Tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam sau khi gia nhập WTO: LỜI MỞ ĐẦU
Thế kỷ XX qua đi, thế kỷ XXI đã tới, thế giới đã đi qua những chặng đường dài đầy thử thách song cũng đầy vinh quang. Xu hướng hiện tại và tương lai của thế giới là hoà bình, hợp tác và cùng phát triển.
Việt Nam, cũng như nhiều nước khác trên, đều cố gắng hoà nhịp với dòng chảy chung của thế giới. Nhu cầu phát triển kinh tế, xây dựng đất nước không cho phép chúng ta đứng ngoài xu thế, cuộc chơi chung của nhân loại. Biểu hiện tích cực mới đây nhất thể hiện sự chủ động hội nhập của Vi... Ebook Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam sau khi gia nhập WTO
62 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt Nam vào nền kinh tế thế giới là việc chúng ta chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Việc gia nhập WTO chắc chắn sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội để phát triển kinh tế, nhưng đồng thời cũng đưa đến nhiều khó khăn trở ngại. Nền kinh tế Việt Nam có duy trì được tốc độ cao, ổn định hay không hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng cạnh tranh cũng như khả năng ứng phó với những thách thức của nền kinh tế nói chung và của từng ngành nói riêng.
Trước khi gia nhập WTO, Việt Nam đã có một chiến lược dài hạn nhằm mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó tập trung vào phát triển một số ngành công nghiệp chủ lực. Chiến lược này không nằm ngoài mục tiêu chuẩn bị cả về lượng và chất để phát triển nền kinh tế, tạo chỗ dựa vững chắc khi hội nhập vào nền kinh tế quốc tế.
Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, cũng như nhiều nước khác trên thế giới, ngành dệt may đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Với lợi thế là ngành vừa cung cấp hàng hoá trong nước, thu hút nhiều lao động, đồng thời là ngành có lợi tức cao, đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước, công nghiệp dệt may luôn được chú trọng đầu tư, phát triển. Chiến lược phát triển kinh tế, với việc nhấn mạnh tầm quan trọng của chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước bắt đầu từ Đại hội VI (1986) Đảng Cộng Sản Việt Nam, và được cụ thể hoá và phát triển ở các đại hội sau, đã đem lại cho ngành dệt may những động lực và định hướng phát triển mới: “ Phát triển mạnh công nghiệp nhẹ, nhất là dệt, may, da giầy, giấy, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ; đầu tư hiện đại hoá dây chuyền công nghệ, nâng chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm; chuyển dần việc gia công dệt may, đồ da sang mua nguyên liệu, vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu; coi trọng nâng cao năng lực tiếp thị để mở rộng thị trường; khắc phục sự lạc hậu của ngành sợi, dệt, gắn với phát triển bông và thị trường tơ tằm….” Văn kiên Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia năm 1996, trg. 181
Những khởi sắc của ngành công nghiệp dệt may những năm gần đây, đặc biệt là sau một năm Việt Nam gia nhập WTO là một minh chứng rõ nét cho khả năng vượt qua thách thức, vươn lên của ngành dệt may. Vấn đề đặt ra là, trong những năm tới đây, khi phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, ngành dệt may còn đủ khả năng để cạnh tranh với các đối thủ có tiềm lực ngày càng mạnh như Trung Quốc, Ấn Độ?
Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn và tầm quan trọng của ngành công nghiệp dệt may đối với sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh nước ta đã là thành viên của WTO, người viết đã chọn đề tài khoá luận: “Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam sau khi gia nhập WTO”.
Trong quá trình viết, người viết đã cố gắng sử dụng các phương pháp như phân tích, so sánh, minh họa, đối chiếu, kiểm nghiệm thực tế nhằm đưa ra những đánh giá mang tính toàn diện, đúng đắn về năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp dệt may, cũng như định hình rõ những cơ hội, thách thức đặt ra đối với ngành dệt may sau khi gia nhập WTO, trên cơ sở đó đưa ra một số đề xuất, giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành.
Nội dung chính của khoá luận sẽ được trình bày ở ba chương:
Chương I: Vấn đề dệt may trong WTO
Chương II: Khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam
Chương III: Chính sách và biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam sau khi gia nhập WTO
Do đây là một đề tài có phạm vi bao quát rộng, trình độ và khả năng nghiên cứu của người viết còn nhiều hạn chế, nên khoá luận không tránh khỏi những sai sót. Vì vậy, người viết rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của thầy cô và bạn đọc.
CHƯƠNG I
VẤN ĐỀ DỆT MAY TRONG WTO
Vấn đề dệt may trong Vòng đàm phán Urugoay
Dệt may với đặc điểm là một ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, luôn là một ngành nhạy cảm, không chỉ về khía cạnh kinh tế, mà cả khía cạnh chính trị đối với nhiều nước. Vấn đề dệt may, vì thế, luôn là đề tài được nhiều nước thành viên WTO, đặc biệt là những nước nhập khẩu và xuất khấu hàng dệt may đặc biệt quan tâm.
Tuy nhiên, do tính chất nhạy cảm, ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm của nhiều lao động nên ngành công nghiệp dệt may thường được chính phủ các nước bảo hộ, nằm ngoài các nguyên tắc chung về thương mại tự do của GATT/WTO. Vì thế, trong suốt 30 trước khi diễn ra vòng đàm phán Urugoay (1986- 1994), thương mại quốc tế về dệt may chỉ được thực hiện dựa trên các thoả thuận về hạn ngạch song phương như: Hiệp định ngắn hạn về thương mại hàng dệt và bông (STA) năm 1961, Hiệp định dài hạn về hàng dệt và bông (LTA) năm 1963- 1973, Hiệp định hàng đa sợi (MFA) năm 1974- 1994.
Các hiệp định dệt may này đều duy trì việc thực hiện thương mại dệt may dựa trên các thoả thuận hạn ngạch song phương có tính chất phân biệt đối xử giữa những nước xuất khẩu và cho phép các nước nhập khẩu hàng dệt may được áp dụng các biện pháp hạn chế khi có sự gia tăng đột ngột về khối lượng hoặc giá trị nhập khẩu dẫn đến nguy cơ gây rối loạn thị trường nước nhập khẩu. Phạm vi các mặt hàng bị áp hạn ngạch cũng ngày càng gia tăng: nếu như hai thoả thuận đầu (STA và LTA) chỉ hạn chế xuất khẩu đối với hàng dệt may bông sợi tự nhiên thì Hiệp định đa sợi MFA mở rộng phạm vi hạn chế sang cả mặt hàng bông sợi nhân tạo. Các biện pháp hạn chế này nhìn chung mang tính phân biệt đối xử giữa hàng hoá các nước, và “hầu như hoàn toàn để hạn chế số lượng nhập khẩu từ các nước đang phát triển” TS. Nguyễn Hữu Khải. “Hiệp định hàng dệt may và đôi điều suy nghĩ về xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam”. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 10 (90), 2003.
.
Về khía cạnh pháp lý, việc duy trì những hạn chế số lượng là trái với các nguyên tắc, qui định của GATT. Tuy nhiên, việc ra đời các thỏa thuận trên, đặc biệt là Hiệp định MFA đã tạo ra “cái ô pháp lý để có thể vi phạm những nguyên tắc của GATT” Bộ Ngoại giao. Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr. 252.
.
Về khía cạnh kinh tế, vô hình trung những hiệp định này không chỉ tạo ra sự phân biệt đối xử giữa hàng dệt may xuất khẩu của các nước đang phát triển mà còn làm gia tăng sự bảo hộ ở các nước phát triển đối với lĩnh vực dệt may (do nước nhập khẩu được quyền áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu khi thị trường trong nước bị ảnh hưởng do lượng nhập khẩu của hàng dệt may đột ngột tăng, tác động tiêu cực đến công nghiệp dệt may trong nước, mà không tính đến sự chênh lệch giá do lợi thế cạnh tranh của các nước đang phát triển đem lại chứ không phải do sự hỗ trợ từ phía nhà nướcBộ Ngoại giao. Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr. 415.
). Có thể thấy, hệ thống này rất bất lợi cho các nước đang phát triển vốn có tiềm năng trong lĩnh vực này và điều này đã phần nào gây ra tình trạng bóp méo thương mại, làm chậm đi quá trình phát triển kinh tế ở cả các nước xuất khẩu và nhập khẩu, đồng thời làm giảm đi tính cạnh trạnh của ngành công nghiệp dệt may. Do đó, các hiệp định dệt may thường vấp phải sự phản đối của các nước đang phát triển. Các nước này đòi hỏi phải đưa vấn đề dệt may vào khuôn khổ của các nguyên tắc, qui định của GATT.
Trước tình hình đó, vòng đàm phán Urugoay (1986- 1994) đã đưa dệt may vào quĩ đạo điều chỉnh của GATT/WTO, xóa bỏ sự phân biệt đối xử qua chế độ hạn ngạch dệt may xuất nhập khẩu, xoá bỏ quyền áp đặt hạn ngạch của các nước phát triển, đưa lĩnh vực dệt may dần trở thành lĩnh vực được tự do hoá. Sự ra đời của Hiệp định hàng dệt may (ATC) năm 1994 thay thế cho Hiệp định MFA được coi là bước ngoặt lớn trong lịch sử thương mại dệt may thế giới. Bắt đầu từ đây, vấn đề dệt may không còn nằm ngoài quĩ đạo chung của GATT- WTO mà cũng chịu sự chi phối của các nguyên tắc, qui định của tổ chức này như bất kỳ vấn đề thương mại quốc tế nào khác.
Hiệp định hàng dệt may ATC
Hiệp định hàng dệt may ATC ra đời thay thế cho Hiệp định hàng đa sợi MFA chính là nỗ lực nhằm đưa thương mại quốc tế trong lĩnh vực dệt may trở lại khuôn khổ các nguyên tắc tự do hoá và không phân biệt đối xử của WTO. Đây được coi là hiệp định quốc tế chính thức điều tiết thương mại hàng dệt may, theo đó các nước nhập khẩu phải xoá bỏ hạn ngạch và các nước nhập khẩu không được phân biệt đối xử giữa các nước xuất khẩu.
Về cơ bản, ATC gồm những nội dung chính: đưa ra chương trình hội nhập bằng việc yêu cầu những nước nhập khẩu hàng dệt may hiện đang duy trì hạn ngạch phải xoá bỏ từng phần trong vòng 10 năm (phụ lục 1); đưa ra chương trình tự do hoá những biện pháp hạn chế số lượng, theo đó hạn ngạch liên tục giảm (cho đến khi bỏ hẳn hạn ngạch) bằng cách tăng tỉ lệ hạn ngạch gia tăng hạn ngạch hàng năm. Ngoài ra, ATC cũng đưa ra một cơ chế bảo vệ đặc biệt để giải quyết các trường hợp phát sinh gây thiệt hại nghiêm trọng đối với các nhà sản xuất trong nước, đồng thời đề cập đến việc thành lập Cơ quan theo dõi giám sát hàng dệt may (TMB) để giám sát việc thực hiện Hiệp định).
- Những điểm tiến bộ của ATC so với MFA
Mặc dù cả ATC và MFA đều nhằm điều chỉnh thống nhất mặt hàng dệt may nhưng nhìn chung, ATC có nhiều điểm tiến bộ và gần với các nguyên tắc của GATT (WTO) hơn.
Thứ nhất, do ra đời sau và có hiệu lực khi Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT đã được chính thức chuyển thành WTO- một tổ chức kế nhiệm GATT nhưng có địa vị pháp lý, phạm vi và tính ràng buộc cao hơn, cơ chế hoạt động chặt chẽ hơn nên ATC cũng có tính ràng buộc pháp lý chặt chẽ hơn so với MFA. MFA là một hiệp định tuỳ ý, các nước có thể tham gia hoặc không. Cho đến năm 1994, khi MFA hết hạn có 40 thành viên tham gia, trong khi đó, ATC là hiệp định trong khuôn khổ WTO và mang tính ràng buộc pháp lý đối với cả 150 nước thành viên.
Thứ hai, trong khi MFA là một cam kết mở, được gia hạn nhiều lần (4 lần gia hạn trong suốt 21 năm tồn tại) và đi kèm với nó là 90 hiệp định song phương và 29 hiệp định không nằm trong MFA và những biện pháp đơn phương hạn chế hàng nhập khầu dệt may Bộ Ngoại giao. Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr. 252.
thì ATC lại thể hiện là một hiệp định có tính ổn định cao. ATC đã định ra được một lịch trình thực hiện gồm 4 giai đoạn trong vòng 10 năm. Theo đó, toàn bộ hệ thống hạn ngạch xuất khẩu được áp dụng trong lĩnh vực dệt may từ những năm 60 sẽ được dỡ bỏ vào thời điểm 1/1/2005 và mặt hàng dệt may sẽ được điều tiết bởi những qui định của WTO. Như vậy, việc thực hiện theo ATC được thực hiện một cách ổn định theo một lịch trình đã được định sẵn.
Thứ ba, là việc thành lập Cơ quan theo dõi giám sát hàng dệt may TMB và Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) với thủ tục tố tụng hoàn chỉnh. Điều này đảm bảo rằng việc thực hiện ATC sẽ được giám sát chặt chẽ hơn, và việc giải quyết tranh chấp là theo trình tự thống nhất và phán quyết đưa ra có tính pháp lý bắt buộc thực hiện.
