MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TPCP : Trái phiếu Chính phủ
NSNN : Ngân sách Nhà nước
TPKB : Tín phiếu Kho bạc
UBND : Ủy ban Nhân dân
KBNN : Kho bạc Nhà nước
ĐBSH : Đồng bằng sông Hồng
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Kết quả phát hành Tín Phiếu KB qua KBNN giai đoạn 2003-2007 22
Bảng 1.2: Kết quả phát hành Trái Phiếu KB qua KBNN giai đoạn 2003-2007 23
Bảng 1.3 :Kết quả huy động TPCP có mệnh giá bằng ngoại tệ giai đoạn 2003-2004 25
Bảng 1.4 : Kết qu
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1285 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2003-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ả phát hành công trái XDTQ giai đoạn 2003-2005 27
Bảng 2.1: Bảng tồng hợp trái phiếu chính phủ giai đoạn 2003-2010 34
Bảng 2.2: Kế hoạch vốn và vốn đầu tư thực hiện từng năm 36
Biểu đồ 1 :KH vốn và vốn ĐT thực hiện theo từng năm 36
Bảng 3.1 : Bảng tổng hợp các công trình giao thông giai đoạn 2003-2010 38
Bảng 3.2 : Tỷ lệ giải ngân cho các năm của ngành giao thông 39
Biểu đồ 2: Tỷ lệ giải ngân vốn TPCP từng năm của ngành giao thông 40
Bảng 4.1 :Bảng tổng hợp các công trình thủy lợi giai đoạn 2003-2010 44
Bảng 4.2: Tỷ lệ giải ngân các năm cho ngành thủy lợi 46
Biểu đồ 3: Tỷ lệ giải ngân vốn TPCP từng năm của ngành thủy lợi 46
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì đòi hỏi cần huy động nhiều nguồn lực. Các nguồn lực bao gồm như vốn, lao động, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên và vốn chính là một trong số những nguồn lực cơ bản nhất. Hiện nay thì đất nước ta còn nhiều khó khăn, nguồn lực còn nhiều hạn chế mà nhu cầu đầu tư lại rất cao, chính vì thế mà một khi nắm giữ vốn trong tay thì phải làm sao sử dụng cho thật hiệu quả. Trong tất cả các nguồn vốn mà nước ta đang sử dụng thì nguồn vốn trái phiếu Chính phủ có tầm quan trọng nhất, tuy nhiên trong quá trình thực tập nhận thấy việc sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ còn có nhiều bất cập và chưa hiệu quả nên em quyết định chọn đề tài : ”Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2003-2010” để nghiên cứu. Lựa chọn đề tài này sẽ đưa ra được một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ tốt hơn trong giai đoạn này và có thể sử dụng cho các giai đoạn sau.
Là một sinh viên thực tập chuẩn bị ra trường, tầm hiểu biết, nhìn nhận việc sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ còn có giới hạn, nhưng được sự giúp đỡ của Ths. Trần Mai Hoa và các cán bộ ở Vụ đầu tư-Bộ tài chính nên em đã hoàn thành tốt đề tài của mình.
Kết cấu đề tài gồm 3 chương :
CHƯƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁI PHIẾU VÀ TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ GIAI ĐOẠN 2003-2010
CHƯƠNG 3:MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ
CHƯƠNG 1NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁI PHIẾU VÀ TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ
1.1. Trái phiếu
1.1.1. Khái niệm
Trái phiếu là một công cụ nợ do các cơ quan công quyền, các công ty đang hoạt động phát hành nhằm huy động vốn trên thị trường, trong đó các trái chủ được cam kết sẽ thanh toán cả gốc và lãi trong một thời hạn nhất định.
Về bản chất, phát hành trái phiếu chính là một hình thức vay nợ. Người mua và sở hữu trái phiếu được gọi là trái chủ chính và chủ nợ của đơn vị phát hành. Trái chủ được hưởng các quyền và lợi ích của một chủ nợ. Họ sẽ được ưu tiên thanh toán tiền lãi và hoàn trả tiền gốc khi đơn vị giải thể hoặc phá sản. Thời gian đáo hạn của trái phiếu là hữu hạn. Chủ thể phát hành trái phiếu không chỉ bao gồm các công ty cổ phần mà còn bao gồm các loại hình doanh nghiệp khác. Ngoài ra, Chính phủ trung ương và chính quyền địa phương cũng phát hành trái phiếu để huy động vốn trên thị trường.
Tiền lãi trái phiếu thường là ổn định so với mệnh giá. Người ta thường xếp trái phiếu vào loại chứng khoán có thu nhập ổn định. Lãi suất của các loại trái phiếu tại các thời điểm khác nhau phụ thuộc vào cung cầu vốn trên thị trường.
Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ thuộc vào chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của Ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt ngân sách của Chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó. Lãi suất trái phiếu cũng phụ thuộc vào mức độ rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc rủi ro của lãi suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn thì lãi suất càng cao. Thời gian đáo hạn của trái phiếu cũng ảnh hưởng đến lãi suất. Nếu trái phiếu có mức rủi ro như nhau, thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
1.1.2 Phân loại trái phiếu
1.1.2.1. Căn cứ vào hình thức thể hiện
Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ chứng chỉ, và khi đến hạn trả lãi, người nắm giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới ngân hàng nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang chứng chỉ tới ngân hàng để nhận lại khoản cho vay.
Trái phiếu ghi danh: là trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ được thực hiện cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh toàn bộ mà đang phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hoàn toàn không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của chủ sỡ hữu trên máy tính.
1.1.2.2. Theo chủ thể phát hành
- Trái phiếu Chính phủ
Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của NSNN, Chính phủ các nước thường phát hành trái phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội. Chính phủ một quốc gia luôn được xem là nhà phát hành có uy tín nhất trên thị trường. Như vậy, có thể khái quát Trái phiếu Chính phủ là công cụ vay nợ dài hạn do Chính phủ phát hành nhằm mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm công cụ điều tiết tiền tệ. Trái phiếu Chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu Chính phủ thường được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cự ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kì hạn.
Trái phiếu Chính phủ có nhiều loại khác nhau, nếu căn cứ vào kỳ hạn và mục đích phát hành thì TPCP được chia thành: Tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình TW, trái phiếu đầu tư, trái phiếu ngoại tệ, công trái xây dựng tổ quốc.
- Trái phiếu doanh nghiệp
Trái phiếu doanh nghiệp là các trái phiếu do các doanh nghiệp phát hành để vay vốn dài hạn. Trái phiếu doanh nghiệp có đặc điểm là : trái chủ được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song không được tham dự vào công việc của công ty. Nhưng cũng có loại trái phiếu không được trả lãi định kỳ, người mua được mua dưới mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại đúng mệnh giá. Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước cổ phiếu . Trái phiếu doanh nghiệp có thể có những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều hình thức đảm bảo cho khoản vay. Trái phiếu doanh nghiệp bao gồm những loại sau : trái phiếu có đảm bảo và trái phiếu không đảm bảo.
+ Trái phiếu đảm bảo là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản thế chấp cụ thể , thường là các bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái phiếu này được bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì họ có quyền đòi nợ đối với một tài sản cụ thể.
+ Trái phiếu không đảm bảo (trái phiếu tín chấp) là trái phiếu không được đảm bảo bằng tài sản mà được đảm bảo bằng uy tín của đơn vị phát hành. Nếu công ty bị phá sản, các trái chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ có bảo đảm, nhưng trước cổ đông.
Các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho phép trái chủ được quyền chuyển trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tuỳ theo quy định, việc chuyển đổi có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào, hoặc chỉ vào những thời điểm cụ thể xác định. Ngoài ra, mỗi đợt trái phiếu được phát hành có thể được gắn kèm theo những đặc tính riêng khác nữa nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một bên nào đó như:
+ Trái phiếu có thể mua lại : cho phép người phát hành mua lại chứng khoán trước khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người phát hành song lại bất lợi cho ngườ đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể có lãi suất cao hơn so với những trái phiếu khác có cùng kì hạn.
+ Trái phiếu có thể bán lại : cho phép người nắm giữ trái phiếu được quyền bán lại trái phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền chủ động trong trường hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu này có thể thấp hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
+ Trái phiếu có thể chuyển đổi cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu phổ thông, tức là thay đổi tư cách từ người chủ nợ trở thành người chủ sở hữu của công ty. Loại trái phiếu này thuộc vào nhóm hàng hóa chứng khoán có thể chuyển đổi.
1.1.3. Đặc điểm của trái phiếu
Trái phiếu là loại hình chứng khoán nợ, bất kỳ một loại trái phiếu nào cũng mang những đặc điểm sau :
1.1.3.1. Tính rủi ro của trái phiếu
Trái phiếu nào cũng có tính rủi ro, mức độ cao hay thấp thì hoàn toàn phụ thuộc vào tính chất, đặc thù của từng loại trái phiếu. Thường thì người đầu tư vào trái phiếu đều trông chờ vào tiền lãi mà không tham gia trực tiếp vào quá trình quản lý của nhà phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, trước lúc đầu tư vào trái phiếu họ cũng phải so sánh, cân nhắc giữa tiền lời thu được từ lãi trái phiếu với lợi nhuận thu được từ việc đầu tư vào các lĩnh vực khác. Khi nền kinh tế có những biến động tiêu cực như tỷ lệ lạm phát, lãi suất thị trường cao, kinh tế khủng hoảng... thì những yếu tố này cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến rủi ro trong việc đầu tư vào trái phiếu. Khi trái phiếu được lưu hành giá của trái phiếu được hình thành trên thị trường do cung và cầu quyết định. Rủi ro đối với đầu tư vào trái phiếu thể hiện trên hai khía cạnh đó là: Khi lãi suất thị trường tăng làm cho giá trái phiếu giảm điều này ảnh hưởng trực tiếp đến lợi tức đầu tư vào trái phiếu và trong trường hợp thị trường thiếu tính thanh khoản thì việc chuyển đổi trái phiếu ra tiền mặt sẽ gặp nhiều khó khăn.
Các loại TP khác nhau có mức độ rủi ro khác nhau. Cụ thể, TPCP có mức độ rủi ro thấp nhất vì nguồn vốn thanh toán TPCP khi đến hạn được NSNN đảm bảo, trái phiếu chính quyền địa phương thì được đảm bảo bằng ngân sách của địa phương, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh trong trường hợp nhà phát hành không có khả năng trả nợ thì Chính phủ sẽ hỗ trợ, trong khi đó trái phiếu công ty thì có mức độ rủi ro cao hẳn vì nguồn vốn đảm bảo thanh toán các khoản nợ phụ thuộc nhiều vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ thể phát hành.
1.1.3.2. Khả năng sinh lời của trái phiếu
Trái phiếu là chứng chỉ vay nợ của Chính phủ hoặc của công ty, khi đầu tư vào trái phiếu tức là nhà đầu tư sẽ thu lại được một khoản lợi tức mong đợi trong tương lai. Thông thường đối với các loại trái phiếu có các khoản lợi tức sau:
- Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất trái phiếu thường được ghi trên chứng chỉ trái phiếu hoặc người phát hành công bố, lãi suất danh nghĩa có tính ổn định cao vì tỷ lệ lãi suất trái phiếu và mệnh giá là cố định trong một kỳ hạn.
- Lãi suất hoàn vốn hiện hành: Được hình thành khi mua bán trái phiếu trên thị trường và nó là số đo gần đúng với lãi suất hoàn vốn, khi giá mua (hoặc bán) trái phiếu bằng mệnh giá thì lãi suất hoàn vốn hiện hành chính bằng lãi suất hoàn vốn, nghĩa là giá trái phiếu càng gần với mệnh giá thì lãi suất hoàn vốn hiện hành càng gần với lãi suất hoàn vốn. Như vậy, lãi suất hiện hành biến động cùng chiều với lãi suất hoàn vốn.
Nếu lãi suất thị trường tăng sẽ làm sụt giảm giá trái phiếu, dẫn đến tình trạng thua lỗ về vốn đối với những trái phiếu mà thời gian đến ngày đáo hạn dài hơn thời gian lưu giữ trái phiếu. Lãi suất thị trường tăng quá cao có thể dẫn đến tình trạng lỗ vốn quá lớn, khi mức lỗ về vốn cao hơn mức lãi suất hiện hành ban đầu thì lãi suất kỳ hạn của trái phiếu trở thành lãi suất âm. Lãi suất thị trường giảm sẽ làm cho giá trái phiếu tăng lên và sẽ có mức lời về vốn đối với những trái phiếu mà thời gian đến ngày đáo hạn dài hơn thời gian lưu giữ trái phiếu.
