Thực trạng và giải pháp nâng cao tốc độ của quan hệ phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay

lời nói đầu Phân phối là điều kiện tiền đề cho bất kỳ một quốc gia nào tồn tại và phát triển .Từ xưa ông cha ta sống một cuộc sống bầy đàn hang hốc ăn uống chung đụng , nhưng cuộc sống như vậy không thể tồn tại lâu dài được.Dần dần có sự phân chia, đến thời kỳ giai cấp bắt đầu xuất hiện thì cũng là lúc phân phối ra đời. Phân phối lên chủ nghĩa xã hội là một vấn đề hết sức quan trọng tạo động lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển ổn định tình hình kinh tế xã hội , n

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1508 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao tốc độ của quan hệ phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âng cao đời sống nhân dân thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh công bằng văn minh .Công bằng xã hội là khát vọng của nhân dân ta và cũng là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng nhưng không phải mục tiêu ấy bao giờ cũng được xác định rõ ràng và chính xác. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở VN chúng ta đã rất cố gắng trong việc phân phối nhưng tình trạng bất công bằng vẫn còn tồn tại , tuy vậy so với trước tình hình đổi mới chúng ta đã có những thay đổi. Được thể hiện rõ nhất qua quan hệ phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Nội dung bao gồm 2 chương chính: Chương 1 : Mội số vấn đề cơ bản về phân phối sản xuất thu nhập ở nước ta. Chương 2 :Thực trạng và giải pháp nâng cao tốc độ của quan hệ phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Nội dung Chương I: Một số vấn đề cơ bản về quan hệ phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. I. Bản chất quan hệ phân phối và các nguyên tắc phân phối ở nước ta hiện nay. 1.1.Bản chất của phân phối. Thực tế ai cũng hiểu rằng phân phối là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội nhưng các khâu đó là khâu nào ? gồm 4 khâu sau đây : sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng.Mỗi một khâu là một quá trình , chu kỳ khác nhau nhưng lại có quan hệ chặt chẽ trong đó sản xuất là gốc nó có vai trò quyết định chính các khâu khác phụ thuộc vào nó .Quá trình sản xuất chiếm một vị trí khá quan trọng trong các khâu của phân phối.Trong quá trình tái sản xuất phân phối là khâu trung gian nối sản xuất với tiêu dùng vừa phục vụ thúc đẩy sản xuất vừa phục vụ tiêu dùng. Anghen từng viết :phân phối không chỉ đơn thuần là kết quả thụ động của sản xuất trao đổi nó có tác động trở lại với trao đổi, phân phối góp phần giúp cho sản xuất phát triển mọi người hưởng công bằng hăng hái lao động tham gia sản xuất. Vậy phân phối là tổng sản phẩm sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân 1.2.Vai trò của phân phối trong quan hệ sản xuất CacMac đã nhiều lần khẳng định vấn đề này là đúng đắn , ông cho quan hệ phân phối cũng bao hàm trong phạm vi quan hệ sản xuất “ Quan hệ phân phối về thực chất cũng đồng nhất với quan hệ sản xuất”. Xét trong quan hệ giữa người và người thì phân phối do quan hệ sản xuất quyết định vì vậy mỗi phương thức sản xuất có quy luật phân phối của cải vật chất thích ứng với nó , quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ trao đôỉ hoạt động cho nhau .Do đó sư biến đổi lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất kéo theo nó là biến đổi quan hệ phân phối. Quan hệ phân phối còn tác động trở lại với quan hệ sở hữu do đó với sản xuất: có thể tăng hoặc giảm quy mô sở hữu hoặc có thể làm biến dạng tính chất quan hệ sỏ hữu.Nhìn chung các quan hệ phân phối vừa có tính đồng nhất vừa có tính lịch sử. Tính đồng nhất thể hiện trong bất cứ xã hội nào sản phẩm lao động cũng được chia thành:1 bộ phận cho tiêu dùng dự trữ, một bộ phận cho tiêu dùng chung xã hội và tiêu dùng cá nhân. Tính đồng nhất đó mỗi xã hội có một quan hệ phân phối riêng phù hợp với tính chất của quan hệ sản xuất đó. Cũng như quan