LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cơ cấu nền kinh tế nói chung đặc biệt là cơ cấu kinh tế nông nghiệp hiện đang có những bước chuyển biến rõ rệt để tăng hiệu quả kinh tế. Trong những năm gần đây, nuôi trồng thuỷ sản đã phát triển mạnh trong phạm vi cả nước. Diện tích nuôi trồng nuôi trồng thuỷ sản tăng bình quân 4 %/năm. Hàng năm ngành thuỷ sản mang lại hàng chục triệu USD đóng góp vào GDP của tỉnh, đồng thời tạo công ăn việc làm cho những người dân. Được sự quan tâm của Nhà nước và lãnh đ
54 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2775 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả nuôi trồng thuỷ sản ở tỉnh Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạo tỉnh, người dân nuôi trồng thuỷ sản Thái Bình nhận được nhiều chính sách ưu tiên trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chính sách cho vay vốn…Do đó, nghề nuôi trồng đã phát triển về diện tích, năng suất và hiệu quả nuôi trồng. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trung bình hàng năm đạt 7 – 8 triệu USD. Tuy nhiên khi mà ngành thuỷ sản đang có những định hướng mở rộng quy mô khai thác đánh bắt và chế biến thì ở tỉnh Thái Bình ngư dân lại chú trọng đến việc nhân giống, nuôi trồng những loại thuỷ sản có giá trị kinh tế cao mang lại những lợi ích rõ rệt. Khi lượng khai thác ngày càng cạn kiệt, nguồn tài nguyên biển đang cạn dần thì những ngư dân Thái Bình đã và đang chuyển sang một mô hình nuôi trồng thuỷ sản mới và đã đạt được những kết quả khả quan. Với những mặt hiệu quả như vậy nhưng ngư dân ở đây lại chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là chính nên chất lượng và sản lượng chưa cao, trong khi đó khoa học kỹ thuật lại chưa đến được với ngư dân Thái Bình. Để nhìn lại đánh giá và tìm kiếm những vấn đề mà ngư dân bấy lâu vẫn chưa được giải đáp em đã lựa chọn đề tài: “THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN Ở TỈNH THÁI BÌNH”.
2. Mục đích nghiên cứu
Để tìm hiểu rõ hơn lý luận và thực tiễn về phát triển ngành thuỷ sản nói chung và nuôi trồng thuỷ sản nói riêng.
Đánh giá thực trạng hoạt động nuôi trồng thuỷ sản tỉnh Thái Bình.
Đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả nuôi trồng thuỷ sản.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đánh giá hoạt động nuôi trồng thuỷ sản tỉnh Thái Bình.
Thời gian nghiên cứu giai đoạn từ 2004 đền nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp duy vật biện chứng
Phương pháp thống kê
Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp so sánh.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
***
I. Khái quát chung ngành thuỷ sản
1. Vài nét về ngành thuỷ sản
Thuỷ sản là ngành kinh tế lâu đời trong nông nghiệp nhất là những vùng, những quốc gia có diện tích và điều kiện thuận lợi. Ngành thuỷ sản là ngành gắn liền với nước và các động vật thuỷ sinh. Theo giáo trình “Kinh tế thuỷ sản” của Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân “ngành thuỷ sản là một ngành sản xuất vật chất độc lập và cũng là ngành sản xuất vật chất hỗn hợp gồm nhiều ngành sản xuất chuyên môn nhỏ hẹp”.
Thuỷ sản là ngành sản xuất vật chất độc lập bởi quá trình tồn tại và phát triến của con người gắn liền với các hoạt động sản xuất như trồng trọt, chăn nuôi và khai thác các nguồn lợi từ thuỷ sản. Con người ngày càng biết lợi dụng khả năng tiềm tàng về sinh vật sống trong môi trường nước để tiến hành khai thác, nuôi trồng, chế biến chúng phục vụ cho nhu cầu đời sống của mình. Do đối tượng lao động là các sinh vật thuỷ sinh nên các hoạt động sản xuất của ngành thuỷ sản gắn liền với đất và nước. Thuỷ sản là ngành bao gồm những ngành sản xuất chuyên môn nhỏ hẹp như: nuôi trồng, khai thác và chế biến. Sản phẩm thuỷ sản là các loại tôm, cá, cua, ba ba, ngao, sò…ở nước ngọt, mặn, lợ thu được do nuôi trồng hoặc khai thác tự nhiên.
Nuôi trồng thủy sản là một trong những chuyên ngành nhỏ hẹp, thu hút nhiều lao động. Nuôi thủy sản chia làm 3 loại hình:
- Nuôi thuỷ sản nước ngọt:
Là hoạt động kinh tế khai thác con giống trong vùng nước ngọt tự nhiên, sản xuất giống nhân tạo và ương nuôi các loài thuỷ sản (mà nơi sinh trưởng cuối cùng của chúng là trong nước ngọt) để chúng đạt tới kích cỡ thương phẩm. Ở đây, nước ngọt được hiểu là môi trường nước có độ mặn thấp hơn 0,5‰.