1.1.3.3. Tính thanh khoản của trái phiếu
Đó chính là khả năng chuyển đổi trái phiếu thành tiền mặt, mỗi một loại trái phiếu có khả năng thanh khoản khác nhau. TPCP thông thường có tính thanh khoản cao hơn so với các loại trái phiếu khác. Tín phiếu kho bạc là loại TPCP có tính thanh khoản cao nhất bởi vì kỳ hạn của nó ngắn (dưới 1 năm), nó là một trong những công cụ quan trọng của thị trường tiền tệ. Tín phiếu kho bạc cũng là một yếu tố cấu thành khối lượng tiền trong quá trình lưu thông, nó được mua bán trên thị trường vốn còn TPKB thường có kỳ hạn từ 1 năm trở lên, do vậy tín thanh khoản của TPKB thấp hơn tín phiếu kho bạc, TPKB được giao dịch trên thị trường thứ cấp, trong quá trình này NHTW cũng tham gia với vai trò là chiết khấu ngắn hạn các công cụ nợ dài hạn, vì thế mà TPKB cũng là một công cụ nợ có tính thanh khoản khá cao.
TPCP chính quyền địa phương, trái phiếu do cơ quan Chính phủ phát hành có tính thanh khoản thấp hơn tín phiếu kho bạc và trái phiếu kho bạc. Thông qua việc nắm bắt được đặc điểm chung của trái phiếu và các đặc điểm riêng của từng loại trái phiếu nó giúp cho các nhà đầu tư trong việc ra quyết định khi tham gia đầu tư vào thị trường đầy hấp dẫn và rủi ro này.
1.1.4. Các yếu tố cơ bản của trái phiếu
Có nhiều loại trái phiếu khác nhau, nhưng các loại trái phiếu đều có chung những yếu tố chủ yếu sau :
1.1.4.1. Mệnh giá của trái phiếu
Mệnh giá trái phiếu hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu là giá trị được ghi trên trái phiếu, giá trị này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá trái phiếu là căn cứ để xác định số lợi tức tiền vay mà người phát hành phải trả. Mệnh giá cũng thể hiện số tiền người phát hành phi hoàn trả khi trái phiếu đến hạn.
1.1.4.2. Lãi suất danh nghĩa
Lãi suất trái phiếu thường được ghi trên trái phiếu hoặc người phát hành công bố được gọi là lãi suất danh nghĩa. Lãi suất này được xác định theo tỷ lệ phần trăm (%) với mệnh giá của trái phiếu và cũng là một căn cứ để xác định lợi tức của trái phiếu. Lãi suất trái phiếu là một trong những yếu tố căn bản nhất của trái phiếu, đó là tiêu điểm quan tâm của nhà đầu tư, do vậy, nó có ảnh hưởng nhiều đến giá của trái phiếu. Lãi suất trái phiếu phụ thuộc nhiều vào các yếu tố như thời hạn của trái phiếu, chỉ số lạm phát và những biến động khác của thị trường.
1.1.4.3. Thời hạn của trái phiếu
Là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người phát hành hoàn trả tiền vốn lần cuối. Ngày mà khoản vốn gốc trái phiếu được thanh toán lần cuối được gọi là ngày đáo hạn của trái phiếu. Có nhiều cách phân loại kỳ hạn trái phiếu khác nhau, trên thực tế người ta thường phân ra các loại kỳ hạn sau: Trái phiếu ngắn hạn (có kỳ hạn dưới một năm); trái phiếu trung hạn (có kỳ hạn từ 1 đến 5 năm), trái phiếu dài hạn (có kỳ hạn từ 5 năm trở lên).
1.1.4.4. Kỳ trả lãi
Là khoảng thời gian người phát hành trả lãi cho người nắm giữ trái phiếu. Tại nhiều nước, lãi suất trái phiếu được xác định theo năm, nhưng việc thanh toán lãi trái phiếu thường được thực hiện 6 tháng một lần.
1.1.4.5. Giá phát hành
Là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông thường, giá phát hành được xác định theo tỷ lệ (%) của mệnh giá. Tuỳ theo tình hình của thị trường và của người phát hành để xác định giá phát hành một cách hợp lý. Có thể phân ra 3 trường hợp sau:
+ Giá phát hành bằng mệnh giá
+ Giá phát hành thấp hơn mệnh giá
+ Giá phát hành cao hơn mệnh giá
1.2. Trái phiếu Chính phủ
1.2.1. Khái niệm
Trái phiếu Chính phủ là một loại chứng khoán nợ, do Chính phủ phát hành có thời hạn, mệnh giá, lãi suất và xác nhận nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với người sở hữu trái phiếu, TPCP là tên gọi chung của các loại trái phiếu do KBNN phát hành và trái phiếu chính quyền địa phương, các cơ quan được Chính phủ cho phép phát hành và được Chính phủ bảo lãnh.
Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh là loại chứng khoán nợ do doanh nghiệp phát hành nhằm huy động vốn cho các công trình theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ, được Chính phủ cam kết trước các nhà đầu tư về việc thanh toán đúng thời hạn của tổ chức phát hành. Trường hợp tổ chức phát hành không thực hiện được nghĩa vụ trả gốc và lãi khi đến hạn thì Chính phủ sẽ chịu trách nhiệm trả nợ thay cho tổ chức phát hành.
Trái phiếu Chính quyền địa phương là một loại chứng khoán nợ, do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phát hành, có thời hạn, có mệnh giá, có lãi suất xác nhận nghĩa vụ trả nợ của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với người nắm giữ trái phiếu.
1.2.2. Các đặc điểm của trái phiếu Chính phủ
Chủ thể phát hành trái phiếu là : Chính phủ, các doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Trái phiếu được phát hành và thanh toán bằng đồng Việt Nam hay ngoại tệ tự do chuyển đổi. Đồng tiền sử dụng để thanh toán trái phiếu phải cùng loại với đồng tiền lúc phát hành. Trái phiếu được phát hành dưới dạng chứng chỉ hay bút toán ghi sổ có tên hoặc không ghi tên. Mệnh giá tối thiểu là 100.000 đồng, được quy định cụ thể theo từng đợt phát hành do Bộ trưởng Bộ tài chính quy đinh.
Đối tượng mua là các tổ chức, cá nhân Việt Nam, người Việt Nam sống ở nước ngoài, các tổ chức, cá nhân người nước ngoài làm việc và sinh sống hợp pháp tại Việt Nam. Đối với các tổ chức Việt Nam không được dùng nguồn kinh phí của Nhà nước để mua trái phiếu.
1.2.3. Mục đích của việc phát hành trái phiếu
Mục đích của việc phát hành trái phiếu Chính phủ là nhằm huy động vốn để bù đắp thiếu hụt NSNN, đầu tư xây dựng các công trình, dự án trọng điểm hoặc để xây dựng, thực hiện các chương trình mục tiêu của Chính phủ. Nguồn thanh toán trái TPCP chủ yếu lấy từ NSNN hoặc nguồn vốn thu hồi trực tiếp từ các công trình đã phát hành TPCP để đầu tư xây dựng mang lại. Do vậy, TPCP có tính an toàn cao, tính rủi ro thấp bởi vì nó sử dụng chủ yếu nguồn vốn NSNN để chi trả nợ.
Đối với các loại trái phiếu do KBNN phát hành, trái phiếu chính quyền địa phương nguồn vốn thanh toán được đảm bảo bằng vốn NSNN, còn đối với các loại trái phiếu do các cơ quan khác được Chính phủ cho phép phát hành nguồn vốn thanh toán được lấy trực tiếp từ nguồn thu của các chương trình, dự án đó mang lại, trong trường hợp nếu các cơ quan được Chính phủ cho phép phát hành không có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ thì Chính phủ sẽ đứng ra trả nợ.
1.2.4. Phân loại trái phiếu Chính phủ
1.2.4.1. Tín phiếu kho bạc
Tín phiếu kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ có kì hạn dưới một năm do Kho bạc Nhà nước phát hành nhằm phát triển thị trường tiền tệ và huy động vốn để bù đắp những thâm hụt tạm thời của ngân sách Nhà nước trong năm tài chính.
Tín phiếu kho bạc được phát hành theo phương thức đấu thầu, nên khối lượng và lãi suất tín phiếu kho bạc được hình thành sau khi đấu thầu. Bộ tài chính có thể ủy thác cho Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại Nhà nước phát hành, thanh toán tín phiếu kho bạc.
Tham gia đấu thầu tín phiếu kho bạc bao gồm các tổ chức tín dụng hoạt động theo Luật tổ chức tín dụng, các công ty bảo hiểm, quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư hợp pháp tại Việt Nam và các chi nhánh của các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nếu lượng phát hành đấu thầu không hết thì Ngân hàng Nhà nước có thể mua phần còn lại.
Toàn bộ khoản vay từ tín phiếu kho bạc được tập trung ở ngân sách trung ương để sử dụng theo quy định Luật ngân sách Nhà nước. Ngân sách trung ương phải đảm bảo nguồn thanh toán gốc, lãi tín phiếu kho bạc và toàn bộ chi phí cho tổ chức nhận ủy thác phát hành.
1.2.4.2.Trái phiếu kho bạc
Trái phiếu kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ có kì hạn một năm trở lên do Kho bạc nhà nước phát hành để huy động vốn bù đắp thiêu hụt ngân sách Nhà nước theo dự toán ngân sách nhà nước hàng năm đã được Quốc hội quyết định.
Trái phiếu kho bạc được bán lẻ qua hệ thống kho bạc Nhà nước hay qua các đại lý, thị trường tiền tệ. Trái phiếu được bán cho các cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp trong và ngòai nước hợp pháp.
Lãi suất trái phiếu kho bạc do Bộ trưởng bộ tài chính quyết định trên cơ sở thực tế của thị trường tài chính hiện tại. Trong trường hợp đấu thầu thì lãi suất dựa vào kết quả đấu thầu.
Khi đáo hạn thì kho bạc Nhà nước hay các tổ chức nhận ủy thác của Bộ tài chính để thanh toán phần gốc và lãi cho các chủ sở hữu trái phiếu.
1.2.4.3.Trái phiếu công trình trung ương
Trái phiếu công trình trung ương là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn từ một năm trở lên do kho bạc Nhà nước phát hành, nhằm huy động vốn theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ cho các dự án thuộc vốn đầu tư của ngân sách trung ương, đã ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn trong năm.
Trái phiếu này chỉ phát hành khi sử dụng cho công trình nằm trong danh mục đầu tư trọng điểm hàng năm của Chính phủ. Phương án phát hành trái phiếu, kế hoạch sử dụng vốn vay và phương án hoàn trả nợ vay khi đến hạn được thực hiện theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở đề án do Bộ tài chính xây dựng.
Trái phiếu loại này được phát hành qua phương thức bán lẻ của Kho bạc Nhà nước, đấu thầu hay bảo lãnh phát hành. Lãi suất trái phiếu công trình trung ương do Bộ tài chính quyết định trên cơ sở tình hình tài chính tại thời điểm phát hành. Trong trường hợp đấu thầu thì lãi suất được quyết định bởi lãi suất thắng thầu.
Các khoản vay từ trái phiếu công trình trung ương được tập trung ở ngân sách trung ương để chi cho các công trình đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định. Ngân sách trung ương đảm bảo việc thanh toán gốc và lãi cho người nắm giữ trái phiếu.
1.2.4.4.Trái phiếu đầu tư
Trái phiếu đầu tư là trái phiếu Chính phủ có kì hạn một năm trở lên do các tổ chức Nhà nước, các tổ chức tài chính tín dụng được Thủ tướng Chính phủ chỉ định để phát hành nhằm huy động vốn để đầu tư theo chính sách của Nhà nước.
Trái phiếu này được phát hành riêng cho từng mục tiêu kinh tế, tổng mức phát hành không được vượt quá chỉ tiêu được Chính phủ hay Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cho từng mục tiêu cụ thể hay từng năm cụ thể. Phương án phát hành được Bộ tài chính thẩm định, mức phát hành, thời điểm phát hành, mệnh giá, kì hạn của trái phiếu do tổ chức phát hành kết hợp với Bộ tài chính thực hiện, Bộ trưởng Bộ tài chính quy định lãi suất trần của trái phiếu trên cơ sở thị trường tài chính và nhu cầu huy động vốn, trong trường hợp đấu thầu thì lãi suất được sử dụng theo lãi suất thắng thầu và không được vượt lãi suất trần.
Tiền thu từ việc phát hành trái phiếu được theo dõi riêng và chỉ được sử dụng cho các mục tiêu kinh tế mà Thủ tướng quyết định. Tổ chức phát hành có trách nhiệm thanh toán gốc lãi các trái phiếu đã phát hành đến hạn thanh toán và các chi phí liên quan đến việc tổ chức phát hành và thanh toán. Ngân sách Nhà nước thanh toán một phần hay toàn bộ trái phiếu hoặc cấp bù chênh lệch lãi suất cho tổ chức phát hành theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ đối với từng mục tiêu kinh tế cụ thể.
1.2.4.5.Trái phiếu ngoại tệ
Trái phiếu ngoại tệ là một loại trái phiếu Chính phủ có kì hạn một năm trở lên do Bộ tài chính phát hành cho các mục tiêu chỉ định của Thủ tướng Chính phủ.
