Mục lục
Trang
Lời mở đầu
Hiện nay, cùng với quá trình hội nhập kinh tế thế giới, thương mại hoá toàn cầu, bùng nổ về đầu tư... thì xuất nhập khẩu lao động đã trở thành một lĩnh vực hoạt động kinh tế quan trọng của các quốc gia, đem lại những lợi ích Kinh tế - Xã hội đáng kể. Đặc biệt là ở các nước đang phát triển với nguồn lao động thì vấn đề xuất khẩu lao độngvà chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời k
67 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1503 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỳ CNH-HĐH đất nước.
Việt Nam là một nước đang phát triển với dân số trẻ, số người trong độ tuổi lao động chiếm 80% dân số và hàng năm có hơn 1 triệu người bổ sung vào lực lượng này thì việc giải quyết việc làm là một vấn đề bức xúc của Đảng và Nhà nước ta. Trước tình hình đó, xuất khẩu lao động đã đóng một vai trò rất quan trọng, góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phận lớn lao động trong nước, tạo thu nhập, nâng cao tay nghề cho lao động, phát triển nguồn nhân lực, mang lại một nguồn thu ngoại tệ không nhỏ cho đất nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xuất khẩu lao động còn gặp nhiều khó khăn và thách thức mới. Hiệu quả của xuất khẩu lao động còn chưa cao do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Nhu cầu về về việc làm của người lao động và lợi ích quốc gia đòi hỏi Nhà nước và chính bản thân người lao động phải có những cố gắng, giải pháp riêng để không ngừng nâng cao và mở rộng chương trình làm việc với người nước ngoài để ngày càng có thêm nhiều thị trường mới để xuất khẩu lao động đạt kết qủa cao. Đây là một vấn đề mang tính chiến lược và cấp thiết. Đó là lý do em chọn đề tài “ Nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động ở Việt Nam “ làm khoá luận tốt nghiệp.
Nội dung của khoá luận:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, được chia thành ba chương như sau:
Chương 1. Khái luận chung về xuất khẩu lao động .
Chương 2. Thực trạng xuất khẩu lao động Việt Nam những năm gần đây.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động ở Việt Nam.
Để hoàn thành bài khóa luân này em đã được sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của thầy giáo Trần Văn Hiệp - giảng viên Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội, gia đình và bè bạn. Em xin chân thành gửi lời cảm ơn các thầy cô giáo và các bạn đã tạo điều kiện giúp em có thể hoàn thành tốt bài khoá luận này.
Do trình độ và kinh nghiêm còn hạn chế, nên bài khoá luận này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý, chỉ dẫn của thầy cô và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn.
Chương 1
Khái luận chung về hoạt động
xuất khẩu lao động
1.1. Bản chất của hoạt động xuất khẩu lao động
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Giải quyết việc làm cho người lao động luôn là một vấn đề được quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Trước đây, khi chưa có xuất khẩu lao động, do yêu cầu của cuộc sống cũng như do nhu cầu lao động của nhiều nước, nhiều vùng đã có hiện tượng di chuyển lao động từ nước này sang nước khác với 2 dạng cơ bản là làm việc lâu dài và làm việc tạm thời. Điều đó có lợi cho cả 2 phía: Phía thuê lao động và người lao động mong muốn có việc làm để có thu nhập.
Trong những năm trở lại đây việc đưa lao động ra nước ngoài làm việc đã được nâng lên rõ rệt. Đó là do sự phát triển kinh tế trong phạm vi toàn cầu đang có những chuyển biến về chất và không đồng đều giữa các nước dựa trên cơ sở phát triển mạnh của khoa học kỹ thuật. Thực tế cho thấy, sức lao động của các quốc gia có dư thừa lao động đến giai đoạn hiện nay đã được xem như là một loại hàng hoá, hàng hoá sức lao động mà quốc gia đó đem ra để đổi lấy ngoại tệ dưới các hình thức khác nhau.
Nghiên cứu về vấn đề xuất khẩu lao động chúng ta phải hiểu và làm rõ một số khái niệm cơ bản có liên quan:
1.Nguồn lao động: là một bộ phận dân cư bao gồm những người trong độ tuổi lao động( không kể số người mất khả năng lao động) và những người ngoài tuổi lao động thực tế có tham gia lao động.
2. Lao động: Lao động thực chất là sự vận động của sức lao động trong quá trình tạo ra của cải vật chất cho xã hội, lao động cũng chính là quá trình kết hợp của sức lao động và tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người. Có thể nói, lao động là yếu tố quyết định cho mọi hoạt động kinh tế.
3. Sức lao động: sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong quá trình tạo ra của cải, là điều kiện đầu tiên cần thiết trong quá trình lao động xã hội. Trên thị trường lao động, sức lao động được coi là một hàng hoá đặc biệt vì con người có tư duy, tự làm chủ bản thân mình hay nói cách khác con người là chủ thể lao động. Sức lao động được xác định giá cả thông qua thị trường lao động,hàng hoá sức lao động cũng tuân theo quy luật cung cầu của thị trường. Mức cung cao sẽ dẫn tới thừa lao động, giá cả sức lao động ( tiền công) thấp, ngược lại, khi mức cung thấp sẽ dẫn tới tình trạng thiếu lao động, giá sức lao động( tiền công) sẽ trở nên cao hơn.
4.Việc làm
Khái niệm: Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Như vậy có thể nói con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm
Ngoài ra, còn có những quan điểm xem xét việc làm như là những hoạt động lao động được trả bằng tiền công hoặc hiên vật.
Theo khái niệm này, việc làm được thể hiện ở các dạng sau:
- Làm những công việc mà người lao động nhận được tiền lương, tiền công hoặc hiện vật cho công việc đó.
- Làm những công việc mà người lao động thu được lợi nhuận cho bản thân( người lao động có quyền sử dụng , quản lý hoặc sở hữu tư liệu sản xuất và sức lao động của bản thân để sản xuất ra sản phẩm)
- Làm công việc cho hộ gia đình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền công, tiền lương cho công việc đó( do gia đình làm chủ sản xuất)
Phân loại việc làm
Phân loại việc làm dựa vào mức độ đầu tư cho việc làm:
- Việc làm chính: là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất hoặc có thu nhập cao hơn so với công việc khác.
- Việc làm phụ: là những việc mà người lao đông dành nhiều thời gian nhất sau việc chính.
Phân loại dựa trên mức độ sử dụng thời gian lao động, năng suất và thu nhập:
- Việc làm đầy đủ: là sự thoả mãn nhu cầu về việc làm cho bất kì ai có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Việc làm đầy đủ căn cứ trên hai khía cạnh chủ yếu là mức độ sử dụng thời gian lao động, mức năng suất và thu nhập. Một việc làm đầy đủ đòi hỏi người lao động làm việc theo chế độ và không có nhu cầu làm thêm.
- Việc làm có hiệu quả: việc làm có hiệu quả là việc làm với năng suất, chất lương cao. Đối với tầm vĩ mô, việc làm có hiệu quả còn là vấn đề sử dụng hợp lý nguồn lao động, đảm bảo chất lượng, tạo ra nhiều chỗ làm việc để sử dụng hết nguồn nhân lực.
5. Thiếu việc làm:
Thiếu việc làm là trạng thái trung gian giữa việc làm đầy đủ và thất nghiệp. Đó là tình trạng có việc làm nhưng do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người lao động mà họ phải làm những công việc không sử dụng hết thời gian theo quy định hoặc làm những công việc có thu nhập thấp không đủ sống khiến họ muốn tìm thêm việc làm bổ sung.
Như vậy trạng thái thiếu việc làm không tạo điều kiện cho người tiến hành nó sử dụng hết thời gian quy định và mang lại thu nhập thấp hơn mức tiền lương tối thiểu.
6. Thất nghiệp:
Khái niệm: thất nghiệp là hiện tượng của những người mất thu nhập do không có khả năng tìm dược việc làm trong khi họ còn đang trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, muốn làm việc và đã đăng kí ở cơ quan môi giới về lao động nhưng chưa được giải quyết.
Như vậy một người được coi là thất nghiệp có ba tiêu chuẩn sau:
Không có việc làm
Có khả năng lao động
Đang tìm việc làm
7. Việc làm mới:
Việc làm mới cũng là những việc làm được pháp luật cho phép đem lại thu nhập cho người lao động, nó được tạo ra theo nhu cầu của thị trường để sản xuất và cung ứng hàng hoá, dịch vụ nào đó cho xã hội. Sự xuất hiện việc làm mới là một tất yếu khách quan do hàng năm lực lượng lao động được bổ sung thêm cùng với tiến trình phát triển của dân số.
Khái niệm việc làm thường gắn với chỗ làm việc bởi vì mỗi công việc cụ thể đều có môi trường làm việc nhất định. Như thế tạo ra chỗ làm mới cũng hàm ý với việc tạo việc làm mới. Việc làm mới bao gồm những công việc đòi hỏi kĩ năng mới và những việc làm được tạo thêm ra cho người lao động. Đối với những công việc đòi hỏi kĩ năng mới thì người lao động muốn làm được những công việc mới này cần phải có sự thay đổi kĩ năng lao động thông qua đào tạo, còn đối với những việc làm tạo thêm( tăng lượng cầu lao động) đông nghĩa với việc tạo thêm những chỗ làm việc mới mà không yêu cầu phải thay đổi kĩ năng của người lao động.