hệ sản xuất quan hệ phân phối có tính lịch sử.CACMAC đã viết:’’ Mỗi một hình thái phân phối đều biến đi cùng một lúc với phương thức sản xuất nhất định tương ứng với hình thái phân phối ấy.Chỉ thay đổi quan hệ phân phối khi đã cách mạng được quan hệ sản xuất đẻ ra quan hệ phân phối ấy’’. Do phân phối tác động đến sản xuất nên vấn đề đặt ra là nhà nước cách mạng phải làm sao để sử dụng phân phối như là một công cụ xây dựng chế độ mới để phát triển kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa,con đường đầy khó khăn chúng ta đã chọn và nhất định sẽ tiến tới thành công trong tương lai không xa. Với nứơc ta ngày nay , trình độ sản xuất còn thấp sản xuất không đáp ứng kịp nhu cầu và nhiều mặt phát truiển chưa cân đối nên phân phối còn có vi trí quan trọng.Phân phối đúng đắn theo yêu cầu của quý luật khách quan và phù hợp với tình hình thưc tế của đất nước sẽ là động lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển ổn định tình hình kinh tế xã hội cải thiện đời sống nhân dân. 1.3. ý nghĩa của phân phối. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề sống còn của mỗi người dân công bằng xã hội .Tuy vậy không thể nào mà có được quan hệ phân phối hoàn toàn đồng đều trong xã hội. Phân phối đúng sẽ tạo công bằng, không ngược lại sẽ không đảm bảo được lợi ích kinh tế không công bằng chênh lệch quá đáng tác động tiêu cực đến sản xuất kìm hãm thậm trí còn phá hoại sản xuất. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phân phối cùng với nó là lưu thông là một mặt trận đấu tranh rất phức tạp.Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần lợi ích của cơ sở sản xuất kinh doanh của người sản xuất khác biệt thậm trí mâu thuẫn nhau. Hơn nữa trong xã hội mới còn có tàn dự tư tưởng suy nghĩ tính toán cá nhân….Do đó nhà nước phải có chính sách biện pháp phân phối đúng đắn góp phần ổn định phát triển kinh tế xã hội, đồng thời có biện pháp thích đáng về kinh tế giáo dục và pháp luật nhằm đấu tranh loại trừ dần những hiện tượng tiêu cực trong lĩnh vực phân phối thực hiện quyền bình đẳng và công bằng xã hội. Chế độ của nước ta là chế độ do dân làm chủ , làm chủ tập thể trên các lĩnh vực chính trị kinh tế văn hoá xã hội,trong đó làm chủ tập thể về kinh tế là cơ sở. Một khi sản phẩm vật chất là của người dân lao động thì của cải làm ra cũng thuộc lợi ích chung của người dân lao động. Phân phối có ý nghĩa rất quan trọng nhưng ý nghĩa bao quát nhất của nó là tạo sự công bằng xã hội. Khi không tạo ra được sự công bằng xã hội nhưng phần nào cũng giúp cho mọi người cảm thấy được hưởng đúng lợi ích từ việc làm của họ. II.các nguyên tắc phân phối ở nước ta. 2.1.Phân phối theo lao động. Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu xã hội về chủ nghĩa về tư liệu sản xuất .Người lao động làm chủ tư liệu sản xuất cũng làm chủ về phân phối cho tiêu dùng cá nhân .Phân phối phải vì lợi ích của người lao động;Phân phối theo lao động, phân phối theo nhu cầu…. Trong điều kiện sản xuất còn thấp kép không thể có nhiều của cải phân phối được , con đường cơ bản hoàn thiện viêc phân phối là nhanh chóng đẩy mạnh sản xuất tăng năng xuất lao động xã hội nghị quyết đại hội Đảng lần thứ 5 chỉ rõ:” chúng ta phải sống cho phù hợp kết quả lao động của mình , không lên tiêu dùng quá mức mà giới hạn sản xuất cho phép.” Tác dụng phân phối với sản xuất có thể theo hướng: Thúc đẩy sản xuất phát triển, kìm hãm sản xuất.Nó mang tính hai mặt. Sở dĩ như vậy vì phân phối đụng chạm đên lợi ích thiệt thân của mỗi thành viên trong xã hôị ,là mội người hành ngày ,hàng giờ trong cuộc sống ,tác động trực tiếp tới đời sống cá nhân,người sản xuất sẽ không hăng hái làm việc hết sức mình để lao động sản xuất khi biết chắc cái họ được hưởng. Dưói chế độ tư bản chủ nghĩa mọi công dân bán sức lao động cho tư bản như một món hàng , họ nhận được một số tiền công . Cái tiền công mà họ trả cho công nhân là giá cả hàng hoá sức lao động nhưng thể hiện bề ngoài như giá