Trái phiếu được phát hành bằng đồng tiền là ngoại tệ tự do chuyển đổi, các loại ngoại tệ phù hợp với nhu cầu sử dụng do Bộ trưởng Bộ tài chính quyết định.
Trái phiếu ngoại tệ được bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước hoặc đấu thầu qua hệ thông Ngân hành Nhà nước. Được phát hành theo từng đợt, Bộ tài chính xây dựng phương án phát hành cụ thể do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Khối lượng và cơ cấu phát hành mỗi đợt phải phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn theo các mục tiêu chỉ định của Thủ tướng. Bộ trưởng Bộ tài chính quyết định thời gian, đồng tiền phát hành, lãi suất, kì hạn, mệnh giá của trái phiếu ngoại tệ.
Ngoại tệ thu được từ các đợt phát hành sử dụng cho các mục tiêu mà Thủ tướng Chính phủ quyết định. Ngân sách Nhà nước thanh toán gốc và lãi trái phiếu khi đến hạn, trường hợp ngoại tệ thu được từ việc phát hành trái phiếu được bán cho Ngân hàng Nhà Nước để dự trữ ngoại hối thì Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm bán lại cho Bộ tài chính để thanh toán gốc và lãi khi đến hạn. Bộ tài chính quy định mức phí phát hành và thanh toán trái phiếu ngoại tệ.
1.2.4.6. Công trái xây dựng Tổ quốc
Công trái xây dựng tổ quốc do Chính phủ phát hành nhằm huy động nguồn vốn trong nhân dân để đầu tư xây dựng những công trình quan trọng quốc gia và các công trình thiết yếu khác phục vụ sàn xuất, đời sống, tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đất nước.
Công trái xây dưng Tổ quốc được phát hành theo quy định của Ủy ban thường vụ Quốc hội về phát hành công trái xây dựng Tổ quốc.
Việc mua công trái được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện. Nhà nước đảm bảo giá trị công trái và bảo hộ quyền sở hữu các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu công trái.
1.2.5 Trách nhiệm của các Bộ ngành, Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
A. Bộ Kế hoạch đầu tư
Thông báo giao kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ đến từng Bộ và địa phương về tổng mức vốn trái phiếu Chính phủ, tổng mức vốn trái phiếu Chính phủ theo ngành, lĩnh vực do Bộ và tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý; danh mục dự án sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ.
Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính rà soát, tổng hợp nhu cầu vốn trái phiếu Chính phủ hàng năm của các dự án đã có trong danh mục để làm căn cứ cho việc huy động trái phiếu Chính phủ trong năm, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Định kỳ 3 tháng, hàng năm và đột xuất báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình thực hiện đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.
Chủ trì cùng Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan giám sát việc phân bổ nguồn vốn của các Bộ, địa phương đảm bảo đúng mục đích, đối tượng và nguyên tắc bố trí vốn; trình Thủ tướng Chính phủ xử lý những vấn đề phát sinh vượt quá thẩm quyền trong quá trình thực hiện.
B. Bộ tài chính
Tổ chức thực hiện phát hành trái phiếu Chính phủ theo kế hoạch và tiến độ thực hiện các dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.
Thực hiện hạch toán, quyết toán nguồn vốn huy động từ trái phiếu Chính phủ và việc sử dụng nguồn vốn này; tổ chức quản lý, cấp phát, thanh toán, quyết toán vốn đầu tư các dự án theo đúng quy định.
Định kỳ 3 tháng báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình huy động và việc cấp phát, thanh toán vốn đầu tư cho các công trình.
Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan trình Thủ tướng Chính phủ xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện.
C. Ngân hàn Nhà nước Việt Nam
Phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức đấu thầu phát hành trái phiếu Chính phủ qua hệ thống ngân hàng.
Tổ chức mua lại nguồn ngoại tệ thu được từ việc phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ để bổ sung dự trữ ngoại hối của Nhà nước và bán ngoại tệ cho Bộ Tài chính để thanh toán tiền gốc và lãi trái phiếu bằng ngoại tệ khi đến hạn.
D. Các Bộ: Giao thông vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Quốc phòng và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Sau khi nhận được thông báo giao kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ, triển khai việc phân bổ nguồn vốn trên cho từng công trình, dự án theo thứ tự và nguyên tắc nêu tại Điều 3, 4 Quyết định này.
- Chỉ bố trí vốn cho các dự án đã có đủ các thủ tục đầu tư theo đúng các quy định về quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành.
- Trường hợp không đủ nguồn để bố trí cho công trình, dự án thì phải giãn tiến độ sau năm 2010 hoặc sử dụng nguồn vốn khác để triển khai.
- Đăng ký phương án phân bổ vốn đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để theo dõi và cấp phát thanh toán.
- Đối với đường giao thông ô tô đến trung tâm các xã chưa có đường ô tô, ngoài nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, các địa phương cần bố trí ngân sách địa phương và huy động thêm các nguồn vốn hợp pháp khác, kể cả việc huy động từ đóng góp của cộng đồng dân cư để đầu tư.
Hàng năm đề xuất nhu cầu về mức vốn trái phiếu Chính phủ vào kỳ báo cáo kế hoạch gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để tổng hợp nhu cầu vốn của các công trình, dự án đã có trong danh mục làm căn cứ huy động trái phiếu Chính phủ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Hàng quý báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch của các dự án sử dụng nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Các Bộ, địa phương sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ phải tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện khẩn trương, dứt điểm, đảm bảo chất lượng, đúng chế độ quy định, sớm đưa công trình vào sử dụng phát huy hiệu quả, không để xảy ra tình trạng thất thoát, lãng phí, tiêu cực.
Bộ Quốc phòng thống nhất quản lý quy hoạch, quản lý vốn đầu tư các dự án đường tuần tra biên giới, phê duyệt các dự án thành phần theo địa bàn từng tỉnh, thời gian thực hiện dự án thành phần không quá 2 năm.
1.2.6. Vai trò và chức năng của trái phiếu Chính phủ trong việc huy động vốn đầu tư phát triển
Để thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2020, một trong những nhiệm vụ trọng tâm cấp bách là phải mở rộng quy mô và đẩy nhanh tốc độ huy động vốn. Xuất phát từ cấu trúc địa hình và đặc điểm phức tạp của khí hậu nước ta, giao thông và thuỷ lợi là một trong những lĩnh vực trọng điểm được nhà nước ưu tiên đầu tư, nhằm tạo ra những điều kiện tiền đề để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm dần sự cách biệt giữa miền núi và miền xuôi, góp phần nâng cao dân trí xoá đối giảm nghèo, bảo đảm an ninh quốc phòng của Tổ quốc. Trong những năm trước, việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chính phủ đã huy động được một khối lượng vốn lớn cho NSNN và cho đầu tư phát triển, nguồn vốn trong nước này đã góp phần đáp ứng nhu cầu chi của Ngân sách. Với tốc độ phát triển thời kỳ 1991-1995 nguồn vốn vay của Nhà nước qua trái phiếu Chính phủ là 1,3% GDP, chiếm 29% tổng số bội chi NSNN; thời kỳ 1996-2000 là 1,4% GDP, chiếm 33% tổng số bội chi NSNN, thời kỳ 2001-2003 vay bằng trái phiếu Chính phủ cao hơn, chiếm 53% tổng số bội chi NSNN. Kết quả đó huy động vốn trong nước có vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Theo tính toán của các ngành chức năng, trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, mỗi năm chúng ta cần khoảng 250 ngàn tỷ đồng cho đầu tư phát triển, riêng lĩnh vực giao thông, thuỷ lợi nhu cầu vốn bổ xung cho các công trình trọng điểm mỗi năm trên 15 ngàn tỷ đồng. Được Nhà nước và các ngành, địa phương quan tâ._.m, việc xây dưng các công trình giao thông thuỷ lợi đạt tốc độ tương đối nhanh. Chính vì vậy nhu cầu về vốn đầu tư cũng trở lên cấp bách.
Trái phiếu Chính phủ là một trong những công cụ quan trọng trong việc điều hành chinh sách tài khoá và chính sách tiền tệ quốc gia. TPCP gồm nhiều loại với các kì hạn khác nhau, tất cả đều có tác động riêng đến một nền kinh tế trong các giai đoạn khác nhau. Tín phiếu kho bạc vừa có vai trò là huy động vốn để bù đắp thiếu hụt ngân sách vừa là công cụ của thị trường tiền tệ, ngay cả những nước phát triển họ cũng phát hành trái phiếu ngắn hạn để đảm bảo hàng hoá giúp thị trường tiền tệ hoạt động. Trái phiếu kho bạc là công cụ huy động vốn cho NSNN và cả đầu tư phát triển, đặc biệt là các cơ sở hạ tầng quan trọng của đất nước, và thông qua đó sẽ thu hút được các nguồn lực tài chính để thực hiện các mục tiêu quốc gia, trong trường hợp NSNN không bị thâm hụt thì Bộ tài chính cũng phát hành trái phiếu kho bạc để thực hiện chính sách tiền tệ. Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ (số 182/2003/QĐ-TTg ngày 05/9/2003) nhu cầu vốn cho đầu tư các công trình giao thông thuỷ lợi giai đoạn 2003-2010 sẽ được huy động dưới hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ là 63 ngàn tỷ đồng.
Trong điều kiện kinh tế đang khó khăn, nguồn thu NSNN còn hạn hẹp. Nhu cầu chi cho NSNN và chi cho đầu tư lại đang cần thiết, dẫn đến tình trạng mất cân bằng thu chi. Đê giải quyết các vấn đề này thì Chính phủ có thể vay mượn nước ngoài hay tốt hơn là nguồn lực trong nước với việc phát hành trái phiếu Chính phủ, việc sử dụng công cụ huy động vốn này đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới huy động vốn qua kênh TPCP đang được Chính phủ sử dụng cùng với tự do hoá thị trường vốn trong nước thì việc phát hành TPCP sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư.
1.3. Sự phát triển của hình thức trái phiếu Chính phủ
1.3.1 Giai đoạn kháng chiến
ở nước ta, trong thời kỳ đầu lập nước và giữ nước, Chính phủ cũng đã áp dụng các hình thức công phiếu để huy động sự đóng góp và vay của dân để tăng cường nguồn lực tài chính phục vụ cho các mục tiêu chính trị, quân sự và phát triển kinh tế đất nước trong từng thời kỳ. Sau khi giành được chính quyền, để giải quyết những khó khăn về mặt tài chính, ngày 16/7/1946 Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã ra sắc lệnh số 122 cho phép Uỷ ban hành chính Nam bộ phát hành công trái vay của dân 5 triệu đồng, lãi đồng niên không quá 5% để phục vụ cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam bộ. Năm 1948, Bác Hồ ký sắc lệnh số 160-SL ngày 14/4/1948 cho phép phát hành trong toàn quốc “Công trái kháng chiến”. Nhằm một là: Huy động số tiền nhàn rỗi trong dân để phục vụ sản xuất và chiến đấu; hai là: Dùng công phiếu kháng chiến như một thứ tiền dự trữ với lãi suất 3%, thời hạn trả lãi 5 năm, đến năm 1950, trên tinh thần tổng động viên, Chính phủ cho phép phát hành loại ỎCông trái quốc giaÕ ghi bằng thóc để đảm bảo giá trị số tiền vay lãi suất 3% thời hạn 5 năm (Sắc lệnh số 139-SL ngày 19/9/1950).
1.3.2. Thời kì xây dựng đất nước
Thời kỳ xây dựng đất nước, để tăng cường huy động vốn phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu nhanh chóng hội nhập cộng đồng quốc tế. Ngày 25/11/1983 Chính phủ ban hành pháp lệnh về việc phát hành Công trái xây dựng Tổ Quốc bằng đồng Việt Nam bằng ngoại tệ thời hạn công trái là 10 năm, 5 năm, đảm bảo bằng một số mặt hàng chiến lược. Với mục đích cải thiện tình hình tài chính - ngân sách góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
1.3.3. Khi thành lập hệ thống Kho bạc Nhà nước
Khi hệ thống Kho bạc Nhà nước mới được thành lập, với chức năng và nhiệm vụ chủ yếu là quản lý quỹ NSNN. Thực hiện nhiệm vụ huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển: phát hành các hình thức tín phiếu, trái phiếu của Chính phủ với nhiều hình thức, các loại kỳ hạn, lãi suất khác nhau, nhằm huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, mà chủ yếu là nguồn vốn trong dân cư để bù đắp thiếu hụt NSNN và tăng cường nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Cụ thể là: Các loại tín phiếu Kho bạc thời hạn dưới 12 tháng thường được phát hành để bù đắp khoản thiếu hụt ngân sách tạm thời khi nguồn thu chưa đến hạn, các loại trái phiếu KBNN có thời hạn dài hơn được dùng để bù đắp bội chi NSNN hàng năm. Công trái Nhà nước được phát hành theo đợt, nhằm thu hút vốn thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội lớn của đất nước.