Một số loại hình nuôi thuỷ sản nước ngọt:
a. Nuôi thuỷ sản ao hồ nhỏ: Các loài cá trắm, chép, trôi, mè, mè Vinh, trê lai, rô phi, tra, ba sa, v.v… là những đối tượng nuôi ổn định trong nghề nuôi thuỷ sản ao hồ nhỏ. Nguồn giống sinh sản nhân tạo hoàn toàn chủ động, năng suất bình quân đạt hơn 3 tấn/ha. Riêng cá tra nuôi trong ao (hầm) với những ứng dụng kỹ thuật tiên tiến, có thể cho năng suất tới 300 tấn/ha mỗi năm. Gần đây, một số loài mới nhập nuôi hoặc mới tạo ra như cá trôi Ấn Độ (rohu), mrigala, cá chép lai ba máu, ... đang được phát triển nhanh.
b. Nuôi cá mặt nước lớn (nuôi trong hồ tự nhiên, hồ chứa): Hình thức nuôi lồng, bè trong sông, suối, hồ chứa rất phát triển với các đối tượng có giá trị kinh tế cao như cá tra, basa, rô phi, trắm cỏ, chép lai, trôi Ấn Độ, v.v…
c. Nuôi cá ruộng trũng và vùng ngập lũ: Được tiến hành theo mô hình nuôi cá-lúa, tôm - lúa, luân canh hoặc xen canh. Đây chính là hướng chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Đối tượng nuôi chủ lực trong ruộng và vùng ngập lũ hiện nay là các loài cá nước ngọt và tôm càng xanh. Phát triển nuôi thuỷ sản trong ruộng trũng đã trở thành một hướng quan trọng để điều chỉnh cơ cấu canh tác, làm tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích canh tác, cải thiện điều kiện kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nâng cao giá trị xuất khẩu. Các đối tượng khác là lươn, ếch, ba ba, cá sấu,… cũng đang được nuôi ở nhiều nơi.
- Nuôi thuỷ sản nước lợ: Là hoạt động kinh tế ương, nuôi các loài thuỷ sản trong vùng nước lợ cửa sông, ven biển. Ở đây “nước lợ” được hiểu là môi trường có độ mặn dao động mạnh theo mùa. Đối tượng nuôi chủ yếu các loài tôm: Tôm sú (P. monodon), tôm he (Penaeus merguiensis), tôm bạc thẻ (P. indicus), tôm nương (P. orientalis), tôm rảo (Metapenaeus ensis) và một số loài cá như cá vược (chẽm), cá mú (song), cá chình...Hình thức nuôi gồm chuyên canh một đối tượng và xen canh, luân canh giữa nhiều đối tượng hoặc nuôi trong rừng ngập mặn. Gần đây, mô hình nuôi hữu cơ (nuôi tôm trong điều kiện gần như tự nhhiên, không sử dụng hoá chất, kháng sinh, chất kích thích) bắt đầu được áp dụng và mở rộng ở Đồng bằng sông Cửu Long.
- Nuôi, trồng động, thực vật nước mặna.
a. Nuôi thuỷ sản nước mặn (nuôi biển): Là hoạt động kinh tế ương nuôi các loài thuỷ sản mà nơi sinh trưởng cuối cùng của chúng là ở biển. Hình thức nuôi chủ yếu là lồng bè hoặc nuôi trên bãi triều. Đối tượng nuôi chính là tôm, tôm hùm, cá biển (cá mú, cá giò, cá hồng, cá cam…), nhuyễn thể (nghêu, sò huyết, ốc hương, trai ngọc…).
b. Trồng rong câu, rong sụn: Những tỉnh trồng rong câu chủ yếu ở Việt Nam là Hải Phòng, Thừa Thiên Huế và Bến Tre. Rong sụn là loài mới được nhập và trồng có kết quả, đang được nhân rộng ở nhiều địa phương ở miền Trung và Nam Bộ. Nhìn chung, với những nỗ lực trong việc mở rộng diện tích nuôi trồng thuỷ sản; ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất giống; chú trọng những đối tượng nuôi thế mạnh của từng vùng; áp dụng phương thức nuôi tiên tiến, đem lại hiệu quả cao, nhất là áp dụng công nghệ nuôi công nghiệp chu trình khép kín, ít thay nước đối với đối tượng tôm sú; phát triển các khu nuôi trồng thuỷ sản công nghệ cao, v.v… hoạt động nuôi, trồng các loài động, thực vật thuỷ sinh đã thu được kết quả vượt bậc, tỷ lệ sản lượng thuỷ sản nuôi trồng trong tổng sản lượng thuỷ sản đã tăng từ 29,16% năm 2001 đến 35,08% năm 2003.
Như vậy để phát triển ngành thuỷ sản thì không thể chỉ quan tâm đến khai thác truyền thống mà hiện nay và sau này cần tập trung các nguồn lực vào phát triển hai tiểu ngành nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Đặc biệt ưu tiên phát triển nuôi trồng thuỷ sản vì phát triển tiểu ngành này có ý nghĩa chiến lược trong quá trình phát triển ngành thuỷ sản nói chung.
