Thực trạng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam sau khi gia nhập WTO

LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính tất yếu Xu thế toàn cầu hóa, HNKTQT và tự do hóa thương mại đang là vấn đề nổi bật của kinh tế thế giới hiện nay. Chính đặc điểm này tạo ra sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau càng cao giữa các quốc gia và khu vực. Các định chế và tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế đã được hình thành để phục vụ cho kinh tế quốc tế, tạo lập hành lang pháp lý chung và để các nước cùng tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề lớn của kinh tế thế giới mà không một quốc gia nào có thể thực hiệ

doc112 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1212 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n một cách đơn lẻ. Gia nhập WTO là cơ hội lớn và cũng là thách thức lớn đối với NCNĐT Việt Nam. CNĐT Việt Nam bên cạnh những cơ hội mới với khả năng tiếp cận thị trường rộng lớn hơn, khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ sẽ phải đối mặt với những thách thức to lớn xuất phát từ các quy định của WTO về thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ. Nâng cao năng lực cạnh tranh là giải pháp then chốt để kinh tế nói chung và CNĐT nói riêng có thể hội nhập thành công Trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020 đã nêu rõ, ngành công nghiệp tiếp tục giữ vai trò động lực, quyết định trong phát triển nền kinh tế, đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại với một số ngành công nghiệp chế tác tham gia vào nhóm nước đứng đầu trong khu vực. Trên cơ sở các quan điểm và mục tiêu đó, cần phát triển phù hợp cho những ngành sản xuất có hiệu quả (điện tử, điện tử-Tin học, cơ điện tử), để trở thành các ngành mũi nhọn. Bắt đầu từ những năm giữa thập niên 90, chính phủ Việt Nam đã “bắt tay” vào xây dựng một ngành công nghiệp điện tử cho Việt Nam, nhưng theo nhiều nhà nghiên cứu kinh tế thì chưa thể khẳng định là đã có ngành công nghiệp điện tử tại Việt Nam. Do hàng điện tử Việt Nam với chất lượng còn thấp và không ổn định, giá cả lại cao do đó, chưa khai thác được hết tiềm năng và thế mạnh của ngành. Trong một vài năm trở lại đây, sự phát triển của thị trường hàng điện tử Việt Nam sẽ bị tác động mạnh bởi xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại và xu thế chuyển giao công nghệ nhanh, đặc biệt là khi Việt Nam thực hiện lịch trình giảm thuế quan theo quy định của WTO đối với mặt hàng điện tử. Xuất phát từ thực tế trên, đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam sau khi gia nhập WTO” được chọn để nghiên cứu. 2. Mục đích Đề tài phân tích sức cạnh tranh hàng điện tử của một số nước chủ yếu trên thế giới, tổng hợp và phân tích các số liệu thống kê nhằm phác họa những nét cơ bản nhất về sức cạnh tranh của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam và cũng phân tích một cách chi tiết về những khó khăn làm cho ngành công nghiệp điện tử Việt Nam chưa nâng cao được sức cạnh tranh trên thị trường công nghiệp điện tử trong nước và thế giới. Từ những kiến thức đã tổng hợp và phân tích, chuyên đề mạnh dạn đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao sức cạnh tranh sau khi Việt Nam gia nhập WTO của ngành công nghiệp điện tử trên thị trường. 3. Đối tượng và phạm vi Chuyên đề tập trung phân tích giá cả, chất lượng, marketing, thực hiện quản lý tài chính, môi trường cạnh tranh ngành…của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam từ những năm 1990 trở lại đây (do đây là thời kỳ ngành công nghiệp Việt Nam mà trong đó có ngành công nghiệp điện tử bắt đầu phát triển về quy mô, sản lượng và trong những năm này Việt Nam đã mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia và khu vực lớn trên thế giới). 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê Nin làm phương pháp nghiên cứu chủ đạo. Đồng thời đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh. Nguồn thông tin sử dụng trong chuyên đề được thu thập chủ yếu từ các trang web của Hiệp hội Doanh nghiệp Điện tử (VEIA), Bộ Công nghiệp, Canon, Panasonic,Công ty điện tử Hà Nội, tài liệu của Hội điện tử, tin học, Hiệp hội phần mềm, Hội tin học HCM… 5. Kết cấu và nội dung Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của chuyên đề được trình bày trong 3 chương Chương 1: Cơ sở lý luận về sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử và kinh nghiệm nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử của một số nước Chương 2: Tình hình cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam từ 1990 đến nay Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh sản xuất ngành công nghiệp điện tử sau khi Việt Nam gia nhập WTO Chương 1. Cơ sở lí luận về sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử và kinh nghiệm nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử của một số nước 1.1 Lí luận chung về cạnh tranh 1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và các khái niệm liên quan 1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh Về phương diện kinh tế, cạnh tranh chỉ có  thể xuất hiện trong điều kiện của cơ chế thị trường, nơi mà cung cầu là cốt vật chất, giá cả là diện mạo và cạnh tranh là linh hồn  sống của thị trường. P.Samuelson cho rằng “Cạnh tranh là sự đối đầu giữa các DN cạnh tranh với nhau để giành khách hàng hoặc thị phần”. Các học thuyết kinh tế thị trường, dù ở trường phái nào đều thừa nhận rằng, cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường, nơi mà cung - cầu và giá cả hàng hoá là những nhân tố cơ bản của thị trường, là đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường, cạnh tranh là linh hồn của sản phẩm. Cạnh tranh là một quy luật tất yếu và là động lực phát triển nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp, do cách tiếp cận khác nhau, cho nên có các quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Có thể dẫn ra một số quan điểm như sau: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt được mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận. 1.1.1.2. Các khái niệm liên quan a. Sức cạnh tranh Tương tự như cạnh tranh, hiện nay cũng còn nhiều luận điểm khác nhau liên quan đến sức cạnh tranh. Sức cạnh tranh là tổng hoà các đặc tính về tiêu dùng và giá trị vượt trội của sản phẩn trên thị trường, có nghĩa là sự vượt trội của sản phẩm so với các sản phẩm cạnh tranh cùng loại trong điều kiện cung vượt cầu. Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, sức cạnh tranh của sản phẩm là sự vượt trội của nó so với sản phẩm cùng loại do các đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị trường. Lại có quan điểm cho rằng, sức cạnh tranh của sản phẩm chính là năng lực nắm giữ và nâng cao thị phần của loại sản phẩm do chủ thể sản xuất và cung ứng nào đó đem ra để tiêu thụ so với sản phẩm cùng loại do chủ thể sản xuất và cung ứng khác đem đến tiêu thụ ở cùng một khu vực thị trường vào thời gian nhất định. Tuy nhiên, tất cả các định nghĩa trên đều thiếu một yếu tố cơ bản mà người tiêu dùng quan tâm nhất, đó là, tương quan giữa chất lượng và giá cả. Với cách tiếp cận trên, sức cạnh tranh của sản phẩm có thể hiểu là sự vượt trội so với các sản phẩm cùng loại về chất lượng và giá cả với điều kiện các sản phẩm tham gia cạnh tranh đều đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng. Có nghĩa là, những sản phẩm mang lại giá trị sử dụng cao nhất trên 1 đơn vị giá cả là những sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao hơn. b. Năng lực cạnh tranh Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, HNKTQT, năng lực cạnh tranh là một khái niệm quan trọng để chỉ khả năng tăng trởng và phát triển của nền kinh tế hay DN trên thị trờng trong nớc và quốc tế. Bản chất của năng lực cạnh tranh là sự kết hợp chặt chẽ giữa quản lý nhà nước và điều hành doanh nghiệp để tạo ra giá trị gia tăng cao nhất trên một đơn vị đầu vào (như tiền vốn, lao động, năng lượng...). Khái niệm năng lực cạnh tranh là một khái niệm động, được cấu thành bởi nhiều yếu tố và chịu sự tác động của cả môi trường vi mô và vĩ mô. Một sản phẩm có thể năm nay được đánh giá là có năng lực cạnh tranh, nhưng năm sau, hoặc năm sau nữa lại không còn khả năng cạnh tranh nếu không giữ được các yếu tố lợi thế. Năng lực cạnh tranh của DN có thể được định nghĩa là năng lực tồn tại, duy trì hay gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trờng cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ của DN. Có nhiều yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của DN, trong đó cần phân biệt các yếu tố ngoài DN và các yếu tố do DN chi phối. c. Khả năng cạnh tranh Khả năng cạnh tranh là sự năng động, khả năng đáp ứng thay đổi nhanh chóng của thị trường, năng lực sản xuất dựa trên công nghệ là nền tảng để sống còn và phát triển. d. Chất lượng sản phẩm Khi nêu câu hỏi “thế nào là chất lượng sản phẩm”, chất lượng thường nhận được rất nhiều câu trả lời khác nhau tùy theo đối tượng được hỏi là ai. Các câu trả lời thường thấy như: Đó là những gì họ được thỏa mãn tương đương với số tiền họ chi trả. Đó là những gì họ muốn được thỏa mãn nhiều hơn so với số tiền họ chi trả. Sản phẩm phải đạt hoặc vượt trình độ của khu vực, hay tương đương hoặc vượt trình độ thế giới. Một số định nghĩa về chất lượng thường gặp : Chất lượng là mức phù hợp của sản phẩm đối với yêu cầu của người tiêu dùng. (European Organization for Quality Control). Hay chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu. (Philip B. Crosby) và chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã nêu ra và nhu cầu tiềm ẩn. (ISO 8402) ( thực thể trong định nghĩa trên được hiểu là sản phẩm theo nghĩa rộng). Trên thực tế, nhu cầu có thể thay đổi theo thời gian, vì thế, cần xem xét định kỳ các yêu cầu chất lượng để có thể bảo đảm lúc nào sản phẩm của DN làm ra cũng thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng. Các nhu cầu thường được chuyển thành các đặc tính với các tiêu chuẩn nhất định. Nhu cầu có thể bao gồm tính năng sử dụng, tính dễ sử dụng, tính sẵn sàng, độ tin cậy, tính thuận tiện và dễ dàng trong sửa chữa, tính an toàn, thẩm mỹ, các tác động đến môi trường. Các DN sản xuất hoặc mua sản phẩm để bán lại trên thị trường cho người tiêu dùng nhằm thu được lợi nhuận, vì thế, quan niệm của người tiêu dùng về chất lượng phải được nắm bắt đầy đủ và kịp thời. Dưới quan điểm của người tiêu dùng, chất lượng sản phẩm phải thể hiện các khía cạnh sau : Chất lượng sản phẩm là tập hợp các chỉ tiêu, các đặc trưng thể hiện tính năng kỹ thuật hay tính hữu dụng của nó. Chất lượng sản phẩm được thể hiện cùng với chi phí. Người tiêu dùng không chấp nhận mua một sản phẩm với bất kỳ giá nào. Chất lượng sản phẩm phải được gắn liền với điều kiện tiêu dùng cụ thể của từng người, từng địa phương. Phong tục, tập quán của một cộng đồng có thể phủ định hoàn toàn những thứ mà thông thường người ta xem là có chất lượng. Chất lượng sản phẩm có thể được hiểu như sau : Chất lượng sản phẩm là tổng hợp những chỉ tiêu, những đặc trưng của sản phẩm thể hiện mức thỏa mãn những nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định. Một cách tổng quát, có thể hiểu chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu. Sự phù hợp nầy phải được thể hiện trên cả 3 phương diện, có thể gọi tóm tắt là 3P, đó là : Performance hay Perfectibility : hiệu năng, khả năng hoàn thiện, Price : giá thỏa mãn nhu cầu, Punctuallity : đúng thời điểm. f. Giá trị sử dụng (tính hữu dụng của sản phẩm) Khi muốn tung một sản phẩm mới vào thị trường, trước hết nhà sản