- Ngày 13/3/1991 Nhà nước phát hành tín phiếu KBNN các loại thời hạn 3 tháng, 6 tháng, có ghi địa chỉ người mua, có lãi thanh toán 1 lần cả gốc và lãi, thanh toán trước hạn không được trả lãi.
- Ngày 15/7/1992 Chính phủ phát hành tín phiếu nhằm xây dựng đường dây tải điện 500 KW Bắc - Nam thời hạn phát hành 1, 2, 3 năm đối tượng bắt buộc.
- Tháng 11/1993 Nhà nước phát hành tín phiếu trả lãi trước thời hạn 6 tháng, 12 tháng.
Từ giữa năm 1995 đến nay, KBNN đã phối hợp với Ngân hàng Nhà nước thành lập và đưa vào hoạt động thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, tạo thêm một kênh huy động vốn mới cho NSNN, thời gian huy động vốn nhanh, lãi suất thấp hơn hình thức bán lẻ trái phiếu, thuận lợi cho người phát hành và nhà đầu tư. Ngoài ra, KBNN còn phối hợp với và hướng dẫn UBND các tỉnh, các Bộ, ngành xây dựng đề án huy động vốn đầu tư cho các công trình thuộc các ngành: Xi măng, thuỷ điện; cơ sở hạ tầng tỉnh Bình Thuận, Tiền Giang, Cà Mau, Khánh Hoà, Lào Cai, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh với số vốn huy động hàng nghìn tỷ đồng.
- Tháng 5/1999, Nhà nước phát hành công trái xây dựng Tổ quốc kỳ hạn 5 năm lãi suất 10% năm. Nhằm huy động vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng cho 1000 xã nghèo đặc biệt khó khăn.
- Năm 2001 Nhà nước phát hành trái phiếu kỳ hạn 2 năm lãi suất 6,8 ; 7 % năm
- Năm 2002 Nhà nước phát hành trái phiếu kỳ hạn 2 năm lãi suất 7,1;7,4; 7,8 % năm
- Căn cứ Nghị quyết số 414/2003/NQ-UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc phát hành trái phiếu Chính phủ để xây dựng một số công trình giao thông, thuỷ lợi quan trọng của đất nước. Chính phủ đã phát hành 110.000 tỷ đồng trái phiếu để thực hiện Nghị quyết này.
1.4. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ
Một hoạt động đầu tư diễn ra bao giờ cũng có mục đích và mục tiêu rõ ràng. Có những dự án đầu tư thì mang nặng tính chất kinh tế, có những dự án lại mang ý nghĩa xã hội. Nguồn vốn TPCP là nguồn vốn huy động từ tầng lớp dân cư nên hiệu quả quả bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu. Kết quả và hiệu quả sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ được đánh giá qua các chỉ tiêu sau:
1.4.1. Chỉ tiêu kết quả
Trước hết, thể hiện ở khối lượng vốn đầu tư đã được thực hiện: đây là tổng số tiền đã chi ra để tiến hành các hoạt động đầu tư bao gồm các chi phí cho công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, công tác xây dựng, chi phí tư vấn, chi phí mua sắm các trang thiết bị máy móc, chi phí quản lý…phải so sánh những chỉ tiêu này với những chỉ tiêu đã tính toán. Thông thường thì tiêu chí kết quả này sẽ được xem xét trong hàng năm nhằm có những thay đổi hợp lý đảm bảo nguồn vốn được thực hiện đúng mục đích và các dự án trọng điểm sẽ được ưu tiên sử dụng vốn trước vì mục tiêu phát triển chung.
Tiếp đến là thời gian và khối lượng công trình hay hạng mục công trình đã được hoàn thành và có khả năng phát huy độc lập đưa vào sử dụng. Đây là một chỉ tiêu kết quả quan trọng, nó phản ánh được kết quả một cách rõ ràng nhất, đó là những con đường, những công trình thủy lợi, số giường bệnh, số trường lớp…được hoàn thành và đưa vào sử dụng.
Và cuối cùng chính là tỷ lệ giải ngân vốn. Trước khi một công trình, một dự án được bắt đầu thì phải xác định được lượng vốn cần đầu tư cho công trình, dự án đó và có một kế hoạch chi tiêu đầu tư rõ ràng cho từng năm. Và lượng vốn được rót xuống cho các công trình là một con số xác định, việc có và sử dụng số vốn này đúng với các kế hoạch đưa ra thể hiện được tốc độ giải ngân. Tốc độ giải ngân nhanh hay chậm là phụ thuộc vào cơ chế, chính sách, cách thức làm việc của chủ đầu tư cũng như các cấp chính quyền nơi mà các dự án được thực hiện. Tuy nhiên do tính chất nguồn vốn là huy động từ nhân dân nên hầu hết các dự án đều có tốc độ giải ngân chậm, một phần đã ảnh hưởng tới khối lượng, một phần đã ảnh hưởng tới thời gian hoàn thành công trình.
1.4.2. Chỉ tiêu hiệu quả
Hiệu quả đầu tư là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa các kết quả kinh tế-xã hội đã đạt được của hoạt động đầu tư với các chi phí phải bỏ ra để có các kết quả đó trong một thời kỳ nhất định. Tùy vào mục tiêu của tưng dự án và các định hướng chiến lược mà có tiêu chuẩn đánh giá khác nhau. Với nguồn vốn TPCP thì chỉ tiêu xã hội vẫn được đặt lên hàng đầu. Khi một dự án đem lại cho xã hội một lợi ích lớn hơn cái giá mà xã hội phải trả đồng thời đáp ứng một số yêu cầu về kinh tế thì dự án mới gọi là hiệu quả. Và các chỉ tiêu về xã hôi như sau luôn được đặt lên hàng đầu để xem xét dự án sử dụng vốn TPCP có hiệu quả hay không:
- Mức độ đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống dân cư được thể hiện gián tiếp qua các số liệu cụ thể về mức gia tăng sản phẩm, mức độ tăng trưởng phát triển của vùng.
- Thể hiện qua các số liệu về số lao động có việc làm, trình độ văn hóa xã hội, mức sống, tuổi thọ bình quân của vùng.
CHƯƠNG 2THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ GIAI ĐOẠN 2003-2010
2.1. Tình hình huy động vốn trái phiếu Chính phủ
2.1.1. Tình hình huy động vốn
2.1.1.1. Tín phiếu kho bạc
Trong các đợt phát hành, tín phiếu kho bạc thường có các kỳ hạn 3-6 tháng. Lãi suất phát hành tín phiếu kho bạc được xác định trên cơ sở kết quả từng đợt đấu thầu.. Việc đấu thầu tín phiếu kho bạc được thực hiện theo một trong hai hình thức đấu thầu cạnh tranh lãi suất, hoặc kết hợp giữa đấu thầu cạnh tranh lãi suất với đầu thầu không cạnh tranh lãi suất.
Bảng 1.1: Kết quả phát hành Tín Phiếu KB qua KBNN giai đoạn 2003-2007
Số TT
Năm
Khối lượng
(tỉ đồng)
Lãi suất (%/tháng)
Kì hạn
(tháng)
1
2003-2004
3842
0.9
3-6
2
2005
2234
0.8-1
3-6
3
2006
5214
0.9
6
4
2007
3129
0.9-1.1
6
Cộng
14.419
Nguồn: Vụ đầu tư-BTC
Hoạt động tín phiếu kho bạc qua NHNN đã đem lại những kết quả thiết thưc. Qua nhiều năm hoạt động thì thị trường tín phiếu kho bạc đã phát triển về cả quy mô lẫn tần suất thực hiện. Hầu hết là khối lượng huy động năm sau nhiều hơn năm trước và đây cũng chính là nguồn để bù đắp thiếu hụt NSNN, lãi suất ngày càng ổn định, tăng giảm theo đúng giá trị của thị trường theo từng năm.
2.1.1.2. Trái phiếu kho bạc
Kho bạc Nhà nước đã thực hiện nhiệm vụ phát hành trái phiếu huy động vốn đầu tư cho các công trình trọng điểm của nền kinh tế. Ngày 24/9/2003, Bộ chính trị đã ban hành chỉ thị số 28-CT/TW và Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết số 414/2003/NQ- UBTVQH, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 182/2003/QĐ-TTg về việc phát hành trái phiếu Kho bạc để đầu tư một số công trình giao thông thuỷ lợi quan trọng của đất nước giai đoạn 2003 – 2010 như: Dự án đường Hồ Chí Minh, vành đai biên giới phía Bắc, Hành lang Côn Minh- Hải phòng, các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện.
Bảng 1.2: Kết quả phát hành Trái Phiếu KB qua KBNNgiai đoạn 2003-2007
Số TT
Năm
Khối lượng trúng thầu
(tỉ đồng)
Lãi suất trúng thầu (%)
Lãi suất trần
(%)
1
Năm 2003
600
8.2
8.5
2
Năm 2004
1.333
8,3 – 8,35
8.5
3
Năm 2005
231
7,4 - 8,6
8.7
4
Năm 2006
235
8,7
8,7
5
Năm 2007
935,7
9,35-9,5
9,7
Tổng
3.334,7
Nguồn: Vụ đầu tư-BTC
Chính phủ đã phát hành nhiều đợt TPKB với các khối lượng và lãi suất khác nhau, như đợt 1 năm 2003 đã phát hành lô đầu tiên với lãi suất 8.2%/năm, đến 2005 phát hành với lãi suất 8.4%/năm …
2.1.1.3. Trái phiếu công trình trung ương
Trong đợt phát hành trái phiếu công trình đợt 1, số tiền thu được đạt gần 4.500 tỷ VND và trên 31 triệu USD, vượt hơn 10% kế hoạch. Trong đó, số tiền thu được qua đợt phát hành này chủ yếu dưới hình thức qua Kho bạc Nhà nước, đạt trên 2.400 tỷ VND, và hơn 22 triệu USD, bảo lãnh khoảng 1.400 tỷ VND, đấu thầu qua ngân hàng Nhà nước là 9 triệu USD.
Trong đợt 2, KBNN phát hành gần 10000 tỉ đồng. Trái phiếu công trình phát hành trong thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định, đây là một kênh huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư để đầu tư cho các công trình (chủ yếu là cơ sở hạ tầng). Việc phát hành trái phiếu công trình cũng làm phong phú và đa dạng hoá các loại hình trái phiếu trên thị trường. Đồng thời, trái phiếu công trình TW đã được sử dụng trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở, qua đó tạo thuận lợi thu hút thêm các thành viên tham gia vào thị trường, nâng cao khả năng điều tiết tiền tệ của NHNN. Nhờ có nguồn vốn huy động từ kênh phát hành này mà một số công trình (YaLy, Định Công... ) đã có nguồn vốn để đẩy nhanh tiến độ của dự án, sớm đưa các dự án đi vào hoạt động, khai thác có hiệu quả, tạo ra nguồn thu ổn định đảm bảo thanh toán các khoản nợ khi đến hạn, qua đó nâng cao uy tín, tạo đà thuận lợi cho các đợt phát hành tiếp theo.
2.1.1.4. Trái phiếu đầu tư
Lần đầu tiên trái phiếu Chính phủ đầu tư cho y tế sẽ được phát hành trong giai đoạn từ nay đến 2010. Lượng trái phiếu sẽ được phát hành lên đến 4.000 tỷ đồng. Số tiền này sẽ được đầu tư cho bệnh viện tuyến huyện ở 64 tỉnh thành trong cả nước, với quy mô 50 - 380 giường bệnh/bệnh viện.
2.1.1.5. Trái phiếu ngoại tệ
Nghị định số 141/2003/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 20/11/2003 đã mở ra một kênh huy động vốn để đầu tư phát triển các công trình trọng điểm của đất nước, trong năm 2003 và 2004 Bộ Tài chính (KBNN) đã phát hành trái phiếu Chính phủ có mệnh giá bằng USD. Phát hành trái phiếu Chính phủ có mệnh giá bằng ngoại tệ, là một bước đi mới trong công tác phát hành trái phiếu Chính phủ, tạo cơ hội đầu tư mới, giúp người dân làm quen với hình thức đầu tư trái phiếu có mệnh giá bằng ngoại tệ.