2. Đặc điểm của ngành thuỷ sản
2.1. Đối tượng sản xuất là các sinh vật trong nước
Các loài động thực vật sống trong môi trường nước mặt là đối tượng sản xuất của ngành thuỷ sản. Môi trường nước mặt cho sản xuất thuỷ sản gồm có biển các mặt nước trong nội địa. Những sinh vật sống trong môi trường nước, với tính cách là đối tượng lao động của ngành thuỷ sản, có một số đặc điểm đáng lưu ý sau:
- Về trữ lượng, khó xác định một cách chính xác trữ lượng thuỷ sản có trong một ao hồ hay ngư trường. Đặc biệt ở các vùng mặt nước rộng lớn, các sinh vật có thể di chuyển tự do trong ngư trường hoặc di cư từ vùng này sang vùng khác không phụ thuộc vào danh giới hành chính. Hướng di chuyển của các luồng tôm cá chịu tác động của nhiều nhân tố như thời tiết khí hậu, dòng chảy và đặc biệt là nguồn thức ăn tự nhiên. Để bảo vệ, tái tạo và khai thác có hiệu các nguồn lợi thuỷ sản, một mặt cần phân chia ranh giới mặt nước, mặt biển, vùng biển giữa các địa phương hay các quốc gia nhưng mặt khác cũng cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa các địa phương.
- Các loài sinh vật trong nước sinh trưởng và phát triển chịu sự tác động nhiều của điều kiện thời tiết, khí hậu, dòng chảy, địa hình thuỷ văn…Trong nuôi trồng thuỷ sản, cần tạo những điều kiện thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển cao của các loại thuỷ sản như: tạo dòng chảy bằng máy bơm, tạo ôxy bằng quạt sục nước.
- Các sản phẩm thuỷ sản sau khi thu hoạch hoặc đánh bắt đều rất dễ ươn thối, hư hỏng vì chúng đều là những sản phẩm sinh vật đã bị tách ra khỏi môi trường sống. Để tránh tổn thất trong sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm đòi hỏi phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các khâu từ khai thác, nuôi trồng đến chế biến và kinh doanh tiêu thụ sản phẩm; từ khai thác đến đầu tư tái tạo nguồn lợi, đầu tư cơ sở hạ tầng dịch vụ một cách đồng bộ.
2.2. Thuỷ vực là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế
Các loại mặt nước bao gồm: sông, hồ, ao, mặt nước ruộng, cửa sông, biển…gọi chung là thuỷ vực được sử dụng vào nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản. Tương tự như ruộng đất sử dụng vào nông nghiệp, thuỷ vực là tư liệu sản xuất đặc biệt, chủ yếu không thể thay thế của ngành thuỷ sản. Tuy nhiên, nước là yếu tố quan trọng đối với mọi ngành kinh tế, thậm chí là điều kiện của sự sống. Do vậy thuỷ vực có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau của con người như để điều hoà môi trường, đáp ứng nhu cầu giao thông thuỷ, du lịch sinh thái sông nước…Thông thường, thuỷ vực được sử dụng theo hướng đa mục tiêu nhằm nâng cao hiệu quả sủ dụng chúng. Để sử dụng có hiệu quả và bảo vệ thuỷ vực trong ngành thuỷ sản cần chú ý đến những vấn đề sau:
- Thực hiện quy hoạch các loại hình thuỷ vực và xác định hướng sử dụng thuỷ vực cho ngành thuỷ sản. Trong quy hoạch cần chú ý những thuỷ vực có mục đích chính vào nuôi trồng thuỷ sản cần kết hợp với các hướng kinh doanh khác.
- Chú trọng việc bảo vệ môi trường nước, kể cả nước biển. Thực hiện những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn mọi nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nước. Mặt khác, phải thường xuyên cải tạo thuỷ vực, tăng nguồn dinh dưỡng cho các loại thuỷ sinh vật nhằm nâng cao năng suất sinh học của thuỷ vực.
- Sử dụng thuỷ vực một cách tiết kiệm, đặc biệt cần hạn chế chuyển đổi mục đích sử dụng thuỷ vực là các ao, hồ, các thùng đấu…sang đất xây dựng cơ bản hay mục đích khác.
2.3. Ngành thuỷ sản là ngành sản xuất vật chất có tính hỗn hợp, tính liên ngành cao
Với tính cách là một ngành sản xuất vật chất, ngành thuỷ sản bao gồm nhiều hoạt động sản xuất cụ thể có tính chất tương đối khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau như: khai thác, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ thuỷ sản. Khi trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, các hoạt động sản xuất cụ thể nói trên chưa có sự tách biệt rõ rang, thậm chí còn lồng vào nhau. Trong điều kiện như vậy, khối lượng sản phẩm sản xuất ra còn ít với chất lượng thấp và chủ yếu đáp ứng như cầu thị trường nhỏ hẹp. Ngày nay, dưới tác động mạnh mẽ của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội làm cho các hoạt động sản xuất thuỷ sản được chuyên môn hoá ngày càng cao.