Như vậy theo nghĩa rộng, việc làm mới được hiểu theo ý như sau:
Việc làm mới là phạm trù nói lên sự tăng lượng cầu về lao động, nó được thể hiện dưới hai dạng: những việc làm đòi hỏi kĩ năng lao động mới và những chỗ làm việc mới tạo thêm song không đòi hỏi kĩ năng của người lao động.
1.1.2. Thị trường lao động
1. Sự hình thành thị trường lao động
Thị trường là môi trường “sống” của kinh tế hàng hoá. Phát triển kinh tế hàng hoá tất yếu phải hình thành thị trường.Trong các loại thị trường chủ yếu phải hình thành cả thị trường lao động. Thị trường lao động gắn với các nguồn nhân lực là nơi cung cấp mọi sức lao động cho thị trường. Nguồn nhân lực lại nằm trong dân số, gắn với quy mô, tốc độ cơ cấu của từng loại hình dân số, các nguồn lực với thị trường. Xuất phát từ nhận thức cho rằng kinh tế hàng hoá là một bước phát triển có tính quy luật của nhân loại thì sự hình thành và phát triển của các loại thị trường trong nền kinh tế cũng theo những quy luật nhất định. Sự hình thành và phát triển các loại thị trường trong đó có thị trường lao động nhằm góp phần thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá của nước ta phát triển nhanh chóng.
a) Điều kiện để hình thành thị trường lao động.
-Điều kiện có tính chất tiền đề cho thị trường lao động hình thành và phát triển là quyền tự do trong lao động. Đó là quyền tự do chủ yếu , nó bao gồm đầy đủ hệ thống các quyền tự do đã nêu ra trong thời kỳ vận động cách mạng trước khi dành được chính quyền của Đảng ta và của mặt trận Việt Minh. Đó là các quyền tự do hành nghề , tự do đi lại, tự do cư trú, tự do lập hội, tự do hội họp, tự do ngôn luận, tự do xuất dương. Nó cũng bao gồm cả quyền tự do thân thể của mỗi con người.
Lao động trong thị trường phải tự động phục tùng các quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu và quy luật sinh tồn. Do quyền tự do lao động phải bao gồm các quyền tự do thân thể, tự do xuất dương. Thiếu một trong các quyền tự do đó, hoạt động lao động sẽ bị hạn chế, thị trường lao động sẽ bị tắc nghẽn, con người lao động sẽ không đảm bảo được quyền sinh tồn của mình, nhân phẩm bị hạ thấp.
- Thị trường lao động chỉ hình thành khi xuất hiện quan hệ lao động tức là khi có người lao động đem bán cái hàng hoá sức lao động của mình và có người sử dụng lao động- mua cái giá trị sử dụng sức lao động đó. Vì vậy, về mặt xã hội phải cùng một lúc thừa nhậm hai tầng lớp này cùng tồn tại và phát triển bình đẳng với nhau. Thực tế của kinh tế hàng hoá đang hàng ngày, hàng giờ diễn ra mối quan hệ lao động giữa hai loại người này trong xã hội. Và tốc độ phát triển của giới sử dụng lao động sẽ là một biểu hiện của tốc độ tăng trưởng của kinh tế hàng hoá. Vì vậy, thừa nhận giới sử dụng lao động là một đòi hỏi khách quan, không cưỡng lại được khi ta muốn phát triển kinh tế hàng hoá.
Không thể khuyến khích phát triển kinh tế hàng hoá mà không thừa nhận và khuyến khích phát triển thị trường lao động, không thừa nhận bằng pháp luật giới sử dụng lao động bình đẳng với các giới khác.
- Điều kiện thứ ba hình thành thị trường lao động là bản lĩnh của người lao động. Hàng hoá sức lao động chỉ có thể có giá trị lưu hành trên thị trừơng khi và chỉ khi nó đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế hàng hoá , tức là nó có đủ kỹ năng lao động để đáp ứng yêu cầu đổi mới không ngừng về mặt hàng, công nghệ, hình thức bên ngoài và các thủ doạn lưu thông và tiêu thụ sản phẩm về dịch vụ phục vụ sản xuất, kinh doanh và đời sống. Trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật đang tiến lên như vũ bão xã hội sẽ ngày càng ít sử dụng lao động giản đơn mà sẽ yêu cầu không ngừng đổi mới và nâng cao kỹ năng lao động, con người muốn thích nghi cũng phải tự mình có nghề nghiệp và không ngừng hoàn thiện, đổi mới nghề nghiệp đó.
- Điều kiện thứ tư là phải có các chính sách lao động và xã hội thích hợp. Các chính sách đó, một mặt phải bảo hộ được các quyền lợi vật chất và tinh thần của người lao động, nhưng mặt khác phải đề cao trách nhiệm cá nhân của người lao động trước cuộc sống bản thân và gia đình họ. Mỗi người phải tự sắp xếp cuộc sống, lao động và hưởng thụ của mình. Muốn vậy, hai loại chính sách cấp bách nhất cần được gấp rút cải cách về cơ bản là chính sách tiền lương và chính sách bảo hiểm xã hội.
b) Sức lao động trở thành hàng hoá trong nền kinh tế thị trường.
Trước hết cần phải nhắc lại điều mà Các Mác đã khẳng định: sức lao động trở thành hàng hoá khi người lao động được tự do về thân thể và không có tư liệu sản xuất.Điều này hoàn toàn đúng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, lúc đó sức lao động của những người làm thuê đều đã trở thành hàng hoá. Tiền công nói chung cũng như tiền lương nói riêng chẳng phải gì khác hơn là giá cả sức lao động. Với tư cách là giá cả sức lao động cũng như các loại khác về nguyên tắc tiền công hay tiền lương phải phản ánh giá trị sức lao động và được hình thành trên thị trường, chủ yếu là do tương quan cung cầu sức lao động trên thị trường quyết định.
Như vậy, xuất phát từ cả hai phía: Lợi ích của người lao động và lợi ích của xã hội mà thị trường sức lao động hình thành và phát triển. Thừa nhận sức lao động là hàng hoá là một tất yếu theo xu thế vận động khách quan cuả nền kinh tế hàng hoá.
Hàng hoá sức lao độnglà một loại hàng hoá đặc biệt, nó không giống với bất kì một loại hàng hoá thông thường nào. Đối với sức lao động, bản thân nó trước hết có giá trị sử dụng. Người lao động có thể là người chủ sử dụng chính sức lao động của bản thân hoặc cũng có thể có một người chủ khác sử dụng sức lao động của mình trên cơ sở tự nguyện “ thuận mua -vừa bán”.
Giá trị của hàng hoá sức lao động đòi hỏi phải trả ngang giá các tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động, bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử, yếu tố đào tạo, giáo dục, gia đình.
Trong nền kinh tế thị trường sức lao động đã thực sự trở thành hàng hoá, nhưng dù trong trường hợp nào cũng vậy, không nên coi nhẹ tính nhân văn của thứ hàng hoá đặc biệt này, nên cần phải xét về nhiều mặt, chính trị, xã hội, đạo đức, văn hoá, pháp luật...
2. Vài nét về thị trường lao động
a) Một số quan niệm về thị trường lao động
Là nơi diễn ra sự trao đổi hàng hoá sức lao động giữa một bên là người sở hữu sức lao đông và một bên là những người cần thuê sức lao động đó. Trong mỗi xã hội, nơi nào xuất hiện nhu cầu sử dụng lao động và có nguồn lao động cung cấp ở đó sẽ hình thành nên thị truờng lao động, Trong nền kinh tế thị trường, người lao động muốn tìm việc phải thông qua thị trường lao động.Vậy có thể hiểu “thị trường lao động là một lĩnh vực của nền kinh tế, nó bao gồm toàn bộ các quan hệ lao động được xác lập trong lĩnh vực mua bán trao đổi và thuê mướn lao động.
Thị trường lao động là bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế thị trường và chịu sự tác động của hệ thống quy luật của nền kinh tế thi trường. Một thi trường tốt là thị trường mà ở đó lượng cầu về lao động tương ứng với lương cung về lao động. Qua đó, cung- cầu về lao động ảnh hưởng tới tiền công lao động và mức tiền công lao động cũng ảnh hưởng tới cung- cầu lao động
Xuất khẩu lao động trên thị trường lao động quốc tế được thực hiện chủ yếu dựa vào quan hệ cung- cầu lao động. Nó chịu sự tác động điều tiết của các quy luật kinh tế thi trường. Bên cầu phải tính toán kĩ hiệu quả của việc nhập khẩu lao động từ đó cần phải xác định chặt chẽ số lượng, cơ cấu, chất lượng lao động hợp lí. Mặt khác bên cung lao động mong muốn xuất khẩu càng nhiều càng tốt. Do vậy, muốn cho loại hàng hoá đặc biệt này chiếm được ưu thế trên thị trường lao động, bên cung phải có sự chuẩn bị và đầu tư để được thị trường chấp nhận, phải đáp ứng kịp thời các yêu cầu về số lượng, cơ cấu và chất lượng lao động cao.