Bảng 1.3 : Kết quả huy động TPCP có mệnh giá bằng ngoại tệ giai đoạn 2003-2004
Năm
Kì hạn
(năm)
Lãi suất
(%/năm)
Số tiền huy động
(USD)
Năm 2003
32.794.000
Bán lẻ
5
3,5
23.794.000
Đấu thầu qua NHNN
5
3,4
9.000.000
Năm 2004
44.358.000
Bán lẻ
5
3,5
38.858.000
Đấu thầu qua NHNN
5
3,5
5.500.000
Tổng
77.152.000
Nguồn:Vụ đầu tư-BTC
300 triệu USD trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ sẽ được đấu thầu trong ba đợt và bắt đầu từ ngày 24/3, với đợt đầu tiên dành cho 100 triệu USD trái phiếu kỳ hạn 1 năm. Các kỳ hạn tiếp theo, 100 triệu USD kỳ hạn 2 năm đấu thầu vào 24/3 và 100 triệu USD kỳ hạn 3 năm đấu thầu vào vào 27/3. Phiên đấu giá đầu tiên phát hành Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ đã thắng lớn khi 100 triệu USD chào bán đã được mua hết với lãi suất chỉ 3%/năm. Phiên này chào bán trái phiếu ngoại tệ đã rất hấp dẫn các tổ chức đầu tư khi số lượng thành viên tham gia dự thầu là 30 thành viên với tổng khối lượng dự thầu lên tới 766 triệu USD, gấp 7,66 lần khối lượng gọi thầu.
Hai phiên đấu giá kỳ hạn 2 năm và 3 năm tiếp theo thì bán không hết hàng do các nhà đầu tư không đạt được kỳ vọng về lãi suất. Ngày 27/3, cũng như các lần trước, trái phiếu ngoại tệ vẫn thu hút được sự quan tâm của khách hàng là các tổ chức tài chính. Số lượng mua lên đến 362,1 triệu USD, gấp 3,6 lần số lượng chào bán 100 triệu USD. Tuy nhiên, cuối cùng, số lượng trúng thầu chỉ là 50,1 triệu USD. Trái phiếu Chính phủ ngoại tệ kỳ hạn 3 năm bị ế gần một nửa. Nhà đầu tư đặt mua số lượng nhiều nhưng bán ít được vì họ không đạt được kỳ vọng về lãi suất. Lãi suất khống chế trần do Bộ Tài chính đưa ra chỉ là 3,6%/năm. Trong khi đó thì các nhà đầu tư đều kì vọng lãi suất 7%/năm.
2.1.1.6. Công trái xây dựng tổ quốc
Trong giai đoạn từ năm 2003 thì Bộ Tài chính (KBNN) đã tổ chức thành công 2 đợt phát hành công trái XDTQ vào năm 2003 và năm 2005. Mục tiêu là huy động vốn để đầu tư cho các mục tiêu chương trình quốc gia. Năm 2003, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội và Nghị định của Chính phủ, Bộ Tài chính (KBNN) đã tổ chức thành công đợt phát hành công trái XDTQ (công trái giáo dục đợt I), huy động vốn trong xã hội để thực hiện mục tiêu “ xoá phòng học ba ca và tranh tre nứa lá” ở các tỉnh miền núi, tây nguyên và các tỉnh còn nhiều khó khăn. Công trái giáo dục có kỳ hạn 5 năm, lãi suất cố định 40%/5 năm và được thanh toán một lần cùng với tiền gốc khi đến hạn. Theo đến ngày 2/5/2005 Bộ Tài chính (KBNN) tổ chức phát hành công trái giáo dục đợt II, công trái có kỳ hạn 5 năm, khối lượng huy động trên 10.000 tỷ đồng để hỗ trợ các tỉnh miền núi, Tây nguyên và các tỉnh còn khó khăn tiếp tục thực hiện mục tiêu xoá phòng học ba ca và tranh tre nứa lá và kiên cố hoá trường lớp học.
Bảng 1.4 : Kết quả phát hành công trái XDTQ giai đoạn 2003-2005
Năm phát hành
Khối lượng đã huy động
(tỉ đồng)
Kì hạn
(năm)
Lãi suất
(%/năm)
Tỉ lệ hoàn thành
(%)
2003
2.580
5
8
129
2005
4.496
5
10
116
Cộng
7.076
Nguồn: Vụ đầu tư-BTC
Công trái XDTQ phát hành năm 2003 và năm 2005 đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân, các cơ quan và tổ chức trên địa bàn cả nước. Thành công của hai đợt phát hành công trái XDTQ là đã huy động được vượt mức kế hoạch vốn đã đề ra, đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu vốn để đầu tư cho các mục tiêu chưng trình quốc gia, đồng thời cũng là một bước tiến mới trong công tác phát hành TPCP, từng bước tạo điều kiện cho người dân làm quen với hình thức đầu tư trung hạn.
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc huy động vốn trái phiếu Chính phủ
2.1.2.1. Nhân tố khách quan
- Nhân tố về kinh tế: mặc dù trong mấy năm gần đây, đất nước ta có tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế cao, tuy nhiên, vẫn có nhiều khó khăn do trình độ phát triển kinh tế chưa cao với dân cư đang còn nghèo nên việc huy động vốn trong nhân dân cũng đang gặp nhiều khó khăn.
- Nhân tố về thu nhập: Thu nhập bình quân đầu ngươi trong cả nước còn thấp, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao, tích luỹ trong dân cư chưa lớn, chưa đồng đều mà chỉ tập trung vào một số hộ, một số doanh nghiệp tư nhân. Trình độ dân trí thấp nên việc phát hành trái phiếu Chính phủ của Kho bạc để thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư chưa đạt hiệu quả cao.
- Nhân tố lạm phát: Do tình hình lạm phát còn lớn, đồng tiền vẫn bị mất giá, do vậy rủi ro là không tránh khỏi. Dù lãi suất cao nhưng tiền mất giá thì lãi suất không bù được vốn gốc, người dân mua trái phiếu Kho bạc phải chịu lãi suất âm. Đó là lý do khiến người dân không dám mạo hiểm bỏ tiền vào mua trái phiếu Chính phủ. Do đó, lạm phát cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới việc huy động vốn của KBNN.
2.1.2.2. Nhân tố chủ quan
- Nhân tố lãi suất: Đây là nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới việc huy động vốn. Người dân mua trái phiếu Chính phủ trước tiên phải xem xét yếu tố lãi suất vì cho Nhà nước vay cũng là đầu tư gián tiếp, mà đầu tư phải sinh lợi, ít nhất là sinh lợi đó phải bằng lợi tức bình quân của các ngành kinh tế đạt được sau khi bảo toàn vốn. Song lãi suất Chính phủ chưa hấp dẫn được người dân trong khi người dân có thói quen gửi tiết kiệm Ngân hàng vì lãi suất Ngân hàng cao hơn, linh hoạt hơn, dễ rút vốn hơn.
Thực tế đã có nhiều đợt lãi suất Ngân hàng cao hơn nên dân đã rút tiền ra chịu không hưởng lãi để quay sang gửi tiết kiệm Ngân hàng. Hiện nay lãi suất trái phiếu Chính phủ đã phần nào hấp dẫn được dân chúng, do vậy việc huy động vốn qua phát hành trái phiếu Chính phủ ở hệ thống KBNN đã tăng lên.
- Nhân tố thông tin, tuyên truyền: Do thông tin, tuyên truyền còn hạn chế, chưa tổ chức được mạng lưới tuyên truyền rộng rãi trên địa bàn cả nước, chưa có hoạt động Marketing chuyên sâu nên người dân chưa quen với trái phiếu Chính phủ. Tập quán cho Nhà nước vay dài hạn chưa hình thành vững chắc trong dân cư nên họ chưa tin vào tương lai của việc mua trái phiếu.
- Nhân tố về tổ chức công tác huy động vốn: Việc tổ chức phát hành trái phiếu Chính phủ tại các địa bàn như thế nào cũng là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng lớn tới việc huy động vốn.
2.2. Thực trạng sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ
2.2.1. Nguyên tắc phân bổ, sử dụng nguồn vốn
2.2.1.1. Phân bổ, sử dụng nguồn vốn
Tập trung vốn đầu tư cho các dự án theo thứ tự ưu tiên, đảm bảo bố trí đủ vốn để hoàn thành dứt điểm dự án, đáp ứng yêu cầu bức thiết của dự án. Mức vốn bố trí hàng năm của các dự án căn cứ vào nhu cầu đăng ký vốn thanh toán theo tiến độ thực hiện của dự án và khả năng huy động trái phiếu Chính phủ. Việc đăng ký nhu cầu về mức vốn trái phiếu Chính phủ hàng năm thực hiện theo thời hạn quy định như lập dự toán ngân sách nhà nước, nhưng được lập riêng cho các dự án đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Căn cứ vào tiến độ đầu tư đã được xác định và tình hình thực hiện các dự án, các Bộ và Ủy ban nhân dân các tỉnh đăng ký nhu cầu về mức vốn trái phiếu Chính phủ hàng năm của từng dự án, gửi Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp, làm căn cứ huy động và bố trí vốn trái phiếu Chính phủ, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Kế hoạch vốn đăng ký phải đảm bảo phù hợp tình hình thực hiện, không đăng ký vượt khả năng giải ngân của dự án, dẫn tới thừa vốn huy động, gây lãng phí cho Nhà nước.
Mức vốn đã đăng ký trong năm được thanh toán đến hết ngày 31 tháng 01 năm sau. Bảo đảm bố trí vốn không vượt quá tổng mức đã được thông báo giao chỉ tiêu theo ngành, lĩnh vực, tổng số vốn thanh toán cho dự án không được vượt tổng mức vốn trái phiếu Chính phủ đã bố trí cho dự án cho cả thời kỳ 2003-2010.
2.2.1.2. Điều chỉnh mức vốn thanh toán
Nếu tiến độ thực hiện và nhu cầu vốn thanh toán thực tế trong năm của các dự án có thay đổi so với mức vốn đăng ký đầu năm, các Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh thực hiện điều chỉnh giảm mức vốn của các dự án không có khả năng thực hiện, tăng mức vốn cho các dự án có khả năng thực hiện vượt tiến độ. Việc điều chỉnh vốn đảm bảo nguyên tắc không được vượt vốn của từng dự án, không vượt vốn theo ngành và không vượt tổng mức vốn trái phiếu Chính phủ đã được Thủ tướng Chính phủ giao cho cả giai đoạn 2003-2010. Để phù hợp với thời điểm phát hành trái phiếu Chính phủ, thời gian điều chỉnh mức vốn đầu tư hàng năm kết thúc vào ngày 31 tháng 10. Các Bộ, UBND các tỉnh gửi báo cáo điều chỉnh mức vốn các dự án (nếu có) về Bộ Tài chính để làm căn cứ thông báo vốn và chủ động điều chỉnh mức phát hành trái phiếu Chính phủ.
Đối với các dự án đang đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước nay được đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ hoặc các dự án được đầu tư bằng nhiều nguồn vốn, vốn trái phiếu Chính phủ chỉ bố trí để đầu tư tiếp và trong phạm vi nguồn vốn trái phiếu Chính phủ đã được quyết định, không thanh toán cho phần vốn ngân sách nhà nước và các nguồn vốn khác đã bố trí cho dự án. Các dự án đã được ứng trước vốn ngân sách nhà nước được bố trí vốn trái phiếu Chính phủ để hoàn ứng. Số vốn hoàn ứng được bố trí trong nhu cầu vốn đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ hàng năm và được thu hồi bằng cách trừ vào mức thanh toán vốn đầu tư của dự án. Đối với các dự án do địa phương quản lý đã được Bộ Tài chính ứng vốn trong các năm trước, Ủy ban nhân dân các tỉnh bố trí vào nhu cầu vốn trái phiếu Chính phủ năm 2006, 2007 để hoàn ứng. Bộ Tài chính chuyển vốn cho địa phương, đồng thời thu hồi số vốn đã ứng trước. Các dự án đang đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng nhà nước nay được chuyển sang đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ thì được tiếp tục giải ngân vốn tín dụng theo kế hoạch và hợp đồng tín dụng đã ký và chấm dứt giải ngân đến hết ngày 31/10/2003. Sau thời điểm đó, dự án được bố trí vốn trái phiếu Chính phủ để đầu tư tiếp và trả nợ vốn tín dụng đã vay. Riêng các dự án đường ngang của tuyến N1 thuộc Bộ Giao thông vận tải quản lý, vốn trái phiếu Chính phủ bố trí để đầu tư tiếp nhằm hoàn thành dứt điểm.
2.2.1.3. Chuyển vốn, hạch toán, quyết toán
Căn cứ vào khả năng nguồn vốn, Bộ Tài chính chuyển vốn nguồn trái phiếu Chính phủ để thanh toán cho các dự án. Đối với dự án do các Bộ quản lý, căn cứ thông báo danh mục và vốn đầu tư của Bộ Tài chính và nhu cầu vốn thanh toán của các dự án, Kho bạc nhà nước lập kế hoạch thanh toán vốn hàng quý gửi Bộ Tài chính để Bộ Tài chính chuyển vốn sang Kho bạc nhà nước, Kho bạc nhà nước chuyển vốn về Kho bạc nhà nước nơi dự án mở tài khoản để thanh toán cho các dự án. Đối với dự án do các tỉnh quản lý, căn cứ thông báo danh mục và vốn đầu tư của Bộ Tài chính và nhu cầu vốn thanh toán của các dự án do Kho bạc nhà nước tỉnh đề nghị, Sở Tài chính lập kế hoạch thanh toán vốn hàng quý gửi Bộ Tài chính để Bộ Tài chính chuyển vốn về Sở Tài chính, Sở Tài chính chuyển vốn sang Kho bạc nhà nước tỉnh. Sở Tài chính mở tài khoản riêng tại Kho bạc nhà nước tỉnh để tiếp nhận nguồn vốn trái phiếu Chính phủ do Bộ Tài chính chuyển về. Đến hết thời hạn thanh toán hàng năm theo quy định, số vốn do cơ quan Tài chính đã chuyển nếu còn dư, các cơ quan thanh toán chuyển sang năm sau để thanh toán tiếp.