Thứ tư, trong khi MFA là một ngoại lệ, trái với nguyên tắc thương mại tự do của GATT- WTO khi cho phép sử dụng những biện pháp hạn chế số lượng thì ATC lại đặt ra mục tiêu chính là đưa thương mại dệt may tuân thủ những qui định của WTO bằng cách yêu cầu các nước thành viên phải loại bỏ dần các hạn chế số lượng và giảm thuế. ATC chỉ cho phép các nước áp đặt những hạn chế khi họ chứng minh được qua quá trình điều tra rằng sự gia tăng hàng nhập khẩu này chính là nguyên nhân gây ra những tổn hại nghiêm trọng đến hàng dệt may trong nước. Hơn nữa, những hạn chế này nếu được sử dụng, sẽ phải áp dụng bắt buộc cho hàng nhập khẩu từ tất cả các nguồn, không có sự phân biệt đối xử với hàng nhập khẩu từ bất kỳ nước nào ( trong khi MFA cho phép áp dụng hạn chế số lượng với hàng xuất khẩu từ một hoặc nhiều nước, tùy từng trường hợp).
Tác động của ATC đối với nhóm nước đang phát triển
Nhóm các nước đang phát triển được coi là một trong những nhóm nước chịu tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất từ hiệp định hàng dệt may ATC do các nước này vốn có tiềm năng, lợi thế trong lĩnh vực này và chiếm số lượng lớn trong số các nước xuất khẩu hàng dệt may.
Sự ra đời của hiệp định ATC, với mục đích xoá bỏ sự phân biệt đối xử qua chế độ hạn ngạch xuất khẩu, xoá bỏ quyền áp đặt hạn ngạch của các nước phát triển nhằm tự do hoá lĩnh vực dệt may được xem là một thuận lợi rất lớn cho các nước đang phát triển có lợi thế trong lĩnh vực này. Nhờ tự do hoá thương mại, thị trường xuất khẩu của các nước đang phát triển được mở rộng. Không chỉ mở rộng được thị trường, việc xoá bỏ hạn ngạch còn là cơ hội thuận lợi để các nước xuất khẩu gia tăng kim ngạch, khối lượng xuất khẩu tùy theo năng lực của mình. Bên cạnh đó, do sản phẩm dệt may từ các nước đang phát triển được tạo điều kiện thâm nhập vào thị trường các nước phát triển trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng sẽ làm gia tăng sức cạnh tranh của hàng hoá từ các nước này do tận dụng được lợi thế vốn có về nguồn lao động dồi dào, giá cả rẻ hơn, cộng với việc chất lượng sản phẩm ngày càng nâng cao do tiếp thu được thêm công nghệ mới, trình độ quản lý do quá trình hội nhập mang lại. Một yếu tố tích cực nữa là do có sự cạnh tranh gia tăng sẽ dẫn tới giảm giá hàng may mặc tại thị trường các nước phát triển. Điều này cũng là một yếu tố tích cực, kích thích nhu cầu tiêu dung mặt hàng này, dẫn đến gia tăng nhập khẩu từ các nước đang phát triển. Một thuận lợi nữa là trong hiệp định ATC, các nước phát triển bên cạnh việc dỡ bỏ chế độ hạn ngạch còn phải cam kết hỗ trợ kỹ thuật, tạo điều kiện cho các nước đang phát triển cơ hội tìm hiểu trước về nhu cầu thị trường tại nước nhập khẩu, “ tạo ra sự tăng trưởng đáng kể về khả năng tiếp cận thị trường cho các nhà cung cấp qui mô nhỏ và sự phát triển các cơ hội kinh doanh thương mại cho các đối tượng mới tham gia lĩnh vực thương mại hàng dệt và may mặc” (điều 1, khoản 2, hiệp định ATC) Bộ Thương mại. Các văn kiện cơ bản của WTO. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, trg.23
.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, hiệp định ATC cũng tạo ra những thách thức đáng kể đối với các nước đang phát triển.
Thứ nhất, việc dỡ bỏ hạn ngạch, bên cạnh việc thúc đẩy tự do hoá thương mại cũng khiến cho các nước đang phát triển phải cạnh tranh gay gắt hơn. Nếu như trước đây, hạn ngạch khiến cho các nước có tiềm năng lớn không thể xuất khẩu được nhiều nhưng cũng đồng thời giữ cho một số nước khác một thị trường xuất khẩu tối thiểu do hạn ngạch đem lại, thì nay, các nước buộc phải tự giành lấy thị phần trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng, dựa trên thực lực. Mặc dù có lợi thế về nguồn lao động, nhưng các nước đang phát triển cũng có những hạn chế nhất định về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, nền sản xuất nhỏ lẻ, thủ công… Điều này là một bất lợi lớn cho các nước đang phát triển khi phải cạnh tranh trên một sân chơi ngang bằng với các nước công nghiệp phát triển vốn có lợi thế về những yếu tố trên. Tuy nhiên, đây chỉ là những khó khăn chung đối với các nước đang phát triển là thành viên WTO, còn đối với một bộ phận các nước đang phát triển khác cũng tham gia vào thương mại dệt may thế giới nhưng chưa phải là thành viên WTO vào thời điểm ATC hết hiệu lực (ví dụ như Việt Nam) thì khó khăn còn nhân lên gấp bội. Mặc dù cũng vấp phải những khó khăn như những nước đang phát triển là thành viên WTO, nhưng các nước như Việt Nam lại không được hưởng những lợi ích của việc dỡ bỏ hạn ngạch, cạnh tranh bình đẳng. Đây là một điều hết sức khó khăn, vì các nước chưa phải là thành viên WTO, trong khi vẫn bị áp chế độ hạn ngạch, lại phải chịu sự cạnh tranh gay gắt hơn do các nước thành viên khác đã được gia tăng và dỡ bò dần hạn ngạch.
Thứ hai, bên cạnh việc phải cạnh tranh gay gắt trên thị trường xuất khẩu, giờ đây, các nước đang phát triển còn phải đối mặt với nguy cơ bị cạnh tranh và mất thị phần ngay trên thị trường nội địa do tự do hoá thương mại. Điều này tạo nên sức ép buộc các nước đang phát triển phải điều chỉnh, đưa ra những chính sách thương mại phù hợp với hoàn cảnh mới và những biện pháp cần thiết để bảo vệ nền sản xuất nội địa nhằm nâng cao sức cạnh tranh, chuẩn bị cho thời kỳ thương mại tự do.
Thứ ba, mặc dù Hiệp định ATC đã đưa ra một lộ trình rõ ràng cho việc dỡ bỏ các hạn ngạch dệt may, nhưng trong giai đoạn đầu, các nước phát triển chỉ thực hiện qui định này đối với các sản phẩm không phải là bảo hộ hàng đầu, còn các mặt hàng quan trọng hiện đang được hạn ngạch bảo hộ sẽ bị dồn xuống cuối tiến trình do mục đích duy trì bảo hộ nền công nghiệp trong nước, và nỗi lo sợ vấp phải sự phản đối của làn sóng lao động thất nghiệp từ những nước này. Như vậy, hiệu quả do Hiệp định ATC mang lại trong thời gian đầu thường thấp, các nước đang phát triển sẽ chậm được hưởng những lợi ích do ATC đem lại trong khi vẫn phải cạnh tranh gay gắt với nhau để giành thị phần. Thực tế cho thấy, trong giai đoạn đầu thực hiện Hiệp định ATC từ 1995- 2000, hàng dệt may của các nước đang phát triển chỉ tăng 4,5% trong khi các nước phát triển đã tăng 9% trong cùng khoảng thời gian đó. Bộ Thương mại, Vụ chính sách thương mại đa biên. Tác động của hiệp định đàm phán thương mại đa biên Urugoay. Nxb Thống kê. Hà Nội 2000, trg. 144.
Tóm lại, Hiệp định ATC không chỉ đem lại những lợi ích cho các nước đang phát triển như nhiều ngừơi vẫn nghĩ, trái lại, nó cũng đồng thời đưa đến nhiều thách thức, bất lợi cho các nước này. Việc tận dụng được lợi ích của ATC đến đâu hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng, độ nhạy bén của từng quốc gia.
Thị trường dệt may thế giới sau khi ATC hết hiệu lực
Đến thời điểm 1/1/2005, hiệp định hàng dệt may ATC chính thức hết hiệu lực, nhưng câu chuyện về dệt may không phải đã kết thúc, ATC không phải đã được xếp sang một bên sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử. Trái lại, sự kết thúc của ATC lại mở ra nhiều vấn đề rất mới cho ngành công nghiệp dệt may các nước và sự thay đổi vị trí trong thị trường dệt may thế giới. Mặc dù thời hạn dỡ bỏ hoàn toàn hạn ngạch đã được thoả thuận từ 10 năm trước, tức là các nước đã có hơn 10 năm để chuẩn bị cho thời điểm này. Tuy nhiên, ở vào thời điểm này, khi Hiệp định dệt may ATC đã chính thức được dỡ bỏ thì nhiều nước vẫn còn đang trong tình trạng lúng túng. Hơn hai năm đã trôi qua kể từ khi hiệp định dệt may được dỡ bỏ, những tác động của việc dỡ bỏ này đã và đang được cảm nhận trên thế giới theo nhiều chiều hướng khác nhau. Có thể thấy, thời kỳ hậu hạn ngạch đã tạo cho bức tranh thị trường dệt may thế giới nhiều mảng màu rất đối lập.
Nhóm nước xuất khẩu hàng dệt may, mà hầu hết là các nước đang phát triển, được coi là bị tác động trực tiếp nhất từ việc dỡ bỏ hạn ngạch dệt may. Trong khi Hiệp định ATC hết hạn được cho là mang lại lợi ích rất lớn cho một số nước xuất khẩu, thì đồng thời, nó cũng khiến nhiều nước xuất khẩu khác đối mặt với nguy cơ bị mất thị phần do không có khả năng cạnh tranh.
Nhóm nước được coi là có lợi thế khi hiệp định này kết thúc bao gồm các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, và ở mức độ thấp hơn có thể là Pakistan và Thái Lan. Các nước này, đặc biệt là Trung Quốc, đã có sự chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng cho sự kiện này bằng việc đầu tư thêm hàng triệu đô la đầu tư cho công nghệ, thông qua các chiến lược giảm giá, cộng với khả năng tiếp cận hầu như vô hạn với nguồn nhân công rẻ và có năng suất, cơ sở hạ tầng tốt và các thể chế hoạt động có hiệu quả. Sự tăng trưởng ấn tượng của Trung Quốc và Ấn Độ trong những năm đầu tiên của thời kỳ hậu ATC đã chứng minh cho tiềm năng to lớn của các nước này. Theo một đánh giá gần đây của WTO, thị phần của Trung Quốc trên thị trường dệt may thế giới có thể tăng từ 17% khi còn chế độ hạn ngạch, lên 50% sau khi hạn ngạch được xoá bỏ Việt Nga. “Ai được lợi khi xóa bỏ chế độ hạn ngạch dệt may?” T/chí Ngoại thương, số 18 (6/2005).
. Tuy nhiên, sự tăng nhanh về thị phần của Trung Quốc và Ấn Độ cũng đồng nghĩa với việc sự thu hẹp thị trường của các nước xuất khẩu nhỏ hơn do thị phần bị rơi vào tay các nước trên.
Đối lập với tương lai sáng sủa của một số nước được coi là cường quốc về xuất khẩu hàng dệt may nói trên là một thực trạng khác, ít tươi tắn hơn, thuộc về các nước đang và chậm phát triển, nơi mà sự chuẩn bị cho thời kỳ hậu ATC còn nhiều bất cập, lúng túng. Đối với các nước này hạn ngạch không phải là vấn đề cản trở khả năng xuất khẩu của họ. Trái lại, trong nhiều năm qua, hạn ngạch chính là điểm tựa, giúp các nước này kiềm chế được các đối thủ cạnh tranh, bảo vệ được hoạt động xuất khẩu, giúp họ giữ được thị phần vốn khiêm tốn của mình tại các thị trường nhập khẩu lớn. Thế nhưng, trong lúc hệ thống hạn ngạch còn hiệu lực, các nước này đã không chú trọng phát triển ngành này, mà quá phụ thuộc vào cái ô hạn ngạch, vì thế, giờ đây, nguy cơ bị thua thiệt do không có khả năng cạnh tranh là rất lớn, đặc biệt đối với các nước nghèo. Bangladesh và Campuchia chính là hai trường hợp điển hình. Tại Bangladesh, ngành dệt may chiếm tới 75% thu nhập về xuất khẩu của cả nước. Thế nhưng, thực tế cho thấy Bangladesh trở thành nước xuất khẩu hàng dệt may lớn không phải do nước này tận dụng được những lợi thế so sánh của mình mà chủ yếu là nhận được sự đối xử ưu ái của Liên minh châu Âu (EU) khi Liên minh này giành cho Bangladesh những ưu đãi về thuế quan song song với việc không quy định hạn ngạch đối với hàng xuất khẩu của nước này. Theo đánh giá của Chủ tịch Hiệp hội các công ty sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Bangladesh thì 1/3 doanh nghiệp dệt may, phần lớn là vừa và nhỏ, có thể sẽ bị phá sản và khoảng 200 đến 300 ngàn người sẽ mất việc làm sau thời điểm Hiệp định ATC hết hiệu lực do không thể cạnh tranh nổi với các nước lớn như Trung Quốc, Ấn Độ. Campuchia cũng rơi vào tình trạng tương tự, khi mà khu vực dệt may mấy năm qua đã giúp cho sự hồi sinh của nền kinh tế nước này nhờ việc thâm nhập vào các thị trường lớn như Mỹ và EU theo chế độ hạn ngạch với kim ngạch trung bình khoảng 1,4 tỷ USD, chiếm 80% kim ngạch xuất khẩu của nước này. Việc dỡ bỏ hạn ngạch có thể khiến cho nền công nghiệp dệt may của Campuchia rơi vào khủng hoảng, đe doạ công việc của hơn 300 ngàn công nhân, phần lớn là nữ Mạnh Cường. “Bức tranh công nghiệp dệt may thế giới sau 1 năm WTO bãi bỏ hạn ngạch”. T/chí Lao động và Xã hội, số 277 (12/2005).
