tạo nên chuỗi các sản phẩm. Giữa các tác nhân trong từng mắt xích và giữa các mắt xích luôn tồn tại những mối quan hệ kinh tế nhất định. Khi nền kinh tế càng phát triển, sản xuất chuyên môn hóa càng sâu, thì các quan hệ kinh tế càng đan xen ràng buộc chặt chẽ, không chỉ có quan hệ về lượng vật chất (đầu vào, đầu ra) mà còn quan hệ đến công tác quản lý, kiểm soát chất lượng sản phẩm. Tiêu thụ sản phẩm là quá trình trao đổi, thương lượng, thỏa thuận giữa bên mua và bên bán về chủng loại sản phẩm, nguyên liệu sản xuất, chất lượng, giá cả, địa điểm, thời gian giao hàng và điều kiện thanh toán hàng hóa. Mục đích của tiêu thụ sản phẩm là bên bán mong muốn bán được hàng và thu được nhiều lợi nhuận, còn bên mua mong muốn mua được hàng tốt, giá cả phù hợp để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cuối cùng hoặc nhu cầu của các quá trình sản xuất - kinh doanh tiếp theo. Tiêu thụ sản phẩm là quá trình gắn kết giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa vùng nguyên liệu với người sản xuất chế biến và tiêu thụ, giữa người mua và người bán. Các thành phần chủ yếu trong tiêu thụ phẩm: + Hàng hóa mua bán có thể là sản phẩm trung gian làm nguyên liệu cho quá trình sản xuất tiếp theo, cũng có thể là sản phẩm cuối cùng trực tiếp phục vụ tiêu dùng + Người mua và người bán: Trong giao dịch sơ cấp, bên bán thông thường là người sản xuất - người có hàng hóa nông sản, hoặc đại diện của họ. Bên mua có thể là thương nhân, nhà chế biến, nhà xuất khẩu hoặc người được ủy thác của họ. Trong giao dịch thứ cấp, thì bên mua và bên bán rất đa dạng, nhiều khi các đối tác trung gian tham gia vào cả bên mua và bên bán. + Địa điểm giao nhận hàng mua bán theo truyền thống diễn ra tại các chợ, các đại lý và các cửa hàng bán lẻ. Ngày nay, ngoài các hình thức truyền thống như trên, các nước trên thế giới đã hình thành các sàn giao dịch, hệ thống phân phối hiện đại. + Chất lượng và giá cả: Chất lượng và giá cả hàng hóa luôn quan hệ chặt chẽ với nhau và tùy thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường. Để định giá sản phẩm, người mua và người bán có thể thỏa thuận giá sản phẩm ở ngay thời điểm giao hàng, hoặc định giá trước còn nhận sản phẩm sau; Cũng có thể định giá trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua điện thoại, internet… + Phương tiện thanh toán: Phương tiện thanh toán trong thương mại được thực hiện bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản qua ngân hàng, hoặc bằng giấy tờ có giá trị tương đương. Trong một số trường hợp cũng có thể dùng hàng đổi hàng. Như vậy, cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm là cách thức tổ chức phân công lao động xã hội, trong đó các hộ, doanh nghiệp phối hợp, gắn bó, phụ thuộc với nhau thông qua các cam kết, các thoả thuận điều kiện về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhằm đem lại lợi ích cho các bên. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tiểu thủ công nghiệp sử dụng các nguyên liệu từ nông nghiệp có đặc điểm sản phẩm nông nghiệp được sản xuất ở một nơi và theo thời vụ nhất định nhưng tiêu thụ ở nhiều nơi và sử dụng cả năm. Do vậy cần các hoạt động vận chuyển, phân phối, bảo quản nhằm đảm bảo cung ứng đủ số, chất lượng sản phẩm sản xuất trong năm và giảm chi phí sản xuất. Hiện tại, có nhiều cách phân chia cơ chế liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.Nếu dựa theo vai trò, quan hệ kinh tế giữa các tác nhân từ sản xuất đến tiêu dùng, người ta phân thành liên kết dọc và liên kết ngang. - Liên kết dọc: Liên kết dọc là liên kết giữa các tác nhân ở các mắt xích liên tiếp khác nhau trong sản xuất của một ngành hàng. Trên phạm vi rộng hơn, liên kết dọc được điều tiết thông qua cả quá trình sản xuất và phân phối, hơn là điều tiết mỗi một đầu vào cụ thể bất kỳ nào đối với quá trình sản xuất. - Liên kết ngang: là mối liên kết giữa các tác nhân sản xuất như nhau ở cùng một cấp, cùng một giai đoạn hay cùng một mắt xích của ngành hàng. Quá trình liên kết giữa cung đoạn và giữa các tác nhân trong ngành hàng tất yếu dẫn đến hợp nhất dọc. Hợp nhất dọc là mức độ liên kết cao nhất trong hệ thống. Trong hợp nhất dọc, các giai đoạn sản xuất hay nhiều phân đoạn thị trường được hợp nhất làm một. Các sản phẩm được chuyển dịch từ phân đoạn này sang phân đoạn kế tiếp được thực hiện bởi những quyết định mang tính quản lý thay vì hoạt động thương mại theo cơ chế thị trường. Hợp nhất dọc thực chất là sự hợp nhất các giai đoạn kế tiếp trong quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm, được thực hiện dưới quyền sở hữu và kiểm soát thống nhất của một tổ chức nhất định nhằm mục đích tăng sức mạnh thương trường của công ty hay thực thể đó. Phối hợp dọc như là một quá trình phối hợp các giao dịch thị trường giữa nhà cung cấp và khách hàng. Cao Liên kết Liên doanh hợp nhất Về vốn Mức độ Liên kết Phụ thuộc về Thỏa thuận Tài chính về kỹ thuật Cùng thực hiện Phối hợp Chiều dọc Chiến lược liên kết Tách biệt Cùng tiêu thụ Thấp Cao Mức độ phụ thuộc nhau về tổ chức Hình 1: Hợp nhất ngoài theo quan điểm tổ chức và tài chính Phối hợp dọc bao gồm một số hoặc nhiều giao dịch trao đổi các yếu tố đầu vào, hoặc trao đổi nguyên liệu giữa người sản xuất và người chế biến hoặc giữa người bán buôn và người bán lẻ hoặc giữa người bán lẻ và người tiêu dùng. Phối hợp dọc còn được định nghĩa như là một cấu trúc quản trị được tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau. Kinh tế học về chi phí giao dịch bắt đầu từ giả thuyết rằng các tổ chức kinh doanh có hai đặc trưng là sự hợp lý và hành vi cơ hội. Biến số giao dịch phù hợp nhất trong lý thuyết này là biểu hiện mối quan hệ với nhau là đầu tư. Đầu tư cụ thể này là những đầu tư lâu dài được thực hiện nhờ sự trợ giúp của một giao dịch đặc biệt với một đối tác thương mại đặc biệt. Mối quan hệ đầu tư đặc biệt tránh cho nhà đầu tư đó một rủi ro khi giao dịch với đối tác. Chi phí giao dịch đó có thể bằng không khi thực hiện giao dịch nằm trong phạm vi một cơ sở kinh doanh, đây chính là sự hợp nhất theo chiều dọc. Từ quan điểm chi phí giao dịch, yếu tố xác định là đặc trưng tài sản (đầu tư), yếu tố này ảnh hưởng mạnh hơn các yếu tố quan trọng khác như mức độ không chắc chắn và tần suất Cao Mức độ Tần suất cao: Mất cấn đối về sức Hợp nhất dọc Không Hợp nhất mạnh: Hợp nhất dọc chắc chắn Tần suất thấp: Mất cân đối về Phối hợp bằng sức mạnh: phối hợp HĐ hoặc chợ cóc theo Hợp đồng Chợ cóc Chợ cóc hoặc Phối hợp theo phối hợp theo HĐ hợp đồng/hợp nhất dọc Thấp Cả hai đều thấp Hỗn hợp Cả hai đều cao Lượng tài sản Hình 2: Cấu trúc quản trị phụ thuộc vào mức độ không chắc chắn và lượng tài sản Hình trên cho thấy, khi cả hai đều có tài sản lớn thì khuyến khích họ phối hợp bên trong. Tất nhiên, nếu độ không chắc chắn thấp, cả hai đối tác có thể lựa chọn phối hợp dài hạn dựa trên hình thức hợp đồng. Đặc biệt tình huống này có thể xẩy ra nếu các cơ sở kinh doanh cạnh tranh trong cấu trúc thị trường độc quyền cạnh tranh, ở đó sự phụ thuộc nhau mang tính quyết định và chi phí cho sự thay đổi hình thức kinh doanh cao. Nếu mức độ không chắc chắn cao và có tài sản lớn, cách thức hợp đồng có thể gây nguy hiểm khi mức độ phụ thuộc lẫn nhau cao. Do vậy về nguyên tắc hợp nhất dọc là cách tốt nhất để ngăn cản những hành vi cơ hội. Tất nhiên, nếu mức độ không chắc chắn cao và lượng tài sản thấp, thì cơ sở kinh doanh có thể lựa chọn hình thức hợp đồng nếu tần suất giao dịch cao hoặc lựa chọn chợ bán lẻ phân tán (chợ cóc) nếu tần suất thấp. Cả hai cơ sở kinh doanh sẽ có cơ hội tìm kiếm các hình thức tiêu thụ với giá chấp nhận được. Trong tình huống hỗn hợp, ở đó các đối tác có mối quan hệ không cân xứng về tài sản, khi có sự cân xứng về sức mạnh trên thị trường thì có nhiều kết cục xẩy ra. Nếu lượng tài sản cao ở một đối tác nhưng lại thấp ở đối tác kia và mức độ không chắc chắn thấp, thì hành vi cơ hội có thể xẩy ra ở đối tác mạnh hơn, ít nhất nếu chi phí thay đổi hình thức kinh doanh không quá cao. Giao dịch theo chợ cóc cũng có thể xẩy ra. Nếu cân xứng về sức mạnh giữa các đối tác, thì họ có thể thích những quan hệ thương mại không chặt chẽ hơn, dựa trên những trao đổi buôn bán giản đơn. Tất nhiên, nếu lượng tài sản lớn ở một bên và bên kia thấp và mức độ không chắc chắn cao, thì các đối tác có thể lựa chọn sự hợp nhất dọc. Nếu mối quan hệ sức mạnh thị trường giữa các đối tác là không cân bằng, thì đối tác kém sức mạnh hơn không mong muốn rủi ro xẩy ra khi thực hiện các hợp đồng, trong khi đối tác mạnh hơn có thể phân xử các hợp đồng đã ký một cách thỏa đáng. Tuy nhiên, quá trình hợp nhất dọc dễ dẫn đến độc quyền lũng loạn thị trường. Lợi ích trong độc quyền chủ yếu tập trung vào một nhóm người và phương hại đến lợi ích chung toàn xã hội, đặc biệt về lâu dài sẽ hạn chế tốc độ tăng trưởng và phát triển, bởi độc quyền dẫn tới xóa bỏ cạnh tranh – động lực cơ bản thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. 2. Nội dung và hình thức liên kết kinh tế: Mỗi ngành hàng gồm nhiều công đoạn, được thực hiện bởi những tác nhân nhất định. Mỗi tác nhân có thể là các pháp nhân độc lập hoặc các bộ phận phụ thuộc nhau về mặt pháp lý nhưng đều thực hiện và hoàn thành một số chức năng và tạo ra những sản phẩm nhất định. Mối liên kết trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các tác nhân là những pháp nhân độc lập rất đa dạng và bao gồm cả liên kết dọc và liên kết ngang đan xen lẫn nhau. Để xác định mức độ liên kết, người ta dựa theo độ sâu của các thoả thuận hoặc cấu trúc tổ chức của thỏa thuận, hợp đồng. Độ sâu của thoả thuận, hợp đồng liên quan đến mức độ và tính phức tạp của việc cung cấp tiếp cận thị trường, cung cấp nguồn lực và công tác tổ chức quản lý sản xuất - kinh doanh. Hình thức liên kết - Liên kết theo chiều ngang - Liên kết theo chiều dọc Cơ chế liên kết - Hợp đồng (có đầu tư, không đầu tư) - Thoả thuận miệng (có ĐT, không ĐT) - Mua bán tự do Cơ sở A Cơ sở B Hình 3: Phân loại cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm Nội dung của cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm bao gồm: + Sự thỏa thuận hay cam kết giữa các bên trong quá trình sản xuất - tiêu thụ sản phẩm. Các cam kết này phải được công nhận là sự hợp tác giữa các bên tham gia chứ không phải là quan hệ cạnh tranh hay bóc lột giữa bên này với bên kia. + Cam kết phải có các điều kiện ưu đãi: Ưu đãi này phải được xây dựng trên quan hệ cung cầu thị trường, hay nói cách khác các bên điều được hưởng lợi từ cam kết. + Trách nhiệm của mỗi bên khi thực hiện các cam kết: Các bên có trách nhiệm thực hiện đúng, đủ và nghiêm túc theo cam kết. Đánh giá mức độ liên kết hay độ sâu của liên kết - mức độ quan hệ chặt chẽ giữa các tác nhân trong việc tiếp cận thị trường như cung ứng nguồn lực đầu vào, đầu ra và đặc biệt là công tác quản lý từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Các mối quan hệ liên kết này được thể hiện thông qua các hình thức với các nội dung cơ bản như sau: - Mua bán tự do trên thị trường Mua bán trên thị trường tự do là hình thức giao dịch trực tiếp giữa người mua và người bán. Người mua thấy được số lượng, chất lượng hàng hóa mình cần, còn người bán sau khi thỏa thuận được giá cả sẽ bán và thu được tiền mặt đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống. Việc mua bán được thực hiện trên thị trường theo quan hệ cung cầu. Bất kỳ bên mua hoặc bên bán hàng hóa nào, nếu thỏa thuận được với nhau thì hoạt động giao dịch được diễn ra. Thị trường có vai trò là người định giá. Đặc điểm của hình thức giao dịch này, mỗi tác nhân độc lập và tự do trao đổi hàng hóa của mình với các tác nhân khác. Giá cả được định đoạt tại mỗi thời điểm giao dịch. Thị trường tự do phản ánh quan hệ cung cầu của thị trường, do đó trong một số trường hợp thương mại thị trường tự do không cho hiệu quả khi nó gây ra các khó khăn trong điều hành hoạt động của thị trường và giữa các tác nhân. Một ví dụ đơn giản, khi thị trường khủng hoảng thiếu nguyên liệu, giá cả tăng lên có thể gây đình trệ sản xuất của xí nghiệp. Trong trường hợp này, hiệu quả của thị trường tự do bị hạn chế và các mối liên kết chủ động có thể giúp giải quyết các hạn chế của thị trường tự do. Các tác nhân trao đổi với nhau trên thị trường tự do, không chỉ có các mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau trong một ngành hàng và giữa các ngành hàng mà còn có quan hệ liên kết tồn tại và diễn ra khi hoạt động sản xuất của một tác nhân phụ thuộc vào hoạt động sản xuất của một tác nhân khác. Nói cách khác, một tác nhân có vai trò kiểm soát thị trường và mọi kế hoạch sản xuất, mặt hàng kinh doanh của tác nhân đó đều có mối quan hệ với kế hoạch, chiến lược sản xuất của các tác nhân khác. Những nhu cầu về sự khác biệt sản phẩm từ cấp độ sản xuất đã đặt áp lực lên các mối quan hệ thị trường tự do và có thể dẫn tới hình thức liên kết dạng hợp đồng giữa các giai đoạn chủ chốt trong hệ thống thị trường hoặc hình thức hợp nhất dọc. - Hợp đồng miệng (Thỏa thuận miệng) Hợp đồng miệng là các thỏa thuận không được thể hiện bằng văn bản giữa các tác nhân cam kết cùng nhau thực hiện một số hoạt động, một số công việc nào đó. Hợp đồng miệng cũng được hai bên thống nhất về số lượng, chất lượng, giá cả, thời hạn và địa điểm giao nhận hàng. Cơ sở của hợp đồng miệng là niềm tin, độ tín nhiệm, và trách nhiệm cam kết thực hiện giữa các tác nhân tham gia hợp đồng. Hợp đồng miệng thường được thực hiện giữa các tác nhân có quan hệ thân thiết (họ hàng, anh em ruột thịt, bạn bè,…), hoặc giữa các tác nhân đã có quá trình hợp tác, liên kết sản xuất - kinh doanh với nhau, và trong suốt thời gian hợp tác sản xuất - kinh doanh luôn thể hiện được nguồn lực tài chính, khả năng tổ chức và trách nhiệm giữ chữ tín với các đối tác. Tuy nhiên, hợp đồng miệng thường chỉ là các thoả thuận trên nguyên tắc về số lượng, giá cả, điều kiện giao nhận hàng hóa. Hợp đồng miệng cũng có thể có hoặc không có đầu tư ứng trước về tiền vốn, vật tư, cũng như các hỗ trợ và giám sát kỹ thuật. So với hợp đồng bằng văn bản, thì hợp đồng miệng lỏng lẻo và có tính chất pháp lý thấp hơn. - Hợp đồng bằng văn bản (Hợp đồng) Liên kết theo hợp đồng là quan hệ mua bán chính thức được thiết lập giữa các tác nhân trong việc mua nguyên liệu hoặc bán sản phẩm. Hợp đồng là “sự thoả thuận giữa nông dân và các cơ sở chế biến hoặc tiêu thụ sản phẩm nông sản về việc tiêu thụ sản phẩm trong tương lai và thường với giá đặt trước”. Liên kết dạng hợp đồng là hình thức một công ty cam kết mua hàng hóa từ một nhà sản xuất với một mức giá được xác định trước khi mua. Mối quan hệ hợp đồng giữa nhà sản xuất và nhà chế biến chỉ sự điều chỉnh của những văn bản thỏa thuận cá nhân mang tính pháp lý, những giao dịch này có thể là về giá mua bán, thị trường, chất lượng và số lượng nguyên liệu đầu vào, các dịch vụ kỹ thuật, cung cấp tài chính,....được thỏa thuận trước khi bán. Liên kết dạng hợp đồng tạo ra sự linh hoạt trong việc chia sẽ rủi ro và quyền kiểm soát giữa các chủ thể tham gia hợp đồng. Cơ sở lý luận chính cho hợp đồng nông sản là lý thuyết về “chi phí giao dịch” trong đó quan tâm tới 3 yếu tố chính cho sự hình thành và phát triển của hợp đồng nông sản, cụ thể là: tính hợp lý bị giới hạn, tính cơ hội và tính cụ thể của tài sản. Nếu không có sự chi phối của các yếu tố đó trong các giao dịch thị trường thì sẽ không cần có hợp đồng nông sản bởi vì các doanh nghiệp kinh doanh nông sản có thể mua tất cả các nguyên vật liệu trên thị trường buôn bán trao tay để đáp ứng nhu cầu của họ một cách nhanh nhất và hoàn hảo. Một lựa chọn khác cho việc thu mua nguyên liệu là các doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp có thể tự thiết lập các đồn điền của riêng họ. Tuy nhiên, lựa chọn này có thể lại sinh ra các chi phí giao dịch khác như chi phí giám sát, rủi ro của các mùa vụ, chi phí mua/thu đất và tập huấn kỹ thuật. Vì thế, hợp đồng nông sản chỉ cần thiết nếu nó tạo ra chi phí giao dịch thấp hơn so với các lựa chọn khác. Dựa trên tính toàn diện của các điều khoản hợp đồng, người ta chia làm 2 loại hợp đồng hợp đồng đầy đủ và hợp đồng không đầy đủ. Hợp đồng đầy đủ là hình thức liên kết cao hơn, trong đó tất cả các nội dung của giao dịch được ghi trong hợp đồng. Tuy nhiên, hợp đồng không đầy đủ cho phép các bên giải quyết các vấn đề của giao dịch mà họ không chắc chắn khi ký hợp đồng. Cũng do hợp đồng không đầy đủ nên tính ràng buộc, tính cam kết của loại hợp đồng này không cao. Cũng có thể dựa trên quan hệ hợp đồng theo chuỗi giá trị, có thể chia hợp đồng làm 2 loại: Hợp đồng sản xuất và hợp đồng tiêu thụ. Hai dạng hợp đồng này khác nhau ở trách nhiệm quản lý, sở hữu sản phẩm và cung cấp yếu tố đầu vào. Trong mỗi kiểu hợp đồng này, có một loạt các điều khoản như việc định giá, dự trữ, vận chuyển và xác định chất lượng. - Hiệp hội với liên kết tiêu thụ sản phẩm Trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, mối quan hệ giữa các hộ, cơ sở và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là sự đan xen giữa hợp tác và cạnh tranh. Các đơn vị này một mặt liên kết với nhau để cùng phát triển, nhưng mặt khác cũng cạnh tranh lẫn nhau nhằm tạo ra những ưu thế độc chiếm thị trường và thu nhiều lợi nhuận. Để điều chỉnh các mối quan hệ nhằm bảo vệ lợi ích giữa các tác nhân trước các đối tác khác, một số tác nhân đã liên kết với nhau hình thành các hiệp hội. Hiệp hội là một loại hình liên kết, hợp tác mang tính cộng đồng hỗ trợ phát triển và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các cơ sở, đồng thời là cầu nối giữa các cơ quan chính quyền với cơ sở. Hiệp hội với những lợi thế trong tổ chức liên kết, hợp tác và sự kết nối các hoạt động sẽ giảm được chi phí, tiết kiệm nguồn lực, tạo năng lực nội sinh mới trên nhiều phương diện: về thời gian, khoảng cách, chi phí, tốc độ và tính ổn định cho các giao dịch trên thị trườngv.v…Qua đó, qui mô và không gian kinh tế của các doanh nghiệp được mở rộng và có nhiều cơ hội tiếp cận với các nguồn lực và thị trường. Trên thế giới, tiếng nói của hiệp hội có sức mạnh và quyền lực rất lớn mà ngay cả Chính phủ cũng không thể làm thay. Sự phát triển hiệp hội là yêu cầu tất yếu của một nền kinh tế thị trường hiện đại trong thể chế phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Thành viên của các Hiệp hội có thể là các doanh nghiệp và một số tổ chức kinh tế - kỹ thuật khác cùng chung lợi ích, hợp tác bảo vệ quyền lợi chung và phát triển. Hơn nữa, Hiệp hội là một tổ chức mà sự tham gia của các thành viên không mang tính áp đặt, bắt buộc mà hoàn toàn mang tính tự nguyện nhằm thoả mãn một số nhu cầu, lợi ích nào đó của các thành viên. Trong số các nhu cầu, lợi ích đó nhiều khi không phải chỉ đơn thuần về mặt kinh tế mà còn các nhu cầu khác, rất đa dạng và phong phú. Tuy có liên hệ mật thiết với chính quyền, nhưng Hiệp hội bảo vệ quyền lợi chính đáng cho doanh nghiệp, từng nhóm doanh nghiệp để góp phần xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh và giải quyết kịp thời những mâu thuẫn nảy sinh, tạo nên lòng tin của khách hàng, của giới doanh nghiệp đối với môi trường kinh doanh, bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp. Hiệp hội, với đội ngũ cán bộ, chuyên gia và cộng tác viên có khả năng, đẩy mạnh tư vấn, hướng dẫn cho doanh nghiệp khai thác các cơ hội kinh doanh, thiết lập các quan hệ bạn hàng, nâng cao năng lực quản lý, giải quyết các tranh chấp phát sinh; hỗ trợ doanh nghiệp trong việc quảng bá, giới thiệu doanh nghiệp và sản phẩm tới khách hàng; tổ chức đào tạo cán bộ cho doanh nghiệp, góp phần xây dựng đội ngũ doanh nhân; hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc phòng tránh và giải quyết có hiệu quả các tranh chấp phát sinh trong kinh doanh, tư vấn và hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc thực hiện bảo hộ sở hữu thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp và sáng chế của mình. Thông qua các hoạt động hỗ trợ, các hiệp hội có thể tăng cường chức năng chung của thị trường với việc thúc đẩy cung cấp hàng hoá công thiết yếu đang có mặt trong một số doanh nghiệp và cần thiết cho sự vận hành của nền kinh tế. Có hai loại hàng hoá - quyền sở hữu tài sản và hành chính công - được nhà nước cung cấp, vì vậy những đóng góp của hiệp hội sẽ mang tính gián tiếp theo yêu cầu của nhà nước. Loại hàng hoá thứ ba, cơ sở hạ tầng, có thể được cung cấp thông qua các hoạt động trực tiếp của hiệp hội cũng như áp lực gián tiếp của các cơ quan nhà nước. Các hoạt động hỗ trợ thị trường được nhiều hiệp hội doanh nghiệp thực hiện nhằm khắc phục một số khiếm khuyết của thị trường như tăng cường các hoạt động phối hợp giữa các doanh nghiệp qua đó dung hoà các mối quan hệ trong sản xuất và ra quyết định đầu tư. 3. Đặc điểm của hàng mây tre đan: Hàng mây tre là mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống của dân tộc, được tạo nên chủ yếu từ những nguyên liệu tự nhiên qua đôi bàn tay khéo léo của con người. Đó là mặt hàng tinh tế và có thẩm mỹ cao, là kết tinh các đặc điểm văn hoá của các làng nghề tạo nên tính độc đáo khác hẳn với các sản phẩm