Các chủ đầu tư thực hiện việc quyết toán vốn đầu tư hàng năm theo chế độ hiện hành về vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước nhưng quyết toán riêng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Các Bộ và Ủy ban nhân dân các tỉnh được giao quản lý, thực hiện các dự án đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ tổng hợp quyết toán từ các chủ đầu tư, quyết toán riêng vốn đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ với Bộ Tài chính (không tổng hợp vào nguồn vốn ngân sách nhà nước). Kho bạc nhà nước tổ chức hạch toán và theo dõi riêng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, quyết toán hàng năm với cơ quan Tài chính theo quy định. Đối với dự án do địa phương quản lý, Kho bạc nhà nước các tỉnh quyết toán với Sở Tài chính, Sở Tài chính quyết toán với Bộ Tài chính riêng nguồn vốn này (không quyết toán vào ngân sách địa phương). Ngân hàng Phát triển quyết toán với Bộ Tài chính về nguồn vốn trái phiếu Chính phủ đã thanh toán cho các dự án được giao kiểm soát, thanh toán. Việc quyết toán vốn đầu tư dự án đầu tư hoàn thành được thực hiện theo quy định hiện hành về chế độ quyết toán vốn đầu tư đối với dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
2.2.1.4. Báo cáo, quản lý, kiểm tra
- Mở hồ sơ theo dõi
Chủ đầu tư, các Bộ, tỉnh quản lý dự án lập và hoàn thiện toàn bộ hồ sơ của dự án phục vụ cho việc theo dõi tình hình thực hiện, báo cáo, kiểm tra và quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành.
Hồ sơ được lập riêng cho từng dự án thành phần, tổng hợp theo từng cụm hoặc nhóm dự án hoặc theo dự án tổng thể (theo danh mục tại các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ). Nội dung hồ sơ bao gồm toàn bộ các vấn đề liên quan đến dự án từ khi bắt đầu thực hiện và được bổ sung thường xuyên, đầy đủ theo tiến độ thực hiện dự án và khi phát sinh điều chỉnh, bổ sung.
Các Bộ, tỉnh quản lý dự án gửi một bộ hồ sơ cho Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, gồm:
+ Các văn bản pháp lý liên quan đến chủ trương đầu tư: Báo cáo đầu tư xây dựng công trình và quyết định phê duyệt dự án; quyết định phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán (dự toán); các văn bản khác liên quan đến chủ trương đầu tư (bao gồm cả văn bản bổ sung, sửa đổi, điều chỉnh).
+ Các văn bản liên quan đến thực hiện dự án: Quyết định trúng thầu, chỉ định thầu; hợp đồng và thanh lý hợp đồng tín dụng (đối với dự án tín dụng); văn bản đối chiếu, xác nhận về vốn tín dụng.
- Chế độ báo cáo định kì
Hàng quý, sáu tháng và cả năm, các chủ đầu tư dự án Trung ương báo cáo các Bộ quản lý; chủ đầu tư dự án địa phương báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh; các Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh và Ngân hàng Phát triển báo cáo Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tình hình thực hiện vốn trái phiếu Chính phủ.
Hàng tháng, hàng quý, sáu tháng và cả năm, Kho bạc nhà nước báo cáo Bộ Tài chính tình hình thanh toán các dự án thuộc vốn trái phiếu Chính phủ (chi tiết đến ngành, lĩnh vực và dự án) của các Bộ, ngành và các tỉnh; Ngân hàng Phát triển báo cáo Bộ Tài chính tình hình thanh toán các dự án được phân cấp quản lý thanh toán; Kho bạc nhà nước tỉnh báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh, Sở Tài chính tình hình thanh toán các dự án do địa phương quản lý .
Hàng quý, năm hoặc đột xuất, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ theo Quyết định số 171/2006/QĐ-TTg ngày 24/7/2006 của Thủ tướng Chính phủ.
- Chế độ kiểm tra
Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất các dự án về tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư, tình hình thanh toán, sử dụng vốn và việc chấp hành chính sách, chế độ tài chính đầu tư phát triển của Nhà nước.
Các Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, các chủ đầu tư được giao quản lý, thực hiện các dự án đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ có trách nhiệm tăng cường công tác quản lý, công tác kiểm tra việc thực hiện tiến độ, khối lượng, chất lượng công trình, tình hình sử dụng vốn, không được dùng nguồn vốn này để chi cho các nhiệm vụ, dự án ngoài danh mục dự án đã được quyết định, không để tình trạng vượt vốn đầu tư của dự án đã được duyệt và tình trạng lãng phí, thất thoát, tiêu cực.
2.2.2. Thực trạng phân bổ và sử dụng nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ
2.2.2.1. Tình hình chung
Trong những năm đầu thập niên 90 để phát triển kinh tế Việt Nam cần có vốn mà vốn vay nước ngoài bị hạn chế, do vậy, việc huy động vốn dưới hình thức phát hành TPCP trở nên quan trọng và cấp thiết. Huy động vốn trong nước không những bù đắp thiếu hụt NSNN mà còn góp phần giải quyết tiền mặt cho các nhu cầu ._.ng tác XDCB nói chung và các nhà thầu xây dựng các công trình giao thông nói riêng lại lao đao như thời điểm cuối năm 2007 và năm 2008 vừa qua. Sự gia tăng chóng mặt về giá của các loại VLXD từ cuối năm 2007 đến năm 2008 đã làm cho các nhà thầu mất khả năng kiểm soát tình hình và đối mặt với rất nhiều rủi ro, các dự án giao thông thì rơi vào cảnh đình trệ. Tốc độ tăng giá năm 2007 cũng cao nhất so với tốc độ các năm trước đó, giá vật liệu năm 2007 so với năm 2006 : Thép tăng 25,75%, gạch tăng 22,8%, cát tăng 18,9%, nhựa đường tăng 17,5%. Nếu so với năm 2000, riêng thép đã tăng 2,25 lần. Sang đến đầu 2008, giá vật liệu tiếp tục tăng phi mã: Thép tăng từ 12.000 đồng lên 20.000 đồng đồng kg, ximăng tăng 40% so với cuối năm 2007, gạch tăng gần gấp 3 lần.
Các nhà thầu cho biết, hiện việc nhiều định mức, đơn giá chậm được ban hành, sửa đổi, nhất là giá cả máy, các định mức chuyên ngành, trượt giá vật tư vật liệu đã khiến không có cơ sở lập, phê duyệt các thủ tục dự án và nghiệm thu thanh toán. Đây cũng là lý do khiến việc triển khai thi công bị đình lại.
Thứ bảy, một số nguyên nhân khác.
Một yếu tố khách quan chính là diễn biến thời tiết, mưa lũ kéo dài, liên miên trên diện rộng gây khó khăn cho các nhà thầu triển khai xe máy thi công, một số công trình đang xây dựng dở dang thì bị cuốn trôi hết.
Một số công trình thực hiện trên các địa hình phức tạp, đòi hỏi phải có công nghệ cao cho nên công tác chuẩn bị cũng như thực hiện kéo dài, gây ứ đọng vốn và chậm tiến độ dự án.
Nhiều dự án bắt đầu triển khai muộn, do phải điều chỉnh tổng mức vốn trái phiếu để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, nên tiến độ cũng chậm.
CHƯƠNG 3MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ
3.1. Định hướng phát triển
3.1.1. Với ngành giao thông
Giao thông vận tải là một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, cần ưu tiên đầu tư phát triển đi trước một bước với tốc độ nhanh, bền vững nhằm tạo tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Đến năm 2020, hệ thống giao thông vận tải nước ta cơ bản đáp ứng nhu cầu vận tải đa dạng của xã hội với mức tăng trưởng nhanh, đảm bảo chất lượng ngày càng cao, giá thành hợp lý; kiềm chế tiến tới giảm sự gia tăng tai nạn giao thông và hạn chế ô nhiễm môi trường. Về tổng thể, hình thành được một hệ thống giao thông vận tải hợp lý giữa các phương thức vận tải và các hành lang vận tải chủ yếu đối với các mặt hàng chính có khối lượng lớn. Phát huy tối đa lợi thế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của đất nước, đặc biệt là tiềm năng biển, để phát triển hệ thống giao thông vận tải hợp lý, tiết kiệm chi phí xã hội. Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông một cách đồng bộ, hợp lý; kết hợp phát triển từng bước vững chắc với những bước đột phá đi thẳng vào hiện đại tạo nên mạng lưới hoàn chỉnh, liên hoàn, liên kết giữa các phương thức vận tải, giữa các vùng lãnh thổ, giữa đô thị và nông thôn trên phạm vi toàn quốc, đồng thời coi trọng công tác bảo trì, đảm bảo khai thác hiệu quả, bền vững kết cấu hạ tầng giao thông hiện có. Xã hội hóa việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông. Huy động tối đa mọi nguồn lực, coi trọng nguồn lực trong nước, để đầu tư phát triển giao thông vận tải. Người sử dụng kết cấu hạ tầng giao thông có trách nhiệm đóng góp phí sử dụng để bảo trì và tái đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông.
3.1.2. Với ngành thuỷ lợi
Phát triển thuỷ lợi tưới tiêu, cấp nước phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp – nông thôn và phát triển các ngành kinh tế xã hội:
Tập trung nâng cấp, hiện đại hoá các hệ thống thuỷ lợi hiện để phát huy và tăng tối đa năng lực thiết kế.
Tiếp tục đầu tư xây dựng thêm công trình mới, gồm:
- Các công trình thuỷ lợi tổng hợp quy mô vừa và lớn ở các lưu vực sông, cấp nước tưới cho nông nghiệp, thuỷ sản, sinh hoạt, công nghiệp, chống lũ và phát điện;
- Phát triển các công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ ở miền núi phục vụ cho phát triển sản xuất nông lâm nghiệp, sinh hoạt, khai thác thuỷ điện, góp phần hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn;
- Phát triển các công trình thuỷ lợi cấp nước, ngăn mặn, giữ ngọt phục vụ phát triển dân sinh và sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản, diêm nghiệp ở vùng ven biển;
- Phát triển các giải pháp tưới tiên tiến, tiết kiệm nước cho các loại cây trồng cạn: cây công nghiệp, cây ăn quả ở các vùng trung du, miền núi;
- Phát triển các hệ thống kênh dẫn ngọt thau chua ém phèn ở ĐBSCL.
Củng cố, phát triển các giải pháp phòng chống, giảm nhẹ thiên tai bão lụt:
- Củng cố hệ thống đê điều, gồm cứng hoá mặt đê, trồng tre chắn sóng, cải tạo, nâng cấp và thay mới cống dưới đê, xử lý nền đê, kè mái các đoạn xung yếu... cho các hệ thống đê sông Bắc bộ và Khu 4.
- Hoàn thành các công trình hồ chứa lợi dụng tổng hợp có nhiệm vụ cắt lũ hạ du: Tuyên Quang (sông Gâm), Cửa Đạt (sông Chu), Bản Lả (sông Cả), triển khai xây dựng tiếp các công trình: Tả Trạch (sông Hương), Định Bình (sông Côn), công trình trên sông Vũ Gia - Thu Bồn... và phối hợp với các Bộ, Ngành đẩy nhanh quá trình chuẩn bị đầu tư xây dựng công trình Sơn La (Sông Đà) và các công trình trên sông Đồng Nai, Sê san, Srê Pôk, sông Ba...
- Hoàn chỉnh và củng cố hệ thống đê điều chống lũ hè-thu, bảo đảm ổn định, hạn chế hư hỏng khi lũ chính vụ tràn qua ở các vùng đồng bằng Trung bộ, DHNTB, ĐBSCL, MĐNB, TN.
- Củng cố các công trình phân, chậm lũ dự phòng chống lũ cho ĐBSH;
- Hình thành các tuyến đê bảo vệ vùng ngập nông, có các giải pháp thích nghi và giảm thiểu tổn thất cho dân sinh, sản xuất ở vùng ngập sâu của ĐBSCL.
- Hoàn chỉnh và nâng cấp hệ thống đê biển, đê cửa sông, gồm tôn cao đỉnh, ổn định mái và chân đê, trồng cây chống sóng theo 2 chương trình: l) đê biển từ Quảng Ninh đến Quảng Nam và 2) Đê biển ở DH NTB và ĐBSCL;
- Đầu tư thực hiện các giải pháp bảo đảm an toàn công trình: hồ chứa, đê kè cống...