Thị trường lao động nước ta để phù hợp với sự phát triển quá nhanh của nguồn lao động, trước hết phải được mở rộng cả trong và ngoài nước đồng thời tạo điều kiện cho người lao động bình quyền tự do tìm việc làm thuê mướn theo pháp luật.
Như vậy, có thể hiểu rằng thị trường lao động là một thị trường hàng hoá bình thường, không có gì đặc biệt so với các thị trường khác, song cũng có một số nước lại cho rằng đây là hàng hoá đặc biệt và do vậy đã xuất hiện những trường phái với những quan điểm khác nhau về sự can thiệp của nhà nước vào thị trường này.
+ Phái tân cổ điển không hề đề cập đến vai trò của Nhà nước và cho rằng Nhà nước đứng ngoài cuộc.
+ Phái duy tiền tệ coi vai trò của Nhà nước trong việc can thiệp vào thị trường lao động là cần thiết vầ có hiệu quả.
ở Đức, sau chiến tranh thế giới thứ II, quan niệm rằng: Thị trường lao động là thị trường hàng hoá đặc biệt, vì vậy Nhà nước phải có chính sách riêng nhằm can thiệp, bảo vệ quyền lợi của người lao động. Như vậy thị trường lao động của đức mang tính chất xã hội.
Trước đâyViệt Nam chưa thừa nhận sức lao động là hàng hóa, thị trường lao động chưa được quan tâm. Hiện nay quan điểm và nhận thức đã thay đổi.
Thị trường lao động là sự trao đổi hàng hoá sức lao động giữa một bên là người sở hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê sức lao động đó.
Thực chất của thị trường sức lao động nói lên sự tồn tại của hai bên, một bên là những người chủ sở hữu sức lao động có thể là Doanh nghịêp Nhà nước, hợp tác xã, là tư nhân, cá thể... cần thuê mướn lao động còn một bên là những người lao động cần kiếm sống phải đi làm thuê cho người chủ để lấy tiền nuôi sống bản thân.
Thị trường sức lao động là mối quan hệ xã hội giữa người lao động có thể tìm được việc làm để có thu nhập và người sử dụng lao động có thể thuê được nhân công bằng cách trả công để tiến hành sản suất kinh doanh.
Thị trường lao động là toàn bộ những quan hệ kinh tế hình thành trong lĩnh vực thuê mướn lao động.
Thị trường lao động cũng bị sự chi phối của quy luật cung cầu về lao động và có ảnh hưởng trực tiếp tới tiền công lao động. Ngược lại sự thay đổi mức tiền công cũng ảnh hưởng tới cung cầu về lao động.
3. Phân loại thị trường lao động.
Tuỳ theo đối tượng nghiên cứu mà người ta chia ra :
- Thị trường lao động trong nước.
- Thị trường lao động nước ngoài.
- Thị trường lao động khu vực, vùng.
- Thị trường lao động nông thôn
- Thị trường lao động thành thị
-Thị trường lao động có trình độ chuyên môn.
-Thị trường lao động phổ thông.
-Thị trường lao động chất xám.
Việc nghiên cứu từng loại thị trường lao động cho phép chúng ta biết được nhu cầu và khả năng đáp ứng cùng loại lao động cho sự phát triển của Kinh tế - xã hội. Chẳng hạn khi nghiên cứu thị trừờng lao động Hà Nội thì ta biết được thông tin về cung và cầu lao động trên thị trường, cơ cấu lao động, tỷ lệ thất nghiệp, để từ đó có giải pháp phát triển, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.
4. Cơ cấu thị trường lao động
Lao động như những hàng hoá dịch vụ khác được mua bán trên thị trường. Các nhà kinh tế cho rằng thị trường hoàn hảo là thị trường mà ở đó có các hàng hoá được phân phối một cách có hiệu quả thông qua giá cả. Thế nhưng các thị trường lao động ở mọi nơi đều chưa được hoàn hảo nhất là những nước chậm phát triển. Vì vậy tiền công ( giá cả sức lao động) không phải hoàn toàn do các lực luợng cạnh tranh quyết định.
Một nước chậm phát triển điển hình có đuợc đặc trưng bởi một cơ cấu việc làm 3 bậc. Trong đó bao gồm khu vực thành thị chính thức, khu vực thành thị không chính thức và khu vực nông thôn.
Khu vực thành thị chính thức là nơi hầu hết mọi người đều thích làm việc nếu như có khả năng. Khu vực này bao gồm các tổ chức kinh doanh lớn của Chính phủ như ngân hàng, công ty bảo hiểm, nhà máy và cửa hàng buôn bán. Lý do để các tổ chức kinh doanh trả tiền công cao, tạo việc làm cho ổn định là do họ thuê tất cả những nhân công trong nước có trình độ chuyên môn thành thạo.
Khu vực thành thị không chính thức: là những cửa hàng có tổ chức kinh doanh bên lề đường sản xuất và buôn bán nhiều hàng hoá dịch vụ, có khả năng cung cấp một khối lương lớn việc làm có tiền công thấp. Khu vực này còn tạo được việc làm cho cả những người di cư từ nông thôn ra.
Thị trường chính thức
Cơ cấu việc làm ba bậc
Tiền công WF trên mức thị trường định
Hàng (LF - EF) người xin việc.
Thị trường thành thị không chín thức.
Thị trường thành thị không chính thức
Cơ cấu việc làm ba bậc. Tiền công (W1) thông qua thị trường nhưng thấp hơn tiền công trong khu vực chính thức(WF).
Thị trường nông thôn
Cơ cấu việc làm ba bậc
Tiền công (WR) thông qua tị trường nhưng thấ hơn tiền công trong khu vực thành thị không chính thức(W1) nguồn lao động có sự so dãn
5. Mối quan hệ giữa cung - cầu lao động.
a) Các yếu tố của cung về lao động.
Cung lao động là lượng lao động mà người làm thuê có thể chấp nhận được ở mỗi mức giá nhất định.
Khi nói đến cung trên thị trường lao động là nói đến cung thực tế,cung tiềm năng và các điều kiện đứng sau cung. Đối với cung về lao động thì cung thực tế bao gồm những người đang đi làm thuê và những người đang tích cực đi tìm viêc. Trong phạm vi một nhóm quốc gia nào đó có sự giao lưu của sức lao động của nhóm quốc gia đó. Còn với một quốc gia thì cung lao động của từng vùng, lãnh thổ, của từng khu vực kinh tế của những ngành nghề nhất định. Một trường hợp cần thiết còn tính đến cung theo giới tính, tuổi tác, chuyên môn và cơ cấu ngành nghề.
Cung tiềm năng trong thị trường lao động là khả năng cung cấp nguồn lao động vào thị trường. Việc cung cấp nguồn này còn phụ thuộc vào phụ thuộcvào tốc độ tăng dân số hàng năm, sự giao lưu của sức lao động giữa các nước - các vùng, các khu vực kinh tế. Cung của lao động được tính trên các mặt chuyên môn, giới tính, độ tuổi và chi phí của một lao động...
Trong thị trường lao động luôn luôn diễn ra sự biến động về nguồn lao động tuỳ theo các điều kiện tác động vào nó,do đó luôn có sự tăng thêm hay giảm bớt của lực lượng lao động, hình thành nên cung tiềm năng. Trong những nước có sự giao lưu lao động thì cung lao động của một nước phải tính đến cung tiềm năng do có sự xuất hoặc nhập lao động của nước đó. Với một dịa phương phải tính tới cung tiềm năng lao động có sự di chuyển lao động từ địa phương này sang địa phương khác về nhu cầu việc làm, điều kiện sống hay sự hấp dẫn hơn của tiền công. Với mỗi khu vực, thành phần kinh tế cũng cần tính tới cung tiềm năng về lao động do sự giao lưu lao động giữa các khu vực, thành phần kinh tế dưới tác động của các chính sách tiền lương, bảo hiểm hay các chính sách kinh tế xã hội khác làm cho người lao động có sự ưu đãi hơn, bảo đảm việc làm hơn, có lương cao hơn...Cung tiềm năng của một ngành nghề phải tính cả sự đào tạo lại và di chuyển lao động từ các ngành nghề khác do yếu tố về tiền lương, yêu thích nghề nghiệp, điều kiện lao động, địa vị xã hội., tính ổn định của nghề, chất lượng của sản xuất.
b) Các yếu tố của cầu lao động.
Cầu lao động là lương lao động mà người thuê có thể thuê ở mức giá có thể chấp nhận được.
Cầu lao động là khă năng thuê lao động trên thị trường. Cũng như nhu cầu về lao động gồm có cầu thực tế và cầu tiềm năng.
Trong một thời điểm nhất định với mức tiền công chấp nhận được thì có một mức cầu nào đó về lao động. ở tầm vĩ mô của một quốc gia có cầu tổng thể, cầu cuả từng ngành, từng khu vực, từng nghề theo thời gian biến động, cầu trong nước, câù ngoài nước.