lao động Tiền công nhiều ít cần tuỳ thuộc vào thời gian dài hay ngắn, sản phẩm làm ra nhiều hay ít.Cách phân phối ấy làm lu mờ sự bọc lột của chủ nghĩa tư bản, che lấp thời gian lao động ranh giới, thời gian lao động cần thiết với thời gian lao động thặng dư tựa hồ như giai cấp công nhân và giai cấp tư sản hoàn toàn bình đẳng nhau , người có công , của thì tạo tiền đồ cho giai cấp tư sản công tạo tiền lương cho giai cấp công nhân,không ai bóc lột ai.Cách phân phối tạo sức hút nhất định với người người lao động, nên tác dụng nhất định trong kích thích sản xuất , kích thích tăng năng xuất lao động , thúc đẩy sản xuất nhưng cái chính là bản chất quan hệ tư bản là quan hệ người bóc lột người , tính phân phối ấy đã hạn chế tính tích cực của cộng nhân .Thực chất lương công nhân được trả chỉ là cái phần nhỏ trong lợi ích mà họ tạo ra ,phần thặng dư sản xuất của họ tạo ra lớn hơn nhiêu so vớ phần họ nhận được.Tiền lương của họ được giới hạn ở giá trị sức lao động chỉ đủ sái sản xuất sức lao động ở mức tối thiểu rốt cuộc họ vẫn tay trắng , Người công nhân càng cải tiến kỹ thuật ,năng xuất lao động thì họ càng bóc lột nhiều hơn . Đặc biệt tư bản còn áp dụng phương pháp tiền lương theo kiểu “hút máu tay-lo vắt kiệt sức lao động người dân”không phân biệt tình trạng sức khoẻ ,giới tính , chủng tộc.Tình trạng thất nghiệp ,thuế khoá ,lạm phát giấy bạc tăng làm giá trị lương giảm xuống .Tất cả đã kìm hãm sức sản xuất của công dân. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa –công hữu về tư liệu sản xuất được xác lập, sau bao năm làm việc cho bọn bóc lột ngày nay nhân dân lao động làm chủ tập thể với tư liệu sản xuất và sản phẩm tạo ra .Nguyên tắc cơ bản của phân phối theo chế độ xã hội chủ nghĩa là phân phối theo lao động , chính nguyên tắc đó tạo kích thích mạnh mẽ người lao động thúc đẩy sản xuất. Hình thức phân phối chủ yếu vẫn là lương theo thời gian lao động của công nhân .Nhưng so với CNTB thì CNXH vẫn có ưu điểm vượt trội :Dưới CNXH tuy ngày lao động của công nhân vẫn gồm 2 phần thời gian lao động cần thiết , thời gian lao động thặng dư nhưng không còn là mâu thuẫn đối kháng trong CNTB nữa ,lao động thặng dư có nhu cầu đảm bảo cuộc sống chung cho xã hội do đó có nhu cầu từng người lao động.Do đó củ cải do công nhân làm ra hoặc là trực tiếp hoặc là gián tiếp đều phục vụ người lao động. Báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản việt nam tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 5 của đảng chỉ rõ :”thiết lập trật tự mới xã hội chủ nghĩa trên mặt trận phân phối lưu thông góp phần ổn định đời sống đảy mạnh sản xuất ,phát huy tác dụng đòn bẩy và cầu nối phân phối. Phân phối lưu thông phải tham gia đắc lực vào cuộc đấu tranh giữa 2 con đường mở rộng trận địa tự phát XHCN đẩy lùi trận địa tự phát TBCN điều tiết bằng thu nhập tầng lớp dân cư hợp lí. Kinh nghiệm thực tiễn trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta chứng tỏ rằng giải quyết vấn đề phân phối sẽ có tác dụng tích cực hoặc tiêu cực vơí sản xuất. Một số chính sách kinh tế như chính sách giá cả, chính sách thu mua nông sản, không kích thích hợp tác xã xã viên đẩy mạnh sản xuất.Nhưng gần đây xoá bỏ chế độ khoán sản phẩm,thay vào đó là chế độ khoán sản phẩm cuối cùng nhóm lao động đã đẩy lên phong trào thi đua sản xuất và làm cho năng xuất lao động và năng xuất cây trồng tăng lên rõ rệt,đồng thời nhà nước thay đổi nhiều chính sách kinh tế phù hợp với điều kiện nên tác động tích cực đến các xã viên. Do đó nhờ khoán sản phẩm nên mỗi người phải cố gắng ở mức bản thân họ có thể hoàn thành tốt công việc của mình thậm trí vượt kế hoạch mà họ đã đề ra . Trong XHCN sự thống trị của chế độ công hữu XHCN về tư liệu sản xuất , quyết đinh sự bình đẳng của các thành viên trong xã hội ,đối với tư liệu sản xuất thủ tiêu mọi cơ sở của chế độ người bóc lột người ,quyết định nghĩa vụ lao động của công dân. Phân phối theo lao động là gì? Đó là phân phối vật phẩm tiêu dùng cá nhân cho lao động ,phần còn lại của vật phẩm tiêu dùng được phân phối bằng phúc lợi xã hội . Chế độ XHCN có trách nhiệm và điều kiện bố trí cho người lao động có công việc phù hợp với khả năng lao động cho từng người .Xã hội buộc những người có khả năng lao động theo năng lực của mình người lao động đòi hỏi xã hội phải đảm bảo việc làm cho mình và có nghĩa vụ tham gia theo khả năng của mình. Lấy số lượng và chất lượng lao động làm chỉ tiêu đánh giá mức độ cống hiến và hưởng thụ của họ.Nói lượng lao động là nói đến lượng tiêu hao sức lao động của con người vào sản xuất .Số lượng lao động đo bằng thời gian lao đông nhưng thời gian lao động bỏ ra để sản xuất vẫn chưa phản ánh đủ số lượng lao động mà phản ánh cả cường độ lao động .Trong một đơn vị thời gian nếu cường độ lao động khác nhau thì lưong lao động hao phí khác nhau.do đó thời gian khác nhau ,cường dộ khác nhau độ hưởng thụ cũng khác nhau.Nói chất lượng lao động là độ phức tạp của lao động,trong cùng đơn vị thời gian lao động phức tạp sáng tạo ra giá trị nhiều hơn là giá trị giản đơn.Do vậy người có trình độ lành nghề phải được hưởng thụ nhiều hơn. Nó chẳng qua là người sản xuất đứng về cá nhân bị mất đi thì đứng về thành viên của xã hội người ấy nhận trực tiếp hay gián tiếp. Nội dung phân phối theo lao động là quy luật kinh tế khách quan của chủ nghĩa xã hội .Dưới CNXH chế độ người bóc lột người không còn tồn tại ,người dân làm chủ ,vì thế phân phối sản phẩm làm ra lợi ích của người lao động nhằm đảm bảo thoả mãn nhu cầu vật chất văn hoá thường xuyên và dảm bảo cho cho việc phát triển tự do toàn diện của tất cả mọi thành viên trong xã hội phát huy mọi năng khiếu của mình toàn diện nhất. Nhưng CNXH ở giai đoạn thấp chưa thể thực hiện hết các nguyên tắc “làm hết năng lực, hưởng theo nhu cầu” Do CNXH cũng từ CNTB mà ra nên về mọi phương diện kinh tế đạo đức trí tuệ …..vẫn còn mang dấu vết cuả xã hội cũ là xã hội tư bản. Trong XHCN lực lượng sản xuất được giải phóng khỏi CNTB ,phát triển mạnh mẽ ,năng xuất tăng không ngừng của cải ngày càng nhiều.Tuy vậy lực lượng sản xuất vẫn chưa tạo nguồn của cải dồi dào để thực hiện phân phối theo nhu cầu.nếu muốn phân phối theo nhu cầu thì XHCN sẽ lâm vào tình trạng khủng hoảng dẫn đến phá sản,MAC viết trong một giai đoạn cao hơn của xã hội cộng sản khi mà cá nhân không còn phụ thuộc nô lệ vào sự phân công nữa lúc ấy lao động không chỉ là phương tiện để sống mà còn là nhu cầu bậc nhất của cuộc sống . Khi ấy con người mới hăng hái vươn lên làm hết năng lực hưởng theo nhu cầu Vậy phaỉ phấn đấu qua một chặng đường lịch sử đối đầu mới có thể thực hiện những mục tiêu đó. CNXH hoàn toàn xa lạ với hình thức phân phối bình quân nó chỉ phù hợp với nước mà lực lượng sản xuất phát triển thấp và trong CNXH Lực lượng sản xuất phát triển dựa trên một nền tản sản xuầt hiện đại. 2.2.Phân phối theo vốn và tài sản đóng góp khác. Trong thành phần kinh tế cá thể tiểu thủ nhu nhập lại phụ thuộc vào sở hữu tư liệu sản xuất ,vốn đầu tư sản xuát và tài năng sản xuất kinh doanh của chính người lao động.Trong kinh tế tư bản tư nhân và tư bản nhà nước ,việc phân phối ở đây dựa trên cơ sở sở hữu vốn cổ phần sở hữu sức lao động ,sở hữu tư bản .Phânphối thông qua phúc lợi tập thể phúc lợi xã hội ,để nâng cao mức sống về vật chất và văn hoá của nhân dân đặc biệt là các tầng lớp nhân dân lao động. Sự phân phối thu nhậo của mọi thành viên trong xã hội còn được thông qua quỹ phúc lợi tập thể và xã hội .sự phân phối này có ý nghĩa hết sức quan trọng nó góp phần tích cực lao động cộng đồng của mọi thành viên xã hội nâng cao mức sống toàn dân ,đặc biệt là người có thu nhập thấp,Giáo dục ý thức cộng đồng,xây dựng chế độ xã hội mới . Quỹ phúc lợi xã hội không thể thiếu trong quá trình phân phối thu nhập cá nhân trong cộng đồng song quỹ đó chỉ có ý nghĩa tích cực khi quỹ đó sự dụng hợp lý. CNXH phát triển mới có điều kiện để thực hiện một bước cơ bản công bằng xã hội trong