xuất phải hoạch định trình độ chất lượng, dự kiến mức chất lượng, tiên đoán chất lượng kinh tế của sản phẩm. Sau đó sản xuất thử và thử nghiệm trên thương trường. Khi đã biết khá chính xác hệ số hiệu quả sử dụng của sản phẩm có khả năng cạnh tranh và nằm trong phạm vi chất lượng tối ưu, các nhà sản xuất mới tiến hành sản xuất hàng loạt sản phẩm đó. Mặt khác, khi mua một sản phẩm,người tiêu dùng bao giờ cũng quan tâm đến lợi ích hay tính hữu dụng, hay giá trị sử dụng mà họ mong muốn thu được khi sử dụng sản phẩm Theo Karl Mark, công dụng của một vật làm cho vật đó trở thành một giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng của sản phẩm phụ thuộc vào công dụng của nó, nhưng chính công dụng lại phụ thuộc vào nhu cầu xã hội. Nếu không có nhu cầu về một giá trị sử dụng thì mặc dù sản phẩm có công dụng cũng không có giá trị sử dụng. Giới hạn của giá trị sử dụng chính là nhu cầu tồn tại về nó. Ngày nay, có thể nhận thức thuộc tính công dụng không phải là yếu tố duy nhất tạo nên giá trị sử dụng của sản phẩm. Khi người tiêu dùng mua hàng hóa, thực chất họ muốn mua cái gì đó hơn là chính bản thân sản phẩm. Theo P.A.Samuelson: “Giá trị sử dụng là một khái niệm trừu tượng để chỉ tính thích thú chủ quan, tính hữu ích hoặc một sự thỏa mãn do tiêu dùng hàng hóa mà có.” Giá trị sử dụng là sự cảm nhận của một cá nhân về sự thỏa mãn nhu cầu và sự thích thú của mình thông qua việc sử dụng một sản phẩm vật chất hay một dịch vụ. Giá trị sử dụng của sản phẩm phụ thuộc vào: Thuộc tính công dụng của sản phẩm, được tạo ra bởi chất thể của sản phẩm, do đặc tính kỹ thuật của sản phẩm qui định. Thuộc tính công dụng được gọi là phần cứng của sản phẩm. Thuộc tính được thụ cảm bởi người tiêu dùng, là những gì mà người tiêu dùng cảm thấy có nơi sản phẩm, được tạo ra nhờ dịch vụ bán và sau khi bán. Thuộc tính được thụ cảm bởi người tiêu dùng được gọi là phần mềm của sản phẩm. Nhiều khi người tiêu dùng mua sản phẩm không đơn thuần vì những đặc tính kỹ thuật và khả năng phục vụ của sản phẩm mà có thể vì nó làm cho người mua có cảm giác sang trọng phù hợp với địa vị xã hội của họ hay một cảm giác nào đó mang lại cho khách hàng sự thích thú nào đó của riêng họ. Thực tế kinh doanh cho thấy thuộc tính được thụ cảm bởi người tiêu dùng là một bộ phận quan trọng cấu thành nên giá trị sử dụng của sản phẩm và là yếu tố phải đặc biệt chú ý khi đưa sản phẩm của mình tham gia thị trường. Giá trị sử dụng của sản phẩm còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như lượng hàng cung so với cầu, sức mua, ý muốn sẳn sàng mua...Nếu cung nhỏ hơn cầu, phần mềm của sản phẩm tăng lên. Các nhà đầu cơ thường lợi dụng cách nầy để tăng giá sản phẩm trong thị thị trường độc quyền để thu lợi bất chính. Nếu cung lớn hơn cầu, phần mềm của sản phẩm giảm đi, đồng thời giá trị sử dụng cũng giảm theo. Tóm lại : Công dụng của sản phẩm + sự thích thú, sự thụ cảm của người tiêu dùng   Giá trị sử dụng của sản phẩm Các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm nói lên khả năng có thể thỏa mãn nhu cầu của sản phẩm trong khi đó giá trị sử dụng của sản phẩm chính là mức cụ thể đáp ứng nhu cầu trong tiêu dùng. Qua các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm có thể nhận biết được: Công dụng cơ bản của sản phẩm, các đặc điểm về kết cấu hình dáng, kích thước, điều kiện sử dụng, các thông số kỹ thuật của sản phẩm, các chỉ tiêu kinh tế của sản phẩm. Trong khi đó, các thuộc tính của sản phẩm (cả phần cứng và phần mềm) cho biết: Lĩnh vực đại thể các nhu cầu được thỏa mãn, lĩnh vực cụ thể và mức cụ thể các nhu cầu được thỏa mãn, các thuộc tính của sản phẩm được thụ cảm bởi người tiêu dùng , chi phí để thỏa mãn nhu cầu, người tiêu dùng lúc nào cũng mong muốn đạt được lợi ích (giá trị sử dụng) tối đa với chi phí bỏ ra tối thiểu. 1.1.2. Các điều kiện cơ bản cho hoạt động cạnh tranh Nhu cầu về lợi nhuận là động lực nảy sinh và thúc đẩy cạnh tranh: Những năm gần đây, do lợi nhuận cao và do tầm chiến lược của CNĐT đối với nền kinh tế, nhiều nước đã đổ xô vào phát triển CNĐT, dẫn đến khủng hoảng thừa các sản phẩm điện tử thông dụng. Tuy nhiên, về lâu dài thị trường hàng điện tử thế giới vẫn rộng mở không ngừng cho các sản phẩm công nghệ cao, hiện đại, có những tính năng mới, nổi trội, thông minh. Kinh tế thị trường tạo môi trường cho hoạt động cạnh tranh. Việc chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các DN, các tổ chức và cá nhân kinh doanh phải thích ứng với quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường, trong đó có yếu tố cạnh tranh. Cạnh tranh là động lực thúc đẩy phát triển nền kinh tế và cũng là cơ sở quan trọng đảm bảo tự do kinh doanh hợp pháp và mang lại lợi ích thiết thực cho người tiêu dùng. Cạnh tranh trong nội ngành dẫn đến lợi nhuận bình quân ngành. Cạnh tranh giữa các ngành khác nhau sẽ dẫn tới sự thay đổi mặt bằng giá của nền kinh tế đó. Trong điều kiện hội nhập, cạnh tranh giữa các ngành khác nhau của các quốc gia khác nhau cũng dẫn đến mặt bằng giá khác nhau theo các thời kỳ căn cứ vào năng suất lao động của thời kỳ đó. Do đó giá cả liên quan rất chặt chẽ đến năng suất lao động và cạnh tranh Sự can thiệp hợp lí của nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động cạnh tranh có hiệu quả. Hiện tại, Luật cạnh tranh là khuôn khổ pháp lý cao nhất điều chỉnh về cạnh tranh thương mại tại Việt Nam. 1.1.3. Năng lực cạnh tranh và các cấp độ của năng lực cạnh tranh 1.1.3.1. Năng lực cạnh tranh Năng lực cạnh tranh (hay sức cạnh tranh được sử dụng với nghĩa như nhau trong đề tài). Thuật ngữ về năng lực cạnh tranh tuy được sử dụng rộng rãi nhưng vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng hay cách thức đo lường năng lực cạnh tranh cả ở cấp quốc gia, cấp ngành, DN và ở cấp sản phẩm. Sức cạnh tranh là tổng hoà các đặc tính về tiêu dùng và giá trị vượt trội của sản phẩn trên thị trường, có nghĩa là sự vượt trội của sản phẩm so với các sản phẩm cạnh tranh cùng loại trong điều kiện cung vượt cầu. Theo quan điểm tân cổ điển dựa trên lí thuyết thương mại truyền thống, năng lực cạnh tranh của ngành được xem xét được xem xét qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng xuất. Hiệu quả của các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh được đánh giá dựa trên chi phí thấp. Chi phí sản xuất thấp không chỉ là điều kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh mà còn đóng góp tích cực vào nền kinh tế. Lý thuyết tài chính CN xem xét năng lực cạnh tranh của ngành dựa trên khả năng sản xuất ra sản phẩm ở một mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không có sự tự cấp, đảm bảo cho ngành đứng vững trước các đối thủ khác hay sản phẩm thay thế. Theo quan điểm tổng hợp của Van Duren, Martin và Westgren thì năng lực canh tranh là khả năng tạo ra, duy trì lợi nhuận và thị phần trên thị trường trong và ngoài nước. Các chỉ số đánh giá là năng suất lao động, tổng năng suất của các yếu tố sản xuất, công nghệ, chi phí cho nghiên cứu và phát triển, chất lượng và tính khác biệt của sản phẩm. 1.1.3.2. Các cấp độ cạnh tranh Năng lực cạnh tranh có thể phân ra làm 4 cấp độ, năng lực cạnh tranh ở 4 cấp dộ này có liên quan mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét và đánh giá, đề ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành, cần có mối liên quan chung mật thiết của 4 cấp độ năng lực cạnh tranh này. Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia: Năng lực cạnh tranh quốc gia gồm một hệ thống chỉ số - cũng còn gọi là chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp (GCI) được WEF công bố lần đầu tiên trong Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2004-2005. Các chỉ số này được phân làm chín nhóm, còn được gọi là chín trụ cột thể hiện năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia. Chín trụ cột đó gồm: (1) thể chế, (2) kết cấu hạ tầng, (3) kinh tế vĩ mô, (4) y tế và giáo dục cơ bản, (5) đào tạo và giáo dục bậc cao, (6) hiệu quả thị trường, (7) mức độ sẵn sàng về công nghệ, (8) trình độ kinh doanh, (9) đổi mới và sáng tạo. Theo công bố của WEF, báo cáo tách các nước thành ba giai đoạn phát triển: ở giai đoạn phát triển thứ nhất, năng lực cạnh tranh của các nước phụ thuộc vào bốn trụ cột đầu tiên là thể chế, kết cấu hạ tầng, kinh tế vĩ mô và giáo dục cơ bản, giai đoạn tiếp theo tính đến ba trụ cột là đào tạo và giáo dục bậc cao, hiệu quả thị trường và mức độ sẵn sàng về công nghệ, đến giai đoạn phát triển cao nhất gồm hai trụ cột là trình độ kinh doanh và đổi mới và sáng tạo. Tầm quan trọng của từng yếu tố (trụ cột) lại phụ thuộc vào mỗi giai đoạn phát triển của mỗi nước. Bảng 1.1: Xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên tổng số 125 quốc gia Năm Xếp hạng 2004 61 2005 74 2006 77 Nguồn: Trang web Bộ Công nghiệp Năm 2006, VN tụt ba hạng so với năm 2005, trong đó, trình độ đổi mới và sáng tạo tụt 18 hạng, hiệu quả thị trường tụt 17 hạng, thể chế tụt 11 hạng. Qua đó, có thể thấy: VN đang ở giai đoạn phát triển thứ nhất, vì chỉ số thể chế xếp thứ 74, kết cấu hạ tầng thứ 83, kinh tế vĩ mô thứ 53 và y tế, giáo dục cấp một thứ 58. Về giáo dục đại học, VN xếp thứ 90, mức độ sẵn sàng về công nghệ thứ 85. Ở hai trụ cột còn lại, VN xếp thứ 86 về trình độ kinh doanh và thứ 75 về đổi mới và sáng tạo. Kết quả xếp hạng năm 2006 của WEF có thể chưa phản ánh hết những nỗ lực cải cách của VN năm 2006, như việc Luật DN và Luật Đầu tư bắt đầu có hiệu lực thi hành cũng với nhiều cải cách khác trong kinh tế theo hướng thị trường, nhưng cũng là những cảnh báo để chúng ta chú ý, vì trong khi Việt Nam có tiến bộ trong đổi mới thì các nước cũng có những cải cách nhanh hơn, do đó vị trí Việt Nam trong xếp hạng chưa được cải thiện. Năng lực cạnh tranh cấp ngành: Khả năng cạnh tranh có thể được đánh giá bằng các chỉ số định lượng như: Tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu và lợi thế so sánh biểu hiện. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, chỉ số ERP giúp chúng ta xác định được các ngành nào sẽ có lợi thế và bất lợi thế do những thay đổi CS liên quan đến tự do hoá thương mại. Chỉ số RCA càng cao thì mặt hàng càng có lợi thế cạnh tranh, nếu RCA 2,5 thì mặt hàng có lợi thế cạnh tranh cao. Kết quả nghiên cứu của nhóm kỹ thuật. Một mặt, tổng số năng lực cạnh tranh của ngành trong nước tạo thành năng lực cạnh tranh của quốc gia đó. Năng lực cạnh tranh của ngành bị hạn chế bị hạn chế khi năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và năng lực cạnh tranh sản phẩm hàng hóa mà ngành sản xuất ra thấp.mặt khác, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia thể hiện qua môi trường cạnh tranh, cạnh tranh trong nước và quốc tế, đặc biệt là trong WTO hiện nay. Trong đó, các cam kết về hợp tác kinh tế quốc tế các CS kinh tế vĩ mô và hệ thống luật pháp có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của ngành, DN, và sản phẩm hàng hóa quốc gia đó. Tóm lại một ngành có năng lực cạnh tranh nếu có “năng lực duy trì được lợi nhuận và thị phần trên các thị trường trong và ngoài nước”. Trong phạm vi nghiên cứu của đề án, chỉ tập trung nghiên cứu khả năng cạnh tranh ngành, DN và sản phẩm. Trong thực tế, quá trình điều chỉnh của ngành diễn ra cùng với những biến đổi về môi trường cạnh tranh kinh tế nói chung. Khả năng cạnh tranh của ngành phụ thuộc vào yếu tố do ngành tự quyết định nhưng nó cũng phụ thuộc vào các yếu tố do Chính phủ quyết định. Nó cũng phụ thuộc vào cả những yếu tố mà cả Chính phủ và ngành chỉ kiểm soát được ở một mức độ hạn chế hoặc hoàn toàn không thể quyết định được. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngành được chia thành 4 nhóm: Nhóm các yếu tố do ngành quyết định: bao gồm chiến lược phát triển ngành, sản phẩm chế tạo, lựa chọn công nghệ, đào tạo cán bộ,đầu tư nghiên cứu công nghệ, phát triển sản phẩm, chi phí sản xuất và quan hệ với bạn hàng. Nhóm các yếu tố do Chính phủ quyết định, tạo ra môi trường kinh doanh bao gồm: thuế, lãi suất ngân hàng, tỷ giá hối đoái, chi ngân sách cho hoạt động nghiên cứu và triển khai, hệ thống luật phát điều chỉnh quan hệ giữa các bên tham gia thị trường... Nhóm các yếu mà cả Chính phủ và ngành chỉ quyết định được một phần như: nhân lực sản xuất, nhu cầu người tiêu dùng, môi trường thương mại quốc tế.. Nhóm các yếu tố mà cả Chính phủ và ngành không quyết định được như: môi trường tự nhiên, quy luật kinh tế... Để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành trước hết cần thấy rõ năng lực từ chính bản thân ngành và một phần quan trọng khác là các chính sách của nhà nước nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi. Năng lực cạnh tranh ở cấp DN: Năng lực cạnh tranh của DN là thể hiện thực lực và lợi thế của DN so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực cạnh tranh của DN trước hết phải được tạo ra từ thực lực của DN. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi DN, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị DN… một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong DN được đánh giá không thông qua việc so sánh một cách tương ứng với các đối tác cạnh tranh. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi DN phải tạo lập được lợi thế so sánh với đối tác của mình. Nhờ lợi thế này, DN có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh. Thực tế cho thấy, không một DN nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì DN có lợi thế về mặt này và có hạn chế về mặt khác. Vần đề cơ bản là, DN phải nhận biết được điều này và cố gắng phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng. Những điểm mạnh và điểm yếu bên trong một DN được biểu hiện thông qua các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của DN như marketing, tài chính, sản xuất, nhân sự, công nghệ, quản trị, hệ thống thông tin…Tuy nhiên, để đánh giá năng lực cạnh tranh của một DN, cần phải xác định được các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động khác nhau và cần thực hiện việc đánh giá bằng cả định tính và định lượng. Các DN hoạt động sản xuất kinh doanh ở những ngành, lĩnh vực khác nhau có các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh khác nhau. Mặc dù vậy, vẫn có thể tổng hợp được các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh của một DN bao gồm: giá cả sản phẩm và dịch vụ, chất lượng sản phẩm và bao gói, kênh phân phối sản phẩm và dịch vụ bán hàng, thông tin và xúc tiến thương mại, năng lực nghiên cứu và phát triển, thương hiệu và uy tín của DN, trình độ lao động, thị phần sản phẩm DN và tốc độ tăng trưởng thị phần, vị thế tài chính, năng lực tổ chức và quản trị DN nhưng trong để tài chỉ nghiên cứu năng lực cạnh tranh dưới 3 loại cạnh tranh cơ bản: Cạnh tranh bằng giá trị sử dụng (chất lượng, tính năng, mẫu mã,..). Để phát triển, các DN phải không ngừng cải tiến, hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm - hàng hóa - dịch vụ, đồng thời không ngừng nghiên cứu, thiết kế sản phẩm mới, tạo ra những đặc trưng khác biệt của sản phẩm - hàng hóa - dịch vụ để thoả mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng, nhằm duy trì và mở rộng thị trường. Các đặc điểm trên đã làm cho chất lượng trở thành một yếu tố cạnh tranh hàng đầu. Nhiều công ty đã chuyển vốn đầu tư vào các khu vực có khả năng thoả mãn khách hàng và đem lại lợi nhuận cao. Sản phẩm có thể được thiết kế tại một nước, sản xuất tại một số nước khác và bán ở mọi nơi trên thế giới. Thực tế đã chứng minh rằng, các công ty thành công trên thương trường đều là những công ty đã nhận thức và giải quyết tốt bài toán chất lượng. Sự phát triển của khoa học và công nghệ ngày nay đã tạo cơ hội cho các nhà sản xuất kinh doanh nhạy bén tận dụng lợi thế riêng của mình, cung cấp những sản phẩm - hàng hóa - dịch vụ có chất lượng cao, thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng và tạo lợi thế cạnh tranh trên thương trường. Cạnh tranh bằng giá cả: Bất kỳ nhà kinh doanh nào khi tham gia thị trường đều quan tâm đến vấn đề cạnh tranh giá cả là chủ yếu hay chất lượng là chủ yếu. Về đại thể, giá cả là một chỉ tiêu quan trọng trong cạnh tranh, dù cho chất lượng sản phẩm có hoàn hảo bao nhiêu đi nữa. Ngày nay, các nhà kinh doanh không những chỉ quan tâm đến giá bán, giá mua sản phẩm mà còn phải quan tâm rất lớn đến những chi phí trong quá trình sử dụng chúng. Cạnh tranh bằng tiêu chuẩn tiêu thụ sản phẩm và các dịch vụ sau bán hàng. Trong thực tế, các DN sử dụng đồng thời cả 3 loại cạnh tranh trên. Tuy nhiên, tùy vào từng hoàn cảnh cụ thẻ của DN trong thời kì nhất định có thể chú trọng hình thức cạnh tranh khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu cuối cùng của các DN là lợi nhuận do vậy các DN buộc phải cạnh tranh với nhau. Cạnh tranh theo nghĩa cạnh tranh lành mạnh có tính chất: Tránh nguy cơ bị phá sản trong cạnh tranh, do các DN phải dùng một phần lợi nhuận của mình để phát triển đầu tư công nghệ, hiện đại hóa sản xuất. Cạnh tranh tạo ra sự đồng hướng giữa mục tiêu lợi nhuận của DN và lợi ích của người tiêu dùng cụ thể là hàng hóa chất lượng cao, giá thành giảm, phục vụ tố đồng nghĩa với thu được nhiều lợi nhuận. Các DN đều phải cố gắng giảm chi phí, nâng cao giá trị sử dụng cua sản phẩm, hình thành tổ chức tiêu thụ vì đó là cơ sở cho sự tồn tại hoặc phá sản của DN và đồng thời tạo ra nền sản xuất xã hội ngày càng cao. Các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh của DN: trong nội bộ DN, các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của DN có thể được biểu thị bằng qui tắc 4M, là: Men : con người, lực lượng lao động trong DN. Methods : phương pháp quản trị, công nghệ, trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất của DN. Machines : khả năng về công nghệ, máy móc thiết bị của DN. Materials : vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo vật tư, nguyên nhiên vật liệu của DN. Trong 4 yếu tố trên, con người được xem là yếu tố quan trọng nhất. Các nhân tố bên ngoài DN: môi trường kinh doanh (tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát, lãi suất, tỷ giá hối doái, các CS tài khóa và tiền tệ...), Chính trị và pháp luật (kinh tế luôn đi đôi với chính trị, nếu có được một môi trường chính trị và pháp luật ổn định sẽ thúc đẩy các ngành, các DN yên tâm đầu tư và phát triển), khoa học công nghệ (ngày nay đứng trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, CN sinh học, CN chế tạo... các ngành, các DN luôn phải đặt yếu tố này lên hàng đầu). Các nhân tố bên trong DN: đó là các nhân tố về sản xuất như đối tượng lao đọng, lực lượng lao động, cung cấp lao động. Theo Michael Porter, năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng khai thác các năng lực độc đáo của mình để tạo ra sản phẩm có chi phí thấp và tính dị biệt của sản phẩm. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh, DN cần xác định được lợi thế của mình mới có thể giành thắng lợi. Có hai nhóm lợi thế cạnh tranh: Lợi thế về chi phí: Tạo ra sản phẩm có chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh. Các yếu tố sản xuất như đất đai, vốn và lao động, thường được xem là nguồn lực để tạo lợi thế cạnh tranh. Lợi thế về sự khác biệt: Dựa vào sự khác biệt của sản phẩm làm tăng giá trị cho người tiêu dùng hoặc giảm chi phí sử dụng sản phẩm hoặc nâng cao tính hoàn thiện khi sử dụng sản phẩm. Lợi thế này cho phép thị trường chấp nhận mức giá thậm chí cao hơn đối thủ. Năng lực cạnh tranh ở cấp sản phẩm: Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, sức cạnh tranh của sản phẩm là sự vượt trội của nó so với sản phẩm cùng loại do các đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị trường. Có quan điểm cho rằng, sức cạnh tranh của sản phẩm ch._.ính là năng lực nắm giữ và nâng cao thị phần của loại sản phẩm do chủ thể sản xuất và cung ứng nào đó đem ra để tiêu thụ so với sản phẩm cùng loại do chủ thể sản xuất và cung ứng khác đem đến tiêu thụ ở cùng một khu vực thị trường vào thời gian nhất định. Tuy nhiên, các định nghĩa trên đều thiếu một yếu tố cơ bản mà người tiêu dùng quan tâm nhất, đó là, tương quan giữa chất lượng và giá cả. Với cách tiếp cận trên, sức cạnh tranh của sản phẩm có thể hiểu là sự vượt trội so với các sản phẩm cùng loại về chất lượng và giá cả với điều kiện các sản phẩm tham gia cạnh tranh đều đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng. Có nghĩa là, những sản phẩm mang lại giá trị sử dụng cao nhất trên 1 đơn vị giá cả là những sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao hơn. Tính độc đáo: Đây là tiêu chí thể hiện rõ nhất năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Trong một xã hội tiêu dùng, khi vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn lại, khi sự cạnh tranh về chất lượng và giá cả được đẩy tới mức ngang bằng nhau thì sự độc đáo là yếu tố mà người tiêu dùng thường lựa chọn. Sự độc đáo có thể là kiểu dáng sản phẩm. Sự độc đáo tạo ra một giá trị mới mà khách hàng muốn thông qua đó để thể hiện giá trị của bản thân mình. Sự độc đáo về kiểu dáng ngày càng có tiềm năng để phát triển hơn khi sản phẩm gắn với một không gian nhất định như nhà hàng, khách sạn, hội trường, hộ gia đình... Một sản phẩm hàng hóa được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm, giá cả, tính năng, mẫu mã kiểu dáng, tính độc đáo hay sự khác biệt của sản phẩm, thương hiệu...hơn hẳn so với các sản phẩm hàng hóa cùng loại. Trước hết, hàng hóa phải có khả năng cạnh tranh về chất lượng: ưu thế về các chỉ tiêu kĩ thuật, chất lượng sản phẩm hàng hóa. Còn về kiểu dáng, mẫu mã, thương hiệu.. để có khả năng cạnh tranh cao, các yếu tố này càng phải thể hiện sự độc đáo, hấp dẫn người mua. Muốn vậy cần phải phù hợp với xu thế tiêu dùng, lứa tuổi, giới tính...Các công cụ để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa bao gồm: kỹ năng bán hàng, kỹ năng quảng cáo, chiến lược mở rộng thị trường, chiến lược cạnh tranh. Ngoài các giải pháp về kỹ thuật nêu trên, để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, còn có các giải pháp về kinh tế, như giảm giá tiêu dùng của sản phẩm. Rõ ràng, giảm giá là 1 trong những giải pháp kinh tế làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Tuy nhiên, chỉ giảm giả thì chưa đủ, cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung các giải pháp khác dưới đây. Kết quả cho thấy, với việc áp dụng đồng bộ 3 giải pháp (giá cả, thiết kế, độ bền) thì sản phẩm đã đạt được sức cạnh tranh cần thiết. Nhưng rõ ràng là, nếu không thay đổi công nghệ sản xuất thì DN cũng khó đảm bảo vững chắc thị phần của mình trên thị trường. Nhưng, thay đổi công nghệ đòi hỏi vốn đầu tư lớn cũng là bài toán không hề đơn giản. Thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp kinh tế cùng một lúc (giá cả, thiết kế, độ bền và công suất), có thể đạt được kết quả rất khả quan, làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Nhưng cũng cần phải lưu ý, cải tiến thiết kế, tăng độ bền, tăng công suất máy móc thiết bị, tất cả điều này đều dẫn đến việc tăng giá thành, làm giảm tỷ suất lợi nhuận của DN. Do đó, việc tính toán chi phí sản xuất và CS giá cả hợp lý là đặc biệt cần thiết đối với DN trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay. Các