công nghiệp được sản xuất hàng loạt bằng máy móc. Sản phẩm mây, tre đan thường gắn với các làng nghề truyền thống, nguyên liệu làm ra sản phẩm rất phong phú: tre, trúc, cói, mây… chủ yếu là có sẵn trong nước, trị giá phục liệu nhập khẩu thường chiếm từ 3-5% trong giá thành sản phẩm, nhiều loại không đáng kể. Sản phẩm mây, tre đan phần lớn được sử dụng làm hàng trang trí trong gia đình, nhà hàng, khách sạn…nên mẫu mã, kiểu dáng đóng vai trò quan trọng và thường xuyên được cải tiến. Sử dụng hàng mây, tre đan vừa tạo sự thân thiện với môi trường vừa có vẻ đẹp nhẹ nhàng, trang nhã. Sản phẩm được làm từ nguyên liệu tự nhiên nên chịu ảnh hưởng lớn của thời tiết khí hậu. Sản phẩm chóng bị hỏng nếu khâu xử lý nguyên liệu không tốt và cách bảo quản không cẩn thận. Thời gian sử dụng sản phẩm này cũng không dài như các sản phẩm công nghiệp làm từ những vật liệu khác. 4. Vai trò của liên kết trong sản xuất – tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan xuất khẩu: - Liên kết kinh tế giúp doanh nghiệp khắc ._.phục những bất lợi về quy mô Trong hoạt động sản xuất - kinh doanh, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh (Hộ, HTX, Doanh nghiệp) đều thực hiện một chuỗi các hoạt động từ cung cấp, dịch vụ đầu vào và đầu ra; Mỗi cung đoạn lại có những đầu vào khác nhau, quy trình công nghệ khác nhau và mang tính đặc thù; Hơn nữa để sản xuất một loại sản phẩm đầu ra nào đó lại yêu cầu những chủng loại vật tư, nguyên liệu đầu vào khác nhau mà bản thân đơn vị sản xuất (Hộ, HTX, doanh nghiệp) không tự sản xuất ra tất cả, mà đó là kết quả của quá trình phân công lao động, liên kết hợp tác của hai hay nhiều bên nhằm phát huy lợi thế so sánh, giảm chi phí sản xuất và chủ động, ổn định sản xuất - kinh doanh. Trong một chuỗi các hoạt động sản xuất kinh doanh mỗi hộ, cơ sở đều có một hoặc một số lĩnh vực hoạt động chủ đạo, mang tính đặc thù, chuyên biệt. Bên cạnh những hoạt động chính, còn một loạt các hoạt động phụ, mà bản thân cơ sở không thể thực hiện được, nhưng nó lại không thể thiếu đối với cả chuỗi dây chuyền sản xuất chính. Ví dụ, trong sản xuất hàng mây tre đan, người ta sử dụng các nguyên liệu sản xuất chính là tre, mây, song,…các nguyên liệu này nằm ở nhiều vùng miền khác nhau do nhiều chủ thể khác nhau đang quản lý sử dụng. Sau đó, người ta khai thác, sơ chế, vận chuyển đến các làng nghề. Tại các làng nghề để tạo ra 1 sản phẩm hoàn chính, ngoài sử dụng nguyên liệu chính là tre, song mây, guột, còn sử dụng thêm một số nguyên liệu khác như gỗ, sứ, vải, và các hóa chất khác như lưu huỳnh, keo, sơn,… để đảm bảo mỹ thuật và tính bền vững của sản phẩm. Tất cả những sản phẩm này là kết quả hoạt động của nhiều lĩnh vực, nhiều chủ thể khác nhau mà mỗi hộ, doanh nghiệp khó có thể đảm nhận hết. Hơn nữa nếu có làm được thì ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Chính vì vậy các liên kết giúp các hộ, doanh nghiệp khắc phục những hạn chế về qui mô và lĩnh vực hoạt động theo hướng hiệu quả hơn. - Liên kết kinh tế giúp doanh nghiệp phản ứng nhanh với những thay đổi của thị trường. Như trên đã nói, liên kết kinh tế giúp doanh nghiệp khắc phục được những hạn chế về quy mô, thì ở một khía cạnh khác, liên kết kinh tế còn giúp cho doanh nghiệp phản ứng nhanh với những thay đổi của thị trường. + Nhu cầu của thị trường là luôn thay đổi, điều đó buộc các doanh nghiệp vừa phải luôn thay đổi mẫu mã của các sản phẩm hiện có, vừa phải tìm cách đa dạng hoá sản phẩm. Để có được những thay đổi phù hợp với nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp cần phải có thông tin và có đủ khả năng triển khai nhanh các phương án sản xuất mới. Chính sự liên kết kinh tế sẽ giúp cho doanh nghiệp đạt được điều đó. + Liên kết kinh tế giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm của mình được nhanh hơn, thể hiện thông qua sự liên kết của hệ thống các nhà thương mại với các nhà sản xuất, thông qua hình thức đại lý bán hàng. Hình thức liên kết này, các cửa hàng kinh doanh sẽ nhận làm đại lý bán buôn hay bán lẻ sản phẩm cho doanh nghiệp sản xuất. Và nhờ đó, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ được đưa vào thị trường một cách nhanh chóng hơn, kịp thời hơn. + Liên kết kinh tế còn giúp cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận nhanh chóng với các công nghệ và kỹ thuật mới, nhờ sự phối hợp với các nhà nghiên cứu ở các trường đại học hay cơ sở nghiên cứu trong và ngoài nước. Ngược lại, sự thay đổi của thị trường cũng thúc đẩy liên kết kinh tế. Trong thực tế, khi những thay đổi của thị trường vượt ra ngoài khả năng đáp ứng của doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải tìm cách liên kết với các đối tác khác để tìm kiếm sự hỗ trợ về vốn và công nghệ, kể cả việc tiến hành đặt gia công sản xuất ở bên ngoài những phụ kiện phục vụ cho sản phẩm chính của mình, như đã nói ở trên. - Liên kết kinh tế giúp doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Phát triển sản xuất là một quá trình vận động không ngừng, tích tụ tập trung rồi lại chia tách, sáp nhập để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội và phù hợp với khả năng nội tại của doanh nghiệp nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận cao nhất, mà lại giảm thiểu được rủi ro. Quá trình đó diễn ra thực chất là thông qua các hoạt động liên kết kinh tế. Đứng trước một cơ hội sản xuất lớn, nhiều khi vượt quá khả năng sản xuất của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp bỏ sẽ mất cơ hội làm ăn, nhưng nếu doanh nghiệp đơn độc một mình triển khai thực hiện dự án dẫn đến hiệu quả thấp, thậm chí thua lỗ. Để tránh được hiện tượng này, nhiều doanh nghiệp đã biết phân tán rủi ro bằng cách mời gọi các doanh nghiệp khác cùng tham gia thực hiện dự án, mỗi doanh nghiệp đảm nhận một phần công việc, tuỳ theo năng lực của từng doanh nghiệp. Như vậy, mỗi DN tham gia dự án chỉ phải chịu một phần rủi ro nếu có. Mặt khác, hai doanh nghiệp, trước đây là đối thủ của nhau, cạnh tranh nhau trên cùng một loại sản phẩm, trong cùng một thị trường đến nay, để giảm thiểu rủi ro do cạnh tranh, họ liên kết lại, cùng thoả hiệp để phân chia thị trường, kể cả việc sáp nhập để tạo nên độc quyền. Như vậy Nhà nước cần khuyến khích các cơ sở sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, hợp tác sản xuất kinh doanh nhằm đạt hiệu kinh tế cao và phục vụ nhu cầu đa dạng của xã hội nhưng mặt khác, Nhà nước cũng cần có giải pháp chính sách quản lý vĩ mô nhằm hạn chế độc quyền dẫn đến lũng đoạn thị trường và lũng đoạn nền kinh tế, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất đời sống của dân cư. 5. Các yếu tố ảnh hưởng đến cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm: Các yếu tố tác động đến cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan của hộ, cơ sở như sau: Yếu tố bên trong - Nguồn nhân lực (Trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật,…) - Khả năng tài chính - Qui mô sản xuất - Thương hiệu - Khả năng marketing và hệ thống tiêu thụ sản phẩm - Kỹ thuật và công nghệ Yếu tố bên ngoài - Cơ sở hạ tầng (giao thông, thông tin,…) - Mức độ tập trung sản xuất (Làng nghề) - Môi trường pháp lý - Chính sách tài chính, thương mại - Mức độ phát triển và hiệu quả hoạt động của Hiệp hội Cơ chế liên kết Hình 4: Các yếu tố tác động đến việc xuất khẩu sản phẩm mây, tre đan Các nhân tố tác động đến việc xuất khẩu tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan của hộ, cơ sở như sau: Nhân tố ảnh hưởng bên trong - Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm mây, tre đan Trước tiên, để có một sản phẩm mây, che đan có chất lượng cao thì cần có nguồn nguyên liệu chất lượng tốt, đồng đều,…. Muốn như vậy, việc tròng sản phẩm mây tre đan cần đúng yêu cầu kỹ thuật, có giống tốt, sau này cho sản phẩm đồng đều, cây đẹp. Một mặt, để nâng cao năng suất sản phẩm mây tre đan thì hộ trồng, sản xuất cung cấp nguồn nguyên liệu, cần phải đầu tư và kỹ thuật chăm sóc cây và đặc biệt là công tác thâm canh nâng cao năng suất. Đồng thời, phải tuyển chọn và phát triển những giống mây, tre mới có chất lượng cao. Ngoài nhân tố đó thì còn có khâu chế biến và bảo quản cũng ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm mây, tre đan xuất khẩu. Đó là hai khâu quan trọng nhất vì qua quá trình chế biến thì giá trị của sản phẩm mây, tre đan tăng lên rất nhiều lần đồng thời với đó là phải yêu cầu giữ được phẩm chất của từng loại sản phẩm. Chính khâu chế biến quyết định đến các loại sản phẩm mây tre đan hộ sản xuất ra, quyết định độ, bóng, màu sắc, độ bền của sản phẩm. - Trình độ và tay nghê kỹ thuật của hộ trong sản xuất các sản phẩm mây, tre đan Đây chính là yếu tố quan trọng nhất làm nên một sản phẩm mây, tre đan có sức thu hút khách hàng và chất lượng tốt. Và yếu tố này được tạo nên từ kỹ nghê, tay nghề truyền qua các đời trong gia đình của hộ, phần nhiều là do quá trình học hỏi, đào tạo. Điều này quyết định đến sự đa dạng của các sản phẩm mây, tre đan, trình độ tinh sảo của từng sản phẩm,.. - Mức độ và quy mô sản xuất tập trung của địa phương và thường gắn với sự phát triển của các làng nghề Chính điều này ảnh hưởng đến việc tập trung nguồn nguyên liệu, tập hợp sản phẩm mây, tre đan sản xuất ra để xuất khẩu. Nếu mức độ sản xuất tập trung cao của hộ, địa phương sẽ góp phần giảm chi phí tập trung, giảm bớt được khâu trung gian, do đó lợi ích của hộ đạt được sẽ cao hơn. Đồng thời góp phần hình thành làng nghề sản xuất mây, tre đan truyền thống tại địa phương. - Thị trường tiêu thụ và nhu cầu sản phẩm mây, tre đan xuất khẩu Thị trường tiêu thụ là nơi kết thúc vòng tuần hoàn khép kín từ việc sản xuất đến lưu thông. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, hàng hoá rất nhiều không chỉ trong mà còn ngoài nước và chính vì thế người tiêu dùng có rất nhiều cơ hội để lựa chọn. Để sản phẩm mây, tre đan được lựa chọn và có nhiều thị trường tiêu thụ thì phải có sản phẩm chất lượng tôt, mẫu mã đa dạng, bền, và sản phẩm phải có sự hấp dẫn, tạo ra ấn tượng đầu tiên đối với khách hàng cùng với chiến lược kinh doanh có hiệu quả. Từ đó vừa giữ được thị trường mà có thể mở rộng thị trường khác nữa ngày càng tăng được sức cạnh tranh của sản phẩm mây, tre đan nước mình. Năng lực cạnh tranh của quốc gia Xét về mặt kinh tế thì tiêu chí này có liên quan trực tiếp đến thu hút đầu tư của nước ngoài cho phát triển. Theo các nhà kinh tế thế giới để xem xét sức cạnh tranh của một quốc gia có 5 tiêu chí đó là: ổn định kinh tế-chính trị, hiệu lực bộ máy hành chính quốc gia, kết cấu hạ tầng, lực lượng lao động, tình trạng tham nhũng. Muốn nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia thì phải phát triển hoàn thiện 5 tiêu chí đó. Xem xét một cách toàn diện thì năng lực cạnh tranh của quốc gia có ảnh hưởng rất lớn đến sức cạnh tranh của các doanh nghiệp. Khi sức cạnh tranh yếu thì nó sẽ cản trở và không hỗ trợ và nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hoá. Theo tổ chức diễn đàn thế giới thì Việt Nam xếp hạng 81/117 nền kinh tế có chỉ số cạnh tranh toàn cầu năm 2005, hạng 80 về cạnh tranh kinh doanh, hạng 92 về năng lực hoạt động của các cơ quan công quyền. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu Vấn đề này nó được xem xét qua sự tăng doanh số nhưng quan trọng hơn là xem xét thị phần chiếm lĩnh. Như vậy nếu doanh nghiệp có sức cạnh tranh sẽ tạo được chỗ đứng cho hàng hoá của mình. Đối với các doanh nghiệp mà đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu thì điều đó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Trong sản xuất kinh doanh có một qui luật quan trọng nếu nhà doanh nghiệp nào nhận ra và ứng dụng được thì sẽ gặt hái được nhiều thành công. Qui luật đó đòi hỏi: nơi nào đông nhà kinh doanh thì phải tìm đến thị trường mới còn trống vắng để kinh doanh “vắng thì tìm đến, đông thì tránh xa”. Điều đó minh chứng là các hãng nổi tiếng là các hãng nổi tiếng trên thế giới đều đã mở rộng đến các nước, Châu Á, Châu Âu, Phi, Mỹ, tìm kiếm những thị trường còn ít đối thủ cạnh tranh hoặc còn trống chưa ai đến, chưa ai dám đến. Nếu như các doanh nghiệp có hàng hoá chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, đạt tiêu chuẩn an toàn, sản xuất với chi phí thấp hạ giá thành ngoài ra xây dựng, quảng bá được thương hiệu… khi đó sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho hàng hoá của mình đồng thời mở rộng được thị trường xuất khẩu, tạo sự ổn định cho hàng hoá của doanh nghiệp mình. - Năng lực cạnh tranh của chính sản phẩm mây, tre đan xuất khẩu Đây là yếu tố có tính chất quyết định và ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại cũng như chỗ đứng của hàng hoá đó trên thị trường trong khi yêu cầu của con người ngày càng cao cùng với cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Các yếu tố chất lượng, giá cả, phân phối có ý nghĩa quyết định đối với sức cạnh tranh của hàng hoá. Nếu một mặt hàng vừa có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, giá cả hợp lý và hàng hoá có sự phong phú sản phẩm cao cùng với đó là quảng cáo độc đáo thị có sức hấp dẫn thu hút được nhiều khách hàng. Đặc biệt, khi nước ta đã gia nhập WTO thì vấn đề đó càng trở nên quan trọng nếu muốn tăng sức cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp mình. Do đó, phải nâng cao chất lượng, chủng loại đa dạng, sử dụng công nghệ hiện đại để tăng hiệu quả bán hàng đồng thời tránh được sự ép giá. Cuộc phấn đấu để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế quốc gia là vấn đề rất lớn, vấn đề sống còn khi hội nhập kinh tế không chỉ của Việt Nam mà của toàn thế giới. Nhân tố ảnh hưởng bên ngoài - Chính sách thương mại của chính phủ đối với xuất khẩu nông sản Với những chính sách như cắt giảm, miễn thuế xuất khẩu hàng nông sản, mở rộng từng bước, tiến tới tự do hoá đối tượng xuất khẩu, giảm dần rồi xoá bỏ giấy phép xuất khẩu, từng bước thu hẹp sử dụng hạn ngạch,… đã có tác động mạnh thúc đẩy đến việc xuất khẩu các hàng nông sản. - Chính sách về bảo hộ Hiện nay, hầu hết các nước phát triển như Mỹ, Nhật, thị trường EU,… đều có chính sách bảo hộ đối với hàng nông sản của mình. Điều đó gây cản trở rất lớn đối với hàng hoá của các nước đang phát triển- trong đó có Việt Nam. Hơn nữa khi WTO qui định rỡ bỏ các rào cản thuế quan để tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì các quốc gia lại lập nên hàng rào phi thuế quan để ngăn chặn dòng nông sản phẩm từ các nước đang phát triển tràn vào. Điều đó thì ảnh hưởng trực tiếp đối với các sản phẩm nông sản của nước ta (trong đó có sản phẩm mây, tre đan) vào các thị trường này. Như vậy, nhóm những yếu tố bên trong, trong đó nguồn nhân lực - yếu tố đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của hộ, cơ sở và là điều kiện tiền đề tạo ra những bước phát triển mang tính đột phá nhằm phát triển kinh tế của hộ, cơ sở. Kinh tế hộ, cơ sở phát triển lại là tiền đề thúc đẩy hình thành, mở rộng các hình thức liên kết hợp tác sản xuất kinh doanh một cách đa dạng và hiệu quả. Còn nhóm các yếu tố bên ngoài chủ yếu là vai trò của Chính phủ, trong việc thiết lập môi trường (pháp lý, kinh tế, văn hóa-xã hội) công bằng, dân chủ, hiệu quả và minh bạch để phát huy khả năng sáng tạo của các chủ thể, các hộ và cơ sở. Đồng thời tạo dựng hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, nhất là hệ thống giao thông, hệ thống điện và thông tin liên lạc. Đây là các yếu tố không thể thiếu để mở rộng và nâng cao hiệu quả liên kết hợp tác. 6. Kinh nghiệm thực hiện cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu ở một số nước: 6.1. Kinh nghiệm tổ chức thị trường tiêu thụ nông sản phẩm của Thái Lan: Thái Lan là một nước có hệ thống marketing rất đa dạng, cả về hệ thống marketing truyền thống như hệ thống các chợ, các đại lý, cửa hàng chuyên bán lẻ nông sản. Từ cuối những năm 60 và đầu những năm 70, các khu vực thương mại trung tâm phát triển mạnh, và hình thành các hệ thống phân phối hiện đại phát triển đỉnh cao với cơ cấu mới như: Các cửa hàng tiện lợi, các cửa hàng giảm giá, các cửa hàng thực phẩm tươi sống với sự tham gia của các nhà phân phối nước ngoài. Cuối thế kỷ 20, cạnh tranh trên thị trường khốc liệt và các hệ thống kinh doanh truyền thống bị tác động tiêu cực. Họ gây sức ép và buộc chính phủ phải cải cách. Quan điểm của chính phủ là giữ cân bằng cho mọi thành phần từ sản xuất, nhà cung cấp, nhà bán buôn đến nhà bán lẻ lớn hoặc nhỏ; hệ thống phân phối hiện đại và truyền thống cùng tồn tại, cùng tham gia, mỗi hệ thống có vị trí riêng trên thị trường. - Đối với hệ thống marketing truyền thống: Nhà nước tăng cường hiểu biết cho các chủ kinh doanh về sức ép cạnh tranh thị trường, từ đó thay đổi cách ứng xử, tiếp cận khách hàng; thúc đẩy phát triển các cửa hàng “tiện lợi”. + Khuyến khích phát triển hệ thống thị trường hàng lương thực - thực phẩm như thị trường chung, thị trường giao sau, thị trường hợp đồng, chợ trung tâm nông sản, v.v... để tạo điều kiện và yếu tố cần thiết cho phát triển các hệ thống kinh doanh hiện đại. + Về thị trường chung: Nhà nước tuyên truyền, phổ biến kiến thức về thị trường chung và Quy chế khuyến khích thành lập thị trường chung về hàng nông sản của Bộ Thương mại; phối hợp với các tỉnh có liên quan để thành lập thị trường chung về nông sản; tổ chức các hoạt động nhằm khuyến khích phát triển thị trường chung về hàng nông sản; khuyến khích thành lập trung tâm thu gom rau quả; khuyến khích việc tổ chức bán đấu giá... + Về thị trường mua bán giao sau: Nhà nước ban hành Luật về lập thị trường nông sản giao sau; mở lớp bồi dưỡng, trao đổi kiến thức về thị trường giao sau ở trung ương và các khu vực; tuyên truyền, phổ biến kiến thức về thị trường triển hạn qua các phương tiện thông tin đại chúng; nghiên cứu thông tin về hàng hóa (tiêu chuẩn chất lượng, phương thức giao nhận...) và thời hạn để xác định hình thức của hợp đồng mua bán giao sau và xây dựng quy chế quản lý hoạt động của thị trường này. + Đối với Thị trường giao dịch theo hợp đồng: thiết lập thị trường để phục vụ cho các giao dịch theo hợp đồng giữa người nông dân hoặc tổ chức nông nghiệp với những người mua hàng; đề ra tiêu chuẩn hàng hóa, đề ra mẫu hợp đồng tiêu chuẩn, điều tiết các hoạt động ký kết, giám sát thực hiện hợp đồng, tham gia cùng với Ban trọng tài và các bên ký kết giải quyết mâu thuẫn khi có tranh chấp. Thường xuyên tuyên truyền, phổ biến kiến thức liên quan đến việc ký kết hợp đồng thỏa thuận và phân loại chất lượng nông sản; hướng dẫn, kiểm tra và giám sát việc chấp hành hợp đồng, hỗ trợ tài chính cho người mua đã ký hợp đồng thỏa thuận trong trường hợp đặc biệt. Những loại nông sản có khả năng ký kết hợp đồng được xác định là cà chua, gừng, ngũ cốc non, măng tây, măng tre, chôm chôm, vải, nhãn, dứa, đu đủ, và đậu tương... Tổ chức Chợ trung tâm hàng nông sản: Chợ trung tâm hàng nông sản không phải là nhà buôn trung gian mà là trung gian trong việc sắp xếp, bố trí cơ sở hạ tầng dịch vụ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người đến sử dụng dịch vụ và làm trung gian trong việc sắp xếp hệ thống mua bán bảo đảm công bằng cho các bên tham gia trong môi trường thương mại tự do. Chợ còn thường xuyên phối hợp với các cơ quan Nhà nước và các đơn vị liên quan tổ chức các hội chợ về nông sản, cơ sở chế biến tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức cho nông dân về sản xuất nông sản sạch, phối hợp với Phòng nông nghiệp thực hiện các dự án nông sản hữu cơ... Với chủ trương phát triển như vậy, các chợ trung tâm hàng nông sản trở thành nơi tập trung nông sản ở từng khu vực và là trung tâm phân phối hàng nông sản đi các nơi trên cả nước và xuất khẩu; chợ thực sự là đòn bẩy thúc đẩy sản xuất hàng nông sản và cải thiện đời sống cho nông dân ở từng khu vực nhờ hình thành và phát triển các hệ thống kinh doanh, phân phối chặt chẽ. 6.2.Kinh nghiệm của Trung Quốc: Hiện trạng sản xuất của nông dân Trung Quốc vẫn là hệ thống sản xuất không bền vững, thiếu sự hỗ trợ của tín dụng và kỹ thuật. Giá ở thị trường tiêu thụ nội địa thấp vì lượng hàng tồn lớn, nhất là sau khi gia nhập WTO khiến khả năng cạnh tranh càng cao. Hơn nữa, điều kiện tiếp cận thị trường của nông dân rất khó khăn và thu nhập của họ cũng thấp. Về phía Chính phủ, với nhiệm vụ vừa phải đảm bảo an ninh lương thực quốc gia vừa phải nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh hàng nông sản, tăng thu nhập cho nông dân. Với nhiệm vụ đó, Chính phủ chủ trương thực hiện thành công chương trình công nghiệp hóa nông nghiệp, đầu tư cơ sở hạ tầng và cải cách thể chế tín dụng nông thôn. Hợp đồng sản xuất nông nghiệp ở Trung Quốc phát triển nhanh khoảng 10 năm lại đây, liên quan đến các vấn đề sau: + Tổ chức thực hiện hợp đồng sản xuất nông nghiệp ở Trung Quốc. + Tác nhân ảnh hưởng đến thực hiện hợp đồng giữa nông dân và doanh nghiệp. + Hợp đồng sản xuất nông nghiệp nên thể hiện theo hình thức nào. + Yếu tố chính tác động đến sự tuân thủ thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, sản xuất theo hợp đồng có xu hướng bỏ qua những người sản xuất nhỏ. Nông dân xác đinh được giá cả ổn định và được tiếp cận thị trường như là những ưu điểm chính của phương thức này để ký hợp đồng với doanh nghiệp, trong khi đó doanh nghiệp coi việc cải tiến chất lượng sản phẩm là mấu chốt để đảm bảo cho hợp đồng được thực hiện. Kết quả chính là sản xuất theo phương thức này là chất lượng sản phẩm cao hơn, chi phí sản xuất và tiếp thị thấp hơn. Trong chương trình công nghiệp hoá nông nghiệp, Chính phủ Trung Quốc có chủ trương hỗ trợ và thúc đẩy phương thức hợp đồng sản xuất nông nghiệp nhằm mục tiêu tăng lợi nhuận và khả năng cạnh tranh cho sản xuất nông nghiệp. Hợp đồng sản xuất nông nghiệp như phương tiện để gắn nông dân sản xuất nhỏ với các doanh nghiệp chế biến quy mô lớn. Chính quyền địa phương đã nhận thức tiềm năng của sản xuất theo hợp đồng trong việc cơ cấu lại sản xuất và tăng thu nhập cho nông dân. Bốn đặc điểm chính có được từ phương thức sản xuất hợp đồng là: + Số hàng hoá nông nghiệp sản xuất theo phương thức này tăng một cách vững chắc. + Địa bàn áp dụng phương thức sản xuất này cũng tăng nhanh chóng, ngay cả đến những vùng kém phát triển của miền Trung và Tây Trung Quốc. + Quy mô của phương thức sản xuất này cũng mở rộng và số lượng hợp đồng cũng tăng nhanh. Kết quả phân tích từ điều tra 1036 hộ nông dân, trong đó có 220 hộ (chiếm 21%) thực hiện hợp đồng đã chỉ ra những lý do tại sao việc thực hiện hợp đồng còn khó khăn và có liên quan đến cả hai phía nông dân và doanh nghiệp. 