phân phối thu nhập. Trong thời kì quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN từ một nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu,Đảng và nhà nước ta đã thực hiện chủ trương chính sách phát triển nền kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa thì vẫn còn tồn tại nhưng bất hợp lí,bất bình đẳng về phân phối thu nhập sự nghiệp xây dựng CNXH đòi hỏi phải tạo ra tiền đề biện pháp từng bước thu hẹp và xoá bỏ sự bất bình đẳng tiến tới chế độ không còn người bóc lột người. Để đạt được mục đích nay cần phải : +Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất +Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền công ,tiền lương +Điều kiện thu nhập dân cư hạn chế quá đáng về mặt thu nhập .Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta một mặt phải thừa nhận sự chênh lệch về mức thu nhập là khách quan .Nhà nước cần hạn chế sự chênh lệch thu nhập quá mức dẫn đến sự phân hoá giữa các nơi trong xã hội. +Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo .Mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta là dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh .Vì vậy cần phải phân đấu phát huy nỗ lực làm giàu cho mọi công dân. +Khuyến khích mọi thành phần kinh tế mọi công dân ,nhà đầu tư mở mang nghành nghề ,phân bố dân cư lao động trên địa bàn cả nước .mở rộng kinh tế đối ngoại đẩy mạnh xuất khẩu lao động tạođiều kiện cho mọi người lao dộng tự tìm kiếm việc làm. Nhưng trong phân phối vật phẩm tiêu dùng ở nước ta còn có một số vấn đề cấp bách . Đẩy mạnh sản xuất tăng năng xuất lao động xã hội nền kinh tế của ta còn phổ biến là nền kinh tế sản xuất nhỏ,kĩ thật thủ công năng xuất lao động thấp lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề và trong tình trạng hoà bình vừa trong tình trạng có khả năng chiến tranh xảy ra. Chúng ta đang đứng trước vấn đề gay gắt trong phân phối ,mâu thuẫn giữa tiêu dùng, xây dựng phát triển củng cố quốc phòng . Con đường cơ bản nhằm khắc phục những gay gắt trong vấn đề phân phối ở nước ta hiện naylà phát triển mạnh sản xuất,Tăng năng xuất lao động xã hội .Trên cơ sở đó của cải sẽ tăng mạnh giá trị mỗi đơn vị hàng hoá giảm cho nên một mặt tăng tích luỹ một mặt phải cải thiện đời sống của xã hội. Ngoài ra còn tăng cường hợp tác các nước bạn các nước XHCN anh em khác trong hội đồng tương trợ kinh tế ,xây dụng kinh tế và tăng cường khả năng quốc phòng có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Trong hiện trạng nền kinh tế nước ta đang phải gặp những vấn đề mất cân đối trong nền kinh tế quốc dan thì mâu thuẫn giưã xây dựngvà phát triển củng cố quốc phòng là rất gay gắt.Tuy vậy mâu thuẫn này không có tính chất đối kháng vì đều đảm bảo cuộc sống ấm no hạnh phúc cho người dân.Song cũng có nhiều vấn đề cần gải quyết; -Điều tiết lại việc phân phối và phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư .Từng bước cải tiến chế độ tiền lương và chuẩn bị cải cách tiền lương _Hoàn thiện hình thức khoán sản phẩm cuối cùng Đến nhóm lao động và người lao dộng trong khu vực nông nghiệp tập thể. Chương II: Thực trạng quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay ở nước ta và những giải pháp hoàn thiện quan hệ phân phối trong thời gian tới. 2.2 Thực trạng quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay. Cùng với sự phát triển nền kinh tế từ cơ chế tập chung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tất yếu phải đổi mới các chính sách kinh tế xã hội cũ trước đây phù hợp với cơ chế mới của nền kinh tế. Tiền lương và công lao động là đặc biệt quan trọng vì nó thể hiện quan điểm của đảng và Nhà nước trong nền kinh tế thị trường nước ta . Phân tích chính sách tiền lương , tiền công hiện nay trên cơ sở đó đưa ra các các phương hướng giải pháp cơ bản để tiếp tục giải quyết vấn đề tiền lương của nước ta trong thời gian tới .Nếu thực hiện mạnh việc sàng lọc ,sa thải ,thực hiện tuyển dụng lại theo cơ chế mới với phương trâm