.
Mặc dù theo dự báo, tương lai cho các nước đang và chậm phát triển có vẻ khá ảm đạm nhưng thực tế cho thấy, hai năm vừa qua, không chỉ Trung Quốc, Ấn Độ mà cả Bangladesh, Campuchia vẫn thu được những lợi nhuận đáng kể. Phần lớn các dự báo đều cho rằng các nước nghèo sẽ không sống sót được, tuy nhiên khủng hoảng lại không xảy ra vào năm 2005. Câu trả lời là mặc dù chế độ hạn ngạch được dỡ bỏ nhưng các thị trường lớn như Mỹ, EU đã tăng cường các hàng rào bảo vệ phù hợp với các điều kiện của WTO nhằm bảo vệ cho ngành dệt may nội địa trước sự gia tăng ồ ạt của hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Những hàng rào này đã phần nào giúp các nước như Bangladesh, Campuchia giữ được thị phần tại các thị trường lớn, kiềm chế sự gia tăng thị phần của những nước có khả năng xuất khẩu lớn như Trung Quốc. Tuy nhiên, giai đoạn này sẽ không kéo dài lâu. Các nhận định đều cho rằng, năm 2008, khi mà các hàng rào bảo vệ hoàn toàn được dỡ bỏ, thì khủng hoảng sẽ thực sự xảy ra. Lúc đó, những nước có khả năng cạnh tranh kém sẽ thực sự bị tổn thương trước sự gia tăng nhanh chóng về thị phần của những nước xuất khẩu dệt may lớn như Trung Quốc, Ấn Độ.
5. Tác động của xu hướng phát triển thị trường dệt may thế giới tới Việt Nam
Có thể thấy, việc dỡ bỏ chế độ hạn ngạch theo Hiệp định ATC vô hình trung đã chia các nước xuất khẩu hàng dệt may thành hai nhóm nước, một nhóm được hưởng lợi và một nhóm bị thua thiệt. Ngoài ra, còn một nhóm nhỏ các nước khác, mà tác động của việc dỡ bỏ chế độ hạn ngạch và lợi ích thực tế còn chưa rõ ràng và phụ thuộc nhiều vào quan hệ đối ngoại của mình, đó chính là các nước chưa phải là thành viên WTO vào thời điểm Hiệp định này hết hiệu lực, mà Việt Nam là một ví dụ điển hình. Đối với Việt Nam, việc chưa trở thành thành viên của WTO vào năm 2005 đã đặt ngành dệt may Việt Nam đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường thế giới.
Sau khi Hiệp định ATC hết hiệu lực, ngành dệt may Việt Nam phải đương đầu với hai khó khăn lớn: thứ nhất là việc không được hưởng những lợi ích do việc kết thúc Hiệp định ATC mang lại do chưa là thành viên WTO- tất nhiên bất lợi này không phải do bản thân ATC gây nên mà do nước ta không là thành viên của WTO nên không được hưởng lợi từ các nguyên tắc cơ bản của WTO để bảo vệ các thành viên của mình; thứ hai, chúng ta phải cạnh tranh trên một thị trường khốc liệt hơn nhiều, khi mà các đối thủ của ta trong lĩnh vực dệt may vốn đã có nhiều thế mạnh như Trung Quốc, Ấn Độ… nay lại được tiếp thêm sức mạnh từ việc dỡ bỏ chế độ hạn ngạch. Như vậy, trong khi các nước như Trung Quốc, Ấn Độ sẽ tự do xuất khẩu vào các thị trường thì Việt Nam sẽ vẫn bị khống chế về hạn ngạch theo các Hiệp định thương mại song phương ở nhiều mặt hàng Việt Nam có khả năng cạnh tranh. Hơn thế nữa, phần hạn ngạch vốn đã bị khống chế của Việt Nam lại rất dễ có nguy cơ bị các đối thủ khác chiếm nốt do họ có nhiều lợi thế, khả năng cạnh tranh lại cao hơn. Ngoài ra, bên cạnh việc không được hưởng thêm gì từ hạn ngạch, Việt Nam còn gặp phải những bất lợi do các nước nhập khẩu có thể áp đặt các biện pháp tự vệ tạm thời trong vòng 3 năm kể từ năm 2005 để bảo vệ nền sản xuất trong nước trước những tác động của việc dỡ bỏ hạn ngạch.
Nhìn chung, việc Hiệp định ATC hết hiệu lực vào ngày đầu tiên của năm 2005 đã khiến ngành dệt may Việt Nam đứng trước những khó khăn, bất lợi lớn. Tuy nhiên, qua thực tế hơn hai năm kể từ khi ATC hết hiệu lực cho thấy Việt Nam đã nỗ lực rất nhiều để tháo gỡ dần những khó khăn này. Đầu tiên, phải kể đến thành công của Việt Nam trong việc đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Hiệp định ATC hết hiệu lực từ 1.1.2005 thì đến cuối năm 2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. Như vậy, Việt Nam đã gạt được khó khăn thứ nhất- bất lợi do không phải là thành viên WTO. Từ sau năm 2006, ngành dệt may Việt Nam không còn gặp trở ngại do bị áp đặt hạn ngạch mà có thể cạnh tranh bình đẳng hơn, theo đúng các nguyên tắc về tự do hoá thương mại của WTO. Như vậy, mặc dù ATC hết hiệu lực, nhưng Việt Nam chỉ bị bất lợi về hạn ngạch trong ngắn hạn. Và trong khoảng thời gian khó khăn khi các nước khác đã được dỡ bỏ hạn ngạch đó, Việt Nam vẫn thu được những kết quả lớn từ xuất khẩu hàng dệt may. Kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may trong hai năm 2005, 2006 đều tăng ở mức cao (phụ lục 2). Có được điều này là do các doanh nghiệp của Việt Nam, đặc biệt là những doanh nghiệp lớn như May 10, Việt Tiến… đã có những sự chuẩn bị hết sức chu đáo cho thời kỳ “hậu” hạn ngạch này. Hầu hết các doanh nghiệp vẫn giữ vững được thị phần do đã chú trọng đến việc cạnh tranh bằng uy tín, chất lượng, đồng thời chuyển hướng sang các mặt hàng phi hạn ngạch và mở rộng sang các thị trường mới. Theo đánh giá của Uỷ ban Thương mại quốc tế Mỹ (ITC) về khả năng cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ sau 1/1/2005 thì ở châu Á, chỉ có Việt Nam có thể cạnh tranh được với Trung Quốc và là lựa chọn thứ hai sau Trung Quốc về nguồn cung hàng dệt may Mạnh Cường. “Bức tranh công nghiệp dệt may thế giới sau 1 năm WTO bãi bỏ hạn ngạch”. T/chí Lao động và Xã hội, số 277 (12/2005).
. Có thể thấy, bất chấp những bất lợi do việc dỡ bỏ hạn ngạch, hàng dệt may Việt Nam vẫn được đánh giá cao trên thị trường quốc tế về khả năng cạnh tranh.
Mặc dù được đánh giá cao và vẫn đứng vững sau khoảng thời gian ATC hết hiệu lực, cộng với việc đã gạt bỏ được bất lợi về hạn ngạch sau khi gia nhập WTO, nhưng ngành dệt may Việt Nam không nên quá lạc quan khi mà các nước cạnh tranh với Việt Nam đang dần củng cố thêm sức mạnh để vươn lên trong giai đoạn hậu hạn ngạch này. Hơn thế nữa, dù đã là thành viên của WTO thì khó khăn lớn nhất do việc dỡ bỏ hạn ngạch mang lại vẫn còn đó: đó là việc phải cạnh tranh bằng chính thực lực trên một sân chơi bình đẳng. Bên cạnh đó, việc gia nhập WTO cũng đem lại thách thức cho dệt may Việt Nam khi phải cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa. Qua những đánh giá mới đây của WTO về trường hợp của Bangladesh và Campuchia có thể thấy lao động rẻ không còn là lợi thế mang tính chất quyết định đến khả năng cạnh tranh mà yếu tố then chốt vẫn là năng suất và chất lượng- hai yếu tố mà Việt Nam chưa thực sự mạnh. Vì vậy, gia nhập WTO sẽ không phải là con đường rộng mở cho dệt may Việt Nam khi mà năng lực cạnh tranh của ngành chưa được củng cố thêm. Để có thể đứng vào hàng ngũ các nước được hưởng lợi thời kỳ phi hạn ngạch, nhiệm vụ tối quan trọng đối với ngành dệt may Việt Nam lúc này là phải có chiến lược dài hạn nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam, sau khi đã gia nhập WTO.
CHƯƠNG II
KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP DỆT MAY VIỆT NAM
Tổng quan tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Ở Việt Nam, các ngành thủ công truyền thống như đan, thêu, dệt lụa đã có từ rất lâu đời. Tuy nhiên, ngành công nghiệp dệt may ở Việt Nam chỉ chính thức hình thành với sự ra đời của khu công nghiệp dệt Nam Định năm 1889 UNIDO & DSI. Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia 1999, trg. 139.
. Từ sau khi Việt Nam hoàn toàn thống nhất (1976), ngành dệt may Việt Nam đã phát triển nhanh chóng về năng lực, qui mô sản xuất do việc chính phủ tiếp quản toàn bộ các nhà máy, xí nghiệp Dệt- May ở phía Nam như công ty dệt Thắng Lợi, Việt Thắng, công ty may Nhà Bè, Việt Tiến,… và tiếp tục xây dựng nhiều nhà máy lớn trên cả nước như nhà máy sợi ở Hà Nội, Vinh, Huế, Dệt Kim Hoàng Thị Loan… Từ đây, ngành Việt Nam ngày càng phát triển, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, cung cấp nhiều sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu hàng dệt may từ năm 1976. Hàng dệt may Việt Nam được xuất khẩu sang Liên Xô và các nước Đông Âu theo các hiệp định gia công với khối lượng lớn, đầu vào, đầu ra do Nhà nước quyết định dựa trên yêu cầu của các nước nhập khẩu. Nhờ việc xuất khẩu này, ngành dệt may đã có những bước tiến vượt bậc, tạo việc làm và đổi về từ 55- 60 ngàn tấn bông xơ mỗi năm từ Liên Xô, đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước Bùi Xuân Khu. “Ngành dệt may Việt Nam 45 năm góp phần xây dựng đất nước”. Website Bộ Công thương:
.
Đến đầu những năm 199._.0, khi chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, ngành dệt may Việt Nam cũng lâm vào khủng hoảng về thị trường cũng như nguồn nguyên liệu và thiết bị sản xuất. Tuy nhiên, cũng vào thời điểm khó khăn nhất này, ngành dệt may Việt Nam đã tìm ra lối thoát nhờ công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước song song với việc tận dụng được quá trình chuyển dịch sản xuất trong ngành công nghiệp dệt may từ các nước phát triển sang các nước đang và kém phát triển diễn ra mạnh mẽ trên qui mô toàn thế giới. Từ đây, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam bắt đầu hội nhập kinh tế thế giới, bước vào giai đoạn phát triển mới với những thay đổi về chất rất quan trọng. Từ chỗ chỉ sản xuất phục vụ nhu cầu trong nước và thực hiện một phần theo Nghị định thư hàng năm với Liên Xô và các nước Đông Âu, đầu ra, đầu vào do Nhà nước quyết định, các doanh nghiệp Dệt- May Việt Nam nay đã chủ động từ khâu chọn mua nguyên phụ liệu, tổ chức sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, tự định giá mua, giá bán… Giờ đây, sản phẩm dệt may của Việt Nam đã xuất hiện trên thị trường khắp các châu lục, thoả mãn được yêu cầu của nhiều thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản.
Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam được đánh giá là một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Ngành dệt may không chỉ cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho xã hội, tạo việc làm cho một lực lượng lớn lao động mà còn mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn từ xuất khẩu đóng góp vào nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Qui mô, tốc độ tăng trưởng
Về qui mô, nếu như năm 1990, ngành dệt có 129 DNNN, 1.979 HTX và hộ cá thể, về may có 166 DNNN, 620 HTX và hộ cá thể, thu hút hàng trăm ngàn lao động Bùi Xuân Khu. “Ngành dệt may Việt Nam 45 năm góp phần xây dựng đất nước”. Website Bộ Công thương:
. Đến năm 1999, số lượng lao động toàn ngành đã đạt khoảng 1 triệu người. Hiện nay, theo báo cáo của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), toàn ngành có khoảng 2.000 DN dệt may, thu hút hơn 2 triệu lao động. Trong đó, doanh nghiệp Nhà nước chiếm 5%, doanh nghiệp có vốn FDI chiếm 25% và phần lớn là doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần. Như vậy, ngành dệt may hiện nay không chỉ tăng về số lượng doanh nghiệp mà còn mở rộng sang nhiều thành phần kinh tế như tư nhân, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chứ không chỉ gói gọn dưới hình thức doanh nghiệp quốc doanh, hợp tác xã và các hộ cá thể như trước kia.
Chính việc mở rộng, thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực dệt may đã tạo điều kiện cho ngành mở rộng qui mô và năng lực sản xuất. Nếu như năm 1990, sản lượng ngành dệt là 50 ngàn tấn sợi, 450 triệu mét vải ( khổ 0,8m), ngành may sản xuất được 150 triệu sản phẩm. Đến năm 1999, sản lượng kéo sợi đã tăng gấp đôi, đạt 100 ngàn tấn, sản xuất được 500 triệu mét vải (khổ 0,8m), ngành may sản xuất được 250 triệu sản phẩm. Hiện nay, năng lực sản xuất toàn ngành, nếu so với năm 1990, đã tăng lên rõ rệt. Đối với ngành dệt năng lực kéo sợi tăng gấp 5 lần, ngành may số lượng sản phẩm tăng gấp 10 lần (bảng 1). Năng lực cung ứng nguyên liệu cho ngành dệt ngày càng cải thiện: xơ bông 10.000 tấn/năm (5% nhu cầu); xơ sợi tổng hợp: 50.000 tấn (30% nhu cầu), sợi xơ ngắn: 260.000 tấn (60% nhu cầu)Nguyễn Hoài. “Chiến lược thay đổi chất cho dệt may Việt Nam”. Website của Thời báo kinh tế VN
.