Lao động là một yếu tố dẫn xuất và bị phụ thuộc vào các yếu tố khác trong cơ chế thị trường. Bởi vậy, tác động lên cầu còn có một loạt yếu tố khác đứng sau cầu về lao động như: vốn, đất đai, tài nguyên khoáng sản, lâm sản, hải sản, tư liệu sản xuất, công nghệ, trình độ quản lý, học vấn, đầo tạo giáo dục, luật pháp và những biện pháp quản lý Nhà nước, quản lý xã hội đầu tư cho cơ sơ rhạ tầng nâng cao đến điều kiện sống như ăn ở, đi lại, y tế, hoạt động xã hội....Ngoài ra còn có các yếu tố khác như tôn giáo, phong tục tập quán, đạo đức truyền thống...cũng ảnh hưởng tới việc mở rộng hay thu hẹp sản xuát, mở thêm hay cần phải đóng cửa doanh nghiệp, khuyến khích hay hạn chế sự phát triển của một ngành nghề nào đó. Chẳng hạn sự nghiêm ngặt trong lễ giáo và sinh nở đối với phụ nữ đã hạn chế lao động nữ tham gia vào thị trường lao động làm cho thị trường bị thu hẹp và lúc có cầu của lao động nữ lại lớn hơn cung, một nhân tố gây nên mâu thuẫn cung cầu lao động. Các yếu tố trên có sự khác nhau giữa các quốc gia, các vùng lãnh thổ, các ngành nghề. Bởi vậy, cầu thực tế cũng như cầu tiềm năng về lao động ở mỗi nơi đều có sự khác nhau..
1.1.3. Xuất khẩu lao động.
Khái niệm: XKLĐ là một hiện tượng kinh tế - xã hội, xuất khẩu lao động được xuất hiện vào cuối thế kỉ 19. Di dân quốc tế được hiểu là quá trình di chuyển lao động từ nước này sang nước khác để tìm việc làm. Do đó, việc đưa người lao đông đi làm việc ở nước ngoài chính là tham gia vào quá trình di dân quốc tế, nó không nằm ngoài những quy luật chung. Việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài tuân theo những hiệp định chung của hai quốc gia, đa quốc gia hoặc công ước quốc tế, tuỳ từng truờng hợp khác nhau mà nó được xếp trong giới hạn nào.
ở Việt Nam, từ những năm 80 đã xuất hiện thuật ngữ “hợp tác quốc tế về lao động”. Lúc đó được hiểu đơn giản là sự trao đổi lao động giữa các quốc gia thông qua các hiệp định được thoả thuận, kí kết giữa các quốc gia đó, là sự di chuyển lao động có thời hạn giữa các quốc gia một cách hợp pháp và có tổ chức, trải qua quá trình lâu dài, ngày nay xuất khẩu lao động đã trở nên rất phổ biến và đã trở thành xu thế chung của thế giới.
Có nhiều khái niệm khác nhau về xuất khẩu lao động, theo khái niệm của tổ chức quốc tế lao động(ILO) như sau: Xuất khẩu lao động là hoạt đông kinh tế của một quốc gia thực hiện việc cung ứng lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở những hiệp định hoặc hợp đồng có tính chất pháp quy được thống nhất giữa các quốc gia đưa và nhận người lao động.
Hiểu một cách khác nữa về xuất khẩu lao động là việc di chuyển lao động giữa nước thừa và thiếu lao động, là việc di chuyển lao động có thời hạn và có kế hoạch từ nước dư thừa lao động sang nước thiếu lao động.
Trong nền kinh tế thị trường, xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế đối ngoại, mang đặc thù của xuất khẩu nói chung. Thực chất xuất khảu lao động là sự di cư quốc tế . Tuy nhiên, đây là sự di cư quốc tế tạm thời.
1.2. Đặc điểm của xuất khẩu lao động
- Xuất khẩu lao động là một hình thức đặc thù của xuất khẩu nói chung nên nó mang tất cả các đặc điểm vốn có của xuất khẩu. Do nó là một bộ phận của nền kinh tế đối ngoại với những quan hệ hợp tác xuyên quốc gia, xuất khẩu lao động là một hoạt động tất yếu khách quan của quá trình hợp tác và chuyên môn hoá quốc tế trong sản xuất, đưa quốc gia trên thế giới hoà nhập với nền kinh tế toàn cầu
-Xuất khẩu lao động không chỉ là xuất khẩu hàng hoá đơn thuần mà là xuất khẩu con người nên bản thân nó cũng có những đặc điểm riêng. Là một hoạt động được sự chỉ đạo thống nhất của nhà nước, xuất khẩu lao động mang một số tính chất chính trị, trở thành một hoạt động kinh tế đối ngoại quan trọng. Việc thực hiện xuất khẩu lao động phải tuân thủ nghiêm ngặt theo hệ thống pháp luật và văn bản pháp quy của thế giới, quốc gia xuất khẩu cũng như quốc gia nhập khẩu lao động.
- Xuất khẩu lao động còn là một hoạt động thể hiện rõ tính chất xã hội. Nói tới xuất khẩu lao động thực chất là nói tới xuất khẩu sức lao động. Trong khi đó, sức lao động lại gắn bó chặt chẽ với người lao động, không tách rời khỏi người lao động. Do vậy, mọi chính sách, pháp luật trong lĩnh vực XKLĐ phải kết hợp với các chính sách xã hội.
-Xuất khẩu lao động là một phương thức thực hiện việc phân công lao động quốc tế, tạo nên các hoạt động chuyên môn hoá sản xuất, thực hiện việc sử dụng lao động một cách hợp lý và hiệu quả phù hợp với điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia, tận dụng một cách triệt để lợi thế so sánh giữa các nước nhập và xuất khẩu lao động.
Trong quan hệ XKLĐ phải đảm bảo được lợi ích của ba bên: Nhà nước, các doanh nghiệp và người lao động. Lợi ích kinh tế của Nhà nước là khoảng ngoại tệ mà người lao động gửi về và các khoảng thuế thu được. Lợi ích của các doanh nghiệp là các khoảng thu được, chủ yếu là các loại phí giải quyết việc làm ngoài nước. Còn lợi ích của người lao động là khoảng thu nhập thường là cao hơn nhiều so với lao động ở trong nước.
-Phân loại xuất khẩu lao động:
Căn cứ vào cơ cấu đưa người lao động đi:
- Lao động có nghề: là loại lao động trước khi ra nước ngoài làm việc đã được đào tạo thành thạo một loại nghề nào đó và khi số lao động này ra nước ngoài làm việc có thể bắt tay vào công việc mà không phải bỏ kinh phí đào tạo.
-Lao động không có nghề: là loại lao động trước khi đưa ra nước ngoài làm việc chưa được đào tạo một loại nghề nào cả. Loại lao động này thích hợp những công việc đơn giản, không cần trình độ chuyên môn hoặc phía nước ngoài cần phải tiến hành đào tạo cho mục đích của mình khi dưa vào sử dụng.
Căn cứ vào nước xuất khẩu lao động
. Nhóm các nước phát triển: Có xu hướng gửi lao động kĩ thuật cao sang các nước đang phát triển để thu ngoại tệ. Trường hợp này không phải là chảy máu chất xám mà là đầu tư chất xám có mục đích. Việc đầu tư nhằm một phần thu lại kinh phí đào tạo cho đội ngũ chuyên gia trong nhiều năm, một phần khác lớn hơn là phát huy năng lực trình độ đội ngũ chuyên gia, công nhân kĩ thuật bậc cao ở nước ngoài .v.v... để thu ngoại tệ.
. Nhóm các nước đang phát triển: Có xu hướng gửi lao động bậc trung hoặc bậc thấp sang các nước có nhu cầu để lấy tiền công và tích luỹ ngoại tệ, giảm bớt khó khăn kinh tế và sức ép việc làm trong nước.
1.3. Các hình thức xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động có những hình thức cơ bản như sau
a. Thông qua doanh nghiệp nhận thầu, khoán xây dựng công trình, liên doanh, liên kết chia sản phẩm ở nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài.
Bên nước ngoài đặt hàng cho các công trình xây dựng, do vậy phải đưa đi đồng bộ các đối tượng lao động ( kĩ thuật, quản lý, chỉ đạo, thi công và lao động trực tiếp) sang làm việc ở nước ngoài. Sau khi công trình kết thúc thì cũng chấm dứt hợp đồng đối với người lao động, vì t._.hế xuất khẩu lao động theo hình thức khoán khối lượng công việc thường không ổn định, tâm lý của người lao động dễ bị chán nản, không tận tâm với công việc.
b. Hợp tác lao động chuyên gia:
Đây là hình thức được áp dụng đối với các nước trung Đông và Châu Phi trong việc cung ứng lao động và chuyên gia sang làm việc tại một số nước.Số lao động này có thể đi theo các đoàn, đội, nhóm, cá nhân.
c. Đưa lao động đi bồi dưỡng, học nghề, nâng cao trình độ và làm việc có thời hạn ở nước ngoài:
Là hình thức được áp dụng chủ yếu trong những năm từ 1980 đến 1990. Thông qua việc kí kết hiệp định, hợp tác, sử dụng lao động với các nước như Liên Xô( cũ), Cộng hoà Dân chủ Đức,Tiệp Khắc trước đây. Lao động của những nước được xuất khẩu này sống và sinh hoạt theo đoàn đội, có sự quản lý thống nhất từ trên xuống dưới và làm việc xen ghép với lao động của các nước. Đây là hình thức được áp dụng cho cả hai đối tượng lao động có nghề và không có nghề.
d. Thông qua doanh nghiệp làm dịch vụ cung ứng lao động:
Đối tác nước ngoài có nhu cầu sử dụng lao động, đưa ra những yêu cầu cụ thể như: số lượng, tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính. Các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế của các quốc gia xuất khẩu sau khi nhận được đơn đặt hàng của bên nước ngoài sẽ tiến hành sơ tuyển dựa trên những tiêu chí sẵn có.Để đảm bảo đúng yêu cầu của mình, bên nước ngoài thực hiện kiểm tra lại một lần nữa trước khi lao động sang làm việc.
e. Theo hợp đồng lao động do cá nhân người lao động trực tiếp kí với người sử dụng lao động ở nước ngoài.