chi phí cơ bản là: nguyên, nhiên vật liệu, khấu hao tài sản cố định, thu nhập của người lao động, các chi phí quản lý... Việc đánh giá sức cạnh tranh của sản phẩm là hết sức cần thiết, giúp nhà sản xuất biết rõ sản phẩm của ta đang đứng ở đâu, sức cạnh tranh như thế nào so với đối thủ... Từ đó, có chiến lược phát triển phù hợp, đầu tư vào các sản phẩm có khả năng cạnh tranh thì mới đảm bảo thị phần bền vững của DN trong nền kinh tế thị trường. Trong đó, việc lựa chọn đúng phương pháp đánh giá sức cạnh tranh của sản phẩm có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố cơ bản: các yếu tố nội tại của sản phẩm như năng lực sản xuất, giá cả, chất lượng, thị trường tiêu thụ, các yếu tố bên trong DN như trình độ nhân lực, trình độ quản lý, trình độ công nghệ, uy tín thương hiệu, các yếu tố bên ngoài DN như điều kiện về các nhân tố sản xuất, điều kiện về cầu thị trường, vai trò của Nhà nước, yếu tố hội nhập... 1.1.4. Lí luận về cạnh tranh 1.1.4.1. Quan điểm của Porter Theo Porter thì không một quốc gia nào có thể có khả năng cạnh tranh ở tất cả các ngành hoặc ở hầu hết các ngành. Các quốc gia chỉ có thể thành công trên thương trường kinh doanh quốc tế khi họ có lợi thế cạnh tranh bền vững trong một số ngành nào đó. Porter phê phán các học thuyết cổ điển trước đây cho rằng ưu thế cạnh tranh của các DN trên thương trường cạnh tranh quốc tế là chỉ dựa vào lợi thế tuyệt đối của Adam Smith hay chỉ có lợi thế so sánh của David Ricardo. Theo ông, khả năng cạnh tranh của một quốc gia ngày nay lại phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và sự năng động của ngành của quốc gia đó. Khi thế giới cạnh tranh mang tính chất toàn cầu hoá thì nền tảng cạnh tranh sẽ chuyển dịch từ các lợi thế tuyệt đối hay lợi thế so sánh mà tự nhiên ban cho sang những lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và duy trì vị thế cạnh tranh lâu dài của các DN trên thương trường quốc tế. Khi nền tảng của cạnh tranh càng chuyển dịch sang sự sáng tạo và tri thức mới thì vai trò của quốc gia càng tăng lên. Lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và thông qua quá trình địa phương hoá cao độ. Sự khác biệt về giá trị quốc gia, văn hoá, cấu trúc kinh tế, thiết chế và lịch sử, tạo nên ưu thế quyết định sự thành công trong cạnh tranh. Các quốc gia thành công ở một số ngành trên thị trường toàn cầu vì môi trường trong nước của họ năng động, đi tiên phong và nhiều sức ép nhất. Các Công ty của họ thu được lợi thế so với các đối thủ quốc tế nhờ việc có các đối thủ mạnh trong nước, nhờ có các nhà cung cấp có khả năng trong nước, nhờ sự phong phú nhu cầu khách hàng trong nước và sự liên kết chặt chẽ của các ngành phụ trợ. Lý luận của Porter về lợi thế cạnh tranh quốc gia giải thích các hiện tượng thương mại quốc tế trên góc độ các DN tham gia kinh doanh quốc tế và vai trò của nhà nước trong việc hỗ trợ cho các ngành có điều kiện thuận lợi để giành lợi thế cạnh tranh quốc gia chứ không phải cho một vài DN cụ thể. Sự thành công của các quốc gia ở ngành kinh doanh nào đó phụ thuộc vào 3 vấn đề cơ bản: lợi thế cạnh tranh quốc gia, năng suất lao động bền vững và sự liên kết hợp tác có hiệu quả trong cụm ngành. Lợi thế cạnh tranh được hiểu là những nguồn lực, lợi thế của ngành, quốc gia mà nhờ có chúng các DN kinh doanh trên thương trường quốc tế tạo ra một số ưu thế vượt trội hơn, ưu việt hơn so với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Lợi thế cạnh tranh giúp cho nhiều DN có được “quyền lực thị trường” để thành công trong kinh doanh và trong cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh quốc gia  thường bị hiểu nhầm với lợi thế so sánh. Lợi thế so sánh chỉ là những điều kiện đặc thù tạo ra ưu thế một khía cạnh nào đó của một quốc gia hoặc ngành kinh doanh của quốc gia đó, như những điều kiện tự nhiên, tài nguyên hay con người. Nguồn nhân công rẻ, tài nguyên dồi dào thường được coi là lợi thế so sánh của các nước đang phát triển. Tuy nhiên đây mới chỉ là cơ sở cho một lợi thế cạnh tranh tốt chứ chưa đủ là một lợi thế cạnh tranh đảm bảo cho sự thành công trên thị trường quốc tế. Lợi thế cạnh tranh phải là khả năng cung cấp giá trị gia tăng cho các đối tượng có liên quan như: khách hàng, nhà đầu tư hoặc các đối tác kinh doanh và tạo giá trị gia tăng cao cho DN. Chẳng hạn, các nước nổi tiếng về du lịch như Ý và Thái Lan đã tận dụng lợi thế so sánh về thiên nhiên và các công trình văn hoá di tích lịch sử để phát triển NCN không khói này rất thành công và hiệu quả. Tuy nhiên, họ thành công không phải chỉ dựa vào những di sản văn hoá và thiên nhiên ban cho, mà vì họ đã tạo ra cả một nền kinh tế phục vụ cho du lịch với rất nhiều dịch vụ gia tăng kèm theo, từ dịch vụ khách sạn, nhà hàng, lễ hội đến các dịch vụ vui chơi giải trí, các trung tâm mua sắm và các chương trình tiếp thị toàn cầu. Điều đó đã tạo cho họ có lợi thế cạnh tranh quốc gia mà các nước khác khó có thể vượt trội. Việt Nam có lợi thế so sánh trong ngành du lịch với một quần thể di sản thiên nhiên và văn hoá độc đáo ở cả 3 miền của đất nước, nhưng muốn có lợi thế cạnh tranh quốc gia để giành ưu thế trên thương trường quốc tế, Việt Nam cần có sự phối kết hợp hài hoà một hệ thống cung cấp giá trị gia tăng theo “các viên đá tảng kim cương của Porter”, những hoạt động giải quyết thị trường đầu ra, thị trường đầu vào cung cấp các hoạt động cần thiết cho ngành du lịch, như cung cấp đồ ăn thức uống, dịch vụ vui chơi giải trí và các ngành hỗ trợ, như giao thông cầu đường, các ngành vận tải đường sông, đường bộ, hàng không, đến ngành quảng cáo... tạo ra sự liên kết chặt chẽ. Đây là những mối quan hệ tương hỗ cơ bản tạo ra giá trị gia tăng của ngành. Sự hợp tác càng hiệu quả bao nhiêu thì năng suất lao động của ngành càng cao bấy nhiêu và là cơ sở tạo ra lợi thế cạnh tranh của ngành và quốc gia. Dưới góc độ kinh tế, thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nhất định. Nếu như các sản phẩm trên thị trường có thể thay thế hoàn toàn cho nhau (giống hệt nhau) thì người tiêu dùng có thể lựa chọn bất cứ DN nào trong số các DN đang cung cấp sản phẩm trên thị trường. Lúc này, mỗi nhà cung cấp đều phải chịu sức ép cạnh tranh từ DN khác. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy, rất hiếm khi tồn tại một thị trường mà các sản phẩm lại có thể thay thế hoàn toàn cho nhau. Các DN luôn tìm mọi cách để dị biệt hoá sản phẩm của mình trước thói quen tiêu dùng của khách hàng. 1.1.4.2.Quan điểm của Edward H. Chamberlin Kinh tế học lý giải về tính dị biệt hoá của sản phẩm trên thị trường từ góc độ của cạnh tranh và độc quyền. Theo nhà kinh tế học người Mỹ, Edward H. Chamberlin, trong kinh doanh, mỗi sản phẩm mang lại tính độc đáo bằng đặc điểm riêng có của nó trong việc hình thành như thương hiệu, khác biệt về chất lượng, cung cách phục vụ… điều này thể hiện khía cạnh độc quyền của nó. Mỗi sản phẩm là đối tượng cạnh tranh của sản phẩm khác. Việc dị biệt hoá đã làm cho cả độc quyền và cạnh tranh cùng có mặt. Khi đó, các sản phẩm chỉ còn có thể liên quan đến nhau khi có khả năng thay thế cho nhau theo sự lựa chọn của khách hàng. Vì thế, xác định thị trường liên quan là xác định số lượng DN là đối thủ cạnh tranh của nhau cũng như vị trí của chúng trong khu vực thị trường nhất định. Từ đó, lý thuyết cạnh tranh xây dựng nên phương pháp xác định về sự co giãn chéo của cầu để chứng minh về tính cạnh tranh giữa các sản phẩm. Một khi giá cả của một loại sản phẩm nhất định tăng, kéo theo sự gia tăng cầu của sản phẩm khác thì tồn tại độ co giãn chéo về cầu theo số dương giữa hai sản phẩm nói trên. Khi đó, chúng được lý thuyết coi là có thể thay thế cho nhau. Dưới góc độ kinh tế, việc sử dụng phương pháp tính độ co giãn chéo của cầu để xác định khả năng thay thế cho nhau của hai sản phẩm nào đó luôn phản ánh tính chất suy đoán cho dù là có tính toán, bởi vì: (i) Phản ứng của người tiêu dùng khi đổi hướng tiêu dùng có thể là kết quả của những toan tính nhất thời (chưa cho thấy rõ sự thay đổi của thói quen tiêu thụ). (ii) Những con số được dùng để tính toán chỉ là những giả định được cơ quan có chức năng sử dụng. Vì vậy, độ chênh của chúng so với thực tế thị trường sẽ làm cho kết quả chưa thực sự thuyết phục. (iii) Nhực tế sinh động còn cho thấy, sự tăng nhu cầu đối với một sản phẩm diễn ra đồng thời với sự tăng giá của sản phẩm khác không có nghĩa là sự tăng cầu chỉ chịu duy nhất một tác động từ việc giá tăng nói trên. Những yếu tố như sự thay đổi thói quen tiêu dùng, những biến động thị trường, thậm chí là những tin đồn thất thiệt… cũng có thể là những nhân tố tác động trực tiếp đến nhu cầu thị trường. Do đó, Marshall cũng đã khuyến cáo những người sử dụng lý thuyết này cho thực tiễn phải xem xét đến các yếu tố khác đồng thời với việc tính toán độ co giãn của cầu như: thời gian có sự tăng giá, số lượng sản phẩm nằm trong phạm vi có thể thay thế, khả năng cung của thị trường (kể cả khả năng cung tiềm năng)…. Luật cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam quy định thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan. Trong đó, (1) “Thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hoá, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả, (2) Thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể trong đó có những hàng hoá, dịch vụ có thể thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực lân cận”. Về cơ bản, cách thức nhận dạng thị trường liên quan của luật cạnh tranh ở Việt Nam giống với các nước khác. 1.1.5. Các tiêu thức đánh giá năng lực cạnh tranh ở cấp độ ngành Chỉ số về năng suất: Michel Porter, người mở ra môn học chiến lược và lợi thế cạnh tranh của Trường đại học Harvard (Mỹ), trong tác phẩm nổi tiếng nhất về cạnh tranh: “Lợi thế cạnh tranh quốc gia” đã cho rằng lợi thế cạnh tranh quốc gia cần được xem xét trên góc độ năng suất, vì đây là nhân tố cơ bản cho việc tăng sức mạnh cạnh tranh quốc gia trong dài hạn. Chỉ số về công nghệ: Về khả năng cạnh tranh trong khoa học và công nghệ (bao gồm các chỉ tiêu: số lượng tiến bộ công nghệ được ứng dụng, số kỹ sư và nhà khoa học trên một triệu dân, tổng chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển): Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam có điểm rất thấp về sự tiến bộ công nghệ. Cho đến cuối năm 2003, vẫn chưa tạo được những cơ chế thiết thực để gắn kết khoa học - công nghệ với sản xuất, kinh doanh, chưa hình thành được thị trường khoa học - công nghệ. Hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ vẫn dựa chủ yếu vào ngân sách nhà nước. Chưa phân biệt rõ hoạt động nghiên cứu cơ bản cần được Nhà nước tài trợ với hoạt động nghiên cứu ứng dụng mà sản phẩm nghiên cứu phải trở thành hàng hóa, được tạo nguồn kinh phí từ người sử dụng các sản phẩm đó. Môi trường kinh doanh và sự phát triển ít coi trọng chất lượng và còn mang nhiều yếu tố bao cấp nên chưa tạo được động lực và sức ép buộc mọi DN chăm lo đổi mới công nghệ, tìm đến các cơ sở khoa học, công nghệ. Chỉ số về sản phẩm như chất lượng sản phẩm: đây là chỉ tiêu quan trọng trong việc xác định năng lực cạnh tranh thực tế của mỗi một ngành hàng. Chỉ số về đầu vào và chi phi sản xuất: Sự yếu kém về cơ sở hạ tầng đã và sẽ hạn chế thu hút đầu tư làm tăng chi phi sản xuất kinh doanh của DN. Cạnh tranh giữa các nước về cơ sở hạ tầng sẽ là sự cạnh tranh dài hạn, nhất là trong điều kiện các hình thức ưu đãi trái với quy định của Tổ chức thương mại thế giới sẽ bị loại bỏ. Vì vậy, phải đặc biệt coi trọng sự phát triển cơ sở hạ tầng. Các nước CN phát triển trình độ cao, dịch