tinh giảm bộ máy đến mức tối ưu 2.2.1 Tình trạng phân phối theo lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam. Xuất phát từ nguyện vọng chân thành chính đáng song nóng vội ta đã máy móc vận dụng nguyên tắc phân phối theo lao động của các nứơc xã hội chủ nghĩa và hoàn cảnh chưa chín muồi trong nền kinh tế tập chung của nước ta .Nguyên nhân này nằm trong nhận thức nhầm lẫn của chúng ta đem đồng nhất sở hữu xã hội vào sở hữu toàn dân ,không đặt sở hữu này với mối tương quan biện chứng với lực lượng sản xuất thấp kém của nước ta .Do đó hành động của chúng ta là nhanh chóng cải tạo các thành phần kinh tế của CNXH làm cơ sở cho phân phối lao động .Mặt khác trong lĩnh vực trao đổi chúng ta lại thực hành phân phối bằng hiện vật một cách rộng khắp từ sản xuất đến tiêu dùng khiến quan hệ hành tiền bị thủ tiêu ,thước đo lao động bằng giá trị bị phủ định .Kết quả là trong phân phối ta không thực hiện được phân phối đúng cho lao động ,đảm bảo công bằng lao động mà lại đưa đến sự bình quân xã hội. Điều đó tạo kẽ hở làm triệt tiêu nhân tố tích cực dám hi sinh vì nghĩa lớn ,biết quên hết mình cho lao động .Đồng thời tạo ra chỗ dựa cho thói lười nhác ,ỷ lại ,dựa dẫm ,ăn bám khắp mọi nơi ,mọi người .Đây cũng là một trong những nguyên nhân đẩy xã hội vào tình trạng trì trệ nghèo nàn khủng hoảng .Nhưng khi thực hiện đổi mới so với nguyên tắc phân phối mà chúng ta thực hiện trước có hai quan điểm khác biệt . Thứ nhất liên quan tới cách xác định sự cống hiến bằng sức lao động của mỗi người cho xã hội : cống hiến bằng sức lao động và cống hiến bằng sự góp vốn . ở thời kì trước chúng ta thường xác định sự cống hiến sức lao động của mỗi con người bằng cường độ lao động và thời gian lao động trình đơn và khả năng của người lao động .Cách xác định như vậy là có phân phối mang tính chất bình quân kìm hãm sự phát triển của sản xuất .Vì người mà hửơng ít, sẽ không cố gắng làm nhiều hơn và người làm ít hưởng nhiều ỷ lại người làm nhiều ,khắc phục tình trạng phân phối bình quân từ khi đổi mới đến nay ta chủ chương xác định cống hiến bằng sức lao động của mỗi ngừơi trong xã hội căn cứ vào sức lao động và hiệu quả kinh tế : nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố cũng như trình độ khả năng của người lao động . Cả nguyên tắc phân phối theo trình độ lao động và phân phối theo sự đóng góp đều dựa theo phân phối, theo lao động là chủ yếu .Trong thời kỳ trứơc đổi mới chúng ta chủ trương thực hiện các nguyên tắc phân công theo lao động, nhưng trên thực tế không phải lúc nào chúng ta cũng thực hiện chính xác nguyên tắc phân phối ấy .Nguyên nhân của việc thực hiện không chính xác các nguyên tắc đó là do tính phức tạp của sự tính toán cống hiến.Hiện nay giá trị của tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân ở nước ta chưa nhiều đến mức không phải huy động vốn trong nhân dân chỉ dựa vào nguồn vốn sở hữu toàn dân không có được tốc độ phát triển như mong mưốn . Để làm cho lực lượng sản xuất phát triển hếtt khả năng của nó thì ngoài việc sử dụng vốn toàn dân phải huy động thêm vốn trong nhân dân ,muốn vậy cần cho phép nhũng người giàu sử dụng hết của cải của mình , họ sẽ sử dụng tài sản của mình chính đáng, hợp pháp trong tiêu dùng cho cá nhân .Trong thời kỳ trước đổi mới , vì nhiều lý do khác nhau , chúng ta đã không hực hiện nguyên tắc phân phối thành thạo mức đóng góp vốn khi bỏ vốn ra để kinh doanh người bỏ vốn phải chấp nhận khả năng thua lỗ nhưng nhiều người hy vọng vẫn có lãi nên vẫn sẵng sàng chấp nhận bỏ vốn ra để kinh doanh điều đó rấtt phù hợp với lợi ích của xã hội. Nguyên tắc phân phối theo mức đóng góp chung chính là viêc để khuyến khích mọi người đóng góp vốn nếu có. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì giá trị của tư liệu sản xuất phụ thuộc vào người dân ngày càng nhiều do vậy nhà nước càng có ít nhu cầu trong việc thu hút đóng góp của ngưới dân. Chủ trương thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động , vừa thao mức đóng góp vốn là sự đổi mới quan trọng trong sự nghiệp của đảng ta về sự phân phối nói riêng . Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mới kết thúc và chủ nghĩa xã hội mới trở thành hiện thực , nhưng khi mà thời kỳ quá độ chưa kết thúc thì chúng ta chưa thực hiến điều này được .Nguyên tắc phân phối theo cống hiến thực chất là phân phối theo lao động vừa theo mức độ đóng góp của cá nhân trong xã hội vì theo đóng góp của cá nhân trong xã hội thì suy cho cùng cũng có 2 loại cống hiến đó là cống hiến theo sức lao động và cống hiến theo vốn góp . Khi quan niệm vậy khái niệm công bằng xã hội mang một nội dung mới trước đây ta quan niệm không làm thì không được hưởng đó là công bằng còn không làm mà được hưởng là bất công bằng đó là quan niệm dân ta đến nhận thức chủ trương thực hiện phân phối theo lao động mà không thực hiện theo phân phối vừa theo lao động vừa theo vốn đóng góp nếu theo quan niệm cũ thì ta chưa thực hiện được công bằng xã hội nhưng với quan niệm mới này thì viêc thực hiện sẽ nằm trong tương lai không xa. 2.2.2Thực trạng phân phối trong doanh nghiệp ở Việt nam . Nền kinh tế việt nam là nền kinh tế quá độ sang kinh tế thị trường , định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam gồm 2 khu vực kinh tế và 3 loại hình doanh nghiệp đó là doanh ngiệp nhà nước , doanh nghiệp dân doanh doanh nghiệp công tư hợp doanh đặc trưng khu vực kinh tế tư nhân. ơ cấu kinh tế thu nhập của doanh nghiệp thu nhập lần đầu của người lao động tiền lương và các khoản thu nhập có tính chất lương mà doanh nghiệp trả cho người lao động. 2.3 một số hạn chế và giải pháp cho vấn đề phân phối ở nước ta hiện nay. Cơ chế thị trường đã đưa lại nhiều thành tựu cho các thành phần kinh tế năng lực sản xuất tăng đáng kể cơ may về sản xuất và việc làm ngày càng nhiều người lao động dễ dàng lựa chọn nơi làm việc , cơ chế thị trường đã tạo ra thị trường lao động vừa tạo bước phát triển về phân công, đa dạng hoá lao động vừa tạo môi trường khách quan thông qua trả công lao động , mà lao động xã hội được chuẩn hoá qua giá nhà nước mới có cơ sở điều tiết vĩ mô thông qua nguyên tắc phân phối theo lao động nhưng cơ chế thị trường cũng phát sinh những quan hệ , nhưng xung lực mới gay gắt giữa nhưng thành phần kinh tế quốc doanh tập thể với đối thủ cạnh tranh của nó là các thành phần kinh tế cá thể tiểu thủ. Nhà nước không thể tập chung đầu tư bao cấp ưu đãi cho kinh tế quốc dân tập thể như trước nữa.Các thành phần kinh tế phải được tự do sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả vô cùng bình đẳng trước pháp luật.Kinh tế quốc doanh cũng không còn là hệ thống kinh tế độc quyền như xưa, tuy nắm trong tay lực lựơng vật chất to lớn của quốc gia, nhưng giá trị tài sản to lớn này lại thường gắn với tài sản cố định, cũ kỹ lạc hậu và một bộ máy quản lý cồng kềnh kém hiệu lực , Kinh tế tập thể hầu như giải thể ở nhiều nơi hoặc chuyển cơ chế thành hộ gia đình , tư nhân .Trong khu vực kinh tế cá thể tư bản tư nhân có ưu thế hơn nhiều vật tư , trang thiết bị kỹ thuật mới về quản lý hiệu lực ,thich ứng với một thị trường thường xuyên biến đổi làm phát sinh không ít các nghịch lý trong xã hội ta . Khi cần phải có thành phần kinh tế quốc doanh tập thể mạnh để làm cơ sở định hướng xã hội chủ nghĩa thì kinh tế quốc doanh lại sa vào tình trạng yếu kém trì trệ. Kinh tế tập thể hầu như giải thể ở nhiều nơi và chuyển thành hộ gia đình tư nhân nay vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu nào . sắp tới Đảng và nhà nước ta có chủ trương cổ phần hoá rộng rãi các xí nghiệp quốc doanh , chắc chắn các thành phần kinh tế quốc doanh tập thể phải tự vượt lên để chiến thắng áp lực để cạnh tranh. Ta cần thành phần kinh tế quốc doanh mạnh làm cơ sở cho kinh tế xã hội để thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động , tiếp theo làm cơ sở tạo lập một cơ sở hạ tầng cho định hướng xã hội chủ nghĩa. Phân phôí theo lao động là