Các hoạt động chuyên môn hoá khai thác, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ thuỷ sản có trình độ và quy mô phát triển tuỳ thuộc vào nhu cầu thị trường và mỗi hoạt động lại dựa trên nền tảng nhất định về cơ sở vật chất kỹ thuật và phương pháp công nghệ, tạo nên những ngành chuyên môn hoá hẹp có tính chất độc lập tương đối. Tính hỗn hợp và tính liên ngành cao của các hoạt động sản xuất có tính chất của một ngành sản xuất công nghiệp, vừa có tính chất của sản xuất nông nghiệp. Cơ cấu sản xuất ngành thuỷ sản (hay còn gọi là cơ cấu ngành) và tập hợp các bộ phận những hoạt động sản xuất thuỷ sản tương tự nhau và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận đó hợp thành hệ thống sản xuất kinh doanh thuỷ sản.
2.4. Sản xuất kinh doanh thuỷ sản đòi hỏi đầu tư ban đầu lớn, độ rủi ro cao
Hầu hết các hoạt động nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thuỷ sản đều đỏi hỏi đầu tư ban đầu vốn lớn. Trong hoạt động nuôi trồng, nếu không kể những hoạt động nuôi cá trong ao hồ có sẵn, nuôi cá ruộng, nuôi nồng ở sông, suối thì hầu hết các hoạt động đầu tư nuôi thuỷ sản đều cần vốn lớn như: đào ao thả cá trên đất canh tác hiệu quả thấp được chuyển đổi mục đích sử dụng; đầu tư cải tạo đầm nuôi thủy sản ở ven biển, cửa sông… Trong hoạt động đánh bắt, nhất là đánh bắt xa bờ đòi hỏi vốn đầu tư đóng mới tàu thuyền lên tới hàng tỷ đồng. Nhu cầu đầu tư vốn ban đầu tương đối lớn cho phát triển các hoạt động kinh tế như trên là vượt quá khà năng tự tích luỹ và đầu tư của từng chủ thể kinh tế trong ngành thuỷ sản, đặc biệt là khả năng của các hộ. Do vậy, để phát triển thuỷ sản, Nhà nước phải xây dựng và thực hiện chính sách cho vay vốn theo các chương trình phát triển riêng của từng ngành này như: cho vay trong chương trình khai thác xa bờ, tín dụng đầu tư xây dựng các cơ sở hậu cần dịch vụ nghề cá theo quy hoạch…
Sản xuất nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nhất là điều kiện thuỷ văn, bão lũ. Đối với nước ta có bờ biển dài, diễn biến bão lũ phức tạp đã gây thiệt hại nặng cho nghề nuôi trồng thuỷ sản của cả một vùng hay một địa phương. Trong nhiều trường hợp, thiên tai có thể gây thiệt hại cả đến tính mạng của các ngư dân, nhất là ngư dân đánh bắt ngoài khơi. Để hạn chế những hậu quả này, cần chứ ý những vân đề chủ yếu là:
- Cần đầu tư các phương tiện thực hiện dự báo khí tượng thuỷ văn phát hiện và cảnh báo sớm các thiên tai. Xây dựng các vùng tránh bão cho tàu thuyền đánh cá,..
- Ban hành và thực thi những chính sách ưu đãi cho các vùng, hoạt động kinh doanh nuôi trồng, khai thác thuỷ sản, khắc phục rủi ro hay thiên tai nhằm nhanh chóng ổn định đời sống phát triển sản xuất.
- Từng bước nghiên cứu xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong ngành thuỷ sản.
3. Vai trò của ngành thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân
3.1. Ngành thuỷ sản cung cấp những sản phẩm thực phẩm quý cho tiêu dùng của dân cư, cung cấp nguyên liệu cho phát triển một số ngành khác
Các kết quả nghiên cứu của các chuyên gia về dinh dưỡng đã khẳng định hầu hết các loại thuỷ sản đều là loại thực phẩm giàu đạm, dễ tiêu hoá, phù hợp với sinh lý dinh dưỡng ở mọi lứa tuổi. Càng ngày thuỷ sản càng được tin tưởng như một loại thực phẩm ít gây bệnh tật và ít chịu ảnh hưởng của ô nhiễm hơn. Xét về thành phần dinh dưỡng cho thấy: so với các loại thịt, các loại thực phẩm là thuỷ sản có chứa ít chất mỡ hơn, nhiều chất khoáng hơn nhưng chất đạm cũng khá cao. Ví dụ trong thịt bò, tỷ lệ tính theo phần trăm của đạm là 16,2 – 19,2%, của mỡ là 11 – 28%, chất khoáng là 0,8 – 1%, cũng tương tự như tỷ lệ nói trên trong cá thu có tỷ lệ là: 18,6%, 0,4% và 1,2%; ở cá mối là: 16,4%, 1,6 – 2,3% và 1,2 %; ở cá hồng là 17,8%, 5,9% và 1,4%...