6.3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam: - Trong những năm gần đây cùng với sự tăng trưởng kinh tế, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa đã tác động thúc đẩy nhanh quá trình phân công lao động và hợp tác liên kết tiêu thụ sản phẩm hàng hóa. Tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hóa có khác nhau tùy theo từng nước, nhưng có mục tiêu chung là tìm biện pháp để rút ngắn khoảng cách giữa người bán và người mua, phục vụ người tiêu dùng nhanh hơn, tiện lợi hơn thông qua hệ thống chuỗi cửa hàng; - Hình thức giao dịch có thể mua bán tự do hoặc thông qua hình thức hợp đồng. Thực hiện theo hình thức hợp đồng, kinh nghiệm Thái Lan lấy một cơ quan nhà nước (Cục Nội thương) với các tiêu chuẩn hàng hóa do Cục xác định và hợp đồng mẫu tiêu chuẩn làm đầu mối dàn xếp và giám sát thực hiện hợp đồng giữa bên mua và bên bán. Người bán và người mua cùng đến tại Văn phòng của Cục nội thương đóng tại các tỉnh để dàn xếp ký kết hợp đồng và chịu sự giám sát của văn phòng trong thực hiện hợp đồng. Không để cho người mua tự thiết kế hợp đồng theo các điều kiện có lợi cho mình, người bán buộc phải thực hiện dưới sức ép của người mua. Giao dịch theo hình thức hợp đồng, một yếu tố hết sức quan trọng là qui mô của các nhà sản xuất cung cấp nguyên liệu. Chính vì vậy thiết lập quan hệ giao dịch hợp đồng đi liền với tạo điều kiện để mở rộng qui mô sản xuất. - Nhà nước có vai trò xây dựng môi trường pháp lý; xây dựng các chỉ tiêu, các mẫu hợp đồng làm cơ sở cho việc ký kết hợp đồng; tuyên truyền, tập huấn, phổ biến kiến thức và hướng dẫn giao dịch đối với một số thị trường mới mẻ như giao sau, thị trường chung; đề ra một số chính sách, chế độ hỗ trợ đối với các nhà kinh doanh theo hệ thống truyền thống vươn lên thích ứng với hiện đại, chính sách hỗ trợ nông dân tham gia giao dịch tại các chợ trung tâm miễn phí thuê địa điểm; Nhà nước tổ chức ngày gặp gỡ nông dân; tổ chức hội thảo, bồi dưỡng kiến thức cho các đối tượng liên quan; thành lập cơ quan quản lý thị trường chung và phối hợp liên kết mạng thông tin; kiểm tra, hướng dẫn cho những đối tượng hoạt động trên thị trường chung về hàng nông sản trong khu vực. - Xuất hiện một số mô hình tổ chức sản xuất - kinh doanh nông sản thông qua các HTX nhằm liên kết các thành viên để nâng cao năng lực khi tham gia vào thị trường và cũng là cầu nối giữa nông dân sản xuất với người sử dụng nông sản. Hình thức HTX chiếm vị trí khá quan trọng trong thu mua, giao dịch và phân phối trên thị trường nông sản nói chung, sản phẩm TTCN nói riêng. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CƠ CHẾ LIÊN KẾT TIÊU THỤ SẢN PHẨM HÀNG MÂY, TRE ĐAN XUẤT KHẨU Ở TỈNH HÀ TÂY I- Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Hà Tây ảnh hưởng đến sản xuất, tiêu thụ mây, tre đan: 1. Đặc điểm tự nhiên: - Vị trí địa lý: Hà Tây là tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH), có thành phố Hà Đông nằm cách thủ đô Hà Nội 10 km về phía Tây và Tây - Nam. Tỉnh Hà Tây có toạ độ 20,310 - 21,170 vĩ độ Bắc, 105,170 - 1060 kinh độ Đông. Phía Đông giáp Thủ đô Hà Nội, phía Đông Nam giáp tỉnh Hưng Yên, phía Nam giáp tỉnh Hà Nam, phía Tây giáp tỉnh Hoà Bình, phía Bắc giáp 2 tỉnh là Vĩnh Phúc và Phú Thọ. - Đặc điểm đất đai, địa hình: Tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh Hà Tây là 219207,9 ha với cơ cấu như sau: Bảng 1 : Hiện trạng đất đai tỉnh Hà Tây năm 2006 ST T Loại đất Diện tích (Ha) Cơ cấu (%) *  Tổng diện tích tự nhiên 219629,73 100,00 1 Đất nông nghiệp 120452,82 54,84 2 Đất lâm nghiệp 16333,65 7,44 - Rừng tự nhiên 9715,4 - Rừng trồng 6618,25 3 Đất chuyên dùng 58764,95 26,76 4 Đất ở 16910,03 7,70 5 Đất chưa sử dụng 7168,28 3,26 Nguồn: Báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tây đến năm 2020. Hà Tây là vùng chuyển tiếp giữa vùng đồi núi Tây Bắc và ĐBSH, nên có địa hình đa dạng, chia thành 3 vùng chính: + Vùng núi cao: Vùng núi cao có diện tích 17000 ha chiếm 7,9% diện tích tự nhiên, trong đó có 7400 ha là rừng quốc gia. Các núi có độ cao thay đổi từ 300m - 1000m, riêng đỉnh núi Ba Vì cao 1281m và một số núi đá vôi ở phía Nam tỉnh (Chương Mỹ, Mỹ Đức) với nhiều hang động đẹp. Các vùng này có độ dốc lớn, thường bị xói mòn, rửa trôi vào mùa mưa. + Vùng đồi thấp: Vùng này có diện tích 53400 ha, chiếm 24,8% diện tích tự nhiên. Vùng này, địa hình chủ yếu có độ cao từ 30m - 300m. Địa hình vùng đồi thấp dốc thoải với độ dốc trung bình từ 8-120. Đây là vùng đất nâu vàng, đỏ. + Địa hình đồng bằng: Diện tích khoảng 144300 ha, chiếm 67,3% diện tích tự nhiên. Chia thành 2 dạng: PVùng độ cao từ 10-30m, ở khu vực Ba Vì với độ dốc < 100, vùng đất này có kết cấu vững chắc phù hợp cho xây dựng. PVùng đồng bằng thấp trũng: Vùng này có địa hình tương đối bằng phẳng, nhưng lại có khu vực quá trũng. Đó là khu vực Mỹ Đức (trong đê hữu ngạn sông Đáy) và khu vực Ứng Hoà - Thường Tín (trong đê tả ngạn sông Đáy) và khu vực Phú Xuyên. Đây là vùng đất thấp, thường bị ngập úng vào mùa mưa. - Đặc điểm khí hậu: Hà Tây nằm trong vùng khí hậu vùng đồng bằng Bắc Bộ, mang đặc thù của khí hậu nhiệt đới gió mùa, với hai đặc điểm chính sau: Một năm khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt: Mùa hè nóng và ẩm, mùa đông khô hanh và lạnh. Mùa nóng kéo dài từ tháng 3 đến tháng 10, mùa khô hanh kéo dài từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm là 23,40C. Lượng mưa trung bình năm từ 1200-1700 mm (tháng mưa nhiều nhất là tháng 7-tháng 8 với lượng mưa 355-469,7 mm, tháng mưa ít nhất là tháng 12 đến tháng 1 năm sau với lượng mưa khoảng 13,8-21,4 mm), nhưng lượng mưa phân bố không đều, tập trung vào tháng 5-tháng 9 chiếm tới 75% lượng mưa cả năm nên thường gây úng, lụt. Độ ẩm trung bình từ 83%-86%. - Đặc điểm thuỷ văn: Tỉnh Hà Tây có các sông lớn chảy qua là sông Đà, sông Hồng, sông Đáy, sông Tích, sông Bùi và sông Nhuệ. + Sông Đà là hạ lưu của sông Lô, nằm về phía Tây Bắc của tỉnh, đoạn chảy qua Hà Tây dài 32 km. + Sông Hồng nằm ở phía Bắc và phía Đông Nam tỉnh, đoạn chảy qua Hà Tây dài 30 km. + Sông Đáy là một phân lưu của sông Hồng, bắt nguồn từ Hát Môn chảy qua địa phận Hà Tây dài 144 km. + Sông Tích là trục tiêu chính của tỉnh, bắt nguồn từ dãy núi Tản Viên (Ba Vì ) chảy qua Sơn Tây và đổ vào sông Bùi tại chân cầu Tân Thượng - Xuân Mai dài 70 km. + Sông Bùi: Bắt nguồn từ dãy núi cao của huyện Lương Sơn tỉnh Hoà Bình đổ vào sông Đáy tại Quốc Oai, sông có chiều dài 32 km. + Sông Nhuệ: Nối liền sông Hồng qua cống Liên Mạc và đổ ra sông Đáy qua cống Phủ Lý. Đoạn qua Hà Tây có chiều dài 53 km. Sông Nhuệ làm nhiệm vụ tưới tiêu cho Hà Nội, Hà Tây và Hà Nam. - Tài nguyên thiên nhiên: + Tài nguyên rừng: Toàn tỉnh có 163365 ha đất lâm nghiệp có rừng. Độ che phủ đạt 7,58%. Tổng trữ lượng rừng là 346025 m3 gỗ và 2736 ngàn cây tre, nứa. Hệ động thực vật rừng tập trung chủ yếu ở Ba Vì và Hương Sơn. Theo thống kê, vườn quốc gia Ba Vì có 44 loài thú thuộc 23 họ, 9 bộ. Khu rừng Hương Khê có 32 loại, 17 họ, 7 bộ và trên 40 loài bò sát. Do diện tích rừng tự nhiên còn ít nên tài nguyên động vật cũng suy giảm + Tài nguyên khoáng sản: Hà Tây cũng có một số khoáng sản, như: Đá vôi ở Mỹ Đức, Chương Mỹ; đá Granit ốp lát ở Chương Mỹ; Đất sét ở Chương Mỹ, Sơn Tây, Thạch Thất, Quốc Oai; Cao lanh ở Ba Vì, Quốc Oai; Vàng gốc và sa khoáng ở Quốc Oai, Chương Mỹ; Đồng ở Ba Vì; Than bùn ở Mỹ Đức; Nước khoáng ở Ba Vì,….Đây là những nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể lựa chọn khai thác góp đẩy mạnh công nghiệp khai khoáng. Nguồn tài nguyên rừng khá đa dạng sẽ tạo điều kiện cho trồng, khai thác và sử dụng nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất mây, tre đan của các cơ sở trong tỉnh Hà Tây. 2. Đặc điểm kinh tế, xã hội: - Dân số, lao động: + Dân số: Dân số trung bình năm 2006 là 2543496 người, mật độ dân số là 1150 người/km2 Bảng 2: Dân số và lao động tỉnh Hà Tây năm 2004 - 2006 Chỉ tiêu ĐVT 2004 2005 2006 Tăng trưởng BQ04-06 (%) 1. Dân số trung bình Người 2500000 2524845 2543496 0,87 - Thành thị ,, 254925 263172 264998 1,96 - Nông thôn ,, 2245075 2261673 2278498 0,74 2. Cơ cấu dân số % 100,00 100,00 100,00 - Thành thị ,, 10,20 10,42 10,42 - Nông thôn ,, 89,80 89,58 89,58 3. Tổng lao động Người 1268000 1289000 1299371 1,23 % so với tổng dân số % 50,72 56,97 51,09 Nguồn: Báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tây đến năm 2020. Hà Tây là tỉnh có mật độ dân số cao gấp hơn 4 lần bình quân chung của cả nước, và gấp 1,3 lần bình quân chung các tỉnh vùng ĐBSH. Mật độ dân số của Hà Tây cao thứ 2 vùng ĐBSH (chỉ đứng sau Hà Nội) và dân số cao thứ 5 so với cả nước. Theo số liệu thống kê năm 2006, dân số thành thị chiếm 11%, nông thôn chiếm 89%. Số lao động có việc làm là 1,3 triệu người. Lao động Hà Tây có trình độ văn hoá và kỹ năng, nhanh nhạy tiếp thu các tiến bộ KHCN để phát triển sản xuất kinh doanh. Điều đó đã góp phần tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu lao động nói riêng. Cơ cấu lao động có sự thay đổi nhanh: lao động nông lâm nghiệp từ 75,9% (2001) xuống còn 61,7% (2006), lao động ngành công nghiệp và dịch