Bảng 1: Năng lực sản xuất ngành dệt- may
Ngành
Trang thiết bị
Năng lực sản xuất/năm
Ngành sợi
Ngành dệt thoi
Ngành dệt kim
Ngành may
2,5 triệu cọc sợi
20.000 máy dệt
4.000 máy
300.000 máy may CN
265.000 tấn
680 triệu m2
150.000 tấn
1,25 tỷ sản phẩm
* Nguồn số liệu từ Vinatex,
Nhìn chung, từ năm 1993, sau khi ngành dệt may có sự chuyển hướng và mở rộng thị trường xuất khẩu, qui mô và năng lực sản xuất của ngành đã được cải thiện rất nhiều, góp phần nâng cao giá trị sản lượng của ngành. Trong những năm gần đây, giá trị sản lượng của ngành dệt may luôn ở mức cao và có tốc độ tăng trưởng khá nhanh.
Trong giai đoạn 2000- 2006, tăng trưởng giá trị tổng sản lượng của ngành dệt may luôn cao hơn mức tăng trưởng giá trị tổng sản lượng chung của toàn bộ ngành công nghiệp (biểu 1). Tốc độ tăng trưởng cao của toàn ngành dệt may có sự đóng góp chủ yếu là từ ngành may. Giá trị sản lượng của ngành may trong những năm gần đây tăng rất nhanh, có thời điểm đỉnh cao như năm 2003, mức tăng trưởng của ngành đạt tới 27,9%. Nhìn chung, tăng trưởng giá trị sản lượng của ngành may thường cao hơn mức tăng của toàn bộ ngành dệt may cũng như toàn bộ ngành công nghiệp. Trong khi đó, mức tăng giá trị sản lượng của ngành dệt lại rất thấp, không bắt kịp được với tốc độ tăng trưởng của ngành may (biểu 1). Sự phát triển chậm chạp của ngành dệt không chỉ làm giảm tốc độ tăng giá trị tổng sản lượng chung của toàn ngành dệt may mà còn thể hiện một thực tế là ngành dệt chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu phục vụ trong nước và xuất khẩu, cũng như nhu cầu về nguyên liệu cung ứng cho ngành may.
Về kim ngạch xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng của ngành dệt may khá cao, là một trong những ngành công nghiệp có tỷ lệ tăng kim ngạch xuất khẩu nhanh nhất cả nước. Mặc dù những năm 1990- 1991, do sự tác động của những thay đổi về chính trị, xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu,
Biểu 1: Giá trị tăng trưởng sản lượng ngành dệt may
(theo giá so sánh năm 1994)
* Nguồn: Niên giám thống kê 2006,
Biểu 2: Tỉ lệ tăng KNXK của ngành dệt may
(minh họa phụ lục 2)
xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sụt giảm nghiêm trọng (mức tăng trưởng năm 1991 là -44,5%- phụ lục 2). Tuy nhiên, ngành dệt may đã có những nỗ lực đáng kể, vượt qua giai đoạn khó khăn này, bước vào giai đoạn phát triển mới từ năm 1992, mở rộng thị trường và tăng kim ngạch xuất khẩu sang các nước trong khu vực và trên thế giới. Nếu như năm 1991- 1999 tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân toàn ngành đạt khoảng 10% năm, thì đến giai đoạn 2000- 2007 tốc độ tăng trưởng trung bình là 20,7% (xấp xỉ tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước là 21,2%) Tổng cục thống kê. Xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam 20 năm đổi mới. Nxb. Thống kê. Hà Nội 2006, trg. 16.
. Riêng năm 2006, tỉ lệ tăng kim ngạch xuất khẩu của ngành là 20,45%. Đặc biệt, năm 2007, ngành dệt may vươn lên dẫn đầu về trị giá kim ngạch xuất khẩu với 7,8 tỉ USD, tăng 33,4% so với năm 2006 (phụ lục 2). Đây là con số tăng trưởng khá ấn tượng của toàn ngành, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của cả nước và lần đầu tiên vượt kim ngạch xuất khẩu của dầu thô, đồng thời Việt Nam cũng lọt vào top 10 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới PV. “Việt Nam vào top 10 nước xuất khẩu dệt may”.
. Tuy nhiên, trong khi những năm gần đây giá trị kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của ngành luôn ở mức cao nhưng tốc độ tăng trưởng giá trị kim ngạch lại không ổn định, có những năm rất thấp, chỉ đạt 3,7% (biểu 2). Nguyên nhân của việc tăng giảm không ổn định này một phần là do những năm gần đây, ngành dệt may Việt Nam phải chịu sức ép cạnh tranh ngày càng lớn, trong khi năng lực cạnh tranh của ngành còn yếu (vấn đề này sẽ được phân tích kỹ hơn trong chương sau).
Có thể thấy, sau gần 20 năm thực hiện chiến lược chuyển hướng, ngành dệt may đã có những bước phát triển nhanh chóng cả về qui mô và tốc độ tăng trưởng, đặc biệt là tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. Điều này đã giúp cho ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp chủ lực trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta, đóng góp một phần rất lớn cho kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước. Tuy nhiên, mặc dù tăng trưởng nhanh nhưng có thể thấy, tốc độ tăng trưởng của ngành chưa thật ổn định (biểu 2), năng lực sản xuất của ngành, đặc biệt là ngành dệt còn khá khiêm tốn, chưa đáp ứng được nhu cầu nguyên liệu phục vụ xuất khẩu.
1.2 Cơ cấu thị trường xuất khẩu
Hiện nay, hàng dệt may VN đã có mặt ở nhiều thị trường trên thế giới, trong đó có ba thị trường lớn nhất là Mỹ, EU và Nhật Bản (biểu 3). Ngoài ra, sản phẩm dệt may của Việt Nam cũng được xuất khẩu sang một số thị trường khác như: Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Liên bang Nga…
Biểu 3 : Thị trường xuất khẩu chính của hàng dệt may VN
* Nguồn: Số liệu từ Vinatex,
1.2.1 Thị trường Mỹ
Mỹ là một thị trường đơn lẻ nhưng lại có nhu cầu rất lớn về hàng dệt may, khoảng 65 tỷ USD/năm Henrik Schaumburg- Muller. “Vietnamese Garment Enterprises After the Termination of the Multi- Fiber Agreement”. Copenhagen Business School. March, 2007.
. Đây được coi là thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn, nhiều tiềm năng của Việt Nam.
Biểu 4: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ (Triệu USD)
* Nguồn số liệu từ Tổng cục Hải quan,
Sau khi Việt Nam và Mỹ bình thường hoá quan hệ, Mỹ thông qua quyết định bỏ cấm vận đối với Việt Nam ngày 3/2/1994, hàng dệt may Việt Nam đã có cơ hội tiếp cận với thị trường Mỹ. Nhờ đó, ngay trong năm 1995(sau khi bỏ cấm vận), kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Mỹ đã đạt 16,78 triệu USD (trong khi năm 1994 chỉ đạt 2,66 triệu USD). Tuy nhiên, do chưa được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) và tối huệ quốc (MFN) nên hàng dệt may của Việt Nam phải chịu mức thuế suất khá cao, khiến cho kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ còn rất khiêm tốn (biểu 4).
Tuy nhiên, đến tháng 11/2001, Hiệp định thương mại Việt Mỹ (BTA) đã có hiệu lực sau khi chính thức được phê chuẩn, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang thị trường này. Theo đó, hàng dệt may Việt Nam được hưởng một biểu thuế thấp hơn nhiều so với trước kia (các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu như áo khoác, áo len mức thuế giảm trung bình đến 40%) Phi Ngọc. “BTA những cơ hội chưa tận dụng”. T/chí Nhà quản lý, số tháng 8/2007.
. Hiệp định thương mại Việt Mỹ đã làm kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ tăng vọt. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Mỹ đạt 951 triệu USD (tăng 21 lần so với năm 2001), và đạt giá trị ngày càng cao vào các năm sau đó (biểu 4).
Biểu 5: Tỷ lệ nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ năm 2005
* Nguồn: Số liệu từ Bộ thương mại Mỹ. Dẫn theo: Henrik Schaumburg- Muller. “Vietnamese Garment Enterprises After the Termination of the Multi- Fiber Agreement”. Copenhagen Business School. March, 2007.
Hiện nay, Mỹ vẫn đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất của dệt may Việt Nam, chiếm tỷ trọng khoảng 55% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành và có tốc độ tăng trưởng đều hàng năm. Việc Việt Nam gia nhập tổ chức WTO vào tháng 11/2006 càng làm mở rộng cơ hội xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này do không còn bị khống chế bởi số lượng hạn ngạch nhập khẩu. Tuy nhiên, thị trường Mỹ cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các doanh nghiệp Việt Nam do việc Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đặt ra yêu cầu giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam 6 tháng một lần ngay sau khi hạn ngạch được xoá bỏ. Đến tháng 11/2007, Mỹ vẫn quyết định duy trì “Cơ chế giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam” đến hết năm 2008. Việc giám sát này khiến các doanh nghiệp có thị phần tại Mỹ chịu nhiều thiệt hại, không chỉ số lượng đơn hàng bị giảm xuống mà uy tín của các doanh nghiệp này còn bị giảm sút trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, Việt Nam còn vấp phải sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt với các nước xuất khẩu dệt may khác, mà đứng đầu là Trung Quốc kể từ khi các nước này không còn bị áp dụng chế độ hạn ngạch khi xuất khẩu vào Mỹ sau khi Hiệp định ATC hết hiệu lực.
Tuy tại thị trường Mỹ, Việt Nam còn vấp phải nhiều khó khăn và đây cũng là thị trường tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhưng Mỹ cũng đồng thời là thị trường nhiều tiềm năng cho Việt Nam. Mặc dù Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam, nhưng đối với Mỹ, kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam lại không đáng kể so với nhu cầu tiêu thụ rất lớn từ thị trường này (biểu 5). Vì vậy, nếu Việt Nam nâng cao được năng lực cạnh tranh, khắc phục được những khó khăn trên thì đây sẽ là một thị trường hứa hẹn cho dệt may Việt Nam.
1.2.2 Thị trường EU
Liên minh châu Âu (EU), với 25 nước thành viên và số dân lên tới gần 500 triệu người, được đánh giá là một thị trường rộng lớn cho các nước xuất khẩu hàng dệt may. Hàng năm, nhu cầu nhập khẩu hàng may mặc của thị trường EU vào khoảng 87 tỷ USD và hàng dệt khoảng trên 53 tỷ USD Th.s Lê Thị Ngọc Lan. “Đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường EU thời hậu hạn ngạch”. T/chí Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương, số 14 (4/2006).
. Mặt khác, chính EU cũng là khối nước xuất khẩu hàng dệt may đứng thứ hai thế giới, sau Trung Quốc. Tuy nhiên, những năm gần đây, lượng buôn bán trong nội khối EU có xu hướng giảm sút, còn lượng hàng nhập khẩu từ các nước châu Á có xu hướng tăng do EU muốn tận dụng nguồn lao động rẻ, dồi dào từ châu Á nên tăng lượng hàng gia công từ các nước này. Vì vậy, EU được coi là thị trường đầy tiềm năng cho các nước xuất khẩu dệt may châu Á, trong đó có Việt Nam.
Trước những năm 1990, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU hầu như không đáng kể do hai bên chưa bình thường hoá được quan hệ. Tuy nhiên, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU đặc biệt phát triển mạnh sau khi Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa hai bên được ký kết ngày 15/12/1992 và được thực hiện từ năm 1993 với tốc độ tăng trưởng bình quân trên 23%/năm trong 5 năm 1993-1997. Sau đó, hai bên còn tiếp tục ký hiệp định cho giai đoạn 1998- 2000, cho phép nâng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may từ Việt Nam sang EU lên 40% so với giai đoạn 1993- 1997, với mức tăng trưởng từ 3- 6%/năm, và tiếp theo là hiệp định cho giai đoạn 2000-2002, trong đó cam kết mở rộng thị trường, EU đồng ý tăng thêm khoảng 30% hạn ngạch về dệt may cho Việt Nam Nguyễn Thị Hường. “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường EU’. T/chí Kinh tế và dự báo, số 2 (2002).
.
Kể từ khi ký kết các hiệp định thương mại, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU liên tục tăng. Đặc biệt là giai đoạn năm 1998- 2000 (biểu 6).
Từ ngày 1.1.2005, cùng lúc với việc Hiệp định hàng dệt may ATC hết hiệu lực, EU cũng xoá bỏ chế độ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam. Đây là một dấu mốc rất quan trọng, tạo cơ hội thuận lợi cho hàng dệt may Việt Nam xâm nhập vào thị trường này, cạnh tranh bình đẳng với các nước xuất khẩu khác đã là thành viên của WTO.
Hiện nay, EU là một trong những thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam (chiếm tỷ lệ 18%, đứng thứ hai, sau Mỹ). Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU luôn đạt mức cao với những con số khá ấn tượng (biểu 6).