Đây là hình thức phổ biến nhất hiện nay, hình thức này đòi hỏi đối tượng lao động đa dạng tuỳ theo yêu cầu và mức độ đa dạng và phức tạp của công việc. Có những yêu cầu của nước ngoài đòi hỏi người có trình độ kĩ thuật, kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiêm tổ chức quản lí, cũng có những yêu cầu chỉ cần người lao động có trình độ giản đơn.
Ngoài những hình thức đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, hình thức xuất khẩu lao động tại chỗ cũng đã trở nên phổ biến hơn ở Việt Nam.
f. Xuất khẩu lao động tại chỗ:
Là hình thức các tổ chức kinh tế của ta cung ứng lao động cho các tổ chức kinh tế nước ngoài tại Việt Nam, bao gồm :
- Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
- Các khu chế xuất, khu công nghiệp
- Các tổ chức, cơ quan ngoại giao tại Việt Nam.
1.4. Vai trò của hoạt động xuất khẩu lao động đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế quan trọng đối với mọi quốc gia, đặc biệt là những nước kém phát triển. Hoạt động này đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia: Bên xuất khẩu lao động, bên nhập khẩu lao động và bản thân người lao động.
Đối với nước xuất khẩu lao động ( nước cung ứng lao động)
- Về kinh tế: Xuất khẩu lao động có vai trò đặc biệt trong hoạt đông kinh tế. Trước hết nó góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới cho thấy, xuất khẩu lao động là một giải pháp khắc phục tình trạng thất nghiệp có hiệu quả cao. Theo ILO tính đến 2003 có khoảng 950 triệu người trên thế giới thất nghiệp và thiếu việc làm, điều đó đã gây nên tình trạng giảm sút tăng trưởng kinh tế. Để khắc phục tình trạng này, các nước đã thành công bằng sử dụng giải pháp xuất khẩu lao động.
Bên cạnh những đóng góp trên, xuất khẩu lao động còn đem lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, do vậy, rút ngắn được khoảng cách giàu nghèo giữa các nước phát triển và đang phát triển.
- Về xã hội :Thực hiện tốt công tác xuất khẩu lao động sẽ giảm được tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây ra, tạo một hướng lao động tích cực cho người lao động, học tập được phong cách lao động mới do tổ chức lao động ở nước ngoài trang bị.
- Về kinh tế đối ngoại: mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác trong lĩnh vực xuất nhập khẩu lao động là vô cùng quan trọng, từ đó quan hệ giữa các nước cung ứng lao động và nước tiếp nhận lao động trở nên gắn bó hơn, hiểu nhau hơn, tạo ra mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước. Cung cấp cho nhau những thông tin quan trọng về vấn dề hai nước cần quan tâm và thốn nhất quan điểm hai bên cùng có lợi. Sự đa dạng hoá các quan hệ hợp tác quốc tế được mở rộng thông qua hợp tác về lao động sẽ tạo điều kiện mở rộng hơn nữa các quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực.
* Đối với nước nhập khẩu lao động ( nước nhận lao động)
Nước nhập khẩu lao động thu được lợi ích đáng kể như: cung cấp đủ số lượng lao động bù đắp vào các nghành thiếu hụt, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước. Đồng thời mở rộng quan hệ và uy tín với nước có lao động, khai thác kinh nghiệm, kiến thức, tác phong lao động và cung cách quản lý của nước khác, mở rộng nhu cầu thị trường trong nước. Xuất khẩu lao động góp phần làm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân các nước, tăng cường giao lưu quốc tế.
* Đối với bản thân người lao động:
Việc đưa người lao động ra nước ngoài làm việc đã giúp bản thân người lao động có khoản tích luỹ giúp đỡ gia đình thoát khỏi tình trạng đói nghèo và có vốn. Đặc biệt là sau khi trở về từ nước ngoài người lao động đã có tay nghề và kinh nghiệm thực tiễn để tự tạo việc làm cho mình. Với môi trường làm việc ở nước ngoài tạo cho người la động thói quen chủ động trong công việc và ý thức làm việc cao, đặc biệt về mặt tâm lý của người lao động sau khi trở về, sự tự tin và vững vàng hơn.
Chương 2
Thực trạng hoạt động xuất khẩu
lao động ở việt nam
2.1. Đặc điểm về lao động và việc làm ở Việt Nam
2.1.1. Lực lượng lao động
Việt Nam là một nước lớn có nền kinh tế dồi dào, đây là tiềm năng để phát triển kinh tế. Với mức tăng dân số trung bình hàng năm là 1.8% thì tính đến nay Việt Nam có khoảng 80 triệu người, đứng thứ 12 trên thế giới và thứ 2 của khu vực Đông Nam á. Dự tính trong 10 năm tới dân số nước ta có thể tăng tới 100 triệu người. Lực lượng lao động tăng rất nhanh, năm 2000 đã ước tính khoảng 38.643.123người[1;5], số người trong độ tuổi lao động là 36.725.777 người[5;6] chiếm 95% lực lượng lao động của cả nước. Tính đến đầu 2003 thì số người trong độ tuổi lao động đã tăng lên 44.210.117 người[6]. Trong số đó có tới 72% lao động làm việc trong lĩnh vực nông thôn. Lực lượng lao động mỗi năm tăng 3.3%, như vậy nguồn lao động được bổ sung hàng năm từ 1.2 đến 1.3 triệu người. Trong đó tốc độ giải quyết việc làm là 3.08%, do đó số ngưòi không có việc làm vẫn tăng lên đáng kể. Tỷ lệ thất nghiệp cao, đặc biệt là ở nông thôn con số thất nghiệp lên tới 73%[25;7]. Đến 2010 nước ta cần giải quyết việc làm cho khoảng 15 triệu người.Tình trạng lao động Việt Nam gia tăng dẫn đến sự mất cân đối về cung cầu lao động( cung lao động lớn hơn cầu về lao động). Do đó đòi hỏi nhà nước phải kịp thời đưa ra các chính sách, giải pháp để tạo công ăn việc làm cho người lao động, khắc phục tình trạng thiếu việc làn cho người lao động. Xét về mặt cung lao động thì có thể nói rằng nước ta là một thị trường cung cấp lao động phong phú, tạo nguồn lực dồi dào cho đất nước. Đa số các nước phát triển cần nhập khẩu lao động phổ thông từ các nước kém phát triển hơn. Với nhu cầu này nước ta có thể hoàn toàn đáp ứng được về mặt cung ứng.
2.1.2. Chất lượng lao động.
Xét về số lượng lao động thì Việt Nam chiếm ưu thế. Tuy nhiên, theo đánh giá chung, lực lượng lao động Việt Nam tuy lớn mạnh về số lượng nhưng không đáp ứng nhu cầu về chất lượng. Lượng lao động phổ thông chiếm đa số, nhưng lao động có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học...còn quá ít. Tuy vậy, lao động Việt Nam có một số lợi thế như: cần cù, thông minh, sáng tạo, có kinh nghiệm sản xuất và truyền thống dân tộc giúp người lao động có khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến vào lao động sáng tạo. Lao động có trình độ chuyên môn đã tăng lên đáng kể. Bên cạnh đó, lao động Việt Nam còn hạn chế nhiều, chủ yếu biểu hiện ở các vấn đề như:
Về sức khoẻ : Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp nghèo và đông dân nên phần lớn lực lượng lao động chưa đủ điều kiện sức khoẻ để đảm bảo công việc. Đây là khó khăn đầu tiên khi tuyển dụng lao động, đặc biệt là tuyển dụng lao động cho xuất khẩu.
Về tác phong: Do cơ chế kế hoạch hoá tập trung tồn tại ở nước ta trong một thời gian dài có ảnh hưởng lớn tới tác phong làm việc của người lao động. Lề lối và tác phong làm việc của đa số lao động còn chậm chạp và tinh thần trách nhiệm chưa cao, ỷ lại, dựa dẫm dễ bị kích động ảnh hưởng. Có thể coi đây là khó khăn lớn nhất khi tiếp nhận lao động Việt Nam.