vụ tăng tương ứng. - Cơ sở hạ tầng: + Hệ thống đường giao thông bộ: Tổng chiều dài đường bộ là 4557 km, trong đó có 1049,382 km đường ô tô; Mật độ đường ô tô là 0,48 km/km2 (Vùng ĐBSH là 0,43 km/km2; Cả nước là 0,21 km/km2). Đường ô tô đến được tất cả các trung tâm các xã, vùng kinh tế, khu du lịch. Song chất lượng đường chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế giai đoạn hiện nay ._.uất. + Hơn nữa, với cơ chế liên kết các tác nhân trong chuỗi ngành hàng đã tạo ra việc làm cho khoảng 4800 - 5500 lao động, trong đó thu hút 2550 – 3500 lao động vệ tinh. Bình quân mỗi tỷ đồng giá trị sản phẩm tạo ra việc làm cho 50 - 60 lao động với thu nhập bình quân 6-8 triệu đồng/người/năm (tương đương 500000-670000đ/người/tháng). Chính vậy đã góp phần thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo ở các làng có nghề và làng nghề. 2.4.4. Xử lý những vướng mắc, tranh chấp khi thực hiện cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm mây tre đan xuất khẩu: Trong qúa trình thực hiện cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan các doanh nghiệp SX&XK, doanh nghiệp SX&TG cũng như hộ SX&TG đã thực hiện tương đối nghiêm chỉnh các hợp đồng đã ký kết và giữ được chữ tín với khách hàng. Tuy nhiên, thực tế cũng nẩy sinh nhưng vấn đề về nợ đọng tiền hàng giữa các doanh nghiệp với nhau và với hộ sản xuất và hộ thu gom. Theo ông nguyễn Văn Đô, Trưởng thôn Phú Nghĩa, chủ cơ sở sản xuất cho biết: Cho đến thời điểm hiện nay, một số người thu gom vẫn còn nợ gia đình ông khoảng 150 triệu đồng. Khoản nợ này cách đây từ 3 - 4 năm nay và mỗi người nợ khoảng 8-15 triệu đồng. 3. Đánh giá chung: 3.1. Ưu điểm: Thông qua phân tích thực trạng thực hiện cơ chế liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan xuất khẩu ở Hà Tây có một số ưu điểm sau: - Liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan xuất khẩu ở Hà Tây đã diễn ra giữa các tác nhân ở trong các cung đoạn khác nhau trong chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. - Cơ chế liên kết cũng đa dạng như: hợp đồng có đầu tư, hợp đồng miệng có đầu tư, mua bán tự do trên thị trường. Mỗi hình thức ở từng cung đoạn khác nhau, phù hợp và đạt mức độ pháp lý khác nhau, nhưng đều mang lại hiệu quả thiết thực là tăng cường hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và góp phần xoá đói giảm nghèo. - Thông qua liên kết hợp tác sản xuất và thiêu thụ sản phẩm mây, tre đan đã góp phần duy trì và phát triển các làng nghề truyền thống của Hà Tây. Trên cơ sở đó, sản phẩm mây, tre đan của Hà Tây từng bước chiếm vị thế trên thị trường quốc tế và quảng bá những nét văn hoá truyền thống của Hà Tây nói riêng, dân tộc Việt Nam nói chung. 3.2. Tồn tại và nguyên nhân: Tuy nhiên, cơ chế liên kết kinh tế ở Hà Tây đang tồn tại những nhược điểm sau: - Liên kết chủ yếu tự phát thiếu tổ chức và chưa chuyên nghiệp. Tình trạng tranh mua, tranh bán, ép cấp, ép giá và cạnh tranh thiếu lành mạnh diễn ra phổ biến. - Cơ chế liên kết chưa bền vững và qua nhiều khâu trung gian, từ đó ảnh hưởng đến lợi ích của những người sản xuất trực tiếp và khả năng cạnh tranh của ngành hàng mây, tre đan. - Hiệp hội mây, tre đan hoạt động mang nặng tính hành chính sự vụ nên chưa thực sự là người đại diện cho lợi ích chung của cộng đồng - những người sản xuất, tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan. - Nội lực của các hộ, cơ sở sản xuất kinh doanh hàng mây tre đan đa số còn yếu nên hạn chế khả năng xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm. Hàng mây, tre đan của Hà Tây chủ yếu xuất khẩu qua trung gian nên lợi nhuận thấp. - Mẫu mã luôn thay đổi, nên khó đăng ký thương hiệu. Mặt khác, mẫu mã sản phẩm mây, tre đan dễ bị làm nhái cũng ảnh hưởng đến cơ chế liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan. - Vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh mây, tre đan nói chung không lớn, tuy nhiên để tiếp cận với nguồn tài chính vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nhất là khả năng tiếp cận vay vốn trung hạn. - Các hộ, cơ sở nhu cầu mở rộng mặt bằng sản xuất nhưng khả năng tài chính hạn chế, trong khi đó một số cụm công nghiệp làng nghề có mức giá thuê cao ngoài khả năng của hộ, cơ sở sản xuất. - Hạ tầng cơ sở vẫn kém và chưa đồng bộ, nhất là hệ thống kho bãi trung chuyển và hệ thống Internet chưa đáp ứng yêu cầu quảng bá, tiếp thị sản phẩm mây, tre đan. - Nguồn nguyên liệu ngày càng khan hiếm và giá tăng cao. - Tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề vẫn diễn ra thường xuyên ảnh hưởng đến sức khoẻ và đời sống cộng đồng dân cư. - Thiếu cơ chế chính sách thúc đẩy cơ chế liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan. CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM CỦNG CỐ VÀ NÂNG CAO CƠ CHẾ LIÊN KẾT TIÊU THỤ SẢN PHẨM MÂY, TRE ĐAN XUẤT KHẨU Ở TỈNH HÀ TÂY I- Định hướng củng cố và nâng cao cơ chế liên kết: 1. Phát triển các hình thức liên kết tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan phải trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực, tiềm năng sẵn có và lợi thế của địa phương, đồng thời tạo thêm việc làm, tăng thu nhập ổn định cho người lao động. Do nguồn tài nguyên đất có giới hạn, lại bị sức ép của việc gia tăng dân số nên lực lượng lao động thiếu việc làm và không có việc làm ở nông thôn ngày một tăng. Chính vì vậy cần khuyến khích liên kết tạo việc làm cho người dân nông thôn ở Hà Tây. Từng bước thực hiện phân công lại lao động khu vực nông thôn và xây dựng mối liên kết giữa các doanh nghiệp và các làng nghề và hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp nói chung, ngành nghề mây, tre đan nói riêng. Trên cơ sở sản xuất mây, tre đan phát triển sẽ tạo ra nhiều việc làm và cơ hội tìm kiếm việc làm cho người lao động nông nghiệp nông thôn. Từ đó đời sống của người dân được nâng cao và cải thiện góp phần xây dựng một nông thôn mới giàu đẹp, công bằng và văn minh. 2. Phát triển cơ chế liên kết phải nhằm hình thành một nền sản xuất hàng hoá tập trung ở khu vực nông thôn. Gắn phát triển ngành nghề mây, tre đan với phát triển làng nghề. Đẩy mạnh phong trào mỗi làng nghề và mỗi sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và hướng mạnh vào xuất khẩu. Hiện nay, Hà Tây có 345 làng nghề mây, tre đan, trong đó 73 làng đã được tỉnh công nhận là làng nghề mây, tre đan, đã thu hút hàng chục vạn lao động tham gia sản xuất với nhiều quy mô khác nhau. Một số hộ, trong quá trình sản xuất kinh doanh đã thành lập doanh nghiệp và các doanh nghiệp này từng bước phát huy vai trò là cầu nối giữa làng nghề với thị trường trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, các doanh nghiệp và hộ sản xuất của Hà Tây phần lớn có quy mô nhỏ, phân tán khó kiểm soát chất lượng. Hơn nữa, trong điều kiện Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi các nhà sản xuất phải tự điều chỉnh để bước ra sân chơi lớn với các luật chơi đã được xác định và bình đẳng. Muốn hội nhập thành công, các hộ, cơ sở cần đẩy mạnh liên kết, mở rộng quy mô sản xuất, cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng mây, tre đan. Thực hiện mỗi làng mỗi làng nghề với sản phẩm mang thương hiệu đặc trưng. 3. Phát triển cơ chế liên kết phải trên cơ sở đa dạng các loại hình sản xuất, quy mô sản xuất và các loại hình sở hữu khác nhau nhằm từng bước thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Sự nghiệp công nghiệp hóa diễn ra lâu dài và đòi hỏi mức vốn đầu tư khá lớn. Vì vậy để sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công cần tiếp tục khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân (trong và ngoài nước) đầu tư phát triển kinh tế. Hơn nữa do điều kiện vốn, trình độ và công nghệ nên không thể ngay một lúc tiếp cận với công nghệ sản xuất hiện đại mà chúng ta phải có bước đi và lộ trình phù hợp để hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả và bền vững. Các đơn vị sản xuất: Doanh nghiệp tư nhân, HTX, công ty TNHH, liên doanh… đang được hình thành và phát huy tác dụng trong khu vực nông nghiệp nông thôn. Các cơ sở này hỗ trợ lẫn nhau và có tác dụng thiết thực thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Hà Tây. Do đó cần tiếp tục cải thiện môi trường để một mặt tạo điều kiện thuận lợi, bình đẳng để các loại hình kinh tế phát huy hiệu quả, mặt khác thu hút nhiều nguồn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội nói chung, nông nghiệp nông thôn nói riêng. 4. Việc phát triển cơ chế liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan phải gắn với việc phát triển nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn nhằm phát triển hài hoà giữa các vùng, khu vực và việc giữ gìn môi trường sinh thái. Việc phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp nói chung, mây tre đan nói riêng, tất yếu dẫn đến phát triển các ngành nghề dịch vụ và hình thành các trung tâm, các cụm công nghiệp. Từ đó thúc đẩy nông nghiệp chuyển dịch theo hướng sản xuất nguyên liệu phục vụ cho các nhà máy, các trung tâm, cụm công nghiệp và gắn với du lịch các làng nghề. Tuy nhiên các trung tâm, các cụm công nghiệp chỉ phát triển ở những nơi có hạ tầng thuận lợi, có vùng nguyên liệu tập trung nên dễ gây đến sự phân bố nguồn lực tập trung cao một vài nơi, dẫn đến sự phát triển kinh tế không đều trong vùng và phá vỡ môi trường sinh thái ở địa phương. Để khắc phục những tồn tại trên cần phải có chiến lược phân bố các nguồn lực nhà máy, trung tâm, cụm công nghiệp để tạo điều kiện phát triển hợp lý giữa các vùng và gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái. II- Các giải pháp nhằm củng cố và nâng cao cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm mây tre đan xuất khẩu ở tỉnh Hà Tây: 1. Xây dựng chiến lược phát triển ngành nghề mây, tre đan theo hướng mỗi làng mỗi nghề - Ngành nghề mây, tre đan là ngành thu hút nhiều lao động nông nghiệp nông thôn. Đồng thời đây là ngành nghề tạo ra nhiều sản phẩm mang tính văn hoá truyền thống. Do đó cần xây dựng chiến lược và lộ trình phát triển ngành nghề mây, tre đan của tỉnh Hà Tây. Tập trung quy hoạch phát triển mây, tre đan ở các huyện Chương Mỹ, Thường Tín và Phú Xuyên. Gắn phát triển sản phẩm mây, tre đan với phát triển làng nghề và du lịch làng nghề. - Tiếp tục bổ sung hoàn thiện quy hoạch phát triển làng nghề mây, tre đan và gắn quy hoạch phát triển làng nghề với quy hoạch vùng nguyên liệu. Khuyến khích, hỗ trợ các cá nhân, hộ, doanh nghiệp đầu tư, liên kết đầu tư, hợp đồng đầu tư phát triển nguyên liệu mây, tre đan. - Tiếp tục ưu tiên đầu