Biểu 6: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU (Triệu USD)
* Nguồn số liệu từ Tổng cục Hải quan,
Tuy nhiên, từ năm 2000 trở lại đây, kim ngạch xuất khẩu dệt may vào EU thường không ổn định, lúc tăng lúc giảm và giá trị không cao (năm 2002 là 570 triệu USD, thấp hơn cả mức năm 1998 là 620 triệu USD). Lý giải cho hiện tượng này là do hàng dệt may của Việt Nam đang phải cạnh tranh hết sức khốc liệt với Trung Quốc- một nước có tiềm lực xuất khẩu rất lớn lại được hưởng thuế quan ưu đãi khi xuất khẩu sang thị trường EU do đã là thành viên của WTO. Trong khi đó, mặc dù được bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU cũng không tăng như dự đoán do Việt Nam vẫn bị áp thuế nhập khẩu lên tới 12% Th.s Lê Thị Ngọc Lan. “Đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường EU thời hậu hạn ngạch”. T/chí Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương, số 14 (4/2006).
. Dự báo trong năm 2008, khi EU dỡ bỏ hạn ngạch dệt may cho Trung Quốc, thị phần của Việt Nam tại EU sẽ bị ảnh hưởng rất đáng kể. Bên cạnh đó, hiện nay, trước sự gia tăng ồ ạt của hàng dệt may từ các nước châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, EU đang có xu hướng tăng cường các hàng rào phù hợp với các luật lệ của WTO để bảo vệ cho ngành công nghiệp dệt may nội địa của mình. Điều này cũng là một trở ngại cho việc xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này.
Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chủ yếu tập trung vào các mặt hàng truyền thống, dễ làm như áo jacket, áo sơ mi, quần âu,… Trong đó, mặt hàng áo Jacket luôn chiếm vị trí chủ yếu trong cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may sang EU (chiếm hơn 50%) Dương Đình Giám. “Thử tìm hiểu khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp Dệt- May Việt Nam”. T/chí Công nghiệp Việt Nam, số tháng 4/2001.
. Trong khi đó, các mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật cao như áo sơ mi cao cấp, complet… thì hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam không có khả năng đáp ứng được. Chính vì vậy, mặc dù trước đây, số lượng hạn ngạch bị hạn chế, nhưng vẫn còn nhiều hạn ngạch bị bỏ trống do không có doanh nghiệp tham gia.
Hai hình thức xuất khẩu chính của Việt Nam sang thị trường EU là: xuất khẩu trực tiếp theo giá FOB, chỉ mới chiếm 30%; gia công xuất khẩu, chiếm tới 70% An Nhi. “Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU: Tiềm năng lớn-thách thức nhiều”. T/chí Kinh tế và dự báo, số 9 (2007).
. Trong hình thức gia công, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu qua các nước trung gian như Hàn Quốc, Đài Loan- với vị trí là nhà đặt hàng, còn các nhà nhập khẩu EU đóng vai trò là chủ hàng nước ngoài và là nguồn cung ứng chính về nguyên phụ liệu.
Đối với thị trường EU, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng nếu các doanh nghiệp tiếp tục khai thác tốt thì vẫn còn cơ hội vì nhu cầu hàng dệt may của thị trường này rất lớn và đa dạng.
1.2.3 Thị trường Nhật Bản
Cho đến trước thời điểm Hiệp định ATC chấm dứt hiệu lực, Nhật Bản vẫn là thị trường xuất khẩu phi hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam.
Từ năm 1994, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào Nhật Bản tăng rất nhanh. Đặc biệt, với sự có mặt của tổ chức JETRO- Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật ở Việt Nam, sản phẩm dệt may của Việt Nam đã được tạo điều kiện hết sức thuận lợi để thâm nhập thị trường khó tính này. Từ năm 1994, JETRO đã cử nhiều chuyên gia sang giúp các công ty may Việt Nam phát triển các mặt hàng mà thị trường Nhật có nhu cầu, hướng dẫn thiết kế sản phẩm phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Nhật và tuân thủ đúng theo tiêu chuẩn chất lượng JIS (Japanese Industrial Standard). Tổ chức JETRO ra đời một mặt nhằm phát triển nền thương mại điều hoà, cân đối giữa Nhật và các nước bạn hàng, nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện cho Việt Nam tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này.
Từ năm 1995, xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang thị trường Nhật đã có những tín hiệu tích cực. Năm 1995, lần đầu tiên Việt Nam lọt vào danh sách 10 nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất vào Nhật Bản. Đặc biệt, năm 1997 Việt Nam vươn lên vị trí thứ 7 trong số các nước xuất khẩu quần áo lớn nhất vào thị trường Nhật Bản với thị phần hàng dệt thoi là 3,6% và hàng dệt kim là 2,3% Nhóm tác giả thuộc Viện nghiên cứu thương mại. Thị trường dệt may thế giới và khả năng xuất khẩu của Việt Nam. Bộ Thương mại, 1999.
.
Biểu 7: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của VN
sang Nhật Bản (Triệu USD)
* Nguồn số liệu từ Tổng cục Hải quan,
Từ sau năm 1997, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật giảm đáng kể. Tuy nhiên, đến năm 1999, với việc Việt Nam và Nhật Bản chính thức giành cho nhau quy chế tối hụê quốc về thuế (26/5/1999), xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật đã có dấu hiệu phục hồi (biểu 7). Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật là 620 triệu USD, tăng cao hơn so với thời điểm đỉnh cao là năm 1997. Tuy nhiên, giai đoạn 2001-2003, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam có dấu hiệu giảm sút và chững lại do vấp phải sự cạnh tranh gay gắt từ nhiều nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan… Sự cạnh tranh gay gắt này không chỉ làm giảm thị phần của Việt Nam mà còn gây ra tình trạng giảm giá liên tục trên thị trường Nhật Bản (từ năm 1998, giá hàng dệt may trên thị trường Nhật giảm bình quân 12%/năm) Nhóm tác giả thuộc Viện nghiên cứu thương mại. Thị trường dệt may thế giới và khả năng xuất khẩu của Việt Nam. Bộ Thương mại, 1999.
. Điều này đã làm giảm đáng kể kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường này.
Tuy nhiên, từ năm 2004 trở lại đây, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật lại có dấu hiệu tăng nhanh (biểu 7), cho thấy chỗ đứng của hàng dệt may Việt Nam tại thị trường này vẫn khá vững chắc. Hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản không chỉ tăng nhanh về kim ngạch mà còn đa dạng về chủng loại và tăng mạnh về khối lượng. Các mặt hàng như áo khoác gió nam, quần áo cho người lái xe tải, áo sơ mi, quần âu… là những mặt hàng chủ yếu của Việt Nam xuất sang thị trường Nhật. Hiện nay, Nhật Bản là thị trường lớn thứ 3 nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam, chiếm tỷ trọng khoảng 10% (biểu 3). Việt Nam hiện đang là quốc gia xuất khẩu dệt may vào Nhật Bản lớn nhất khối ASEAN, chiếm 34% Mai Phan. “Đối phó với thách thức của hàng dệt may 2008”. T/chí Thương mại, số 9 (2008).
.
Tuy hàng dệt may Việt Nam đang chiếm được cảm tình tại thị trường Nhật Bản nhưng hiện Việt Nam còn gặp không ít khó khăn ở thị trường này. Từ khi hiệp định ATC hết hiệu lực, Việt Nam phải cạnh tranh ngày càng gay gắt với những nước có tiềm lực xuất khẩu rất lớn như Trung Quốc, Ấn Độ. Ngoài ra, Nhật Bản đã đạt được tiêu chí xuất xứ với mặt hàng dệt may trong các thỏa thuận về đối tác chiến lược (EPA) với 6 nước trong khu vực Đông Nam Á gồm Singapore, Indonesia, Malaysia, Philippines, Brunei và Thái Lan theo đó các nước này sẽ được hưởng thuế suất 0% khi xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản, trong khi hàng dệt may của Việt Nam vẫn chịu mức thuế khoảng 10% do hiện nay gần 80% nguồn nguyên phụ liệu sản xuất của ng ành dệt may được nhập khẩu từ nhiều nước khác nhau, bao gồm cả những nước ngoài khu vực ASEAN và Nhật Bản Vân Anh. “Mục tiêu 9,5 tỷ USD và những khó khăn của ngành dệt may”. T/chí Ngoại thương, số 2 và 3 (1/2008).
.
Mặc dù tỉ trọng hàng dệt may Việt Nam trên thị trường Nhật Bản còn khá khiêm tốn nếu so sánh với Trung Quốc (hàng dệt may Việt Nam tại thị trường Nhật Bản hiện chiếm khoảng 4% trong khi hàng Trung Quốc chiếm tới 80%) nhưng các doanh nghiệp Việt Nam đã xây dựng được niềm tin với khách hàng Nhật Nguyễn Hoàng Khung. “Xuất khẩu dệt may: một năm vượt khó vươn lên”. T/chí Thương mại, số 1+ 2, 2008
. Trong số các thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn của Việt Nam như Mỹ, Nhật Bản, EU thì Nhật Bản cũng là thị trường mà hàng Việt Nam có sức cạnh tranh khá nhất, thể hiện qua việc giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này liên tục tăng nhanh trong thời gian vừa qua. Vì vậy, trong tương lai, Việt Nam cần phải chú ý tiếp tục nâng cao khả năng xuất khẩu, khai thác tối đa thị trường còn chứa đựng nhiều tiềm năng này.
1.2.4 Các thị trường khác
Ngoài ba thị trường chính nói trên, Việt Nam còn xuất khẩu sang các thị trường khác như Liên bang Nga, Hàn Quốc, Đài Loan, các nước Trung Đông, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ…
Trong số các thị trường trên, thị trường châu Á cũng là một trong những nơi Việt Nam xuất khẩu sang với khối lượng lớn. Hàng năm, Việt Nam xuất khẩu một sản phẩm khá lớn sang các nước như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore… Năm 2007, Đài Loan nhập khẩu từ Việt Nam 160,8 triệu USD, Hàn Quốc 84,8 triệu USD (phụ lục 3). Tuy nhiên, các nước này không phải là thị trường tiêu thụ, mà là đóng vai trò nước trung gian, thuê Việt Nam gia công rồi sau đó xuất khẩu tiếp sang nước thứ ba.
Ngoài ra, bên cạnh việc khôi phục lại xuất khẩu sang thị trường truyền thống là Nga và các nước Đông Âu, hiện nay Việt Nam cũng đang tìm hướng phát triển sang các thị trường mới. Thị trường Trung Đông là một hướng đi mới cho xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Xuất khẩu sang thị trường này có nhiều thuận lợi như nhu cầu nhập khẩu cao do công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong nước chưa phát triển, vận tải đường biển tuy xa nhưng tuyến đường khá thuận lợi. Mặc dù kim ngạch còn thấp nhưng trong tương lai, thị trường này còn hứa hẹn nhiều tiềm năng cho hàng dệt may Việt Nam.
Năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam
Năng lực cạnh tranh là một khái niệm rộng, thể hiện ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Nhưng tựu trung lại, năng lực cạnh tranh của một ngành chính là “năng lực duy trì lợi nhuận và thị phần trên thị trường trong và ngoài nước” TS. Nguyễn Thị Thanh Hà. “Khả năng cạnh tranh của ngành dệt trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế Việt Nam với khu vực và thế giới”. Dẫn theo: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và doanh nghiệp Việt Nam. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội 2001, trg 203-207.
. Những yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của ngành gồm có: yếu tố sản xuất (vốn, nguồn lao động, nguyên phụ liệu, máy móc thiết bị), marketing, cơ chế hoạt động của ngành, các chính sách của chính phủ…
Nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam, có thể đưa ra một số nhận định dưới đây.
Lợi thế của ngành dệt may Việt Nam
Lợi thế lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam chính là nguồn lao động. Công nghiệp dệt may vốn là ngành cần nhiều sức lao động. Các sản phẩm dệt may thường có tỷ trọng giá trị lao động sống cao. Ngành dệt may Việt Nam hiện nay thu hút hơn 2 triệu lao động, trong đó phần lớn là lao động nữ. Trong khi đó, dân số hiện nay của Việt Nam vào khoảng 84 triệu người, trong đó, số ngừơi ở độ tuổi lao động (từ 15-59 tuổi) chiếm hơn 60% Nguồn số liệu từ Tổng cục thống kê,
. Có thể thấy, tiềm năng về nguồn nhân lực của Việt Nam còn chưa được khai thác hết. Con số 2 triệu nhân công của ngành dệt may còn quá nhỏ so với số lượng lao động trong độ tuổi lao động đang tìm kiếm cơ hội việc làm. Như vậy, lợi thế về nguồn nhân lực của ngành dệt may còn rất lớn, có thể khai thác tiếp trong tương lai.
Bên cạnh đó, giá nhân công rẻ cũng là một thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam. Giá lương công nhân ngành dệt may ở Việt Nam vào loại thấp nhất trong số các nước xuất khẩu hàng dệt may. Ngay cả Trung Quốc vốn được đánh giá là có lợi thế về giá nhân công rẻ cũng ở mức 0,34 USD/giờ, trong khi ở Việt Nam giá nhân công ngành dệt may là 0,18 USD/giờ Nguyễn Thị Thu Hương. “Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc cho ngành dệt may Việt Nam khi gia nhập WTO”. T/chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 1(71), 2007
. Điều này giúp các doanh nghiệp Việt Nam giảm bớt được chi phí đầu vào, có được mức giá bán cạnh tranh so với các nước khác. Lợi thế về giá nhân công cũng là một yếu tố thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài khi cân nhắc các quyết định đầu tư vào các dự án của ngành dệt may Việt Nam.