Về trình độ văn hoá: Lao động không có chuyên môn chiếm tới 87,81% lực lượng lao động, số lao động có chuyên môn kỹ thuật là 12,19% (công nhân là 5,86%, trung học chuyên nghiệp là 3,82%, cao đẳng và đại học là 2,5%, trên đại học là 0,45%). Hiện nay cơ cấu đào tạo ở nước ta còn chưa phù hợp: tỉ lệ cao đẳng đại học, trên đại học- trung học chuyên nghiệp-công nhân kỹ thuật là 1-1.6-3, trong khi đó cơ cấu hợp lý phải là 1-4-6 [19;29]. Vì vậy tình trạng thừa cử nhân kỹ sư nhưng thiếu thợ lành nghề vẫn là phổ biến ở nước ta. Với số lao động như hiện nay tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm đang trở thành vấn đề nan giải không chỉ với người lao động mà còn đối với các ngành các cấp. Lao động Việt Nam chủ yếu có trình độ tay nghề thấp nên mức lương ở trong nước chưa cao, nhưng cũng với những lao động đó mà làm việc ở nước ngoài lại luôn có thu nhập cao hơn. Vì thế người lao động Việt Nam dễ dàng chấp nhận mức lương của họ ở nước ngoài, điều đó cũng trở nên hấp dẫn với các nước nhập khẩu lao động Việt Nam. Nhìn chung nước ta là một quốc gia có nguồn lao động dồi dào với tốc độ tăng hàng năm cao. mặc dù chất lượng lao động chưa đạt ở mức độ cao như mong muốn nhưng việc khắc phục và đưa nhân tố con người làm trung tâm mới thực sự đẩy mạnh được lợi thế so sánh của đất nước.
2.2. Thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam.
2.2.1. Giai đoạn 1980- 1990
Giai đoạn này nước ta có quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, lao động chủ yếu xuất khẩu sang các nước thuộc khu vực Đông Âu, Irắc và Châu Phi. Từ những năm đầu thập kỷ 70, nhiều nước đã đặt vấn đề hợp tác sử dụng lao động với nước ta. Năm 1979, ban Bí thư Trung ương Đảng và thường vụ Hội đồng Chính phủ chính thức giao cho Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội nghiên cứu để tiến hành đàm phán với một số nước xã hội chủ nghĩa về vấn đề này. Ngày 11/2/1980, Hội đồng Chính phủ đã ra quyết định 46/CP về việc đưa công nhân và cán bộ đi bồi dưỡng, nâng cao trình độ và làm việc có thời hạn ở các nước xã hội chủ nghĩa. Ngày 29/11/1980, Hội đồng Chính phủ có nghị quyết 362/CP "Về việc hợp tác và sử dụng lao động với các nước xã hội chủ nghĩa". Với chủ trương này, Đảng và Nhà nước ta đã tận dụng nguồn lao động dồi dào, chưa đủ việc làm để xuất khẩu sang các nước co nhu cầu tiếp nhận lao động.
2.2.1.1. Số lượng lao động xuất khẩu
Thực hiện chủ trương mở rộng đưa lao động ra nước ngoài làm việc bằng nhiều hình thức thích hợp, trong vòng 10 năm (từ năm 1980 đến năm 1990) nước ta đã xuất khẩu được 275 386 người.Trong đó, có 244 186 người đi theo hiệp định liên Chính phủ ký 1980- 1981, khoảng 7 200 người đi theo hiêp định hợp tác và chuyên gia, 23 713 thực tập sinh và học sinh học nghề tại các nước Đông Âu đã chuyển sang lao động trong những năm 80.
Bảng 1: Số lượng lao động xuất khẩu từ năm 1980- 1990:[5;10]
STT
Năm thực hiện
Số lao động đưa đi hàng năm (người)
1
1980
1. 070
2
1981
20. 230
3
1982
25 .970
4
1983
12. 402
5
1984
6. 848
6
1985
5. 008
7
1986
9. 012
8
1987
48. 820
9
1988
71. 730
10
1989
39. 929
11
1990
3. 069
Tổng cộng
244. 186
Số lượng người đi các nước xã hội chủ nghĩa là 257 822 người (phần lớn là sang Liên Xô (cũ) và Đông Âu), chiếm khoảng 91% số lao động đi các nước không thuộc phe xã hội chủ nghĩa. Qua bảng số liêu ta thấy được số lao động xuất khẩu đã không ngừng tăng lên, từ 1070 người năm 1980 tăng lên 20.230 người năm 1981, tăng gấp 18 lần chỉ trong vòng một năm[9;2]. Trong hai năm 1984-1985, do nhiều biến cố trong nước cũng như nước ngoài buộc Nhà nước ta phải tạm dừng việc đưa lao động đi nước ngoài nên số lượng giảm đáng kể. So với năm 1983 thì năm 1984 số lượng giảm 3%, gây ảnh hưởng tới một số mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
Xét từ năm 1986 đến 1989 số lượng người đi lao động được tăng lên gấp 7 lần. Sự tăng lên này là do từ năm 1986 nước ta bắt đầu chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, quan hệ của các nước được mở rộng, do vậy số lượng người tham gia vào hoạt động xuất khẩu lao động tăng lên.
2.2.1.2. Cơ cấu lao động xuất khẩu :
Việt Nam có một thị trường lao động dồi dào. Xét về trình độ thi còn non kém nên thường chỉ được xếp vào các công việc giản đơn, lao động giản đơn hoặc lao động phổ thông. Trong giai đoạn này, số lao động Việt Nam được đưa đi lao động chủ yếu tại các nước Irăc, Libia, Angiêri, Tiệp Khắc, Bungari thời gian đầu là 100% có tay nghề, về sau do đòi hỏi của công việc nên số lao động có nghề giảm dần. Năm 1986[9;5], chúng ta ký hợp đồng với Irăc đưa 1394 người Việt Nam sang lao động tại Irăc trong đó có 910 lái xe ca, 63 lái tàu, 318 thợ sửa chữa và 41 cán bộ quản lý, họ yêu cầu tay nghề đối với từng loại việc như lái xe ca thì phải có bằng lái từ 30 chỗ ngồi và thâm niên nghề nghiệp ít nhất 3 năm, lái tàu thâm niên 7 năm, thợ cơ khí, sửa chữa từ bậc 3 trở lên. ở Liên Xô, đại bộ phận lao động chưa có nghề, nếu xét trong tổng số 80% - 90% lao động sang Liên Xô thì bình quân chỉ có 42% lao động có nghề. Số lao động đưa đi được phân bố vào các nghành kinh tế quốc dân của các nước như sau: Irăc: 100% làm công tác thuỷ lợi; Libi: 100% làm trong xí nghiệp công nghiệp; Các nước xã hội chủ nghĩa: 45% làm trong nghành công nghiệp nhẹ, phần lớn là dệt, may mặc, giầy da; ở Bungari: 20% làm trong nghành cơ khí, 6% làm nông nghiệp và chế biến thực phẩm, 3% làm trong các nghành khác[25;13].
Xuất khẩu lao động có nghề nghiệp ở nước ta giai đoạn này còn nhiều hạn chế do xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, do vậy đòi hỏi có biện pháp đào tạo và bồi dưỡng nghề cho lao động một cách hợp lý.
2.2.1.3. Thị trường xuất khẩu lao động.
Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong giai đoạn này là các nước xã hội chủ nghĩa như: Liên Xô, Tiệp Khắc, Bungari, Libi, Irac, Cộng hoà dân chủ Đức. Thực hiện chủ trương tiếp tục đưa lao động ra nước ngoài làm việc, chúng ta đã tổ chức đưa đi hàng vạn lao động sang làm việc ở các nước Liên Xô và Đông Âu. Trong một thời gian ngắn, với kinh nghiệm còn ít ỏi, cả ta và bạn còn thiếu những nghiên cứu và chuẩn bị chu đáo nên đã xảy ra một số vụ việc làm cho tình hình quản lý lao động gặp nhiều khó khăn, có chiều hướng gây ảnh hưởng xấu đến quan hệ đối ngoại. Do đó, tháng 4 năm 1984 Chính phủ chủ trương tạm dừng đưa lao động sang Cộng hoà dân chủ Đức, Tiệp khắc, Bungari, còn đối Liên Xô thì vẫn cho phép đưa đi một bộ phận nhỏ và tập trung sức củng cố lực lượng lao động ở các nước đồng thời phải đàm phán sửa đổi, bổ sung hiệp định với các nước xã hội chủ nghĩa.
2.2.1.4. Hình thức xuất khẩu lao động.
Trong giai đoạn này, hình thức hợp tác chủ yếu là hình thức xen ghép, tức là lao động của ta và lao động tại các nước sở tại hoặc lao động của nước thứ 3, ... xen kẽ nhau làm trong một nhà máy, một phân xưởng, dây chuyền, công đoạn sản xuất ( 24 vạn lao động của ta làm việc trong gần 2000 xí nghiệp của 4 nước đều theo hình thức xen ghép). Với hình thức này lao động của ta chưa phát triển hết khả năng, năng lực làm việc, hiệu quả kinh tế đem lại chưa cao. Ngoài hình thức xen ghép thì có một số tổ chức đi hợp tác theo hình thức "nhận thầu" nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau đã chuyển dần lên làm "xen ghép" với lực lượng lao động của nước sở tại.