Ngành thuỷ sản cung cấp một phần thức ăn cho chăn nuôi đặc biệt cho chế biến thức ăn chăn nuôi công nghiệp. Bột cá và các phế phẩm, phụ phẩm thuỷ sản chế biến là nguồn thức ăn giàu đạm được sử dụng làm thức ăn hoặc để chế biến thức ăn phục vụ chăn nuôi gia súc, gia cầm. Theo tính toán của FAO, hàng năm có khoảng trên 25% sản lượng thuỷ sản được sử dụng trực tiếp vào chế biến thức ăn chăn nuôi.
Ngành thuỷ sản cung cấp nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và một số ngành công nghiệp khác. Nguồn nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp chế biến thực phẩm gồm tôm, cá, nhuyễn thể, rong biển…các nguyên liệu thuỷ sản còn được sử dụng làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp dược phẩm, mỹ nghệ…
3.2. Ngành thuỷ sản phát triển sẽ có những đóng góp quan trọng trong tăng trưởng của toàn ngành nông, lâm, ngư nghiệp nói chung
Ngành thuỷ sản là ngành kinh tế có khả năng tạo ra nhiều giá trị gia tăng. Vì vậy, phát triển mạnh ngành thuỷ sản, đặc biệt phát triển công nghiệp chế biến thuỷ sản, sẽ góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp. Để đánh giá vai trò của các khu vực, của ngành kinh tế, người ta thường sử dụng hai chỉ tiêu chủ yếu, đó là tốc độ tăng trưởng của từng ngành, khu vực và tỷ trọng của từng ngành, từng khu vực trong toàn bộ nền kinh tế. Khi sử dụng hai chỉ tiêu nêu trên, cần chú ý hai trường hợp: tốc độ tăng trưởng cao nhưng tỷ trọng nhỏ hoặc nếu tỷ trọng lớn nhưng tốc độ tăng trưởng thấp thì mức độ đóng góp vào tốc độ tăng trưởng chung là thấp. Ngày nay, người ta đưa ra phương pháp đánh giá mới, đó là tỷ trọng đóng góp của từng ngành, từng khu vực vào tốc độ tăng trưởng chung. Phương pháp này cho phép đồng thời xét đến sự tác động theo cả hai chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng và tỷ trọng của từng ngành, khu vực trong tốc độ tăng trưởng chung. Do vậy, chỉ tiêu đóng góp vào sự tăng trưởng của từng ngành, từng khu vực cho thấy rõ hơn, lượng hoá được vai trò của từng ngành, từng khu vực trong nền kinh tế.
3.3. Tham gia vào xuất khẩu, thu ngoại tệ cho đất nước
Đối với những nước có tiềm năng về thuỷ vực và nguồn lợi thuỷ sản, phát triển ngành thuỷ sản tạo ra nguồn hàng xuất khẩu có giá trị, thuỷ sản, đến nay đã có những bước tiến quan trọng trong việc đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh. Đã có 100 doanh nghiệp được EU công nhận đủ điều kiện an toàn vệ sinh, hơn 120 doanh nghiệp được cấp phép vào thị trường Mỹ. Các doanh nghiệp cũng từng bước nâng cao năng lực xúc tiến thương mại để đi vào các thị trường mới. Đối với toàn ngành thuỷ sản đã có những tiến bộ đáng kể về gắn kết giữa yêu cầu của thị trường ngoài nước (về số lượng, chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm) với thực tiễn sản xuất kinh doanh chế biến, nuôi trồng, khai thác với phát triển cơ sở hậu cần dịch vụ; gắn kết giữa khâu chế biến xuất khẩu với yêu cầu vệ sinh trong nuôi trồng, bảo quản và khai thác sản phẩm, gắn kết giữa khâu chế biến xuất khẩu với chế biến phục vụ nhu cầu thị trường nội địa. Hiện nay sản phẩm thuỷ sản Việt Nam đã xuất khẩu tới 75 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, nhưng quy mô thị trường còn nhỏ bé, kể cả thị trường Mỹ, Nhật Bản, EU…vì vậy phải tiếp tục mở rộng thị trường này. Muốn vậy, cần đảm bảo ổn định và chủ động về sản lượng, an toàn về vệ sinh và chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Do đó, việc gắn kết phát triển nguyên liệu với chế biến xuất khẩu một cách chặt chẽ và toàn diện là đòi hỏi bắt buộc của phát triển bền vững ngành thuỷ sản trong những năm tới.