động lực to lớn thu hút lôi cuốn hàng triệu quần chúng vào công cuộc kiến tạo xã hội mới .Những vấp váp sai lầm thất bại không thủ tiêu con đường thử nghiệm khai phá là điều kiện dĩ nhiên những bài học từ trong thất bại cũng quý giá không kém phần những bài học thành công. Tuy có rất nghiều cố gắng nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế trong phân phối ở nước ta hiện nay.Nền kinh tế mang đậm tính chất nông nghịêp lạc hậu công nghiệp nhỏ bé kết cấu cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém tích luỹ từ nội bộ kinh tế và đầu tư phát triển công thấp đồng thời ta phải đón đầu để hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học thế giới tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ kinh tế. liên hệ Malaixia: nhà tư bản người hoa và các tổ chức hành chính chính trị người mã lai là những người hưởng thụ phần lớn thành quả lao độngcủa sự phát tiển kinh tế nhanh ở những năm 60 . Hậu quả là quan hệ xã hội trở nên hết sức căng thẳng nhiều phương pháp chống lại nghèo khổ nhưng đem lại cho nhưng người nghèo khổ rất ít . Người mã lai có rất ít tài nguyên kinh tế ruộng đất không thu được lợi nhuận mặc dù đã cố găng rất nhiều.Bài học khác dù mặc dù chính sách nghèo khổ đó chính thức được quan tâm , nhưng sau gần 2 thập kỷ thực hiện chính sách kinh tế mới không thể đánh giá hiệu quả của chính sách chống nghèo khổ và cứ tiếp tục áp dụng. Điều này đã dẫn đến những lo ngại chính sách trên dược duy trì làm dễ dàng cho việc bảo trợ của Đảng chính trị đương quyền và vì lợi ích của một số nhóm không phải vì xoá đói giảm nghèo . Người nghèo chỉ được hưởng lợi ích từ việc cung cấp của chính phủ về cơ sở hạ tầng và dịnh vụ xã hội.Tuy nhiên việc tiếp cận các dịch vụ cơ bản của ngươì nghèo vẫn là một vấn đề cần quan tâm. kết luận: Phân phối chiếm một vị trí quan trọng , không thể thiếu được trong nền sản xuất xã hội. Hình thức phân phối thể hiện bản chất của chế độ xã hội. Phân phối tác động trực tiếp đến mọi ngành , mọi đơn vị kinh doanh, mọi mặt đời sống và mọi người trong xã hội.Do đó trong thời kỳ quá độ, nhà nước phải biết sử dụng quan hệ phân phối như một công cụ đắc lực để tác động đến sự phát triển của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Bằng chính sách về tiền lương, tiền thưởng năng suất chất lượng … Nhà nước có thể hướng dẫn, kích thích các đợn vị kinh doanh tích cực áp dụng thành tựu cách mạng khoa hoc kỹ thuật , từ đó tác động có hiệu quả vào cơ cấu kinh tế mới. Mặc dù trình độ sản xuất còn thấp, mức sống chưa cao, nhưng nếu nhà nước biết khéo léo sử dụng công cụ phân phối vãn có thể thể hiện tính ưu việt của chế độ mới. Một mặt , nhà nước có thể tạm dụng được khả năng của xã hội để phân phối hợp lý, không để lãng phí không đẻ rơi vào tay kẻ bất lương.Nhà nước còn có thể thông qua các biện pháp phân phối lại thu nhập để đảm bảo công bằng hơn trong xã hội, đảm bảo cho sự phát huy, phát triển bình đẳng năng lực của mọi thành viên trong xã hội. Trong giai đoạn đầu quá độ nên chủ nghĩa xã hội của nước ta hiện nay, do sự tồn tại của nhiều giai cấp, tầng lớp với lợi ích còn chưa thống nhất nên lao dộng chưa thể là quyền lợi mà còn là nghĩa vụ, la “ phương kế sinh nhai’’của moị người.Do đó trong xã hội còn có sự khác biệt về mức sống, vị trí giữa các thành viên dựa trên cơ sở mức đóng góp của mỗi người vào xã hội.Mặc dù vậy , ta chấp nhận hình thức phân phối này vì nó phù hợp với quan hệ sản xuất của nước ta. Thực hiện nó có tác dụng thúc đẩy sự phát triển nhanh của xã hôi đến một giai đoạn cao hơn, văn minh hơn.Đồng thời, vai trò của nhà nước ngày càng trở nên quan trọng trong nền kinh tế thị trường nhằm định hướng đúng cho sự đi lên của xã hội. Danh sách tài liệu tham khảo -giáo dục với tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hôi ở Đông á và đông Nam á kinh tế học mác-lenin quyển 3 mô hình tăng trưởng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28117.doc
Tài liệu liên quan