- Chỉnh trị sông, tăng khả năng thoát lũ và bảo vệ bờ sông, bờ biển.
- Tăng cường bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ đầu nguồn rừng chắn sóng ven biển để giữ nước, giữ đất, chống lũ quét ở vùng núi và giảm lũ cho hạ du (với chỉ tiêu trồng 5 triệu ha.
- Tăng cường công tác điều tra cơ bản, nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo lũ, chuẩn hóa quy trình vận hành các hồ chứa lớn cắt lũ cho hạ du, tăng khả năng phòng tránh và đối phó bão lũ.
- Xây dựng được bản đồ ngập lụt ở các lưu vực sông để phục vụ cho chỉ dạo phát triển dân sinh, cơ sở hạ tầng, sản xuất phòng tránh thiên tai bão lũ.
Tăng cường quản lý nguồn nước và quản lý công trình thuỷ lợi
- Tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh và nâng cao Quy hoạch phát triển thuỷ lợi các lưu vực sông, các vùng kinh tế, các tỉnh.
- Kiện toàn tổ chức quản lý Thuỷ lợi từ Trung ương đến Địa phương, phát huy vai trò của các BQLQH lưu vực sông đã có và tiếp tục thành lập BQLQH các lưu vực sông lớn khác ban hành tiếp các văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý đủ mạnh cho quản lý nguồn nước và công trình thuỷ lợi.
- Tăng cường quản lý Nhà nước, làm rõ và điều chỉnh chức năng nhiệm vụ cho phù hợp với cơ cấu tổ chức mới, tăng cường phân cấp quản lý;
- Tăng cường năng lực chuyên môn, quản lý đảm bảo sự hoạt động của ngành có hiệu quả, nhất là ở cơ sở.
- Thường xuyên đánh giá, đúc kết kinh nghiệm trong việc thực hiện và quản lý quy hoạch, kịp thời điều chỉnh công tác xây dựng và quản lý công trình thuỷ lợi ở từng hệ thống cho phù hợp với yêu cầu thực tế và nâng cao hiệu quả đầu tư.
Tăng cường đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học công nghệ
- Đầu tư nâng cấp hiện đại hoá trang thiết bị kỹ thuật cho các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng thuộc các cơ quan trong Ngành.
- Tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu khoa học công nghệ, triển khai ứng dụng vào thực tiễn phát triển và quản lý nguồn nước từ bước quy hoạch đến thiết kế, thi công và quản lý vận hành.
- Xây dựng cơ chế thích hợp, khuyến khích các nghiên cứu ứng dụng, triển khai nhanh vào sản xuất.
3.1.3. Với ngành y tế
Với ngành y tế thì đinh hướng chung sẽ là xây dựng hệ thống y tế Việt Nam, từng bước hiện đại, hoàn chỉnh hướng tới công bằng, hiệu quả và phát triển; đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của nhân dân về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ, giảm tỷ lệ mắc bệnh, tật và tử vong, tăng tuổi thọ, cải thiện chất lượng cuộc sống, đạt và vượt các chỉ tiêu đặt ra trong Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2010 – 2020. Cụ thể là :
- Xây dựng và phát triển mạng lưới khám, chữa bệnh phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực, đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân hướng tới mục tiêu công bằng, hiệu quả và phát triển. Các bệnh viện xây dựng mới phải phù hợp quy hoạch chung và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Bảo đảm đủ điều kiện xử lý chất thải y tế và khả năng chống nhiễm khuẩn tại bệnh viện để hoạt động khám bệnh, chữa bệnh không ảnh hưởng tới người dân và môi trường sống. Bảo đảm tính hệ thống và tính liên tục trong hoạt động chuyên môn của từng tuyến điều trị và sự phát triển cân đối, hợp lý giữa các bệnh viện đa khoa và chuyên khoa.
- Từng bước thực hiện việc di chuyển các cơ sở điều trị bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ra khu vực thích hợp. Củng cố và hiện đại hoá các bệnh viện y học cổ truyền hiện có tại tuyến trung ương đạt tiêu chuẩn bệnh viện hạng I; xây dựng bệnh viện y học cổ truyền ở những tỉnh chưa có bệnh viện y học cổ truyền, vừa làm cơ sở điều trị, vừa là cơ sở thực hành cho các trường đào tạo cán bộ y tế chuyên ngành y dược học cổ truyền.
- Tiếp tục củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị và cán bộ y tế, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế tuyến cơ sở, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cơ bản của toàn dân, đồng thời thực hiện được một số kỹ thuật đơn giản trong khám, điều trị một số bệnh chuyên khoa về mắt, răng, tai - mũi - họng, sức khỏe sinh sản và sức khỏe trẻ em.
3.1.4. Với ngành giáo dục
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Điều này đòi hỏi giáo dục phải có chiến lược phát triển đúng hướng, hợp quy luật, xu thế và xứng tầm thời đại. Với việc sử dụng nguồn vốn trái phiếu, trong những năm tới mục tiêu và định hướng cho ngành giáo dục như sau:
- Hoàn thành việc xây dựng chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất kỹ thuật cho tất cả các loại hình trường nhằm đảm bảo những điều kiện vật chất cơ bản thực hiện việc đổi mới quá trình dạy học. Trong đó, chú trọng đến chuẩn hóa phòng học, phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn và trang thiết bị dạy học ở các cấp học, đặc biệt là đồ chơi an toàn cho trẻ em.
- Quy hoạch lại quỹ đất để xây dựng mới trường học hoặc mở rộng diện tích đất cho các trường phổ thông, dạy nghề và các trường đại học đạt tiêu chuẩn nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục, trong đó ưu tiên đầu tư quỹ đất để xây dựng một số khu đại học tập trung.
- Đẩy mạnh chương trình kiên cố hoá trường học, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên, ưu tiên cho giáo dục vùng sâu, vùng cao, vùng khó khăn, bảo đảm đủ phòng học cho mẫu giáo 5 tuổi, cho giáo dục tiểu học và trung học cơ sở học 2 buổi ngày. Đến năm 2020, không còn phòng học tạm ở tất cả các cấp học, 100% trường phổ thông được nối mạng Internet và có thư viện.
- Xây dựng hệ thống thư viện điện tử dùng chung và kết nối giữa các trường đại học trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế. Xây dựng một số phòng thí nghiệm hiện đại ở các trường đại học trọng điểm.
- Xây dựng các khu ký túc xá cho sinh viên và nhà nội trú cho các trường phổ thông có nội trú ở vùng dân tộc và nhà công vụ cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục.
3.2. Một số giải pháp sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ hiệu quả
Trong những năm qua, nước ta cũng đã thu hút được nhiều nguồn vốn từ khắp nơi để đầu tư phát triển. Tuy nhiên, để được sử dụng các nguồn vốn đó thì chúng ta cũng phải chịu những ràng buộc nhất định. Chính vì thế mà khi huy động nguồn vốn nội tại trong nước một phần loại bỏ những ràng buộc đó, phần khác huy động được lượng tiền nhàn rỗi rất lớn trong nhân dân. Huy động vốn cũng chỉ để đầu tư phục vụ nhân dân nên phải sử dụng thật sao cho hiệu quả đúng với những mục tiêu và kế hoạch đưa ra. Sau đây là một số giải pháp một phần nào giúp cho quá trình sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ hiệu quả hơn.
3.2.1. Tiếp tục hoàn chỉnh các Bộ luật, hướng dẫn, nghị định
Quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đòi hỏi phải được xem xét một cách toàn diện và đồng bộ, hướng đơn giản hóa thủ tục ở đầu tư ở địa phương. Ví dụ như thực hiện phân cấp mạnh hơn về thẩm quyền quyết định đầu tư cho cấp huyện xã, loại bỏ những loại thủ tục không cần thiết gây mất thời gian. Các Bộ luật thì phải đi đầu, tránh tình trạng sai phạm đến đâu thì Luật mới xuất hiện các quy định mới ở đó, nhiều điều khoản trong các Bộ luật còn chồng chéo nhau chính vì thế cần có sự kết hợp, sự liên kết giữa các nghành, các nghề với nhau. Các hướng dẫn nghị định cần ban hành một cách nhanh chóng và kịp thời.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư, trước mắt tập trung triển khai có hiệu quả Luật đầu tư, Luật đấu thầu, Luật kinh doanh bất động sản, Luật doanh nghiệp, Luật chứng khoán... tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cơ chế phân bổ vốn đầu tư, vốn cho chương trình mục tiêu quốc gia trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc đầu tư, tôn trọng tiêu chí, tiêu chuẩn, định mức theo hướng công khai minh bạch và có chủ định rõ rệt.
Cải cách hành chính trong đầu tư xây dựng, trước hết tập trung vào cải cách thủ tục hành chính, thủ tục đầu tư, thủ tục xem xét, phê duyệt dự án, phân bổ và bố trí vốn, thủ tục giải ngân và thanh toán...
3.2.2. Tăng cường hiệu quả công tác quản lý của các cơ quan có thẩm quyền
Trước hết cần tập trung áp dụng cơ chế, giải pháp mạnh trong quản lý dự án, quản lý công trình đầu tư xây dựng cơ bản bằng cách phân định rõ quyền và trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong từng khâu như chủ đầu tư, chủ dự án, tư vấn, thiết kế, nhà thầu, giám định:
- Xác định rõ trách nhiệm của các thành viên trong ban quản lý dự án trong đó có cán bộ kĩ thuật, cán bộ tài chính. Đảm bảo sao cho công trình được quản lý tốt nhất và gắn trách nhiệm của ban quản lý dự án với vốn được sử dụng và tiến độ cũng như chất lượng của công trình.
- Đảm bảo quản lý công trình theo giá dự toán công trình, thời gian xây dựng công trình phải hoàn thành theo thời gian đã được phê duyệt, xây dựng các quy chế hợp lý nhằm khen thưởng cũng như cảnh cáo đúng thời điểm với các ban quản lý dự án.
Nâng cao chất lượng, tầm nhìn dài hạn, tính đồng bộ, tính liên kết, tính pháp lý trong công tác quy hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản. Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định về quy hoạch hoặc chỉ đạo soạn thảo Pháp lệnh về quy hoạch đầu tư xây dựng cơ bản, tăng cường phân cấp, phân quyền, phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng gắn quyền với trách nhiệm trong công tác quy hoạch giữa các bộ ngành, địa phương.
Tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát, trước hết là các biện pháp giám sát và kiểm soát nội bộ, sau đó là các biện pháp kiểm tra, thanh tra từ bên ngoài; hình thành, duy trì và nâng cao tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ bằng chính quy trình đầu tư, quy trình quản lý vốn, quản lý đầu tư...
Nghiên cứu sắp xếp lại các đơn vị quản lý sao cho thống nhất tránh tình trạng chồng chéo giữa các bộ, ngành và các địa phương, nghiên cứu sắp xếp lại các đơn vị quản lý nhà nước sao cho phân công, phân cấp một cách hợp lý để bộ máy quản lý gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, phân định rõ những công việc mà mỗi cơ quan được toàn quyền quyết định và những công việc mà mỗi cơ quan quản lý phải chuyển lên cấp trên, tăng cường trách nhiệm của các địa phương, tạo điều kiện cho mỗi địa phương có toàn quyền quyết định tuy nhiên cũng cần phải có những báo cáo rõ ràng đối với các dự án phức tạp có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cả nước.
Về công tác điều hành, các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư cần rà soát lại hệ thống văn bản từ khâu tạm ứng, thanh toán đến quyết toán vốn đầu tư nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư, đẩy mạnh công tác đôn đốc, kiểm tra, thanh tra các bộ, ngành, địa phương trong việc chấp hành các quy định về công tác quản lý đầu tư. Mỗi bộ, ngành, địa phương cần có tổ chức bộ máy thanh tra quyết toán vốn đầu tư bảo đảm cả số lượng và chất lượng. Thực hiện công tác này tốt sẽ tránh được tình trạng lãng phí, và thất thoát vốn của nhà nước. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn định mức kinh tế- kỹ thuật, đơn giá hợp lý:
- Bộ xây dựng và bộ giao thông vận tải cần ban hành hệ thống các định mức sử dụng các loại nguyên vật liệu, máy móc thiết bị thi công, phương pháp xác định định mức, đơn giá tổng dự toán…
- Bộ tài chính cần ban hành các quy định về quy trình thẩm định và phê duyệt quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành để có thể hướng dẫn thống nhất cho từng ban quản lý dự án, từng địa phương.