3.4. Phát triển ngành thuỷ sản góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước
Với nhiều lợi thế dặc biệt về mặt nước và nguồn lợi thuỷ sản, phát triển mạnh mẽ ngành thuỷ sản nước ta sẽ góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước nói chung và kinh tế - xã hội nông thôn nói riêng. Về mặt kinh tế, ở những địa phương thuộc duyên hải Trung bộ hoặc Tây Nam bộ, phát triển thuỷ sản là con đường làm giàu của các chủ trang trại nuôi trồng thuỷ sản, các chủ tàu đánh cá. Ở các địa phương không có tiềm năng về biển, đặc biệt vùng nông thôn ngoại thành phát triển chăn nuôi thuỷ đặc sản là chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn cho hiệu quả cao. Về mặt xã hội, ở các vùng nghèo, vùng sâu, vùng cao, phát triển chăn nuôi thuỷ sản ao, hồ, sông suối tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho đồng bào. Việc sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm thuỷ sản tại chỗ ở các vùng này còn góp phần trực tiếp cải thiện dinh dưỡng bữa ăn, làm tăng sức khoẻ của người lớn và giảm suy dinh dưỡng trẻ em. Ngoài ra, phát triển các trạm tàu khai thác thuỷ sản xa bờ còn góp phần tăng cường an ninh quốc phòng cho vùng biên giới biển đảo của Tổ quốc. Đối với một số vùng biển, vùng ngập nước ven biển hay trong đất liền, phát triển thuỷ sản cũng góp phần vào phát triển ngành du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái, du lịch văn hoá.
4. Những nhân tố ảnh hưởng đến ngành thuỷ sản
4.1. Nhân tố tự nhiên
4.1.1. Thời tiết khí hậu
Thời tiết khí hậu có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nuôi trồng thuỷ sản. Nếu thời tiết thuận lợi phù hợp với điều kiện sống của các loại thuỷ sản thì chúng sẽ phát triển tốt, cho năng suất cao và ngược lại. Với một nền khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm với bốn mùa làm cho dịch bệnh có điều kiện phát triển mạnh. Bên cạnh đó, do có địa hình bờ biển kéo dài hàng năm mùa mưa bão đến với những cơn bão mạnh và liên tiếp đã gây thiệt hại nặng nề cho người dân.
4.1.2. Môi trường nước
Nước là một trong số những nhân tố quan trọng đối với ngành thuỷ sản. Diện tích mặt nước không những quyết định sự tồn tại của các loại thuỷ sản mà còn quyết định cả quy mô phát triển của ngành. Quốc gia, vùng nào có diện tích mặt nước càng lớn thì càng có khả năng mở rộng phát triển ngành thuỷ sản. Tuỳ thuộc vào từng loại thuỷ sản mà điều chỉnh diện tích nước cho hợp lý. Do khí hậu ngày càng diễn biến thất thường, nguồn nước mặn đang xâm nhập vào vùng nội đồng làm cho môi trường nước thay đổi ảnh hưởng đến môi trường sinh sống của các loại thuỷ sản. Tận dụng được điều này để phát triển những loài sống ở vùng nước lợ. Mặt khác do sự ô nhiễm môi trường do con người như thuốc trừ sâu, phân bón, rác thái,… đã làm thay đổi và ảnh hưởng tiêu cực đến việc nuôi trồng.
4.2. Nhân tố kinh tế - xã hội
4.2.1. Lao động
Nguồn lực lao động là yếu tố hàng đầu trong mọi hoạt động sản xuất thuỷ sản. Lao động thuỷ sản gắn liền với lao động nông thôn. Do đặc điểm tính chất kinh tế - xã hội của các tổ chức sản xuất thuỷ sản, chủ yếu là kinh tế hộ, tư nhân, tập thể nên lực lượng lao động bao gồm cả những người ngoài độ tuổi lao động mà có khả năng tham gia sản xuất. Lao động thuỷ sản chuyên nghiệp là những người có thu nhập chủ yếu từ các hoạt động khai thác, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ hậu cần thuỷ sản. Họ có những kiến thức kỹ năng nghề nghiệp. Ngoài ra, còn một số lượng đông đảo lao động thuỷ sản bán chuyên nghiệp, họ tham gia sản xuất thuỷ sản vào thời kỳ nông nhàn hoặc kết hợp làm thủy sản vào trong quá trình sản xuất nông - lâm nghiệp để tăng thêm thu nhập. Lao động thuỷ sản mang tính thời vụ, điều này làm phức tạp thêm cho việc sử dụng lao động trong ngành thuỷ sản. Tuy nhiên, lao động của con người cũng có thể hạn chế sự phát triển của ngành thuỷ sản đó là khi con người tiến hành khai thác thuỷ sản bừa bãi như đánh bắt thuỷ sản bằng thuốc nổ, thời kỳ cá đẻ, bắt cá bé… gây ô nhiễm môi trường, làm cạn kết nguồn cá.
4.2.2. Vốn
Cũng như các ngành kinh tế khác, ngành thuỷ sản tiến hành sản xuất thì cần phải có các tư liệu lao động như máy móc, thiết bị nhà xưởng, tư liệu sinh học, các điều kiện vật chất phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh và một khoản tiền để mua các yếu tố đầu vào cho sản xuất. Tất cả các yếu tố đó chỉ có thể đáp ứng được khi có vốn. Vốn sản xuất tác động vào toàn bộ quá trình nuôi trồng và khai thác thuỷ sản thông qua môi trường nước và vật nuôi. Có thể nói vốn có vai trò rất quan trọng đối với ngành thuỷ sản, ngành có thể phát triển được hay không là còn phụ thuộc vào lượng vốn.