Ngoài ra, ngành dệt may Việt Nam còn một số lợi thế khác như: lợi thế của một ngành công nghiệp chủ lực. Việt Nam đang trong giai đoạn tích luỹ để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, do vậy ngành dệt may xuất khẩu được coi là một trọng điểm đầu tư trong chính sách kinh tế xã hội của Việt Nam. Nhờ điều này, ngành dệt may được sự quan tâm, chăm chút, tạo điều kiện hết sức thuận lợi từ phía Nhà nước để phát triển. Bên cạnh đó, lợi thế về môi trường chính trị xã hội ổn định cũng là điều kiện tốt để ngành dệt may Việt Nam phát triển thuận lợi.
Hạn chế của ngành dệt may Việt Nam
Yếu tố sản xuất
Vốn thiếu, hiệu quả sử dụng thấp
Như đã đề cập ở trên, ngành dệt may là một trong những ngành công nghiệp trọng điểm trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nên rất được chú trọng đầu tư. Mặc dù là ngành sử dụng nhiều lao động, song ngành dệt may cũng cần không ít vốn để đầu tư sản xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động. Tuy nhiên, vấn đề vốn lại là một hạn chế đối với ngành dệt may Việt Nam.
Vốn đầu tư cho ngành dệt may được huy động nhiều nguồn như: vốn ngân sách Nhà nước, vốn tự có của doanh nghiệp, vốn vay Ngân hàng... Những năm gần đây, tỷ lệ tăng trưởng vốn đầu tư cho ngành dệt may khá cao, đặc biệt là từ năm 2001, năm đầu tiên thực hiện chương trình đầu tư tăng tốc 10 năm theo Quyết định 55/CP của Chính phủ, vốn đầu tư cho ngành dệt may, đặc biệt là ngành dệt tăng rất nhanh. Năm 2005, vốn sản xuất của các doanh nghiệp dệt đã tăng 262%, vốn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp may cũng tăng 262% so với năm 2000 (biểu 8).
Biểu 8: Vốn SXKD của doanh nghiệp dệt, may (Tỷ đồng)
* Nguồn số liệu từ Niên giám thống kê 2006,
Tuy có những tăng trưởng nhưng nhiều năm qua vốn vẫn là một vấn đề nan giải, đặc biệt là đối với ngành dệt. Mặc dù Nhà nước đã có chính sách ưu tiên hỗ trợ về vốn đầu tư cho các doanh nghiệp dệt (chủ yếu là doanh nghiệp quốc doanh) để đổi mới trang thiết bị. Nhưng hiện nay, hơn 70% tổng vốn đầu tư cho phát triển ngành dệt vẫn phải nhờ vào tài trợ từ các ngân hàng, các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước và đầu tư nước ngoài. Còn đối với toàn ngành dệt may, vốn tự có của các doanh nghiệp cũng chỉ chiếm khoảng hơn 10% tổng vốn hoạt động của toàn ngành Nguyễn Thị Thu Hương. “Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc cho ngành dệt may Việt Nam khi gia nhập WTO”. T/chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 1 (1/2007).
. Phần lớn vốn đầu tư các doanh nghiệp có được là vay từ ngân hàng với chi phí thực tế vay vốn cao. Hơn nữa, các khoản vay này thường là ngắn hạn, còn tỉ lệ vốn trung và dài hạn là rất nhỏ. Đã có nhiều doanh nghiệp do thiếu các nguồn vốn trung và dài hạn đã phải dùng các nguồn vay ngắn hạn để đầu tư. Cơ cấu vốn mạo hiểm, lãi suất cao, thời gian vay ngắn đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sản xuất.
Bên cạnh việc thiếu vốn, hiệu suất sử dụng vốn kém hiệu quả cũng là một nguyên làm giảm năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh. Trong khi Trung Quốc và Hồng Kông có tỉ lệ giá trị gia tăng từ vốn khá cao (12,2% và 12,9%) thì giá trị gia tăng từ vốn của Việt Nam lại vào hàng thấp nhất (chỉ đạt 3,8%) (biểu 9). Điều này cho thấy hiệu quả sử dụng vốn của ngành dệt may không tốt, giá trị gia tăng thấp, khiến lợi nhuận thu về không cao.
Biểu 9: Giá trị gia tăng từ vốn của ngành dệt may các nước (%)
* Nguồn nghiên cứu của WTO,
Nhìn chung, việc thiếu vốn thường làm cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc lập kế hoạch sản xuất, nâng cấp máy móc, thiết bị. Đồng thời, việc sử dụng vốn thiếu hiệu quả cũng làm giá trị gia tăng nhận được từ vốn của Việt Nam kém xa các đối thủ cạnh tranh. Vì vậy, có thể nói vốn là một trong những nguyên nhân cơ bản làm giảm năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam.
Nguồn nguyên phụ liệu phụ thuộc thị trường bên ngoài
Nguyên phụ liệu cho ngành dệt may là nguyên nhân chính làm giảm khả năng cạnh t._., phát huy năng lực của cán bộ, công nhân viên, mạnh dạn trả lương cao để thu hút những người có năng lực, chuyên môn, trong đó bao gồm cả những nhà quản lý, chuyên gia nước ngoài, tránh tình trạng chảy máu chất xám và tình trạng công nhân bỏ việc, bãi công.
Về nguồn nguyên phụ liệu, đây được coi là vấn đề quyết định khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam. Nếu không giải quyết được vấn đề nguồn nguyên liệu thượng nguồn cho sản xuất hàng dệt may xuất khẩu thì ngành dệt may Việt Nam sẽ không thể cạnh tranh được với các đối thủ lớn, có khả năng tự cung cấp nguyên phụ liệu đầu vào như Trung Quốc, Ấn Độ, và như vậy, ngành dệt may Việt Nam sẽ mãi chỉ là công xưởng gia công cho ngành công nghiệp dệt may thế giới. Vì vậy, nhiệm vụ cơ bản và lâu dài hiện nay là phải đảm bảo được nguồn cung cấp nguyên liệu cho ngành dệt và ngành may. Đề làm được điều này, ngành dệt may cần tiếp tục triển khai chiến lược phát triển ngành đến năm 2010 và 2015, trong đó tập trung vào chương trình đầu tư sản xuất nguyên liệu sản xuất xơ sợi tổng hợp cho nhu cầu dệt và sản xuất bông xơ nội địa (mục tiêu đặt ra là đáp ứng 15% nhu cầu kéo sợi đến 2010); đầu tư phát triển 1 tỷ mét vải thoi phục vụ xuất khẩu vào 2015 Số liệu từ Vinatex,
.Bên cạnh đó, ngành dệt may cần khẩn trương đầu tư hạ tầng, xây dựng trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu dệt may tại ba trung tâm lớn là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng kết hợp với việc di dời sản xuất về các vùng phụ cận của ba trung tâm trên, tạo thành các cụm công nghiệp dệt may. Biện pháp này sẽ giúp giải bài toán hóc búa về đầu ra cho ngành dệt cũng như nguồn nguyên phụ liệu cho ngành may, tiến tới tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm may mặc xuất khẩu, tạo thành một chu trình sản xuất khép kín, đồng thời tạo được sự phối hợp, liên kết giữa các doanh nghiệp để cùng thực hiện được những đơn hàng lớn. Tuy nhiên, để xây dựng được những cụm công nghiệp dệt may qui mô như vậy, một mình ngành dệt may không thể thực hiện được mà cần có những hỗ trợ từ phía nhà nước. Vì vậy, nhà nước nên đưa ra một số biên pháp hỗ trợ như: việc khuyến khích, tạo điều kiện cho đầu tư FDI vào các lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn như xơ sợi, dệt nhuộm, hoàn tất và sản xuất phụ liệu nhằm cung cấp kịp thời nguyên liệu cho may xuất khẩu. Nhà nước cũng nên có những chính sách hỗ trợ di dời các xí nghiệp của ngành ra khỏi trung tâm thành phố về nông thôn để cân đối nhân lực vùng này với các khu công nghiệp.
Về trang thiết bị và công nghệ, các doanh nghiệp dệt may, đặc biệt là các doanh nghiệp dệt cần tập trung vốn để đổi mới máy móc, công nghệ, giảm bớt tình trạng tiêu hao năng lượng, sản phẩm chất lượng kém do máy móc, thiết bị lạc hậu, cũ kỹ. Biện pháp trước mắt là ngành dệt may phải làm tốt công tác nhập khẩu máy móc, thiết bị phụ tùng sản xuất, đặc biệt chú trọng đến khâu thẩm định chất lượng công nghệ để nhập các thiết bị phù hợp, tránh tình trạng trở thành bãi rác công nghệ do nhập phải những máy móc, thiết bị lạc hậu, kém chất lượng từ các nước khác. Tuy nhiên, về lâu dài, ngành công nghiệp cơ khí phục vụ ngành dệt may cũng cần được chú trọng đầu tư phát triển, vì đây cũng được coi là một trong những ngành công nghiệp phụ trợ, cung cấp yếu tố đầu vào quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của ngành dệt may.
2.2.2 Nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm
Yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của hàng hoá chính là chất lượng sản phẩm và giá thành. Hiện nay, cả hai yếu tố này ngành dệt may Việt Nam đều còn thiếu và yếu. Để giải quyết tình trạng này ngành dệt may cần phải đạt được các mục tiêu sau: duy trì và nâng cao chất lượng sản phẩm ở mức cao và ổn định; nghiên cứu phát triển sản phẩm mới có chất liệu độc đáo, khác biệt; thiết kế và phát triển mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm mới; giảm giá thành, đưa ra được mức giá cạnh tranh. Để thực hiện các mục tiêu trên, cần phải có các giải pháp hoàn chỉnh, được thực hiện một cách đồng bộ.
Thứ nhất, giải pháp nhằm nấng cao chất lượng sản phẩm. Như trên đã trình bày, nguyên nhân gây ra tình trạng chất lượng sản phẩm thấp (đặc biệt là sản phẩm dệt) là do máy móc thiết bị của ngành cũ kỹ, lạc hậu, không thể sản xuất được các loại vải đòi hỏi kỹ thuật cao, chất lượng ổn định. Vì vậy, trước tiên, ngành dệt may cần ưu tiên tập trung vốn để đầu tư thay mới máy móc, thiết bị để đảm bảo chất lượng sản phẩm đồng đều, đặc biệt là các máy móc thiết bị phục vụ ngành dệt như máy dệt khổ rộng, thiết bị kéo sợi với cọc sợi chải kỹ, chỉ số cao dùng cho dệt kim và vải cao cấp, thay mới dây chuyền nhuộm hoàn tất. Các doanh nghiệp cần thực hiện chuyên môn hoá sản phẩm để tăng năng suất và duy trì sự ổn định về chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, cần tiếp tục duy trì mở rộng và thường xuyên cải tiến hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn tiên tiến như ISO 9001:2000, ISO 14000, SA 8000… Bởi vì trong giai đoạn hội nhập, tham gia vào WTO, việc duy trì áp dụng các tiêu chuẩn này không những giúp doanh nghiệp dệt may vượt qua những rào cản kỹ thuật về thương mại (TBT) mà còn giúp doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh hiệu quả, giảm thiểu sản phẩm hỏng, duy trì được chất lượng và tính ổn định của sản phẩm.
Thứ hai, giải pháp nhằm nghiên cứu, phát triển các sản phẩm mới, độc đáo và khác biệt. Tham gia vào WTO, đối mặt với cuộc cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, cộng thêm với việc vòng đời các sản phẩm ngày càng ngắn lại, cạnh tranh về chất lượng và giá cả đạt tới mức cân bằng thì sự khác biệt của sản phẩm sẽ là yếu tố thu hút sự quan tâm của người tiêu dùng. Vì vậy, các doanh nghiệp cần chú trọng vào việc thành lập các trung tâm nghiên cứu, thiết kế, tạo ra những sản phẩm mới, có chất liệu độc đáo, khác biệt, gắn với những tính năng mới nhằm vừa kích cầu, vừa tránh bớt được áp lực cạnh tranh. Bên cạnh việc duy trì, củng cố các tính năng cơ bản của sản phẩm như: độ bền, độ hút ẩm, độ hấp thụ nhuộm,… các sản phẩm mới cần được tăng cường thêm các tính năng khác như sự thoải mái (trọng lượng nhẹ, chống nhàu, chống xước…), tính năng vệ sinh (chống khuẩn, chống mùi hôi, chống dị ứng…), tính năng an toàn (chống mưa, chịu nhiệt, chống sóng điện tử…) .
Thứ ba, giải pháp nhằm phát triển mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm. Như đã đề cập ở trên, một trong những điểm yếu của hàng dệt may Việt Nam là kiểu dáng, mẫu mã nghèo nàn, trong khi đặc điểm của mặt hàng này lại mang tính thời trang cao, đòi hỏi mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng thường xuyên thay đổi. Muốn giải quyết tình trạng này, các doanh nghiệp cần phải tạo dựng và phát triển đội ngũ các nhà thiết kế thời trang thông qua việc thành lập các trung tâm đào tạo dưới hình thức liên kết đào tạo trong và ngoài nước, thông qua tuyển chọn từ các cuộc thi VN Collection. Việc đầu tư đào tạo chuyên sâu các nhà tạo mẫu, thiết kế thời trang là việc làm cần thiết, nhằm sáng tạo ra những sản phẩm riêng biệt đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng khó tính cũng như để định vị trên thị trường thế giới và làm tăng gía trị gia tăng của sản phẩm. Trong thời gian đầu, nếu chưa thể thành lập các trung tâm đào tạo quy mô, chất lượng, chúng ta nên kết hợp việc cử người đi đào tạo ở những nước có công nghiệp thời trang phát triển (như Italia, Pháp,…) và mời các chuyên gia nước ngoài sang làm việc, giảng dạy tại Việt Nam.