tư phát triển các cụm/khu công nghiệp gắn với làng nghề một cách đồng bộ. Kết hợp ưu tiên đầu tư phát triển sản xuất sản phẩm mây, tre đan với ưu tiên đầu tư phát triển các ngành hàng hoá phụ trợ tạo liên kết chặt chẽ ngay trong các khu/cụm công nghiệp làng nghề. 2. Đa dạng hoá các hình thức và cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan Hiện nay, cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, theo hợp đồng có đầu tư, và theo thoả thuận miệng có đầu tư. Tuỳ theo mỗi hình thức đem lại hiệu quả với những tác nhân nhất định. - Hợp đồng có đầu tư ứng trước: Đây là hình thức mang tính pháp lý cao nhất và đảm bảo mức độ thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết. Đồng thời là căn cứ ràng buộc chặt chẽ giữa các bên trong quá trình triển khai thực hiện hợp đồng. Nhà nước cần khuyến khích các hộ, cơ sở, doanh nghiệp thực hiện cơ chế liên kết theo hợp đồng có đầu tư ứng trước. Đồng thời, tư vấn hỗ trợ xây dựng kết cấu và nội dung hợp đồng phù hợp với từng nước và vùng lãnh thổ. - Thoả thuận có đầu tư ứng trước: Do trình độ và nhận thức của người lao động làm nghề mây, tre đan vùng nông thôn còn nhiều hạn chế nên việc thực hiện ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm đối với những hộ này gặp nhiều khó khăn và chưa phù hợp. Hơn nữa, giữa những hộ sản xuất và thu gom với hộ sản xuất sản phẩm mây, tre đan có những đặc điểm riêng, đó là những người ngoài quan hệ làm nghề còn có quan hệ họ hàng, quan hệ làng xóm, tối lửa tắt đèn có nhau. Chính vậy, chữ tín đối với họ quan trọng hơn và danh dự hơn thông qua ký kết hợp đồng. Do vậy, tuỳ theo từng vùng, miền, tuỳ đối tượng mà duy trì thoả thuận có đầu tư ứng trước một cách phù hợp. - Mua bán tự do trên thị trường: Đây là hình thức mua bán truyền thống được người dân tín nhiệm bởi tính linh hoạt của cung cầu thị trường. Địa điểm mua bán thường là các chợ. Cần hoàn thiện hình thức mua bán theo thị trường tự do để bổ sung hữu hiệu cho mua bán theo hợp đồng và thoả thuận Cần phối hợp sử dụng các hình thức liên kết một cách linh hoạt để tăng cường sự liên kết giữa các tác nhân. 3. Đào tạo nâng cao năng lực cho người lao động, chủ hộ, chủ doanh nghiệp sản xuất mây, tre đan - Các chủ hộ, chủ cơ sở sản xuất đều nhận thấy sự cần thiết và hiệu quả của cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan. Tuy nhiên, nhận thức và trách nhiệm của họ trong thực hiện cam kết còn hạn chế. Khi có lợi thì họ sẵn sàng làm nhưng gặp khó khăn lại không hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau mà còn tranh thủ ép giá, ảnh hưởng đến toàn bộ cơ chế liên kết. Do đó cần nâng cao ý thức, trách nhiệm của họ thông qua tuyên truyền và cả những cam kết có sự ràng buộc của pháp luật. - Bên cạnh đó cũng cần nâng cao kỷ luật lao động mang tính công nghiệp, chú trọng đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động. Bởi lao động sản xuất hàng mây, tre đan thường là lao động nông nghiệp chuyển sang hoặc lao động trong khoảng thời gian nông nhàn. Họ chỉ sản xuất sản phẩm dựa trên sự khéo léo của đôi tay. Vì vậy cần nâng cao tay nghề cho người lao động để họ có thể tạo ra những sản phẩm đa dạng, phong phú về mẫu mã và tiện dụng trong sử dụng. - Tăng cường đào tạo nâng cao kiến thức và kỹ năng hoạt động thị trường cho các chủ hộ, chủ doanh nghiệp và người lao động. Phần lớn các chủ hộ, chủ doanh nghiệp đặc biệt là chủ hộ chỉ tốt nghiệp PTTH, số chủ hộ tốt nghiệp đại học còn rất ít. Do đó khả năng tiếp cận với thị trường còn nhiều hạn chế. Vì vậy, cần chú trọng đào tạo nâng cao kiến thức cho các chủ hộ bằng cách khuyến khích họ tham gia các lớp học bổ túc, đào tạo tại chức, các lớp tập huấn, tham quan các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng mây, tre đan có hiệu quả kinh tế để họ có cơ hội học hỏi các kinh nghiệm tổ chức sản xuất và quản lý. - Yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi nâng cao trình độ hiểu biết luật pháp thương mại quốc tế để chủ động hội nhập và sẵn sang, kịp thời ứng phó với tranh chấp thương mại trên thị trường ngoài nước một cách hiệu quả đúng pháp luật và thông lệ quốc tế. 4. Khuyến khích các hộ, các doanh nghiệp liên danh, liên kết tạo thành các tổ chức mới có khả năng cạnh tranh cao - Do hoạt động liên kết tiêu thụ sản phẩm mang tính tự phát nên hệ thống tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan qua nhiều cấp trung gian ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của người trực tiếp sản xuất cũng như năng lực cạnh của ngành hàng. Mỗi địa phương, tuỳ theo quy mô, nhu cầu mà thành lập các hình thức hợp tác phù hợp nhằm tăng qui mô sản xuất, gắn kết trách nhiệm giữa những người sản xuất, nhằm giảm các chi phí trung gian và tăng lợi ích cho người sản xuất. - Khuyến khích các hộ, doanh nghiệp liên kết, hợp tác, sát nhập, mua bán doanh nghiệp để hình thành các doanh nghiệp mới đủ sức mạnh cạnh tranh không chỉ trên thị trường trong nước mà tiến tơi các thị trường nứớc ngoài. 5. Đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp - Coi trọng đầu tư và khai thác có hiệu quả các công nghệ thông tin nhằm mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường, quảng bá sản phẩm, nắm bắt nhanh nhu cầu của khách hàng,… Thông qua, đó nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh. Hiện nay, việc sử dụng các phương tiện truyền thông để tiếp cận thị trường không còn là mới mẻ. Tuy nhiên ở Việt Nam, các doanh nghiệp nông nghiệp nói chung và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sản phẩm mây, tre đan nói riêng lại tận dụng lợi thế này chưa nhiều đặc biệt là sử dụng Internet. Vì vậy, cần lập các trang Web để quảng cáo sản phẩm, tiếp cận khách hàng, tìm hiểu thị hiếu, nhu cầu và dựa vào các phản hồi của khách hàng để điều chỉnh và tạo ra các sản phẩm đáp ứng thị trường. - Sử dụng có hiệu quả các dịch vụ hỗ trợ sản xuất kinh doanh, như dịch vụ tư vấn, dịch vụ pháp lý, dịch vụ nghiên cứu và thăm dò thị trường, ... để nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính chuyên nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu mây, tre đan, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ đó tạo ra mối liên hệ bền vững giữa các tác nhân tham gia vào tiêu thụ sản phẩm mây tre đan xuất khẩu. - Đổi mới công tác quản trị nhân lực trong các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh sản phẩm mây, tre đan, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhằm tiêu chuẩn hóa hoạt động tuyển dụng, đánh giá và sử dụng lao động trong các doanh nghiệp này để nâng cao khả năng đáp ứng những tiêu chuẩn, điều kiện về lao động đặt ra từ phía các nhà nhập khẩu. - Các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh mây, tre đan tích cực triển khai việc áp dụng các mô hình quản trị doanh nghiệp, mô hình quản lý chất lượng trong tổ chức sản xuất và kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và chất lượng sản phẩm xuất khẩu. - Coi trọng xây dựng đội ngũ lao động có đủ trình độ trong thiết kế mẫu hàng, quảng bá mẫu hàng hóa. Việc thiết kế mẫu hàng phải gắn kết giữa văn hóa truyền thống và hiện đại, từng bước tạo dựng uy tín và thương hiệu hàng hóa của Hà Tây nói riêng, Việt Nam nói chung. 6. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hiệp hội ngành hàng mây, tre đan Cải tiến tổ chức và hoạt động của Hiệp hội mây, tre đan nhằm bảo vệ và phục vụ thực sự lợi ích của các thành viên. Có các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ các thành viên trong liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tăng cường mối quan hệ gắn kết giữa các tác nhân. Thống nhất các thành viên trong tiếp cận và xúc tiến thương mại nhằm hạn chế tình trạng ép cấp, ép giá, cạnh tranh thiếu lành mạnh. Đặc biệt, Hiệp hội phải tích cực tham gia trong việc xây dựng thương hiệu và bảo vệ thương hiệu cho sản phẩm mây tre đan Việt Nam nói chung và của tỉnh Hà Tây nói riêng. Đồng thời, tích cực tham gia các liên kết và hợp tác dưới các hình thức tổ chức nghề nghiệp trong và ngoài nước, các hiệp hội, như: Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam... thông qua đó đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế với các tổ chức, hiệp hội ngành nghề trong khu vực và trên thế giới, nhằm tranh thủ hỗ trợ về tài chính, kỹ năng chuyên môn, công nghệ và kinh nghiệm hoạt động cho doanh nghiệp. 7. Giải pháp về đất đai, mặt bằng sản xuất và cơ sở hạ tầng: Trong quá trình thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn thì việc phát triển các làng nghề nhằm thu hút và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp dôi dư là cần thiết. Muốn vậy, phải tạo điều kiện cho các hộ, các doanh nghiệp này hoạt động thuận lợi. Một trong những điều kiện đó là mặt bằng sản xuất. Đất đai là yếu tố sản xuất không thể thiểu được của tất cả các ngành kinh tế và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Do đó, để thúc đẩy các làng nghề phát triển, cần có quỹ đất dành riêng cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Các địa phương tuỳ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể thực hiện quy hoạch, bố trí hợp lý các khu đất dành cho các hộ, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sản phẩm mây tre đan thuê đảm bảo mặt bằng sản xuất và có vị trí thuận lợi cho việc vận chuyển, tiêu thụ sản phẩm như: gần đường giao thông, quốc lộ, gần chợ, gần các bến sông… Đồng thời dành quỹ đất để hình thành các chợ làng nghề và chợ nguyên liệu làng nghề. Tỉnh Hà Tây cũng cần nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng để phục vụ sản xuất, tiêu thụ hàng mây, tre đan. Đặc biệt là hệ thống đường liên thôn, liên xã, đường thông ra quốc lộ nhằm tăng cường sự liên kết giữa các hộ, các doanh nghiệp và các làng nghề với nhau. 8. Giải pháp về vốn Vốn là yếu tố sản xuất quan trọng hàng đầu của sản xuất, kinh doanh bất cứ một loại hàng hoá, dịch vụ nào. Nó cho phép sử dụng được các lợi thế một cách nhanh chóng và hiệu quả. Do đó, việc đầu tư, hỗ trợ vốn cho các cơ sở sản xuất và kinh doanh hàng mây, tre đan của tỉnh Hà Tây là giải pháp không thể thiếu nhất là trong khi các cơ sở này còn nhiều khó khăn về vốn. Các biện pháp có thể thực hiện là: - Nhà nước nên hình thành quỹ hỗ trợ giúp phát triển TTCN nông thôn. Trong điều kiện nguồn vốn có hạn chỉ nên hình thành vốn hỗ trợ cho những dự án có tác dụng cả về kinh tế, xã hội và cộng đồng như sau: + Quỹ hỗ trợ giá máy móc phục vụ phát triển ngành nghề nông thôn: Những đơn vị sản xuất (Hộ, cá nhân ) có nhu cầu đầu tư xây dựng nhà xưởng