Có hai loại vốn: Vốn cố định và vốn lưu động.
Vốn cố định là khoản tiền ứng trước để mua sắm tư liệu lao động. Tư liệu lao động bao gồm những yếu tố đầu vào cần thiết như máy móc, thiết bị cơ khí, nhà xưởng, các điều kiện vật chất phục vụ cho lao động…giá trị của chúng được chuyển dần từng phần và sản phẩm mới. Vốn lưu động là khoản tiền ứng trước để mua các yếu tố đầu vào dự trữ cho sản xuất. Chúng là loại yếu tố chuyển ngay một lần toàn bộ vào sản phâm mới.
4.3.3. Thị trường tiêu thụ
Thị trường tiêu thụ sản phẩm là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Thị trường tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản có vai trò quyết định đến việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá ngày càng cao. Ngoài ra thị trường tiêu thụ còn có vai trò quan trọng để kiểm nghiệm và chứng minh tính đúng đắn của các chủ trương, chính sách và biện pháp phát triển của cơ quan Nhà nước. Thị trường tiêu thụ ngày càng mở rộng sẽ làm cho việc nuôi trồng ngày càng phát triển, nhu cầu thị trường ngày càng cao đòi hỏi chất lượng nuôi trồng đáp ứng được, sản phẩm đa dạng.
Thị trường thuỷ sản phát triển tập trung quy mô lớn ở những nơi, vùng có điều kiện về sản xuất hàng hoá, lưu thông hàng hoá. Đó là những vùng chuyên canh nuôi trồng, khai thác, chế biến thuỷ sản, những đô thị lớn.
4.3.4. Khoa học công nghệ
- Công nghệ giống: công nghệ giống có ảnh hưởng trực tiếp quyết định tới năng suất và chất lượng sản phẩm thuỷ sản nuôi trồng. Nếu công nghệ giống thuỷ sản của ngành tốt thì sẽ tạo ra những sản phẩm có khối lượng, chất lượng cao và ngược lại nếu giống thuỷ sản không tốt, bị thoái hoá, bệnh tật thì sẽ gây khó khăn cho sản xuất và kinh doanh thuỷ sản.
- Công nghệ sau thu hoạch: đó là công nghệ bảo quản, chế biến và vận chuyển sản phẩm. Nếu trình độ và quy mô của công nghệ sau thu hoạch lớn, hiện đại thì sẽ nâng cao được tỷ suất hàng hoá cũng như giá trị kinh tế của thuỷ sản làm cho sản phẩm thuỷ sản ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường.
- Kỹ thuật nuôi: kỹ thuật nuôi có ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất của nuôi trồng thuỷ sản, người nuôi trồng phải nắm bắt được kỹ thuật nuôi thì mới đảm bảo được cho con giống sinh trưởng và phát triển tốt.
4.3.5. Hình thức tổ chức nuôi trồng
Các hình thức nuôi cũng ảnh hưởng không nhỏ đến ngành thuỷ sản. Nó quyết định năng suất, sản lượng nuôi trồng. Có các loại sau:
- Nuôi quảng canh hay còn gọi là nuôi truyền thống là hình thức nuôi bằng nguồn thức ăn tự nhiên trong ao, hồ, đầm ở nông thôn và các vùng ven biển.
- Nuôi quảng canh cải tiến là hình thức nuôi chủ yếu bằng nguồn giống và thức ăn tự nhiên nhưng bổ sung thêm giống nhân tạo ở mức độ nhất định.
- Nuôi bán thâm canh là hình thức nuôi chủ yếu bằng giống và thức ăn nhân tạo, nhưng kết hợp nguồn thức ăn tự nhiên trong thuỷ vực.
- Nuôi thâm canh là hình thức nuôi hoàn toàn bằng con giống và thức ăn nhân tạo, được đầu tư cơ sở hạ tầng đầy đủ.
- Nuôi công nghiệp (nuôi siêu thâm canh) là hình thức nuôi hoàn toàn bằng con giống và thức ăn nhân tạo với mật độ rất cao.
4.2.6. Chính sách vĩ mô
Ngành thuỷ sản là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý vĩ mô ngành thuỷ sản, định ra các mục tiêu chung, hệ thống công cụ quản lý nhà nước là toàn bộ phương tiện được Nhà nước sử dụng để tác động vào sản xuất kinh doanh thuỷ sản nhằm thúc đẩy nó phát triển theo hướng nhất định. Nhà nước có những chính sách đầu tư trực tiếp từ ngân sách cho ngành thuỷ sản, bên cạnh đó có đầu tư gián tiếp bằng hình thức tín dụng.