Thứ tư, giải pháp nhằm hạ giá thành sản phẩm. Để góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp cần cố gắng giảm giá thành sản phẩm thông qua các biện pháp như tăng năng suất lao động, giảm chi phí cố định trong quản lý, tiết giảm tiêu hao năng lượng điện trong sản xuất. Đối với ngành dệt, cần thay cải tiến, thay mới các máy móc cũ tiêu hao nhiều hoá chất, thuốc nhuộm, dẫn đến chi phí cao. Các doanh nghiệp dệt may cũng cần xây dựng kê hoạch cắt giảm 15-20% tiêu hao năng lượng và giảm chi phí nguyên vật liệu trên một đơn vị sản phẩm. Một biện pháp hữu hiệu khác là thực hiện vịêc chia sẻ giữa các doanh nghiệp về chi phí tiếp thị, chi phí thông tin thị trường, nhằm hạ giá thành sản phẩm đến mức tối đa. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý và điều hành sản xuất vì nếu khâu điều hành, quản lý yếu kém sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất và chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Một điểm lưu ý nữa là, các doanh nghiệp, trong khi cố gắng giảm giá thành sản phẩm bằng cách cắt giảm chi phí sản xuất, cần phải đảm bảo chất lượng sản phẩm tốt. Các doanh nghiệp không nên vì muốn hạ giá thành mà làm giảm sút chất lượng sản phẩm, làm mất uy tín với khách hàng. Mặc dù giá cả là một yếu tố quan trọng trong cạnh tranh, nhưng đôi khi, sản phẩm có chất lượng cao cấp, kiểu dáng, mẫu mã sang trọng thì dù giá cao sẽ vẫn được khách hàng ưa chuộng hơn là sản phẩm giá rẻ nhưng chất lượng kém, mẫu mã không đẹp.
Nâng cao hiệu quả hoạt động marketing, phát triển thị trường
Mục tiêu lâu dài các doanh nghiệp may Việt Nam cần phấn đấu là có thể kinh doanh trực tiếp thay cho hoạt động gia công. Để thực hiện mục tiêu này, bên cạnh việc phải có sự đầu tư mạnh mẽ về tài chính để xây dựng những dây chuyền sản xuất lớn và chuyên nghiệp thì một yêu cầu hết sức quan trọng nữa là phải tiếp cận được với khách hàng, tạo dựng được thương hiệu riêng và duy trì, phát triển được thị trường. Muốn đạt được mục tiêu này, các doanh nghiệp cần phải thực hiện các giải pháp cho vấn đề marketing, phát triển thị trường và tạo dựng thương hiệu một cách đồng bộ.
Kỹ năng và kinh nghiệm Marketing của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói chung còn thấp. Mặc dù các doanh nghiệp đã nhận may gia công sản phẩm từ rất nhiều năm nay nhưng vẫn không thể tiếp cận được với khách hàng tiêu dùng những sản phẩm của mình, sản phẩm tuy sản xuất tại Việt Nam nhưng khi đến tay khách hàng lại dưới tên gọi, nhãn hiệu của các hang thuê chúng ta gia công. Nguyên nhân của tình trạng này là do đội ngũ làm công tác marketing của các doanh nghiệp còn rất yếu và thiếu, kinh nghiệm, kỹ năng làm việc hầu như không có, thêm vào đó là tình trạng thiếu thông tin về khách hàng, thị trường. Để giải quyết vấn đề này, các doanh nghiệp cần quan tâm nhiều hơn đến việc bồi dưỡng kỹ năng, nâng cao trình độ cho đội ngũ marketing. Về lâu dài, ngành dệt may cần có trung tâm đào tạo chuyên ngành dệt may nhằm đào tạo các chuyên viên cao cấp về: cán bộ mặt hàng (merchandiser), tiếp thị hàng hoá (markerter)… Bên cạnh đó, các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần hợp tác, chia sẻ với nhau trong các hoạt động thu thập thông tin, nghiên cứ thị trường, chi phí tiếp thị…
Về vấn đề thị trường, trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO, chế độ hạn ngạch đã được dỡ bỏ, Việt Nam có cơ hội lớn để mở rộng thị trường. Tuy nhiên, sản phẩm dệt may Việt Nam lại đang vấp phải sự cạnh tranh gay gắt từ những đối thủ lớn cũng là thành viên WTO mà điển hình là Trung Quốc, đồng thời vấp phải khó khăn ở nhiều thị trường trọng điểm như việc Mỹ áp dụng cơ chế giám sát đối với hàng dệt may Việt Nam, Nhật Bản đạt được thoả thuận với sáu nước ASEAN về xoá bỏ thuế quan đối với hàng dệt may (đã đề cập ở chương II). Để tháo gỡ những khó khăn trên, ngành dệt may cần xây dựng chiến lược tập trung vào ba mục tiêu chính: duy trì thị phần trên các thị trường truyền thống, tìm kiếm thị trường mới và không để mất thị trường nội địa.
Đối với mục tiêu thứ nhất, các doanh nghiệp cần có biện pháp riêng để tháo gỡ khó khăn ở từng thị trường. Ví dụ ở thị trường Mỹ, điều quan trọng là các doanh nghiệp cần thực hiện nghiêm túc cơ chế tự giám sát, hợp tác chặt chẽ với các nhà sản xuất Hoa kỳ để thực hiện các đơn hàng lớn, có giá trị và chất lượng cao, nhưng không được vượt quá khả năng sản xuất của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần tuyệt đối tránh nhận những đơn hàng đơn giản, giá trị thấp làm ảnh hưởng đến mức giá bình quân của cả nước, là cơ sở để phía Mỹ khởi kiện chống bán phá giá. Hiện nay, Bộ Công thương cũng đã thành lập tổ kiểm tra cơ động hàng dệt may xuất khẩu để kiểm tra đột xuất và có biện pháp xử lý mạnh đối với các doanh nghiệp có dấu hiệu nhận đơn hàng giá quá thấp, hoặc những đơn hàng vượt quá khả năng sản xuất của doanh nghiệp nhằm tránh hành vi gian lận thương mại và cạnh tranh không công bằng Vân Anh. “Mục tiêu 9,5 tỷ USD và những khó khăn của ngành dệt may”. T/chí Ngoại thương, số 2 và 3 (1/2008)
. Nếu các biện pháp trên được thực hiện tốt sẽ phần nào giúp cho các doanh nghiệp dệt may vô hiệu hoá được cơ chế giám sát của Mỹ. Đối với thị trường Nhật Bản, một mặt, chính phủ Việt Nam cần tích cực đàm phán để ký kết Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam- Nhật Bản (VJEPA) trong năm 2008 theo đó hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản không chịu thuế suất. Tuy nhiên, do phía Nhật còn đang yêu cầu Việt Nam phải đảm bảo về xuất xứ “hai công đoạn” là sản phẩm phải được sản xuất từ nguồn nguyên liệu của Việt Nam, Nhật Bản hoặc các nước ASEAN- đây là yêu cầu khó vì khoảng 70% nguyên liệu của Việt Nam là nhập khẩu từ ngoài các thị trường trên. Để đối phó với vấn đề này, các doanh nghiệp nên thực hiện theo đề xuất sử dụng quy tắc xuất xứ cộng gộp ASEAN- Nhật Bản, bằng cách nhập nguyên phụ liệu từ hai thị trường này. Nếu thực hiện được đề xuất này, hàng dệt may của Việt Nam sẽ đáp ứng được tiêu chí giá Nhật Bản đưa ra và được hưởng thuế suất 0%. Đây là cơ sở để hàng dệt may Việt Nam cạnh tranh tốt hơn với các nước ASEAN và Trung Quốc, tăng thị phần trên thị trường Nhật Bản. Đối với thị trường EU, việc EU dỡ bỏ hạn ngạch cho Trung Quốc sẽ khiến thị phần của Việt Nam bị ảnh hưởng đáng kể. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều sản phẩm dệt- may của Trung Quốc bị từ chối hoặc đòi bồi thường vì không đảm bảo các tiêu chí về an toàn sức khỏe và môi trường Nguyễn Hoàng Khung. “Xuất khẩu dệt- may: Một năm vượt khó vươn lên”. T/chí Thương mại, số 1+ 2 (2008).
. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần xác định, với thị trường EU, hàng dệt may Việt Nam cạnh tranh với Trung Quốc về giá cả là rất khó bởi Việt Nam chưa có nguồn cung ứng nguyên liệu tại chỗ như Trung Quốc. Do đó, để cạnh tranh với hàng Trung Quốc, các doanh nghiệp Việt Nam cần đặt chất lượng và sự sáng tạo trên mỗi sản phẩm lên hàng đầu đối với sản phẩm xuất khẩu sang các nước EU. Các doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng sản phẩm, một mặt nhằm tranh thủ tạo dựng uy tín, lấy lại thị phần, đồng thời tránh nguy cơ hàng dệt- may của Việt Nam cũng nằm trong diện bị điều tra của EU và bị áp các biện pháp tự vệ hạn chế nhập khẩu. Ngoài ra, đối với thị trường EU, các doanh nghiệp cần chú trọng việc phân đoạn thị trường, tập trung vào các thị trường ngách với nhiều đối tượng khách hàng khác nhau nhằm tăng thêm thị phần. Doanh nghiệp cần đa dạng hoá cơ cấu sản phẩm để phục vụ nhiều đối tượng khách hàng như: dòng sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã sang trọng phục vụ khách hàng có thu nhập cao và dòng sản phẩm phục vụ khách hàng có thu nhập thấp, yêu cầu về chất lượng và mẫu mã cũng vừa phải. Trong đó, doanh nghiệp cần xác định mục tiêu lâu dài là tập trung vào sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã đa dạng, giá trị gia tăng lớn thay vì chỉ tập trung vào sản xuất, xuất khẩu các mặt hàng tầm trung như hiện nay nhằm gia tăng lợi nhuận và tránh cạnh tranh trực diện với Trung Quốc và các nước vốn cũng đang có ưu thế về xuất khẩu các mặt hàng bình dân.
Bên cạnh việc duy trì các thị trường truyền thống, các doanh nghiệp cũng cần mở rộng xuất khẩu sang các thị trường mới như Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ… Trong bối cảnh gia nhập WTO, cơ hội về thị trường cho dệt may Việt Nam là rất lớn, vì vậy, các doanh nghiệp không nên quá chú trọng vào các thị trường truyền thống mà bỏ lỡ cơ hội ở nhiều thị trường mới, nhiều tiềm năng. Các doanh nghiệp nên đầu tư thoả đáng vào việc nghiên cứu, tìm hiểu thông tin nhằm tiếp cận nhiều thị trường mới. Giải pháp này vừa giúp Việt Nam gia tăng kim ngạch xuất khẩu, giảm bớt áp lực cạnh tranh trên các thị trường truyền thống, đồng thời giảm bớt rủi ro do các thị trường như Mỹ, EU áp dụng các biện pháp tự vệ hạn chế nhập khẩu, hoặc khởi kiện chống bán phá giá. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần tăng cường mối liên hệ với các tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới bởi các tập đoàn này có nhiều điều kiện trong việc thu thập thông tin về thị hiếu, kiểu dáng mới và mở rộng mạng lưới tiếp thị ra nhiều thị trường mới, đưa ra quyết định sản xuất với các doanh nghiệp.
Đối với thị trường trong nước, ngành dệt may cần khẩn trương xây dựng và phát triển hệ thống phân phối, bán lẻ hàng dệt may của toàn ngành nhằm tránh để mất thị phần ngay trên thị trường nội địa. Thị trường trong nước với 36% là độ tuổi 23- 35 Nguồn số liệu từ Tổng cục thống kê,
, với thu nhập ngày càng cao và nhu cầu mua sắm hàng may mặc lớn sẽ là thị trường bán lẻ hấp dẫn. Vì vậy, ngành dệt may cần nhanh chóng đầu tư, mở rộng mạng lưới phân phối, hệ thống các cửa hàng bán lẻ trên toàn quốc nhằm nhanh chóng nắm giữ thị trường nội địa trước khi các đối thủ cạnh tranh nước ngoài tràn vào.
Tuy nhiên, dù xây dựng được đội ngũ marketing chuyên nghiệp, phát triển được nhiều thị trường nhưng hàng dệt may Việt Nam vẫn chỉ dừng ở mức độ may gia công thì vẫn không thể có chỗ đứng vững chắc trên thị trường quốc tế, và tất cả các nỗ lực trên sẽ đem lại lợi nhuận cho các nước trung gian chứ không phải cho các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, vấn đề xây dựng, quảng bá thương hiệu vẫn là yếu tố then chốt để nâng cao năng lực cạnh tranh của dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế. Hiện nay, một số sản phẩm dệt may của Việt Nam đã xây dựng cho mình thương hiệu riêng trên thị trường trong nước và quốc tế như sản phẩm của May Việt Tiến, May 10, gấm Thái Tuấn… nhưng hầu hết đều chưa thật sự nổi tiếng và chưa nhiều. Để khắc phục tình trạng này, bước đầu các doanh nghiệp có thể tập trung quảng bá thương hiệu cho sản phẩm mình nhận may gia công để giành được đơn hàng, tạo uy tín với khách hàng. Sau đó, các doanh nghiệp phân loại các nhóm khách hàng, xác định tập trung vào nhóm khách hàng nào doanh nghiệp định hướng tới. Tiếp đến, các doanh nghiệp cần tập trung sản xuất các sản phẩm phù hợp với nhóm khách hàng đó. Khi sản phẩm đã có chỗ đứng, doanh nghiệp chọn các sản phẩm chủ lực để mua bản quyền thương hiệu, sau đó có thể liên kết sản xuất với các công ty lớn như các công ty thuộc Vinatex nhằm nâng cấp và đảm bảo chất lượng ổn định. Sau đó, các doanh nghiệp thực hiện chiến lược quảng bá thương hiệu và sản phẩm của mình trên các kênh như phương tiện truyền thông, website, triển lãm và hội chợ thời trang các nước TS. Võ Phước Tấn. “Các giải pháp chiến lược nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam”. T/chí Phát triển kinh tế, số 197 (2007).