2.2.2. Giai đoạn từ năm 1991 đến nay.
Cuối những năm 80 và đầu những năm 90, tại các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tiếp nhận lao động ta đều xảy ra những biến động chính trị lớn dẫn đến sự thay đổi về thể chế chính trị và cơ chế kinh tế: ở nhiều nước Châu Phi có chuyên gia ta làm việc cũng có khủng hoảng kinh tế, chính trị; ở Irăc xảy ra chiến tranh. Vì vậy, phần lớn các nước này không còn nhu cầu tiếp nhận lao động Việt Nam, hoặc nếu có nhu cầu thì cũng không nhận lao động và chuyên gia theo cơ chế chính phủ - chính phủ nữa. Đồng thời, sau năm 1986 nước ta cũng chuyển dần từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Với chính sách đó, sự nghiệp xuất khẩu lao động cũng được điều chỉnh phù hợp và nhanh chóng hoà nhập vào thị trường lao động khu vực và thế giới. Năm 2000 nước ta xuất khẩu được 31.500 lao động ra nước ngoài. Tính đến đầu năm 2003 con số này đã tăng lên 35.721 người.
2.2.2.1. Số lượng lao động xuất khẩu.
Theo số liệu thống kê của Cục Quản lý lao động nước ngoài, từ năm 1991 đến nay Việt Nam đã đưa được 200.060 lao động sang nước ngoài làm việc.
Bảng 2: Số lượng lao động xuất khẩu từ năm 1991 đến nay[5;11].
STT
Năm
Số lượng lao động đi hàng năm (người).
1
1991
1. 020
2
1992
8. 10
3
1993
3. 960
4
1994
9. 230
5
1995
10. 050
6
1996
12. 640
7
1997
18. 640
8
1998
12. 210
9
1999
20. 000
10
2000
31. 000
11
2001
37. 000
12
2002
43. 000
Tổng cộng:
200.060
Qua bảng số liệu ta thấy số người đi lao động tăng lên rõ rệt, đặc biệt là từ năm 2000 đến 2002. Con số này đánh dấu bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp xuất khẩu lao động ở nước ta.
2.2.2.2. Cơ cấu lao động xuất khẩu.
Hiện nay, lao động Việt Nam đã có mặt ở hơn 40 nước trên thế giới, chủ yếu làm việc trong các nghành nghề khác nhau như: Thuỷ thủ, thuyền viên đánh cá, chuyên gia y tế, giáo dục, công nhân, giúp việc gia đình...
Với chủ trương của Chính phủ là hạn chế đưa lao động phổ thông đi, Bộ Lao động Thương binh - Xã hội đã chỉ đạo, hướng dẫn các công ty mở rộng việc ký kết các hợp đồng đưa lao động có nghề. Kết quả cho thấy, số lao động có nghề xuất khẩu của Việt Nam tăng lên rõ rệt. Nếu năm 1992 chủ yếu là lao động phổ thông thì số lao động có nghề năm 1993 tăng lên 25%, năm 1995 tăng lên 40% và hiện nay đạt gần 70% tổng số người đi[30;2]. Chất lượng lao đốngo với giai đoạn1980-1990 đã co nhưng chuyễn biến đáng kể. Đối với một số thị trường như Côoet, Libi, Angola, Nhật Bản, Cộng Hoà Séc... chúng ta đã cung ứng 90% - 100% lao động có nghề. Còn một số lao động khi đưa đi chưa có nghề thì bên nhậpS đều thực hiện việc đào tạo nghề cho người lao động
2.2.2.3. Hình thức xuất khẩu lao động
Giai đoạn trước năm 1990 hình thức chủ yếu là xen ghép. Nhưng từ năm 1991 đến nay, xuất khẩu lao động nước ta có thể có các hình thức như sau: Hợp đồng cung ứng lao động; hợp đồng sử dụng chuyên gia; hợp đồng nhận thầu công trình; hợp đồng lao động vừa học vừa làm; hợp đồng nhận thầu công trình, nhận khoán khối lượng hợp tác chia sản phẩm; hợp đồng liên doanh giữa các tổ chức kinh tế Việt Nam với tổ chức kinh tế hoặc cá nhân ở nước ngoài; hợp đồng lao động giữa người Việt Nam với tổ chức kinh tế hoặc cá nhân nước ngoài; Cung ứng lao động trực tiếp theo yêu cầu của các công ty nước ngoài thông qua hợp đồng lao động.
Trong đó, các doanh nghiệp được cấp giấy phép xuất khẩu lao động phải tự mình tìm kiếm thị trường, đối tác và ký kết với bên nước ngoài để tiến hành làm thủ tục đưa lao động xuất khẩu dựa trên chính sách của nhà nước. Nếu doanh nghiệp nào có giấy phép xuất khẩu lao động mà trong vòng 12 tháng không xuất khẩu được đoàn nào thì bị thu hồi giấy phép.
2.2.2.4. Thị trường xuất khẩu lao động.
Thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam hiện nay không chỉ là các nước xã hội chủ nghĩa trước kia mà đã mở rộng phạm vi xuất khẩu tới gần 50 nước trên thế giới. Tuy vậy, công tác xuất khẩu lao động đến nay đã thành công ở một số thị trường chính như: Hàn Quốc, Angiêri, Nhật Bản, Đông Âu, Đài Loan, Irăc, Libi, Côoet.
a. Khu vực Đông Bắc á
Đông Bắc á đang là các thị trường chủ yếu, nhận nhiều lao động ta. Bao gồm các nước: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Trong tương lai gần, đây vẫn sẽ là thị trường chính của lao động Việt Nam.
- Thị trường Hàn Quốc:
Đây là một thị trường ổn định, tiếp nhận lao động ta với một số lượng khá lớn. Hàn Quốc là quốc gia có diện tích 90.000 km², bằng 1/3 diện tíchViệt Nam. Tài nguyên thiên nhiên không có gì ngoài nguồn than antracit quặng sắt. Từ thập kỷ 60, nền kinh tế Hàn Quốc đạt được sự tăng trưởng cao và trở thành một nước có tiềm lực về kinh tế ở Châu á. Tốc độ phát triển kinh tế cao đã biến Hàn Quốc từ một nưỡc xuất khẩu lao động sang một nước thiếu hụt trầm trọng lao động trong nước và cả ở các công trình thầu ở nước ngoài. Hiện nay Hàn Quốc đã trở thành một quốc gia công nghiệp với các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng và điển hình là công nghiệp điện tử cao cấp. Khả năng hợp tác với Hàn Quốc trong việc sử dụng lao độngViệt Nam còn nhiều triển vọng. Tính tới năm 2000 nước ta đã xuất khẩu sang Hàn Quốc khoang trên 28000 lao động tính cả số thuyền viên đánh cá trên biển. Tuy nhiên, trong vài năm vừa qua đã xuất hiện hình thức tu nghiệp sinh bỏ hợp đồng ra ngoài làm việc bất hợp pháp (Hàn Quốc: khoảng 50% ) gần đây lại xuất hiện tình trạng vi phạm pháp luật, cá biệt đã hình thành các băng nhóm tội phạm đi trấn lột, thậm chí giết người, đã ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiếp nhận lao động ta vào thị trường này. Thêm vao đó là cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 đã làm giảm số tu nghiệp sinh Việ Nam tại Hàn Quốc(năm 1996 số lao động xuất sang Hàn Quốc là 6275 người thì đến năm 1997 chỉ còn 4880 người).
Năm 1999, kinh tế Hàn Quốc được phục hồi, số lao động được xuất sang lại tăng lên nhanh chóng. Mức lườn cơ bản của người lao động sang Hàn Quốc hiện nay là tương đối cao so với các nước khác trong khu vực( khoảng trên 1000 USD/1người/1tháng). Tiêu chuẩn đối với lao động đi làm việc ở Hàn Quốc là có sức khoẻ tốt và chăm chỉ làm việc. Tiêu chuẩn nay rất phù hợp với đặc điểm của lực lượng lao động phổ thông ở nước ta hiện nay. Tính đến 2002 đã có 30.000 lao động Việt Nam đâng làm việc tại Hàn Quốc[7].
- Thị trường Nhật Bản:
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản lâm vào tình trạng thếu lao độngtrầm trọng. Với tốc độ phát triển hằng năm của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) khá cao, thị trường lao động của Nhật Bản trở nên chật hẹp. Tuy thiếu lao động trầm trọng nhưng chính sách của Nhật Bản là hạn chế lao động nước ngoài vào kàm việc. Trong các quy định của pháp luật Nhật Bản về vấn đề nhập cư, Nhật Bản chỉ cho một số ít lao động không nghề và lao động kỹ thuật cao nhập cư. Tuy nhiên, đầu năm 1990 Nhật Bản đưa ra chính sách tiếp nhận lao động từ các nước đang phát triển sang Nhật nâng cao tay nghề. Đây là biện phấp giúp Nhật giảm bớt số lao động bát hợp pháp dang ngày càng tăng. Đồng thời đây là một biện pháp chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển và đáp ứng nhu cầu thiếu lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nhật. Người lao độngnước ngoài được hưởng quy chế “tu nghiệp sinh” và “trợ cấp tu nghiệp”. Với mức trợ cấp này cũng đã cao hơn rất nhiều so với mức lương cuả lao động ở các nước khác.