và mua sắm các công cụ máy móc phục vụ cho việc phát triển ngành nghề nông thôn được mua máy móc, trang thiết bị theo hình thức trả góp không lãi hoặc lãi suất thấp.. + Các cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công công nghiệp qui mô vừa và nhỏ đầu tư ở khu vực nông thôn được ưu tiên vay vốn trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi. Cải tiến thủ tục cho vay một cách đơn giản và tiện lợi, đồng thời tăng mức vay và thời hạn cho vay đối với cơ sở sản xuất có hiệu quả. Đồng thời, thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, và làng nghề theo Nghị định 90 CP của Chính phủ. - Ngân hàng của tỉnh Hà Tây hướng dẫn, giám sát việc sử dụng vốn của các cơ sở để việc sử dụng vốn vay có hiệu quả, giảm thiểu rủi ro. - Thực hiện các chính sách khuyến khích, thu hút vốn đầu tư từ các nguồn lực bên ngoài. - Nâng cao ý thức sử dụng vốn hợp lý của các cơ sở. 9. Các chính sách hỗ trợ của nhà nước và tỉnh Hà Tây: Đến nay, Chính phủ đã ban hanh nhiều chủ trương chính sách nhằm phát triển ngành nghề nông thôn nói chung và tăng cường cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan nói riêng. Đặc biệt là các chính sách: + Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 của Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn quy định cơ sở ngành nghề nông thôn. + Quyết định số 80/2002 của Thủ tướng chính phủ, ngày 24/6/2002 về “Chính sách khuyến khích nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng”. Thực hiện chính sách trên, nhiều doanh nghiệp đã ký kết hợp đồng sản xuất và tiêu thụ nông lâm thủy sản với nông dân thành công. Tuy vậy, việc áp dụng phương thức hợp đồng giữa doanh nghiệp và người sản xuất vẫn gặp nhiều khó khăn vướng mắc. Hiện tượng phá vỡ hay lạm dụng hay lạm dụng hợp đồng vẫn xẩy ra. Các bên liên quan thiếu sự hỗ trợ của các ngành liên quan như: Viện nghiên cứu, Trung tâm khuyến nông, Ngân hàng, Ngành Tài chính, Hải quan, Thương mại,…Trên tinh thần đó Bộ NN&PTNT đề xuất mối liên kết chặt chẽ giữa Nhà khoa học, Nhà nông, Nhà doanh nghiệp, Ngân hàng và Nhà nước - gọi chung là liên kết 4 nhà. + Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về “Phát triển ngành nghề nông thôn”. Thông tư số 116/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và PTNT ngày 18/12/2006 về Hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định 116/2006/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển nông thôn. + Thông tư 79/2001/TT-BTC ngày 28/9/2001 của Bộ Tài chính hướng dẫ cơ chế tài chính để thực hiện các dự án đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản, cơ sở hạ tầng làng nghề nông thôn. + Nghị định 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. + Thông tư số 113/TT-BTC ngày 18/12/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội dung của ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn theo Nghị định 116/2006/NĐ-CP của Chính phủ. + Quyết định 253/2003/QĐ-TTg ngày 25/11/2003 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt đề án xây dựng và phát triển thương hiệu quốc gia đến năm 2010. + Quyết định 279/2005/QĐ-TTg ngày 3/11/2005 của Thủ tướng chính phủ về việc ban hành quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006-2010. Bên cạch đó, UBND tỉnh Hà Tây đã nhận thấy vai trò quan trọng của các doanh nghiệp đối với sự tồn tại và phát triển của các làng nghề mây, tre đan. Do vậy ngoài các chính sách chung như trên, UBND tỉnh Hà Tây cũng ban hành một số chính sách liên quan đến phát triển nghề mây, tre đan, và các doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan. + Quyết định số 1492/QĐ-UB, ngày 23 tháng 12 năm 1999 của UBND tỉnh về việc ban hành tiêu chí công nhận làng nghề. Đối với các làng nghề được công nhận là làng nghề được ưu tiên xem xét chuyển đổi mục đích sử dụng đất tạo mặt bằng phát triển nghề, được hỗ trợ một phần kinh phí để đào tạo lao động trong làng nghề, được chủ động tham gia hoạt động triển lãm quảng bá sản phẩm. Từ năm 1999, tỉnh đã trích ngân sách 1,0 tỷ đồng cho chương trình ruyền nghề, nhân cấy nghề. Từ năm 2001-2006 tổng kinh phí hỗ trợ đã lên đến trên 20,7 tỷ đồng/năm, trong đó ngân sách tỉnh hỗ trợ 6,4 tỷ đồng, ngân sách huyện hỗ trợ 3,1 tỷ đồng, còn lại được huy động từ các doanh nghiệp. + Xây dựng quy hoạch phát triển làng nghề, ngành nghề nông thôn giai đoạn 2007-2010 và định hướng đến năm 2015. + Theo quy định của tỉnh, các doanh nghiệp mới thành lập được ưu đãi miễn 100% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm đầu và miễn 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm tiếp theo Các chính sách trên đã góp phần cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước, nhiều doanh nghiệp hình thành và phát triển; các làng nghề và lao động các làng nghề tăng nhanh; nâng cấp, hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, nhất là hệ thống đường giao thông, hệ thống thông tin liên lạc và hệ thống đường điện,… Quy hoạch và xây dựng các khu/cụm công nghiệp, cụm công nghiệp làng nghề. Trên cơ sở sản xuất phát triển lại là động lực thúc đẩy phân công lao động xã hội, thúc đẩy hợp tác liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ngành nghề nói chung, ngành nghề mây, tre đan nói riêng. Tuy nhiên, một số chính sách vẫn chưa tạo ra động lực thực sự đủ mạnh và đột phá. Một số chính sách ứng dụng vào thực tiễn chậm và bất cập, nhất là chính sách tạo mặt bằng cho các doanh nghiệp, cơ sở hạ tầng, chính sách phát triển vùng nguyên liệu và chính sách về tài chính, ngân hàng. + Các doanh nghiệp mây, tre đan đều mong muốn có thêm mặt bằng để xây dựng nhà xưởng, kho tàng nhưng đáp ứng chậm do vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng; Giá thuê đất còn cao đối với các doanh nghiệp mây, tre đan. + Cơ sở hạ tầng: Hệ thống đường giao thông ở các làng nghề chưa đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng mây, tre đan, nhất là xe hàng contaner; thiếu hệ thống bến bãi, kho chứa hàng; các làng nghề hầu như chua có hệ thống internet tốc độ cao ADSL. + Thủ tục và điều kiện vay vốn đã được cải thiện, nhưng thời gian chờ đợi thẩm định dài, lượng vốn vay và thời hạn vay chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mây, tre đan. + Hầu hết các làng nghề và doanh nghiệp mây, tre đan của Hà Tây sử dụng 90% nguồn nguyên liệu từ các tỉnh bạn. Nguồn nguyên liệu thiếu và ngày càng khan hiếm nhưng vẫn thiếu chính sách phát triển, liên kết phát triển vùng nguyên liệu một cách hữu hiệu. 10. Các giải pháp khác - Tiếp tục thực hiện chương trình xúc tiến thương mại; hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu mây, tre đan của Hà Tây có điều kiện tiếp cận thị trường quốc tế. Đồng thời có chính sách hỗ trợ xây dựng thương hiệu hàng hoá mây, tre đan. Hỗ trợ tài chính để các làng nghề, các doanh nghiệp đầu tư xây dựng, nâng cấp, cải tạo cơ sở hạ tầng, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường. - Nhà nước cần giao cho một cơ quan tư vấn hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp trong liên kết, liên danh với các cá nhân và doanh nghiệp nước ngoài. Cũng như tham vấn cho doanh nghiệp các kỹ năng, nội dung thương thảo ký kết hợp đồng sản xuất bao tiêu sản phẩm với các cá nhân và doanh nghiệp nước ngoài để hạn chế những rủi ro vì thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về hội nhập kinh tế quốc tế. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận: Ngành nghề mây, tre đan tỉnh Hà Tây có lịch sử phát triển lâu đời. Nghề mây, tre đan đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân nông nghiệp nông thôn. Quá trình phát triển ngành nghề mây, tre đan của Hà Tây gắn liền với quá trình đổi mới của nền kinh tế đất nước, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của ngành nghề mây, tre là quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, thực hiện phân công và hợp tác giữa các tác nhân trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan. Trên cơ sở sản xuất phát triển mà hình thành cơ chế liên kết dưới các hình thức: Hợp đồng có đầu tư; Thoả thuận có đầu tư và mua bán tự do trên thị trường. Trong đó coi trọng hình thức liên kết thông qua hợp đồng có đầu tư. Mỗi hình thức liên kết có mức độ phù hợp và mang tính chất pháp lý khác nhau, và yêu cầu những điều kiện khác nhau nhưng đều mang lại hiệu quả thiết thực thúc đẩy phát triển ngành nghề mây, tre đan tăng trưởng cao và ổn định nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập và góp phần xoá đói giảm nghèo. 2. Kiến nghị: Ngành nghề mây, tre đan có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trong nông nghiệp và nông thôn, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền một cách bền vững. Do đó, đề nghị Chính phủ cần ưu tiên triển khai thực hiện chương trình mỗi làng mỗi sản phẩm do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng. Trong đó chú trọng thử nghiệm xây dựng các mô hình về cơ chế liên kết tiêu thụ sản phẩm mây, tre đan; Thử nghiệm mô hình hộ, doanh nghiệp liên kết đầu tư phát triển vùng nguyên liệu mây, tre đan. DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ba cơ chế thị trường, nhà nước và cộng đồng, ứng dụng cho Việt Nam - Đặng Kim Sơn - NXB Chính trị quốc gia. 2. Báo cáo quy hoạch phát triển làng nghề, ngành nghề nông thôn Hà Tây giai đoạn 2007-2010, định hướng đến năm 2015 - UBND tỉnh Hà Tây. 3. Báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hà Tây đến 2020 - UBND tỉnh Hà Tây. 4. Cơ sở khoa học của việc xây dựng cơ chế chính sách hình thành vùng chuyên canh nguyên liệu mây tre phục vụ tiểu thủ công nghiệp và thủ công mỹ nghệ - Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn. 5. Giáo trình phân tích chính sách nông nghiệp nông thôn - NXB ĐHKTQD 6. Hà Tây phát triển bền vững nghề thủ công truyền thống khi gia nhập WTO - TTXVN (2007) 7. Http:// www.baohatay.com.vn. 8. Nghiên cứu đề xuất cơ chế chính sách và giải pháp phát triển các hình thức liên kết dọc trong một số ngành hàng nông sản chủ yếu - Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn. 9. Nguồn nguyên liệu mây, tre, giang đang cạn kiệt - Báo Hà Tây (2007) 10. Từ điển Tiếng Việt - NXB Từ điển Bách Khoa 11. Tạp chí kinh tế phát triển số 46/2001 12. Tạp chí kinh tế và phát triển số 99 tháng 9/2005 13. Tạp chí kinh tế và phát triển số 104 tháng 2/2006 14. Tạp chí Tạp chí thương mại số 48(362) tháng 12/2004 15. Tạp chí thương mại số 17(379) tháng 5/2005 16. Tạp chí thương mại số 26(436) tháng 9-10/2006 MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28470.doc