3.2.3. Tăng cường các biện pháp để đảm bảo chất lượng công trình
Chất lượng công trình là yếu tố quan trọng nhất trong công cuộc đầu tư. Bời vì công trình thực hiện lên là để phục vụ nhân dân. Bảo đảm chất lượng công trình là công tác đặc biệt quan trọng và có tác dụng trực tiếp trong việc chống thất thoát, lãng phí. Việc sử dụng tiết kiêm, đúng mức mục đích vốn TPCP sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn TPCP. Một công trình nếu như xây dựng không đảm bảo chất lượng sẽ phải phá đi làm lại hay chi phí sửa chữa nó sẽ là rất lớn dẫn đến lãng phí vốn nghiêm trọng nên để đảm bảo chất lượng công trình và thực hiện đúng tiến độ của dự án thì công trình phải được tham gia giám sát chất lượng, đánh giá, thanh tra và kiểm tra thường xuyên.
Việc kiểm soát chặt chẽ, thanh toán vốn đầu tư đúng mục đích, đúng khối lượng hoàn thành sẽ góp phần tránh thất thoát lãng phí và cần phải có những biện pháp cụ thể như :
- Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, định mức kĩ thuật, đơn giá xây dựng và sửa chữa công trình.
- Thực hiện kiểm toán các công trình, nâng cao vai trò và tác dụng của công tác kiểm toán đối với quyết toán chính xác công trình.
- Khi công trình hòan thành, bàn giao cần kiểm tra chặt chẽ, chất lượng công trình được quy vào trách nhiệm của ban quản lý dự án hay chủ đầu tư, nếu sai phạm cần có biện pháp xử lí thích hợp.
- Cần tổ chức theo dõi, nắm tình thực hiện từ xa đảm bảo thông tin kịp thời cho việc lập kế hoạch thanh tra hoặc tiến hành thanh tra đột xuất với các công trình thấy xuất hiện nhiều sai phạm.Việc thu thập, cập nhật thông tin thường xuyên từ các dự án nhằm tạo ra một kho thông tin, dữ liệu về tình hình thực hiện các dự án của nhà nước, khắc phục tình trạng bị động nhằm chủ động trong công tác thay đổi kế hoạch thanh tra hàng năm cũng như trong việc thực hiện kế hoạch thanh tra.Vì vậy các cơ quan thanh tra của nhà nước cần có các phương pháp nắm tình hình thực tế của các dự án nhằm bảo đảm nguồn thông tin đồng bộ và hệ thống, cần bố trí cán bộ nắm những thông tin của từng dự án để có thể phối hợp giữa các bộ ngành, và các địa phương với nhau như ở Bộ kế hoạch đầu tư (vụ thẩm định và giám sát đầu tư,vụ quản lý đấu thầu…), bộ tài chính(vụ ngân sách, vụ đầu tư, kho bạc nhà nước) và bộ giao thông .
- Tiến hành rà soát, kiểm tra lại danh mục đầu tư ở tất cả các bộ, ngành, địa phương đảm bảo các dự án có hiệu quả, nếu dự án đầu tư không còn khả thi nữa thì có thể loại bỏ tránh lãng phí vốn đầu tư của nhà nước.
- Sau khi tiến hành thanh tra, kiểm tra cần phải đưa ra được những kết luận và kiến nghị thanh tra chính xác, chặt chẽ, rõ ràng tránh tình trạng nể nang, tham nhũng vốn TPCP. Và phải thường xuyên báo cáo tình hình thực hiện cho cơ quan có thẩm quyền hơn sau khi thanh tra.
3.2.4. Đẩy mạnh công tác giải phóng mặt bằng
Giải phóng mặt bằng hiện nay đang là vấn đề nhức nhối ở mỗi công trình mới, chính vì thế mà nó có sự quan tâm rất lớn của các cấp quản lý. Tuy nhiên ngay cả khi đã có những chính sách về giải phóng mặt bằng nhưng sự phối hợp giữa ban quản lý dự án với chính quyền địa phương không thống nhất, sát sao đã tạo nhiều khó khăn trong khâu giải phóng. Trong thời gian qua công tác giải phóng mặt bằng nhằm tạo quỹ đất cho các công trình giao thông, các công trình thủy lợi gặp nhiều khó khăn và ảnh hưởng lớn đến tiến độ thi công của nhiều dự án và ảnh hưởng trực tiếp đến quy hoạch cũng như chiến lược đầu tư của nhà nước, thực tế cho thấy nhiều công trình đã bị chậm trễ vài năm. Để giải quyết những vấn đề trên thì trong thời gian tới cần phải có những giải pháp kịp thời để thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng:
- Xây dựng quy hoạch trung hạn và dài hạn một cách chi tiết để xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông cũng như thủy lợi, trên cơ sở đó lập quy hoạch quỹ đất và có những chính sách thu hồi đất hợp lý với những cột mốc chỉ giới ổn định.
- Mỗi khi có chủ trương đầu tư, Chính phủ cùng các cơ quan địa phương phải thông báo kịp thời, có các chính sách, khung giá đất hợp lý, nhanh chóng cho nhân dân. Các cấp chính quyền địa phương phải mạnh tay, đi trước nhiều bước để tránh tình trạng xây nhà trái phép, lấn chiếm để được đến bù. Điều chỉnh giá đền bù hợp lý với giá trị đất đai của từng địa bàn và trong từng thời kỳ nhất định vì đây là một vấn đề tác động lớn nhất đến việc chấp thuận di dời của người dân. Khi mà lợi ích của ngừơi dân được đảm bảo, đủ bù đắp thiệt hại cho người dân thì sẽ có thể đẩy nhanh được công tác đền bù và giải phóng mặt bằng, tiết kiệm được thời gian và chi phí, tăng hiệu quả sử dụng vốn TPCP.
Có các biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các trường hợp vi phạm các vùng đất đã được cắm mốc chỉ giới để xây dựng hay vi phạm hành lang bảo vệ. Cần có các biện pháp xử phạt về kinh tế, kết hợp với hệ thống pháp luật đối với các trường hợp vi phạm.
3.2.5. Tăng cường công tác quản lý đấu thầu và cơ chế đấu thầu
Trong thời gian qua, công tác đấu thầu đã bộc lộ nhiều yếu kém làm ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ của dự án do quy chế đấu thầu chưa hoàn thiện và thiếu thông tin vì vậy các nhà quản lý cần hoàn thiện cơ chế đấu thầu để chấm dứt tình trạng trên, phát huy tối đa hiệu quả của vốn TPCP.
Phải đảm bảo tính công khai minh bạch trong công tác đấu thầu thì bộ kế hoạch đầu tư và bộ tài chính cần lập kế hoạch đầu thầu dự án rộng rãi dưới hình thức cạnh tranh rộng rãi để có thể lựa chọn được các nhà thầu phù hợp đảm bảo chất lượng và tiến độ của dự án, không nên chia công trình ra làm nhiều gói thầu quá nhỏ để tránh tình trạng lãng phí, không đảm bảo tính tổng thể hơn nữa gói thầu quá nhỏ sẽ không khuyến khích được các nhà thầu tham gia đấu thầu, gây khó khăn cho quản lý. Để đảm bảo tính công khai minh bạch thì các dự án phỉ đăng tải thông tin (gửi thông tin qua fax và xác nhận thông tin trên trang Web đấu thầu) và phát hành Báo Đấu thầu giúp đẩy nhanh tiến độ dự án và tăng tính cạnh tranh trong đấu thầu.
Quản lý đấu thầu phải thực hiện xuyên suốt từ khâu chuẩn bị đến khâu tổ chức đầu thầu, đánh giá sơ bộ dự thầu, lựa chọn nhà thầu, kí kết hợp đồng. Tránh trường hợp nhà thầu trúng thầu có tên trong hợp đồng nhưng khi thực hiện gói thầu lại là nhà thầu khác.Nghiêm minh xử lý các trường hợp móc nối với nhà quản lý để làm thất thoát vốn của nhà nước.
Quy trình, thủ tục thực hiện chỉ định thầu đối với gói thầu quy mô nhỏ được đơn giản hóa tối đa (không cần lập Hồ sơ mời thầu, hồ sơ dự thầu mà chỉ cần chủ đầu tư và nhà thầu được kiến nghị chỉ định thầu thương thảo và ký hợp đồng). Thủ tục đánh giá đối với gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp quy mô nhỏ cần được đơn giản hóa theo hướng không bắt buộc phải xác định giá đánh giá mà chỉ cần xét duyệt trúng thầu đối với nhà thầu đáp ứng về năng lực, kinh nghiệm, đạt về mặt kỹ thuật và có giá đề nghị trúng thầu nhỏ hơn hoặc bằng giá gói thầu được duyệt để tăng tốc, giảm thời gian làm thủ tục.
3.2.6. Đào tạo nguồn nhân lục có phẩm chất tốt.
Trước hết cần xây dựng những chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực có phẩm chất tốt sau đó thực hiện đào tạo tăng năng lực hoạt động trong hoạt động đầu tư phát triển, cần phải xây dựng và triển khai thực hiện chương trình đào tạo đồng bộ từ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ phụ trách khoa học kỹ thuật đến đội ngũ công nhân…và đặc biệt chú tâm vào kỹ năng xây dựng, đánh giá quản lý dự án, nâng cấp năng lực tiếp nhận và đánh giá thông tin.
Phải quan tâm, bồi dưỡng, tạo những điều kiện thuận lợi nhất để đào tạo tuyển dụng không những nguồn nhân lực trong nước mà còn nguồn nhân lực từ nước ngoài, giảm hiện tượng chảy máu chất xám, người tài đi mất. Thực hiện chế độ tuyển dụng cán bộ thông qua thi tuyển, kiểm tra chặt chẽ, đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo.Thi tuyển thường xuyên để có thể sàng lọc và thay thế những cán bộ không đủ năng lực, tìm thêm những nguồn nhân lực mới, chú trọng đào tạo cán bộ giỏi và là chuyên gia cho ngành. Có những chính sách thưởng phạt một cách hợp lý để khuyến khích người lao động và đội ngũ cán bộ làm việc hiệu quả, có những chính sách khuyến khích đối với những cán bộ làm việc ở các vùng sâu vùng xa, làm việc trong môi trường nặng nhọc.
Thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá trong phương thức và cách thức đào tạo cán bộ quản lý và thực hiện dự án, sử dụng bao gồm cả hình thức đào tạo trong nước, cử đi học nước ngoài nếu thấy cần thiết, học chính quy trong các chương trình đào tạo tại các trường đại học trong nước, học bán chính quy, tại chức, tập huần, tu nghiệp…Mở rộng hợp tác với nước ngoài đặc biệt là các nước có nhiều kinh nghiệm trong quản lý và đầu tư. Mời chuyên gia giảng dạy, hướng dẫn chuyển giao kỹ thuật công nghệ, tổ chức hội thảo thường xuyên giữa các đơn vị để có thể nâng cao trình độ tay nghề, khuyến khích hình thức đào tạo tự túc kết hợp giữa các nhân với nhà nước về kinh phí đào tạo, khuyến khích cán bộ có nguyện vọng đi học…
Tăng cường đạo tạo về luật pháp, chính sách sử dụng vốn TPCP, quản lý đầu tư xây dựng, quy trình thanh toán vốn dự án, kiến thức tin học để thuận tiện cho công tác thu thập và xử lý thông tin, cách thức nâng cao khả năng huy động vốn của TPCP …
KẾT LUẬN
Nguồn vốn trái phiếu Chính phủ là một nguồn vốn không thể thiếu trong quá trình đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đóng vai trò điều tiết nguồn Ngân sách Nhà nước cùng với những chính sách quản lý và sử dụng đúng đắn có hiệu quả nguồn vốn thì chắc chắn trong tương lai gần nước ta sẽ có một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và ổn định.
Tuy nhiên, sự biến động của nền kinh tế thế giới nói chung và của nước ta nói riêng cũng sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình sử dụng nguồn vốn này.
Với đề tài về lĩnh vực sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ, với thời gian nghiên cứu tiếp xúc ngắn, kinh nghiệm thực tế còn hạn chế... nên chắc chắn đề tài không tránh khỏi tồn tại, khiếm khuyết. Em kính mong được sự giúp đỡ của các thầy giáo, cô giáo để em được nhận thức đầy đủ hơn về lĩnh vực này.
Em xin chân thành cảm ơn Ths.Trần Mai Hoa cùng với các cán bộ trong Vụ đầu tư-Bộ tài chính đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Danh mục tài liệu tham khảo
1.Giáo trình kinh tế đầu tư- PGS-TS Nguyễn Bạch Nguyệt, PGS-Ts Từ Quang Phương
2.Giáo trình lập dự án - PGS-TS.Nguyễn Bạch Nguyệt
4. Giáo trình thị trường vốn - TS.Phạm Mạnh Hùng
5. Quy hoạch phát triển giao thông vận tải đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
6. Quy hoạch phát triển thủy lợi đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
7. Quy hoạch phát triển giáo dục đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
8. Quy hoạch phát triển y tế đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
9. www.vneconomy.com
10. www.mof.gov.vn
Lời nhận xét GVHD
....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21276.doc