…Ngoài giải pháp mua lại bản quyền thương hiệu, các doanh nghiệp cũng cần chủ động trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, thiết kế, cho ra nhiều mẫu mã mới của riêng mình, chủ động tìm kiếm thị trường, tiếp cận khách hàng để tự gây dựng được thương hiệu cho riêng mình. Bên cạnh việc xuất khẩu thông qua thương hiệu và kênh phân phối của nước ngoài, ngành dệt may cũng cần nhanh chóng xây dựng kênh phân phối riêng, thông qua việc khuyến khích các doanh nghiệp mở các chi nhánh, văn phòng đại diện, cửa hàng giới thiệu sản phẩm tại nước ngoài để thu hút thêm lượng khách hàng trực tiếp.
2.2.4 Thiết lập, củng cố quan hệ liên kết trong và ngoài ngành
Hiện nay, đại đa số các doanh nghiệp dệt may trong cả nước là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguồn lực còn nhiều hạn chế. Vì vậy, khi tham gia vào WTO, các doanh nghiệp cần liên kết hoặc sát nhập lại với nhau để tận dụng được lợi thế của mỗi bên, giảm chi phí sản xuất, tăng năng lực đầu tư phát triển và khai thác thị trường, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh với các đối thủ lớn hơn bên ngoài.
Về các quan hệ liên kết, vấn đề mấu chốt hiện nay là ngành dệt may phải giải quyết tốt mối quan hệ liên kết dọc dệt- may. Để có thể giải được bài toán nguyên phụ liệu cho ngành may, thực hiện một chu trình sản xuất khép kín, các doanh nghiệp dệt may cần có sự liên kết, phối hợp với nhau. Hiện nay, mối liên kết này đã bắt đầu được các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh lớn đặc biệt chú trọng. Một ví dụ điển hình là Tổng công ty dệt may Việt Nam Vinatex với một chiến lược bài bản, chú trọng đầu tư nâng cấp các nhà máy nhuộm và dệt nhằm tăng cường khả năng cung cấp vải cho ngành may.
Các doanh nghiệp dệt may, muốn nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh cũng cần giải quyết tốt mối quan hệ ngang giữa các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực. Một giải pháp hữu hiệu đã được thực tế kiểm chứng đem lại hiệu quả tốt đó là thực hiện mô hình mẹ- con. Đối với các doanh nghiệp dệt, nếu áp dụng thành công mô hình liên kết này sẽ giúp ngành dệt tập trung được nguồn lực, nâng cao hiệu quả một cách đáng kể. Các doanh nghiệp dệt nếu liên kết lại, cùng chia sẻ chi phí tìm kiếm thông tin thị trường, hợp tác và phân công hoá trong đầu tư và sản xuất sẽ làm giảm tình trạng trùng lặp, dư thừa, cạnh tranh nội bộ không cần thiết. Thay vào đó, các doanh nghiệp sẽ tiếp kiệm được chi phí trong việc tìm kiếm thông tin, đưa ra kế hoạch sản xuất phù hợp, cùng hợp tác để thực hiện những đơn hàng khối lượng lớn. Đối với ngành may, mô hình liên kết vệ tinh (các doanh nghiệp quốc doanh chủ đạo là công ty mẹ, các doanh nghiệp nhỏ ở địa phương và các thành phần kinh tế khác là công ty con) cần được tiếp tục duy trì và mở rộng. Các doanh nghiệp may vừa và nhỏ cần liên kết với nhau hoặc liên kết với một doanh nghiệp lớn hơn để tận dụng lợi thế về vốn, kỹ thuật. Đây là biện pháp hết sức cần thiết, vì khi Việt Nam đã gia nhập WTO, chúng ta sẽ phải cạnh tranh với nhiều đối thủ có tiềm lực rất lớn, các doanh nghiệp Việt Nam nếu không liên kết lại sẽ dễ bị mất thị phần, có thể dẫn đến phá sản do không thể cạnh tranh nổi. Vì vậy, liên kết theo mô hình công ty mẹ- con được coi là giải pháp tối ưu, giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ tận dụng tối đa lợi thế của công ty mẹ vốn có tiềm lực về vốn, kỹ thuật, trình độ quản lý và thế mạnh trong giao dịch thương mại, giúp tìm kiếm hợp đồng về cho các công ty con.
Một giải pháp hữu hiệu khác là các doanh nghiệp dệt may cần chú ý phát triển mối liên kết ngược với khách hàng. Các doanh nghiệp cần tạo dựng mối liên hệ với các khách hàng, thiết lập các kênh thông tin riêng với khách hàng để cùng thiết kế, phát triển sản phẩm, nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng.
Bên cạnh biện pháp mở rộng quan hệ liên kết giữa các doanh nghiệp, việc mở rộng quan hệ ngoài ngành cũng cần được các doanh nghiệp chú trọng. Các doanh nghiệp cần tạo dựng mối liên hệ chặt chẽ với các tổ chức, trung tâm xúc tiến thương mại, đồng thời thiết lập mạng lưới thông tin với các tổ chức này cũng như với các doanh nghiệp trong ngành để có được những thông tin kịp thời, chính xác, đồng bộ về thị trường và sản phẩm.
Ngoài ra, để giúp các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh, việc phát huy vai trò của Hiệp hội dệt may là rất cần thiết. Hiệp hội cần tăng cường hoạt động, làm tốt chức năng trao đổi, cung cấp thông tin kinh tế kỹ thuật giữa các doanh nghiệp để kết hợp thế mạnh, nguồn lực của các doanh nghiệp, tư vấn cho các doanh nghiệp trong việc lựa chọn phương án kinh doanh phù hợp, điều tiết sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Để nâng cao vai trò, năng lực hoạt động, Hiệp hội cũng cần thu hút thêm nhiều hội viên, kể cả những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khuyến khích sự tham gia của các thành viên là nhà quản lý, chuyên gia am hiểu lĩnh vực dệt may. Hiệp hội cũng cần phát huy mạnh hơn vai trò đại diện cho các doanh nghiệp thành viên khuyến nghị với Chính phủ về hoàn thiện các chính sách vĩ mô liên quan đến ngành. Bên cạnh đó, để hỗ trợ các doanh nghiệp khắc phục khó khăn ở thị trường bên ngoài, Hiệp hội nên chú trọng tham gia hoạt động ở các tổ chức dệt may khu vực và quốc tế như như Liên đoàn Dệt may Đông Nam Á (AFTEX), Ủy ban quốc tế về dệt may (ITCB), Liên đoàn May mặc quốc tế (IAF)… để vận động, bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp trong chính sách thương mại khu vực và thế giới.
Vai trò của các tổ chức hỗ trợ, đại diện thương mại, thương vụ tại nước ngoài
Bên cạnh các giải pháp từ phía nhà nước, doanh nghiệp thì các hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại từ phía các tổ chức hỗ trợ, đại diện thương mại tại nước ngoài cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may, đặc biệt trong việc tìm kiếm thông tin thị trường và quảng bá thương hiệu dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động quảng bá thương hiệu, xúc tiến thương mại qua các kênh này hiện vẫn chưa thực sự hiệu quả, doanh nghiệp dệt may trong nước vẫn chưa tận dụng được nguồn thông tin cũng như cơ hội quảng bá hình ảnh của mình. Nguyên nhân của tình trạng này một phần là do các doanh nghiệp chưa thực sự nhanh nhạy, chủ động liên kết với các kênh này, mặt khác, các tổ chức hỗ trợ, đại diện thương mại, thương vụ của Việt Nam tại nước ngoài hoạt động chưa thực sự hiệu quả. Trong bối cảnh đất nước đã gia nhập WTO, ngành dệt may vấp phải sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, thì các tổ chức hỗ trợ xúc tiến thương mại cần có những giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động, giúp nâng cao hiệu quả cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới.
Thứ nhất, nhà nước và các doanh nghiệp trong ngành dệt may cần có những khoản đầu tư, hỗ trợ thích đáng cho các tổ chức hỗ trợ, thương vụ tại các nước, đặc biệt là thương vụ tại các nước là thị trường xuất khẩu chính của hàng dệt may Việt Nam để giúp các tổ chức, thương vụ có thêm nguồn lực, kinh phí để hoạt động hiệu quả, có khả năng tổ chức được các hoạt động quy mô, chất lượng hơn.
Thứ hai, để nâng cao chất lượng thông tin về thị trường, sản phẩm, một mặt cần đầu tư vào hoạt động nghiên cứu, thu thập thông tin tại các tổ chức này, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp mở văn phòng đại diện, chi nhánh, trung tâm xúc tiến thương mại để cùng hỗ trợ, chia sẻ thông tin với các tổ chức hỗ trợ, đại điện thương mại và thương vụ của nhà nước, tạo thành một mạng lưới thông tin quy mô, đồng bộ và gắn kết, đảm bảo tính liên tục.
Thứ ba, các tổ chức, thương vụ tại nước ngoài cần tranh thủ lực lượng Việt kiều trong việc giúp tìm hiểu thông tin thị trường, mở kênh tiêu thụ, vận động sự ủng hộ tại nước sở tại… Đây là một kênh xúc tiến thương mại hiệu quả, nhanh và tốn ít chi phí do lực lượng Việt kiều ngày càng đông, lại có lợi thế phân bố rộng, thông thạo ngôn ngữ, am hiểu thị trường và tập quán, thị hiếu của các đối tượng tiêu dùng tại nước sở tại.
Thứ tư, các tổ chức hỗ trợ, đại diện thương mại, các thương vụ cần đầu tư, nâng cao hoạt động quảng bá thương hiệu, sản phẩm của các doanh nghiệp dệt may trong nước dưới nhiều hình thức khác nhau như: tổ chức các hội chợ triển lãm giới thiệu hàng hoá, thời trang, tổ chức các hoạt động quảng bá, giới thiệu hàng hoá trong tuần lễ văn hoá Việt Nam tại các nước, tìm hiểu, cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam tham gia vào các cuộc triển lãm, hội chợ, tuần lễ thời trang quốc tế tại nước sở tại…
KẾT LUẬN
Thành tựu của ngành công nghiệp dệt may là một điểm sáng dễ nhận thấy trong sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trước và sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Ngành công nghiệp dệt may, với tư cách là một ngành công nghiệp chủ lực, đã đóng góp rất nhiều vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá và chiến lược phát triển kinh tế chung của đất nước. Với những điều kiện, lợi thế nhất định, ngành dệt may Việt Nam trong những năm qua không chỉ đóng góp đáng kể vào việc phục vụ nhu cầu trong nước, giải quyết việc làm, mà còn tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước. Hơn thế nữa, ngành dệt may Việt Nam đã tự vươn lên, khẳng định mình, chiếm được chỗ đứng trên thị trường dệt may thế giới. Việc trở thành ngành công nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất cả nước và lọt vào top 10 quốc gia xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới là phần thưởng xứng đáng cho những nỗ lực của ngành dệt may.
Tuy nhiên, những thành công bước đầu của ngành dệt may sau 1 năm gia nhập WTO chưa phải là một sự đảm bảo vững chắc cho sự phát triển của ngành trong tương lai. Chúng ta không thể phủ nhận thực tế là tuy có những điều kiện, lợi thế nhất định, song ngành dệt may còn không ít những yếu điểm, hạn chế cần khắc phục. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam còn rất yếu so với các đối thủ cạnh. Những hạn chế về vốn, nguồn nhân lực, khả năng cung ứng nguyên phụ liệu đầu vào, hoạt động marketing, cũng như những bất cập về mặt chính sách và nhiều hạn chế khác đã khiến cho năng lực cạnh tranh của ngành dệt may bị suy giảm và thấp hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới.
Nếu như trước đây những hạn chế nêu trên làm ngành dệt may khó khăn một, thì hiện nay, trong bối cảnh đất nước đã gia nhập WTO, điều này sẽ làm những khó khăn của ngành nhân lên gấp bội. Gia nhập WTO đem lại cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và cho ngành dệt may nói riêng rất nhiều cơ hội và thách thức. Những cơ hội về thị trường, dỡ bỏ hạn ngạch, khả năng tiếp cận vốn và công nghệ hiện đại sẽ luôn đi kèm với những thách thức về cạnh tranh gay gắt, nguy cơ đánh mất thị phần ngay trên sân nhà… Trước bối cảnh mới với những cơ hội và thách thức đan xen, yếu tố quyết định đến thành công hay thất bại của ngành dệt may chính là năng lực cạnh tranh thực sự của ngành. Chỉ bằng cách phát huy nội lực, nâng cao năng lực cạnh tranh, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam mới có thể tự đứng vững trên đôi chân của mình, đón nhận những cơ hội và hạn chế những thách thức do quá trình hội nhập mang lại.
Để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam, yêu cầu quan trọng nhất hiện nay là phải tiến hành những giải pháp mang tính đồng bộ từ cấp vĩ mô như nhà nước, các bộ, ngành, đến cấp thấp hơn như các doanh nghiệp, các tổ chức hỗ trợ… Các giải pháp nhằm huy động vốn, nâng cao khả năng cung ứng nguyên phụ liệu, nâng cao kỹ năng, trình độ lao động, quản lý, hiện đại hoá thiết bị, công nghệ, thúc đẩy hoạt động marketing, xúc tiến thương mại cùng với những cải cách về chính sách, thủ tục hành chính cần được phối hợp thực hiện một cách đồng bộ, hợp lý, hiệu quả. Hy vọng rằng, với việc tìm ra và thực hiện những giải pháp hiệu quả, phù hợp với điều kiện mới của đất nước, ngành dệt may Việt Nam sẽ có thể cất cánh trong tương lai.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVKT076.doc