4.3. Nhân tố xã hội
Nhân tố xã hội bao gồm tập quán sản xuất, thói quen tiêu dùng… tập quán sản xuất mà tích cực thì sẽ đẩy mạnh sự phát triển của ngành thuỷ sản nhưng nếu tập quán sản xuất lạc hậu, tiêu cực thì sẽ ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của ngành như tập quán sản xuất của người dân ven biển chỉ quen khai thác thuỷ sản ven bờ. Thói quen tiêu dùng ảnh hưởng tới xu hướng sản xuất mà cụ thể là ngành chuyên môn hoá hẹp.
5. Các chỉ tiêu phản ảnh hiệu quả nuôi trồng thuỷ sản
Nuôi trồng thuỷ sản diễn ra chủ yếu ở các hộ, trang trại. Vì vậy, hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả nuôi trồng thuỷ sản phải phản ánh mức độ hiệu quả kinh tế cá biệt. Có thể sử dụng hệ thống chỉ tiêu sau:
Ký hiệu
- Lợi nhuận sau thuế: Pr
- Thuế: T
- Tổng chi phí: TC
- Số công lao động : L
- Khấu hao tài sản cố định: A
- Tổng giá trị sản xuất: GO
- Chi phí trung gian: IC
- Giá trị gia tăng: VA
- Diện tích nuôi trồng: S
- Sản lượng: Q
- Giá bán: P
Các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế:
- Lợi nhuận trên tổng chi phí sản xuất: Pr/TC
- Lợi nhuận trên tổng số công lao động: Pr/L
- Lợi nhuận trên diện tích nuôi trồng: Pr/S
- Giá trị gia tăng trên tổng chi phí sản xuất: VA/TC
- Giá trị gia tăng trên tổng số công lao động: VA/L
- Giá trị sản xuất trên tổng chi phí sản xuất: GO/TC
- Giá trị sản xuất trên tổng số công lao động: GO/L
- Giá trị sản xuất trên diện tích nuôi trồng: GO/S
- Năng suất lao động = Q/L
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN Ở TỈNH THÁI BÌNH
***
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG TỚI NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN Ở TỈNH THÁI BÌNH
1. Điều kiện tự nhiên
1.1. Vị trí địa lý
Thái Bình là một tỉnh ven biển nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, là hành lang cận kề với tam giác phát triển kinh tế trọng điểm Bắc bộ Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, là cửa ngõ giao thương giữa Hải Phòng, Quảng Ninh, nối dài tới các tỉnh duyên hải suốt dọc đất nước.
Thái Bình là mảnh đất địa linh nhân kiệt với diện tích 1.542,24 km2 chiếm 0,5% diện tích đất đai của cả nước, phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ, phía Tây và Tây Nam giáp Nam Định và Hà Nam, phía Bắc giáp tỉnh Hải Dương, Hưng Yên và thành phố Hải Phòng.
Thái Bình được bao bọc bởi hệ thống sông biển khép kín. Bờ biển Thái Bình chạy dài trên 50 km, là môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế biển và phát triển du lịch. Có 4 sông lớn chảy qua địa phận của tỉnh: phía Bắc và Đông Bắc là sông Hoá, phía Bắc và Tây Bắc là sông Luộc, phía Tây và nam là hạ lưu của sông Hồng và sông Trà Lý với 5 của sông lớn Văn Úc, Diêm Điền, Ba Lạt, Trà Lý, Lân.
Toàn tỉnh Thái Bình có 1 thành phố và 7 huyện trong đó có 284 xã, phường, thị trấn.
1.2. Đất đai
Đất đai Thái Bình phì nhiêu màu mỡ, tươi tốt do được bồi tụ bởi hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Hệ thống công trình thuỷ lợi tưới tiêu thuận lợi góp phần làm nên cánh đồng 14 – 15 tấn/ha.
Tổng diện tích tự nhiên là 153596 ha. Tiềm năng về thuỷ sản là một trong những thế mạnh của tỉnh Thái Bình. Thái Bình có 3 thuỷ vực khác nhau. Trong đó vùng nước mặn chiếm 17 km2 chủ yếu danh cho hoạt động khai thác các loại hải sản như cá Trích, cá Đé, tôm He… vùng nước lợ có khoảng 20705 ha hiện đang được khai thác để nuôi trồng thuỷ sản như tôm, cua, ngao, vọp, rau câu…Bên cạnh đó, các cồn cát ven biển như cồn Vành, cồn Thủ, cồn Đen và vùng đất ngập mặn thích hợp trồng tập trung cây sú vẹt, bần. Hịên tại có gần 5000 ha rừng vừa giữ đất, chắn sóng, vừa tạo môi trường sinh thái và cảnh quan thiên nhiên du lịch ven biển. Vùng nước ngọt với tổng diện tích có khả năng nuôi trồng thuỷ sản là 9256 ha và các triền cỏ ven đê, ven sông và hệ thống kênh mương ao hồ rộng khắp là điều kiện để phát triển chăn nuôi.
1.3. Khí hậu
Thái Bình nằm tr._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21445.doc