Nhật Bản chính thức mở cửa cho lao động nước ngoài từ tháng 6 /1992. Năm 1992, chúng ta đưa được 17 người sang Nhật tu nghiệp. Năm 1996 đã có 1312 người và iện nay có 9000 lao động làm việc trong các nghành công nghiệp nhẹ, chế biến hải sản, điện tử, xây dựng...
Nhìn chung số lượng lao động của Việt Nam sang Nhật vẫn còn thấp so với Trung Quốc. Từ năm 1992 đến 1998 Việt Nam có trên 7000 lao động xuất sang Nhật thì cũng trong thời gian đó Trung Quốc đã có 123.117 lao động, gấp 17.58 lần so với Việt Nam[7]. Lao động làm việc ở Nhật Bản được hưởng mức lương cơ bản cao hơn nhiều so với nhiều nước trong khu vực. Song thị trường Nhật Bản là thị trường tương đối khó tính, chỉ nhận lao động có nghề và phải được học tiếng Nhật trước khi đưa sang. Do vậy mà nước ta cần lưu ý đặc điểm khác biệt của thị trường này để đáp ứng kịp thời nếu không sẽ có nguy cơ dẫn đến mất thị trường này.
- Thị trường Đài Loan:
Đài Loan là một khu vưc có nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, là thị trường thu hút nhiều lao động Việt Nam. Nhu cầu sử dụng lao động của Đài Loan là rất cao, mỗi năm thị trường này tăng khoảng trên 2000 lao động. Do vậy, đưa lao động nước ngoài vào làm việc tại Đài Loan là một hướng đi đúng đắn. Thị trường lao động tuy mới nhận lao động Việt Nam, nhưng khả năng chúng ta vẫn có thể tiếp tục gia tăng số lượng trong thời gian tới. Tính đến 2002, đúng ba năm kể từ khi lao động Việt Nam đầu tiên đến Đài Loan theo con đường xuất khẩu lao động chính thức đã có 24.140 lao động nước ta sang làm việc. Khác với Hàn Quốc và Nhật Bản, Đài Loan có chính sách nhận lao động nước ngoài dựa trên hệ thống luật lệ và các quy chế tương đối rõ ràng. Cuối năm 1999, Đài Loan mới nhận thêm lao dộng Việt Nam, do vậy mà lao động Việt Nam phải cạnh tranh với một số lao động nước khác như: Thái Lan, Philipin, Malaixia và Inđônêxia. Trong điều kiện tham gia sau nên Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc chiếm lĩnh thị trườngcho mình. Ngoài ra, thị trường Đài Loan là một thị trường khó tính, chủ yếu tiếp nhận lao động có tay nghề và ngoại ngữ, yêu cầu về hiện trạng sức khoẻ rất cao.
Hiện nay Đài Loan đang có nhu cầu rất cao về các lao động làm các công việc gia đình, phần lớn cần lao động nữ phổ thông. Tuy nhiên loại hình lao động này ngoài tiêu chuẩn về sức khoẻ, tuổi tác, giới tính thì yêu cầu căn bản phải có kinh nghiệm và sự khéo léo, chăm chỉ thật thà. Những tiêu chuẩn này rất phù hợp với lao động nữ phổ thông hiện nay đang có nhu cầu việc làm ở nước ta. Đến nay đã có 141 doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực này và được phép cung ứng lao động cho Đài Loan. Ngoài lao động giúp việc gia đình thì những ngành khác như: điện tử, may mặc, dệt, chế tạo, xây dựng, thuyền viên đánh cá...cũng thu hút thị trường lao động Việt Nam. Đến nay có khoảng 16000 lao động Việt Nam đã được đưa sang làm việc tại Đài Loan, trong đó có 6250 lao động giúp việc gia đình[8;2].
b. Khu vực Đông Nam á
- Thị trường nước Cộng hoà dân chủ nhân đân Lào
Trong khu vực Đông Nam á, mới chỉ có Lào đang nhận lao động ta với số lượng tương đối lớn và đa dạng. Trong tương lai, Lào vẫn sẽ là một trong các thị trường chính của lao động Việt Nam. Bên cạnh yếu tố gần gũi về địa lý, giữa nước ta và Lào còn có tình hữu nghị đặc biệt của hai dân tộc anh em
Lào là một quốc gia nhỏ, trình độ phát triển chậm đứng sau nước ta. Trong những năm qua, ta đã đưa được số lượng tương đối lớn lao động sang Lào làm việc. Tuy nhiên, cách tiếp cận thị trường này khác với cách tiếp cận các thị trường khác. ở Lào, do kinh tế chưa phát triển, nên hình thức cung ứng lao động cho các chủ sử dụng lao động tại Lào không chiếm tỉ trọng lớn, trong khi hình thức đưa lao động Việt Nam sang nhận thầu công trình, thực hiện các hợp đồng liên doanh, liên kết hoặc theo các dự án hợp tác giữa các địa phương của hai nước là những hình thức chủ yếu. Hiện nay chính phủ hai nước đã có những quy định phân cấp quản lý công tác này cho một số địa phương, để một mặt tạo điều kiện thuận lợi hơn về thủ tục cho người lao động, mặt khác có thể quản lý được nhiều đối tượng hơn, giảm thiểu số lượng lao động Việt Nam tự do sang Lào làm việc không theo các quy định có liên quan của hai bên.
-Thị trường Sigapore.
Do thiếu lao động trầm trọng , chính phủ Singapore cho phép nhận một lượng lớn công nhân nước ngoài làm việc trong nhiều lĩnh vực sản xuất. Chính phủ đã mở rộng các luật lệ nhập cư để thu hút lao động có tay nghề cao, thay thế cho các công nhân Singapore đã được đào tạo tay nghề cao nhưng đã di cư ra nước ngoài trong nhưng năm gần đây. Tính tới tháng 2002 có khoảng 4750 lao động củaViệt Nam làm việc tại Singpore[8]
-Thị trường Malayxia.
Cùng với qua trình công nghiệp hoá nhanh chóng, một tỷ lệ lớn lao động của Malayxia đã tràn từ khu vực nông thôn nên thành thị. Tình trạng thiếu lao động có thể thấy ở nông thôn, đồn điền, một số ngành công nghiệp khác, vì thế ở các vùng đồn điền phụ thuộc ngày càng nhiều vào lao động nước ngoài. Trong những năm gần đây sự bùng nổ kinh tế của Malayxia đã vượt quá khả năng cung ứng lao động trong nước. Nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài là cần thiết và có chiều hướng gia tăng. Theo cục quản lý lao động với nước ngoài, đến đầu tháng 2002 có 46.000 lao động người Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, vượt kế hoạch 15,3%.Trong đó, riêng thị trường mới Malaysia đã nhận hơn 22000 người[8]
c. Khu vực Trung Đông
Trung đông là khu vực tiếp giáp giữa Châu á, Châu âu và Bắc Phi, chiếm 40% trữ lương dầu mỏ của thế giới. Khu vực này luôn là điểm nóng của nhiều cuộc xung đột làm cho kinh tế và an ninh hết sức phức tạp. Với thị trường này, nước ta cần định hướng cho một số doanh nghiệp có kinh nghiệm tìm hiểu đối tác tin cậy để ký một số hợp đồng theo hướng: cung ứng lao động cây dựng, công nhân dầu khí, công nhân sản xuất.
Trong thời gian qua Việt Nam đã có quan hệ ngoại với nhiều nước ở khu vực này như: Iran, Irắc, LiBăng, Tiểu vương quốc ả Rập thống nhất, Israen...nhưng Irắc đang có chiến tranh nên lượng lao động xuất sang thị trường nay giảm rõ rệt. Các thị trường khác có thể đưa lao động sang hoạt động ở các lĩnh vực: công nghiệp, giao thông, điện nước...Những ngành này đòi hỏi nhiều lao động trong khi lực lượng lao động và chuyên gia khoa học kỹ thuật, công nhân lành nghề ở các nước này rất khan hiếm. Do đó, nhu cầu nhập khẩu lao động nước ngoài vào là cần thiết. Hiện nay đang có khoảng 1000 người đang lao động ở LiBăng, 2000 người ở Côoét và trên 500 người ở ả Rập thống nhất[24;7].
Như vậy: Sự phát triển không đồng đều về kinh tế, chính trị, xã hội cũng như phân bố không đồng đều tài nguyên thiên nhiên dẫn đến sự phát triển không đồng đều giữa các quốc gia. Không có quốc gia nào lại có đủ và đồng bộ các yếu tố sản xuất. Trong điều kiện kinh tế thị trường, việc giải quyết tình trạng mất cân đối trên dẫn đến hình thành thị trường quốc tế , trong đó có thị trường sức lao động. Từ điều kiện đó, xuất khẩu lao độngđã trở thành hoạt động quan trọng của nhiều nước trên thế giới qua nhiều thập kỷ. Đối với nước ta, một nước có tiềm năng lao động dồi dào, giá nhân công ở mức vừa thấp, có khả năng cạnh tranh lớn, yêu cầu bức xúc về việc làm cho hàng triệu lao động mỗi năm là một sức ép lớn. Vấn đề này không chỉ giải quyết bằng đầu tư phát triể._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36987.doc