vụ chiếm từ 60 - 70%. Quá trình CNH-HĐH và sự phân công lao động gắn với CNH-HĐH vừa đặt ra nhu cầu vừa tạo khả năng phát triển dịch vụ. Ngược lại sự phát triển dịch vụ sẽ làm giảm chi phi sản xuất, kinh doanh của DN. Lợi thế so sánh là tiền đề để giảm chi phi sản xuất, lưu thông, là yếu tố tăng khả năng cạnh tranh. Lợi thế so sánh có thể là giá trị công nghệ, là nguồn lao động dồi dào với chất lượng cao và giá nhân công thấp, là tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý. Lợi thế so sánh là yếu tố động. Ngay cả tài nguyên thiên  nhiên và vị trí địa lý, tưởng như là tĩnh, cũng thay đổi theo thời gian. Vì vậy, khi tính toán lợi thế so sánh phải đặt trong việc tính toán tổng chi phí và trong tầm nhìn dài hạn. Chỉ số về sự liên kết: Quan hệ tương tác giữa DN trong một nền kinh tế là chỉ số quan trọng, một mặt nó thể hiện sự bền vững trong phát triển kinh tế xã hội của một nước, mặt khác nó thể hiện các giá trị dân chủ trong xã hội nước đó. Các DN lớn xây dựng nền tảng xương sống, trong khi các DN nhỏ sẽ là các mạch máu nhỏ để duy trì sự sống của cơ thể - nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình toàn cầu hóa, các DN lớn sẽ là những người lính tiên phong xây dựng Năng lực cạnh tranh của quốc gia trong khi các DN nhỏ góp phần ổn định nền kinh tế, giảm nhẹ các nguy cơ do toàn cầu hóa mang đến cho nền kinh tế đó. Phát triển quan hệ hợp tác giữa các DN lớn và các DN nhỏ là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược trong việc tăng cường Năng lực cạnh tranh của cộng đồng DN Việt Nam nói riêng và phát triển kinh tế đất nước nói chung trong thời gian tới. Chỉ số về các điều kiện về nhu cầu: Nhu cầu của con người trong tính đa dạng, phong phú có thể coi là vô cùng, nhưng trong tính đơn nhất lại có giới hạn. Vì vậy, khi đầu tư phải xem xét dung lượng thị trường của sản phẩm, phải dự báo được nhu cầu và sự thay đổi nhu cầu. Nếu dung lượng thị trường bị giới hạn, dù sản phẩm có khả năng cạnh tranh vẫn khó có khả năng mở rộng, vì sẽ có nguy cơ bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá, hoặc các biện pháp tự vệ. Khi tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường còn nhỏ nhưng dung lượng thị trường còn lớn và tốc độ chiếm lĩnh thị trường đang tăng lên, tức là sản phẩm có khả năng cạnh tranh, có thể mở rộng sản xuất. Chỉ số về lợi nhuận: Mục tiêu hàng đầu của DN là lợi nhuận, trong quá trình tự tổ chức và cạnh tranh vì lợi nhuận của các DN tư bản, xã hội sẽ được lợi hơn và xã hội sẽ tiến nhanh về phía trước hơn là hình thái đặt mục tiêu trực tiếp thoả mãn các quyền lợi của xã hội lên trên quyền lợi của các DN. Đây là luận điểm mà đại diện là Adam Smith ông tổ của kinh tế học tư bản chủ nghĩa và đã phần nào được chứng thực bằng thực tế. Kinh tế thị trường là cạnh tranh, không còn độc quyền nữa, và chỉ có cạnh tranh mới đem lại sáng tạo, thực tiễn, hàng có phẩm chất cao, giá rẻ, có người tiêu thụ nhiều, đem lợi nhuận lại cho người sản xuất. Chỉ số về thị phần: Thị phần DN là một trong những cơ sở để xác định các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm, xác định DN, nhóm DN có vị trí thống lĩnh trên thị trường, xác định các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm và là căn cứ quan trọng để được hưởng miễn trừ đối với tập trung kinh tế. Theo Luật Cạnh Tranh của Việt Nam việc xác định Thị phần sẽ không có sự phân biệt giữa DN nhà nước hay DN tư nhân và sẽ được căn cứ trên doanh số đối với một loại hàng hoá dịch vụ. Cơ sở để xác định khả năng gây hạn chế cạnh tranh của DN sẽ được cơ quan quản lý cạnh tranh căn cứ vào 4 chỉ tiêu: năng lực tài chính, năng lực công nghệ, quyền sở hữu và quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp và quy mô mạng lưới phân phối. 1.2. Lí luận chung về ngành công nghiệp điện tử 1.2.1. Khái niệm Ngành CNĐT là ngành sản xuất: vật liệu, linh phụ kiện, cấu kiện điện tử, thiếp bị... trong sản xuất thiếp bị lại bao gồm: thiết kế, tổng thể thiết bị, thiết kế công nghệ, thiết kế kĩ thuật CN,thiết kế mạch điện, thiết kế chi tiết CN, thiết kế và chế tạo vỏ, đế máy, lắp ráp(lắp ráp là khâu cuối cùng trong sản xuất thiết bị và lắp ráp là bộ phận quan trọng của sản xuất CNĐT). Lắp ráp thiếp bi có 3 dạng chính, SKD(Semi Knock Down)-lắp ráp từ các linh kiện, CKD(Complex Knock Down )-lắp rắp từ các chi tiết rời trọn bộ, IKD(Incomplex Knock Down)-lắp ráp từ các linh kiện rời. Công nghệ thông tin(Information Technology, viết tắt là IT) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin, đặc biệt trong các cơ quan tổ chức lớn. Cụ thể, CNTT là ngành sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập thông tin. Vì lý do đó, những người làm việc trong ngành này thường được gọi là các chuyên gia CNTT (IT specialist) hoặc cố vấn quy trình DN (Business Process Consultant), và bộ phận của một công ty hay đại học chuyên làm việc với CNTT thường được gọi là phòng CNTT. Theo Luật công nghệ thông tin Việt Nam  số 67/2006/QH11 năm 2006: CN công nghệ thông tin ngành kinh tế - kỹ thuật công nghệ cao sản xuất và cung cấp sản phẩm công nghệ thông tin, bao gồm sản phẩm phần cứng, phần mềm và nội dung thông tin số. Theo định nghĩa quốc tế thông dụng, CNĐT là NCN sản xuất ra các loại thiết bị có chức năng xử lý tín hiệu điện và các loại phụ tùng linh kiện của những thiết bị đó, bao gồm điện tử tiêu dùng, điện tử y tế, điện tử CN, điện tử viễn thông. CN nội dung số là khái niệm rất mới và trên thế giới, người ta cũng chưa tìm ra được một định nghĩa thống nhất. Mỗi quốc gia có cách hiểu về lĩnh vực này khác nhau. Còn ở VN, dự thảo Luật công nghệ thông tin từng đưa ra khái niệm CN nội dung số nhưng không nói rõ nó gồm những lĩnh vực gì. Tuy nhiên, quan điểm của Bộ Bưu chính Viễn thông thì cho rằng đây là ngành thiết kế, sản xuất, xuất bản, lưu trữ, phân phối, phát hành các sản phẩm nội dung số và dịch vụ liên quan. Nó bao gồm nhiều lĩnh vực như: tra cứu thông tin, dữ liệu số, giải trí số, nội dung giáo dục trực tuyến, học tập điện tử, thư viện và bảo tàng số, phát triển nội dung cho mạng băng rộng, mạng di động 3G.... Công nghệ phần mềm là sự vận dụng thực tế của những kiến thức khoa học trong việc thiết kế, cấu tạo của phần mềm cũng như những tài liệu liên quan trong việc phát triển, hoạt động và bảo dưỡng của nó. Công nghệ phần mềm bao gồm những kiến thức và ứng dụng của những nguyên tắc, phương pháp và công cụ cho kỹ thuật, quản lý sự phát triển phần mềm. CN hỗ trợ là NCN sản xuất những linh kiện phụ tùng... cung cấp cho các nhà lắp ráp - DN sản xuất chính - để họ hoàn thiện sản phẩm cuối cùng trước khi bán ra thị trường. Ở các nước có nền công nghiệp phát triển, không bao giờ một chiếc ô tô, xe máy... lại do một nhà máy sản xuất ra, mà có sự phân công cho những nhà sản xuất "vệ tinh" chuyên sản xuất một số linh kiện, phụ tùng nhất định. 1.2.2. Phân loại Có nhiều tiêu thức khác nhau để phân chia ngành CNĐT ra thành nhiều ngành nhỏ, đề tài chỉ phân loại và phân tích ngành CNĐT theo: Thiết bị điện tử dân dụng: các thiết bị tiêu dùng trong đời sống sinh họat gia đình như radio, tivi. Radio cassette, đầu video...ở một số quốc gia coi một số loại máy tính cá nhân là thiết bị điện tử dân dụng, vì thị trường tiêu thụ có một tỷ trọng lớn sử dụng chúng thực sự là dân dụng. Thiết bị điện tử CN là các thiết bị dùng trong CN. Thiết bị tin học: máy tính, các thiết bị ngoại vi và các phần mềm. Thiết bị viễn thông: tất cả các thiết bị điện tử dùng để liên lạc, trao đổi, truyền tin từ xa gồm cả phần cúng và phần mềm. Điện tử, công nghệ thông tin, viễn thông là 3 lĩnh vực CN riêng nhưng lại có mối liên hệ với nhau nhưng thường được nghiên cứu, đánh giá chug trong cùng một góc độ NCNĐT. 1.2.3. Vai trò của NCNĐT trong quá trình CNH-HĐH nền kinh tế đất nước Không có NCN điện tử hiện đại thì Việt Nam chưa có thể nói là một nước CN vào đầu năm 2020. CN điện tử là một ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế nói chung, đặc biệt là đối với mục tiêu CNH-HĐH đất nước. Nó là ngành cơ sở cung cấp các linh phụ kiện cho hầu hết các ngành then chốt như viễn thông, cơ khí, hoá chất… Nói đến CNH-HĐH thì không thể thiếu NCN điện tử, nó thể hiện ngành hàng có trình độ công nghệ cao mang tính đột phá. Sự phát triển của ngành điện tử mang lại hiệu quả kinh tế xã hội to lớn, thúc đẩy sự phát triển của mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống, bởi vì: NCN điện tử phát triển, tạo ra một sức phát triển mới trong mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống. Sản xuất ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu sản xuất và nhu cầu vật chất ngày càng cao cho xã hội. Ngành tạo ra trang thiết bị cho phát triển CNH-HĐH. Tạo ra sức đột phá về khoa học kỹ thuật, công nghệ. Thúc đẩy sự hiện đại hóa các NCN khác. Xuất phát từ tính chất mũi nhọn của NCN điện tử, định hướng phát triển NCNĐT thời gian tới tập trung vào một số ngành chính: NCN sản xuất máy móc thiết bị, vật tư ngành. NCN sản xuất thiết bị, linh kiện điện tử phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Trước sức ép hội nhập và tự nâng cao năng lực cạnh tranh thì CS bảo hộ thuế của Nhà nước sẽ không còn là chỗ dựa lâu dài cho các DN điện tử.   Phát triển CN điện tử Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa kinh tế xã hội, được đặt trong chiến lược phát triển các NCN để CNH-HĐH nền kinh tế Việt Nam. Hơn nữa, CN điện tử trong tương lai là NCN mũi nhọn không chỉ thoả mãn nhu cầu thị trường nội địa mà còn XK ra thị trường thế giới, mang lại một lượng ngoại tệ lớn cho nền kinh tế. CN điện tử còn là ngành đại diện cho một nền kinh tế có trình độ công nghệ phát triển cao, là ngành sản xuất và marketing các sản phẩm chứa đựng trí tuệ và văn hoá cao. Việc học tập kinh nghiệm của những quốc gia đi trước, tập trung nguồn lực để thực hiện những giải pháp vĩ mô và vi mô là đòi hỏi khách quan. Đồng thời vấn đề này cũng liên quan trực tiếp và rất cấp thiết đối với các DN của NCN điện tử Việt Nam đang hoạt động và những DN sẽ hình thành trong tương lai, tạo nên những mối quan hệ kinh tế mới giữa Việt Nam và nền kinh tế thế giới. Với sự phát triển của ngành Công nghệ thông tin trên thế giới hiện nay cùng với tầm quan trọng của nó trong sản xuất và đời sống, không thể không định hướng cho NCN này cho tương lai mặc dù cho tương lai xa. Ngành công nghệ thông tin là một ngành nghề còn mới đối với nước ta. Sự phát triển của NCN công nghệ thông tin mang tính đặc thù của một NCN trí thức và chất xám, do đó định hướng những năm sau năm 2020 tỷ trọng NCN này ngày càng được nâng cao và chiếm tỷ trọng lớn trong NCN. Với sự phát triển của CNĐT đã đưa hoạt động kinh tế vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và trở thành hoạt động mang tính toàn cầu. Cuộc cách mạng điện tử thông tin cùng với quá trình toàn cầu hóa đang ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, đưa xã hội loài người chuyển mạnh từ xã hội CN sang xã hội thông tin, từ kinh tế CN sang kinh tế tri thức, ở đó năng lực cạnh tranh phụ thuộc chủ yếu vào năng lực sáng tạo, thu thập, lưu trữ, xử lý và trao đổi thông tin. Nhân loại đang bước vào một thời đại mới, thời đại của xã hội thông tin và kinh tế tri thức, được hình thành trên cơ sở phát triển và ứng dụng rộng rãi CN thông tin. Để phát triển kinh tế tri thức, CNĐT là một trong những động lực quan trọng nhất của sự phát triển, là yếu tố có ảnh hưởng quan trọng nhất đến sự phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. CNĐT được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực sẽ thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thay đổi cơ cấu xã hội, phong cách sống, học tập và làm việc của con người. CNĐT góp phần tạo ra nhiều ngành nghề mới, làm thay đổi sâu sắc các NCN hiện tại, tăng khả năng cạnh tranh của các NCN truyền thống. Tại nhiều quốc gia, CNĐT đã trở thành ngành kinh tế chủ đạo có tốc độ tăng trưởng rất cao, tạo ra nhiều việc làm. Việc ứng dụng CNĐT trong các hoạt động quản lý nhà nước sẽ giúp cho quá trình ra quyết định được thực hiện nhanh chóng, kịp thời, và chính xác. CNTT là công cụ quan trọng hàng đầu để thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ, hình thành xã hội thông tin, rút ngắn quá trình CNH-HĐH đất nước. Ứng dụng rộng rãi CNTT là yếu tố có ý nghĩa chiến lược, góp phần tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và tăng năng suất, hiệu suất lao động. Ứng dụng CNTT phải gắn với quá trình đổi mới và bám sát mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, phải được lồng ghép trong các chương trình quản lý, kinh tế, khoa học công nghệ. CNĐT là NCN kỹ thuật cao đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp HĐH nền kinh tế quốc dân và cần được ưu tiên phát triển, lựa chọn một số loại vật liệu, tiến hành nghiên cứu, tiếp thu công nghệ tiên tiến từ nước ngoài và tổ chức sản xuất vật liệu, linh kiện cho lắp ráp các thiết bị hoặc XK. Kinh nghiệm từ nhiều nước CN phát triển trên thế giới cho thấy, NCNĐT luôn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung và thực tế đòi hỏi trong quá trình phát triển hội nhập của Việt Nam cũng đã khẳng định rõ điều đó. Chính vì vậy, Đảng và nhà nước ta đã thể hiện rõ quan điểm đề cao vai trò của CNĐT trong tiến trình CNH-HĐH phát triển kinh tế đất nước. Nghị quyết số 07/2000/NQ-CP của Chính phủ và Quyết định số 128/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ xác định về chiến lược phát triển CNĐT trong giai đoạn 2001-2005 là: CNĐT và tin học phải đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, là yếu tố không thể thiếu được của quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cải cách kinh tế và cải cách hành chính, chuẩn bị tiền đề cho một xã hội thông tin với nền kinh tế tri thức. Phát triển CNĐT theo hướng xã hội hoá, tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm năng phát triển. 1.2. Tổng quan về ngành công nghiệp điện tử thế giới 1.2.1. Tổng quan chung Theo đánh giá chung của các chuyên gia ngành điện tử-tin học thế giới, trong khoảng 20 NCN khác nhau, NCN điện tử-tin học viễn thông chiếm vị trí thứ nhất về sử dụng lao động, thứ hai về doanh số trên vốn và thứ ba về doanh số tuyệt đối. Trong buôn bán quốc tế, các sản phẩm điện tử tham gia vào thị trường muộn hơn cả. Từ vài thập kỷ nay, khi cảthế giới sống trong “xã hội điện tử”, NCN điện tử có sự phát triển nhanh chóng. Chính sự phát triển này đã góp phần thúc đẩy sự lớn mạnh của nhiều ngành kinh tế khác. CNĐT cần một lượng vốn lớn để đầu tư cho sản xuất, thiết kế sản phẩm, nghiên cứu triển khai, đổi mới công nghệ và một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao. Do đặc tính kế thừa và bảo mật cao về công nghệ trong sản xuất, nên hầu hết các sản phẩm điện tử nổi tiếng thế giới đều thuộc các nhà sản xuất có tiềm lực lớn về vốn, công nghệ và nhân lực. Đó là những tập đoàn kinh doanh xuyên quốc gia như Fujitssu, Matsushita, Sanyo, LG, Sony... nắm quyền chi phối phần lớn thị trường. Trong sản xuất, luôn có sự cạnh tranh quyết liệt giữa các hãng trong việc tạo ra các sản phẩm mới, làm cho công nghệ sản xuất luôn thay đổi với tốc độ nhanh. Cùng với sự cạnh tranh gay gắt giữa các tập đoàn kinh tế, nhiều tập đoàn và hãng lớn trên thế giới vẫn phải tìm cách liên kết, hợp tác với nhau thành từng nhóm, từng khu vực và lập nên những mạng lưới sản xuất, kinh doanh mang tính toàn cầu. Những năm gần đây, do lợi nhuận cao và do tầm chiến lược của CNĐT đối với nền kinh tế, nhiều nước đã đổ xô vào phát triển CNĐT, dẫn đến khủng hoảng thừa các sản phẩm điện tử thông dụng. Tuy nhiên, về lâu dài thị trường hàng điện tử thế giới vẫn rộng mở không ngừng cho các sản phẩm công nghệ cao, hiện đại, có những tính năng mới, nổi trội, thông minh. Chu kỳ sống của sản phẩm điện tử ._.ng khu vực. Hệ thống thông tin về dân cư, cán bộ công chức, tài nguyên, môi trường, và thống kê có thông tin cơ bản được cập nhật đầy đủ và cung cấp thường xuyên. Một số dịch vụ khai báo, đăng ký, cấp phép được thực hiện trực tuyến qua các hệ thống thông tin của các quận, Sở thuộc các tỉnh, thành phố. Xây dựng Chính phủ điện tử tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đạt mức trung bình khá trong khu vực. Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông trong quốc phòng, an ninh phục vụ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. c) Xây dựng và phát triển DNĐT Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin và truyền thông trong những ngành dịch vụ kinh tế có tính hội nhập cao như viễn thông, ngân hàng, hải quan, hàng không, du lịch, thuế, v.v..., đảm bảo năng lực quản lý và chất lượng dịch vụ của các ngành này đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. 50 - 70% doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào các hoạt động quản lý, điều hành, quảng bá thương hiệu, tiếp thị, mở rộng thị trường, giám sát, tự động hoá các quy trình sản xuất, thiết kế, kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm, v.v… Hơn 50% doanh nghiệp tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thực hiện báo cáo thống kê, khai báo thuế, đăng ký và được cấp phép kinh doanh qua mạng. Trên 40% doanh nghiệp khai báo, đăng ký và được cấp phép hải quan qua mạng. d) Phát triển giao dịch và thương mại điện tử Hình thành và thúc đẩy phát triển môi trường giao dịch và thương mại điện tử. Hình thành các sàn giao dịch thương mại điện tử, mạng giá trị gia tăng, hệ thống quản lý dây chuyền cung ứng. Đảm bảo 25 - 30% tổng số giao dịch của các ngành kinh tế được thực hiện thông qua hệ thống giao dịch và thương mại điện tử. Giao dịch và thương mại điện tử có trị giá tăng gấp 10 lần so với năm 2002. 2. Phát triển công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông Phát triển công nghiệp phần mềm và công nghiệp nội dung thông tin đồng bộ với mở rộng, phát triển mạng truyền thông. Duy trì tốc độ tăng trưởng công nghiệp phần mềm và công nghiệp nội dung thông tin ở mức bình quân 40% một năm, đến năm 2010 đạt tổng doanh thu khoảng 1,2 tỷ USD. Phấn đấu để Việt Nam trở thành một trung tâm của khu vực về lắp ráp thiết bị điện tử, máy tính và viễn thông, sản xuất một số chủng loại linh, phụ kiện và thiết kế chế tạo thiết bị mới. Công nghiệp phần cứng máy tính có tốc độ tăng trưởng bình quân 20% một năm, đến năm 2010 đạt tổng doanh thu khoảng 3 tỷ USD. Công nghiệp sản xuất thiết bị viễn thông có tốc độ tăng trưởng bình quân 22% một năm, đến năm 2010 đạt tổng doanh thu khoảng 700 triệu USD. Công nghiệp điện tử (dân dụng và công nghiệp) có tốc độ tăng trưởng bình quân 22% một năm, đến năm 2010 đạt tổng doanh thu khoảng 2 tỷ USD. Máy tính cá nhân, điện thoại di động và phần mềm mang thương hiệu Việt Nam chiếm lĩnh được tối đa thị phần trong nước và xuất khẩu không ít hơn 1 tỷ USD. 3. Phát triển hạ tầng thông tin và truyền thông Xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông đáp ứng yêu cầu trao đổi thông tin của toàn xã hội. Cơ sở hạ tầng viễn thông và Internet Việt Nam đi thẳng vào công nghệ hiện đại, phát triển nhanh, đa dạng hoá, cung cấp cho người sử dụng các dịch vụ chất lượng cao, đảm bảo an toàn thông tin, bảo mật, giá cước thấp hơn hoặc tương đương mức bình quân của các nước trong khu vực ASEAN+3. Tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ viễn thông và Internet. Hỗ trợ để các doanh nghiệp mới chiếm 40 - 50% thị phần dịch vụ viễn thông và Internet vào năm 2010. Tất cả các Bộ, ngành, cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền cấp tỉnh và huyện được kết nối Internet băng rộng và kết nối với mạng diện rộng của Chính phủ. 100% số xã trên toàn quốc có điện thoại; 100% các điểm Bưu điện văn hoá xã và các trung tâm giáo dục cộng đồng được kết nối Internet; 100% số huyện và nhiều xã trong cả nước được phục vụ dịch vụ băng rộng với giá cước thấp hơn hoặc tương đương mức bình quân của các nước trong khu vực ASEAN+3; 100% viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và trung học phổ thông có truy nhập Internet tốc độ cao; trên 90% các trường trung học cơ sở, bệnh viện được kết nối Internet. 4. Phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông Đào tạo công nghệ thông tin và truyền thông tại các trường đại học trọng điểm đạt trình độ và chất lượng tiên tiến trong khu vực ASEAN cả về kiến thức, kỹ năng thực hành và ngoại ngữ. 70% sinh viên công nghệ thông tin và truyền thông tốt nghiệp ở các trường đại học trọng điểm đủ khả năng chuyên môn và ngoại ngữ để tham gia thị trường lao động quốc tế. 100% sinh viên tốt nghiệp tất cả các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có đủ kỹ năng sử dụng máy tính và Internet trong công việc. Đến năm 2010 có trên 100.000 người có trình độ cao đẳng và đại học trở lên về công nghệ thông tin và truyền thông, trong đó có khoảng 20% đạt trình độ khu vực và quốc tế. Đảm bảo 100% trường đại học, cao đẳng, trung học phổ thông có trang thông tin điện tử. Tăng cường chất lượng và số lượng giảng viên công nghệ thông tin và truyền thông ở các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp đảm bảo tỷ lệ dưới 15 sinh viên có 1 giảng viên. Các trường sư phạm cung cấp đủ số lượng giáo viên dạy tin học cho các trường học trong cả nước. Hầu hết cán bộ, công chức, viên chức, giáo viên các cấp, bác sĩ, y sĩ, sinh viên đại học và cao đẳng, học sinh trung học chuyên nghiệp, trung học nghề và trung học phổ thông, 50% học sinh trung học cơ sở và một bộ phận người dân có nhu cầu được đào tạo kiến thức ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông và khai thác Internet. Đa số các Bộ, ngành, tỉnh, thành phố có cán bộ lãnh đạo quản lý thông tin, được bổ túc, đào tạo các chương trình quản lý công nghệ thông tin và truyền thông với trình độ tương đương trong khu vực. III. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU VÀ CÁC CHƯƠNG TRÌNH TRỌNG ĐIỂM 1. Các giải pháp chủ yếu a) Nâng cao nhận thức Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của công nghệ thông tin và truyền thông trong mọi ngành kinh tế quốc dân, an ninh, quốc phòng và nâng cao năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông thông qua các hình thức tuyên truyền, phổ biến kiến thức cơ bản về công nghệ thông tin và truyền thông trên Internet và các phương tiện thông tin đại chúng. Phát động phong trào cách mạng sâu rộng, cả nước tiến quân vào xã hội thông tin và kinh tế tri thức, cả nước thành trường học lớn, khuyến khích văn hoá chia sẻ thông tin, hình thành xã hội học tập suốt đời. b) Nâng cao năng lực ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông - Đối với xã hội: Ban hành chính sách đầu tư của Nhà nước cho ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, các chính sách thu hút sự tham gia rộng rãi của các công ty đa quốc gia, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các công ty trong và ngoài nước vào đầu tư phát triển công nghệ thông tin và truyền thông. Tập trung đầu tư cho một số dự án trọng điểm có tính đột phá và tạo nền móng cho phát triển công dân điện tử, Chính phủ điện tử, giao dịch và thương mại điện tử. Trước mắt ưu tiên cho phát triển Chính phủ điện tử. Ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất cho một số cơ sở đào tạo công nghệ thông tin và truyền thông tương đương các nước tiên tiến trong khu vực để đảm bảo chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học về công nghệ thông tin và truyền thông. Ban hành các quy định và tiêu chuẩn cụ thể đối với đối tượng bắt buộc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông như cán bộ, công chức, sinh viên cao đẳng và đại học. Đối với các đối tượng không bắt buộc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, Nhà nước có chính sách khuyến khích họ ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông. - Đối với các doanh nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông trong nước: Có chính sách thuế, tài chính, ưu đãi đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất các phần mềm quản trị doanh nghiệp; chính sách đặc biệt khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, chính sách sử dụng các sản phẩm, dịch vụ trong nước trong các dự án ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông của Chính phủ; chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tăng đầu tư cho ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông, có chính sách ưu đãi ứng dụng công nghệ thông tin vào công nghiệp, khuyến khích tạo ra các sản phẩm công nghệ thông tin và truyền thông mang thương hiệu Việt Nam. Ưu tiên, hỗ trợ các doanh nghiệp mới tham gia thị trường viễn thông. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp phát triển cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp viễn thông sử dụng chung cơ sở hạ tầng sẵn có, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của cả ngành công nghệ thông tin và truyền thông. c) Tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về công nghệ thông tin và truyền thông Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về công nghệ thông tin và truyền thông ở các cấp Trung ương và địa phương đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc “Năng lực quản lý phải theo kịp sự phát triển”. Xây dựng chức danh cán bộ quản lý thông tin, xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý công nghệ thông tin và truyền thông các cấp và có chế độ đãi ngộ hợp lý. Nhanh chóng xây dựng hệ thống quản lý ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Đưa vào mục lục ngân sách nhà nước loại chi riêng cho công nghệ thông tin và truyền thông. Xây dựng và thống nhất các tiêu chuẩn quản lý và tiêu chuẩn kỹ thuật về công nghệ thông tin và truyền thông. Nghiên cứu, xây dựng quy định bắt buộc cán bộ sử dụng phương tiện công nghệ thông tin và truyền thông trong công việc, quy chế về khai thác, cập nhật và chia sẻ thông tin. d) Huy động nguồn vốn thực hiện chiến lược Huy động các nguồn vốn trong nước và ngoài nước để thực hiện từng phần các chương trình trọng điểm. Tập trung vốn cho triển khai thực hiện các dự án ưu tiên cấp quốc gia và các dự án ưu tiên cấp Bộ, ngành, địa phương. Tích cực tìm kiếm nguồn vốn ODA, đặc biệt tạo điều kiện thuận lợi nhất thu hút nguồn vốn FDI để thực hiện các dự án lớn. Phấn đấu đến năm 2010 dành 1% ngân sách đầu tư cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông và tổng đầu tư từ các thành phần kinh tế và các nguồn vốn đạt 2% GDP. Có các chính sách đặc biệt nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông. Tạo lập môi trường thuận lợi để Việt Nam trở thành địa điểm đầu tư hấp dẫn và tin cậy của các đối tác quốc tế, đặc biệt là các tập đoàn công nghệ thông tin và truyền thông lớn. Khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế, các hình thức đầu tư nước ngoài, kể cả hình thức 100% vốn nước ngoài tham gia phát triển công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông. đ) Phát triển nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin và truyền thông Rà soát các chương trình đào tạo về công nghệ thông tin và truyền thông, kiên quyết loại bỏ các chương trình lạc hậu. Biên soạn chương trình đào tạo mới về công nghệ thông tin, tăng tỷ lệ thực hành ở các môn học công nghệ thông tin và truyền thông. Có chế độ thích hợp cho từng loại cơ sở đào tạo công nghệ thông tin và truyền thông để thực hiện mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực. Khuyến khích các trường đại học giảng dạy về công nghệ thông tin và truyền thông bằng tiếng Anh, có chính sách thu hút giáo viên nước ngoài trong đào tạo. Đẩy mạnh chương trình dạy đại học bằng tiếng Anh cho sinh viên công nghệ thông tin và truyền thông theo hướng 1 năm học tiếng Anh và 3 - 4 năm học chuyên môn bằng tiếng Anh. Hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo tin học ở tất cả các cấp, khuyến khích đào tạo bằng đại học thứ hai về công nghệ thông tin và truyền thông. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tổ chức các loại hình đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông. Thu hút và tạo điều kiện thuận lợi để các trường đại học quốc tế giảng dạy công nghệ thông tin và truyền thông tại Việt Nam. Ưu đãi các trường học, viện nghiên cứu sử dụng Internet, khuyến khích ứng dụng công nghệ thông tin vào giáo dục. Lựa chọn sinh viên học giỏi hoặc những người đã tốt nghiệp đại học đang làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông có triển vọng phát triển, có đủ điều kiện về trình độ học vấn đưa đi đào tạo ở nước ngoài để trở thành các chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông và quản lý công nghệ thông tin và truyền thông. Các doanh nghiệp hợp tác trực tiếp với các công ty lớn của nước ngoài về công nghệ thông tin và truyền thông để phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông và đào tạo chuyên gia cấp cao về công nghệ thông tin và truyền thông. e) Phát triển hệ thống nghiên cứu triển khai Nâng cao năng lực nghiên cứu triển khai của các cơ sở nghiên cứu về công nghệ thông tin và truyền thông. Có chính sách trọng dụng cán bộ khoa học về công nghệ thông tin và truyền thông, ưu đãi đặc biệt các công ty quốc tế thiết lập các trung tâm nghiên cứu công nghệ thông tin và truyền thông ở Việt Nam. Đẩy mạnh liên kết nghiên cứu giữa các doanh nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông với các trường đại học, viện nghiên cứu, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu triển khai. Triển khai các chương trình nghiên cứu khoa học, công nghệ về công nghệ thông tin và truyền thông tạo tiềm lực và năng lực công nghệ quốc gia. g) Hoàn thiện môi trường pháp lý hỗ trợ phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông Khẩn trương xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật tạo môi trường cho việc hỗ trợ ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông. Xây dựng cơ chế, chính sách đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông thuộc mọi thành phần kinh tế. Thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trên thị trường viễn thông và Internet. Phân định rõ hoạt động sản xuất kinh doanh với hoạt động mang tính công ích trong lĩnh vực viễn thông. h) Tăng cường hợp tác, liên kết trong nước và quốc tế Tranh thủ sự hỗ trợ, chia sẻ thông tin và tri thức, kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ trên các lĩnh vực nghiên cứu, quản lý, sản xuất, kinh doanh, đào tạo của các tổ chức quốc tế, các công ty đa quốc gia, các cơ sở nghiên cứu, các trung tâm tư vấn, các chuyên gia, đặc biệt là người Việt Nam ở nước ngoài. Thường xuyên củng cố và phát huy mối quan hệ gắn bó, hợp tác và liên kết giữa ba chủ thể Nhà nước, doanh nghiệp và người sử dụng, chú ý quan tâm các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phát huy vai trò của các Hiệp hội nghề nghiệp về công nghệ thông tin và truyền thông trong quá trình đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông. i) Phát triển thị trường công nghệ thông tin và truyền thông Thực hiện mở cửa thị trường viễn thông và Internet, chủ động hội nhập quốc tế. Chuyển mạnh sang thị trường cạnh tranh, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ viễn thông và Internet. Có chính sách hỗ trợ để các doanh nghiệp mới chiếm 40 - 50% thị phần dịch vụ viễn thông và Internet vào năm 2010. Mở rộng thị trường công nghệ thông tin và truyền thông ra nước ngoài. Phát triển thị trường lao động công nghệ thông tin và truyền thông (đặc biệt là lao động sản xuất phần mềm và nội dung thông tin), hỗ trợ và tạo điều kiện xuất khẩu lao động sản xuất phần mềm và thu hút chuyên gia công nghệ thông tin và truyền thông quốc tế vào Việt Nam. 2. Các chương trình trọng điểm Chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam được triển khai thực hiện thông qua năm chương trình trọng điểm sau đây: a) Chương trình xây dựng môi trường thể chế, pháp lý, chính sách thúc đẩy ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông - Các dự án ưu tiên cấp quốc gia về tăng cường năng lực quản lý công nghệ thông tin và truyền thông. + Xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách tạo môi trường hỗ trợ, thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, phát triển hạ tầng thông tin và truyền thông, phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông, phát triển công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông và phát triển thương mại điện tử; + Xây dựng hệ thống chuẩn thông tin và công nghệ thông tin và truyền thông quốc gia. - Các dự án khác + Xây dựng thể chế, cơ chế quản lý và điều hành ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông; + Xây dựng các tiền đề, môi trường văn hoá phù hợp với xã hội thông tin và kinh tế tri thức. b) Chương trình đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, phát triển Việt Nam điện tử - Các dự án ưu tiên cấp quốc gia về xây dựng nền tảng cho phát triển công dân điện tử, doanh nghiệp điện tử. + Phổ cập tin học cho 20 triệu người dân; + Đào tạo 30.000 cán bộ chuyên môn công nghệ thông tin và truyền thông; + Xây dựng 1 triệu trang thông tin điện tử phục vụ cộng đồng; + Sản xuất 1 triệu thiết bị kết nối Internet giá rẻ; + Xây dựng một số mô hình điển hình ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong các doanh nghiệp. - Các dự án ưu tiên cấp quốc gia về xây dựng nền tảng cho phát triển Chính phủ điện tử + Chuẩn hoá hệ thống lưu trữ và trao đổi thông tin điện tử trong các cơ quan Nhà nước; + Phát triển phần mềm dùng chung và các cơ sở dữ liệu quốc gia quan trọng; + Xây dựng hệ thống đảm bảo an ninh, an toàn và bảo mật thông tin; + Phát triển công nghệ thông tin tạo tiền đề cho Chính phủ điện tử và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về công nghệ thông tin và truyền thông; + Bồi dưỡng, đào tạo cán bộ lãnh đạo quản lý thông tin và quản trị mạng; + Xây dựng mô hình điển hình đổi mới và tin học hoá các quy trình điều hành, quản lý hành chính của cơ quan quản lý hành chính; một số mô hình điển hình dịch vụ hành chính công cơ bản trực tuyến; mô hình điển hình mua sắm điện tử của các cơ quan Chính phủ. - Các dự án ưu tiên cấp Bộ, ngành, địa phương + Tin học hoá hệ thống hoạt động của các cơ quan Đảng; + Ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan của Quốc hội; + Tin học hoá quản lý hành chính nhà nước; + Xây dựng hệ thống thông tin tài chính và ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong các hoạt động quản lý và nghiệp vụ ngành tài chính; + Xây dựng hệ thống thông tin ngân hàng và ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong các hoạt động quản lý và nghiệp vụ ngành ngân hàng; + Xây dựng hệ thống thông tin thống kê kinh tế, xã hội; + Xây dựng hệ thống thông tin về đất đai, tài nguyên, môi trường; + Xây dựng hệ thống thông tin về dân cư, lao động, thương binh và phúc lợi xã hội; + Xây dựng hệ thống thông tin nông nghiệp và phát triển nông thôn; + Xây dựng hệ thống thông tin công nghiệp và sản phẩm công nghiệp Việt Nam; + Xây dựng hệ thống thông tin về luật và văn bản pháp quy; + Xây dựng hệ thống tin về văn hóa, xã hội; + Xây dựng hệ thống thông tin khoa học, công nghệ; + Xây dựng hệ thống thông tin giáo dục, đào tạo, dạy nghề, việc làm; + Xây dựng hệ thống thông tin y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng; + Xây dựng hệ thống thông tin bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin Việt Nam; + Xây dựng hệ thống thông tin hải quan và ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong các hoạt động quản lý và nghiệp vụ ngành Hải quan; + Xây dựng hệ thống thông tin thương mại và các doanh nghiệp Việt Nam; + Xây dựng hệ thống thông tin quản lý chứng minh nhân dân, tiến tới cấp chứng minh nhân dân điện tử cho toàn dân; + Xây dựng Chính phủ điện tử tại Hà Nội; + Xây dựng Chính phủ điện tử tại thành phố Hồ Chí Minh; + Xây dựng Chính phủ điện tử tại Đà Nẵng; + Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông trong Công an nhân dân; + Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông trong quốc phòng; + Ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở. - Các dự án khác + Xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản, phát triển vùng duyên hải; + Xây dựng hệ thống thông tin về đất nước, con người, lịch sử và du lịch; + Xây dựng hệ thống thông tin về giao thông vận tải; + Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong quản lý, điều hành và nghiệp vụ Bộ Kế hoạch và Đầu tư; + Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong quản lý, điều hành và nghiệp vụ Bộ Nội vụ; + Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong quản lý, điều hành và nghiệp vụ Bộ Ngoại giao; + Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong các hoạt động quản lý, điều hành và nghiệp vụ Bộ Xây dựng; + Tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông; + Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp Việt Nam; + Xây dựng và triển khai chương trình xúc tiến thương mại điện tử, tham gia chương trình e-ASEAN về thương mại điện tử, chuẩn bị hội nhập quốc tế; + Phổ cập tin học, nâng cao nhận thức và hiểu biết về vai trò của công nghệ thông tin và truyền thông, kinh tế tri thức và xã hội thông tin. c) Chương trình phát triển hạ tầng viễn thông và Internet - Các dự án ưu tiên cấp quốc gia về xây dựng nền tảng cho phát triển năng lực truy cập thông tin và tri thức + Xây dựng mạng diện rộng của Chính phủ. Kết nối Internet băng rộng cho tất cả các Bộ, ngành, cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền cấp tỉnh và huyện; + Kết nối Internet băng rộng cho các viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trung học phổ thông và các bệnh viện đến cấp huyện. Từng bước xây dựng mạng tốc độ cao liên kết các trường đại học và các cơ sở nghiên cứu khoa học trong cả nước; + Phát triển hệ thống các điểm Bưu điện văn hoá xã và các điểm truy cập Internet công cộng. Đưa Internet đến 100% các điểm Bưu điện văn hoá xã và các trung tâm giáo dục cộng đồng, phục vụ ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào nông nghiệp và phát triển nông thôn. d) Chương trình phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông - Nâng cao chất lượng đào tạo đại học và sau đại học về công nghệ thông tin và truyền thông; - Hỗ trợ triển khai các chương trình liên kết đào tạo công nghệ thông tin và truyền thông với các trường đại học nước ngoài; - Đào tạo bồi dưỡng về công nghệ thông tin và truyền thông cho các chuyên ngành; - Nâng cao chất lượng đào tạo về công nghệ thông tin và truyền thông ở bậc trung học chuyên nghiệp và dạy nghề; - Đào tạo về quản lý công nghệ thông tin và truyền thông và phổ cập tin học cho cán bộ, công chức và viên chức; - Dạy tin học và ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong trường phổ thông; - Phát triển mạng và các dịch vụ giáo dục, đào tạo ứng dụng trên Internet; - Đảm bảo 100% trường trung học phổ thông sử dụng Internet; - Kết nối Internet cho các trường trung học cơ sở. đ) Chương trình phát triển công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông - Xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam; - Quy hoạch các khu công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông tập trung; - Tạo thị trường và thương hiệu cho sản phẩm công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam, hỗ trợ các doanh nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông tham gia thị trường quốc tế; - Hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm để thu hút vốn đầu tư cho phát triển công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông, đặc biệt là công nghiệp phần mềm và sản xuất nội dung thông tin; - Phát triển công nghiệp phần mềm và dịch vụ, đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm phần mềm, phát triển các doanh nghiệp phần mềm vừa và nhỏ; - Phát triển sản xuất và cung cấp nội dung thông tin tiếng Việt, thúc đẩy sử dụng tiếng Việt trong các trang thông tin điện tử; - Phát triển công nghiệp sản xuất máy tính thương hiệu Việt Nam, các thiết bị đầu cuối thông minh đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; - Nâng cao chất lượng sản phẩm điện tử, đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm điện tử, phát triển công nghiệp phụ trợ và sản xuất linh kiện; - Nâng cao năng lực sản xuất thiết bị viễn thông, đặc biệt là máy điện thoại di động, đáp ứng nhu cầu trong nước và có sản phẩm xuất khẩu. Điều 2. Tổ chức thực hiện 1. Giao Bộ Bưu chính, Viễn thông chủ trì, phối hợp cùng với Bộ Nội vụ và các cơ quan có liên quan xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thành lập Ban điều phối quốc gia về công nghệ thông tin và truyền thông và xã hội thông tin, quy hoạch phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam, quy hoạch phát triển công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam, các chính sách, cơ chế khuyến khích và tạo điều kiện phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển xã hội thông tin Việt Nam; chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng nội dung chi tiết, tổ chức triển khai thực hiện chương trình trọng điểm xây dựng môi trường thể chế, pháp lý, chính sách thúc đẩy ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, chương trình đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, phát triển Việt Nam điện tử, chương trình phát triển hạ tầng viễn thông và Internet, chương trình phát triển công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông; xây dựng kế hoạch triển khai giai đoạn 2005 - 2010 và hàng năm phù hợp với Chiến lược này; sơ kết tình hình thực hiện Chiến lược hàng năm và tổng kết tình hình thực hiện Chiến lược vào năm kết thúc. 2. Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Bưu chính, Viễn thông cân đối tổng hợp các nguồn lực trong kế hoạch Nhà nước 5 năm và hàng năm cho các chương trình trọng điểm, các dự án ưu tiên cấp quốc gia, các dự án ưu tiên cấp Bộ, ngành, địa phương; xây dựng các giải pháp triển khai chính sách huy động các nguồn vốn trong nước và nước ngoài cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông. 3. Giao Bộ Tài chính chủ trì xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện đảm bảo ưu tiên bố trí kinh phí và cấp đủ kinh phí cho các chương trình trọng điểm, các dự án ưu tiên cấp quốc gia, các dự án ưu tiên cấp Bộ, ngành, địa phương. 4. Giao Bộ Thương mại chủ trì, phối hợp với Bộ Bưu chính, Viễn thông và các Bộ liên quan xây dựng và triển khai dự án tạo thị trường và thương hiệu cho sản phẩm công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam, hỗ trợ các doanh nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông tham gia thị trường quốc tế. 5. Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì tổ chức thực hiện, kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện chương trình phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông. 6. Giao Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Bộ Bưu chính, Viễn thông và các Bộ liên quan xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy nghiên cứu triển khai về công nghệ thông tin và truyền thông. 7. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào Chiến lược này xây dựng kế hoạch tổng thể giai đoạn 2005 - 2010 và kế hoạch hàng năm về ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông. Triển khai các hoạt động về ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông trong kế hoạch hoạt động thường xuyên của đơn vị. Đảm bảo đầu tư và thực hiện các dự án đầu tư đã được các cấp thẩm quyền quyết định theo đúng tiến độ. Các dự án đang được triển khai cần được điều chỉnh lại cho phù hợp với tinh thần và nội dung của bản Chiến lược này. Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. Điều 4. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này. MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ Tiếng Anh Tiếng Việt AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do ASEAN AICO ASEAN Industrial Cooperation Scheme Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN ASEAN Association of South-East Asian Nations Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam Á BHTQ Bảo hộ thuế quan BTA The US-Vietnam Bilateral Trade Agreement Hiệp định thương mại Việt- Mỹ CEPT Common Effective Preferential Tariff Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung CN Công nghiệp CNĐT Công nghiệp điện tử CNH-HĐH Công nghiệp hoá-hiện đại hoá CNTT Công nghệ thông tin CS Chính sách CSCN Chính sách công nghiệp DN Doanh nghiệp DNTN Doanh nghiệp tư nhân EC European Community Cộng đồng Châu Âu ERP Effective rates of protection Tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu EU European Union Liên minh Châu Âu FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài GCI Global Competitiveness Index Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp GDP Gross Dometic Products Tổng sản phẩm quốc nội GPA Agreement on Government Procurement Hiệp định về mua sắm chính phủ GSP Generalized System of Preferences Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập HACCP Hazard Analysis and Critical Control Point System Hệ thống phân tích mối nguy và kiểm soát điểm tới hạn ILP Import Licensing Procedures Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế MFN The Most Favoured Nation Đối xử quốc gia NCN Ngành công nghiệp NCNĐT NCN điện tử KCN Khu công nghiệp KCX Khu chế xuất NK Nhập Khẩu RCA Revealed comparative advantage ROO Rules of Origin Hiệp định về xuất xứ hàng hoá SCM Agreement on Subsidies and Countenrvailing Measures Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng SPS Sanitary and Phytosanitary Measures Hiệp định về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch TBT Technical Barriers to Trade Hiệp định về các rào cản kĩ thuật đối với thương mại TRIMS Trade Related Investment Measures Hiệp định về đầu tư liên quan đến thương mại TTTM Tham tán thương mại VEIA Vietnam Electric Industries association Hiệp hội DN Điện tử Việt Nam VER Voluntary Export Restraints Hạn chế xuất khẩu tự nguyện VRA Voluntary Restraint Agreement Thoả thuận hạn chế song phương XK Xuất khẩu XNK Xuất nhập khẩu WB World Bank Ngân hàng thế giới WEF World Economic Forum Diễn đàn Kinh tế thế giới WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại thế giới ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5265.doc
Tài liệu liên quan