Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư và xu hướng đầu tư, tăng trưởng phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay đến năm 2020

CHƯƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ, TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ I.NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ 1.Khái niệm và phân loại đầu tư. 1.1 Khái niệm về đầu tư. Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy , mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà nhà đầu tư

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1409 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư và xu hướng đầu tư, tăng trưởng phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phải ghánh chịu khi tiến hành đầu tư. Nguồn lực được nói đến ở đây có thể là tiền, tài nguyên, công nghệ, nhà xưởng, sức lao động, trí tuệ… và các mục đích hướng tới chính là sự tăng lên về tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện, máy móc…), tài sản trí tuệ (trình độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề, năng suất lao động, trình độ quản lý… ) trong nền sản xuất xã hội. Trong những kết quả đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự hy sinh các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc , mọi nơi không chỉ đối với người bỏ vốn mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ nhà đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội được thụ hưởng. Chẳng hạn, một nhà máy được xây dựng, tài sản vật chất của nhà đầu tư trực tiếp tăng lên, đồng thời tài sản vật chất, tiềm lực sản xuất của nền kinh tế cũng được tăng thêm. Lợi ích trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này đem lại cho nhà đầu tư là lợi nhuận, còn cho nền kinh tế là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng (cho sản xuất và cho sinh hoạt ) tăng thêm của nền kinh tế, đóng góp cho ngân sách, giải quyết việc làm cho người lao động… Trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của người lao động tăng thêm không chỉ có lợi cho chính họ (để có thu nhập cao, địa vị cao trong xã hội) mà còn bổ sung nguồn lực có kỹ thuật cho nền kinh tế để có thể tiếp nhận công nghệ ngày càng hiện đại, góp phần nâng cao dần trình độ công nghệ và kỹ thuật của nền sản xuất quốc gia. 1.2 Phân loại đầu tư. Căn cứ vào các kết quả của hoạt động đầu tư, bản chất và lợi ích do đầu tư đem lai chúng ta có thể chia đầu tư ra làm 3 loại : đầu tư tài chính, đầu tư thương mại và đầu tư phát triển. Đầu tư tài chính: Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua các giấy tờ có giá để hưởng lãi suất định trước, hay lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ quan phát hành. Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (Nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của các tổ chức, cá nhân. Với sự hoạt động của hình thức đầu tư này, vốn được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra nhanh chóng. Đây thực sự là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Đầu tư thương mại: Đầu tư thương mại là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh lệch do giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của nhà đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với nhà đầu tư và giữa nhà đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra. Từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung. Đầu tư phát triển : Đầu tư phát triển là những hoạt động đầu tư tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Nói cách khác đầu tư phát triển là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa, kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. Ba loại đầu tư trên luôn tồn tại và có mối quan hệ tương hỗ với nhau, trong đó đầu tư phát triển là cơ bản nhất, tạo tiền đề đề tăng tích lũy, phát triển hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Đầu tư phát triển là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Bên cạnh đó, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại hỗ trợ và tạo điều kiện để tăng cường đầu tư phát triển. Tuy nhiên trong khuân khổ của đề tài này chúng ta chỉ đi sâu, tiềm hiểu, xem xét các vấn đề kinh tế của đầu tư phát triển- loại đầu tư quyết định trực tiếp sự phát triển của nền sản xuất xã hội, là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. 2.Các lý thuyết về đầu tư 2.1.Số nhân đầu tư Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư đối với sản lượng. Nó cho thấy sản lượng gia tăng bao nhiêu khi đầu tư gia tăng 1 đơn vị . Công thức tính: k = ∆Y/ ∆I (1) Trong đó: ∆Y: Mức gia tăng sản lượng ∆I : Mức gia tăng đầu tư k : Số nhân đầu tư Từ công thức (1) ta được ∆Y = k * ∆I (2) Như vậy, việc gia tăng đầu tư có tác dụng khuyếch đại sản lượng tăng lên số nhân lần. Trong công thức trên, k là số dương lớn hơn 1. Vì, khi I = S, có thể biến đổi công thức (2) thành: k == ==== (3) Trong đó: MPC = Khuynh hướng tiêu dùng biên MPS = Khuynh hướng tiết kiệm biên Vì MPS 1 Nếu MPC càng lớn thì k càng lớn, do đó, độ khuyếch đại của sản lượng càng lớn. Sản lượng càng tăng, công ăn việc làm càng tăng. Thực tế, gia tăng đầu tư, dẫn đến cầu về các tư liệu sản xuất (máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu…) và quy mô lao động. Sự kết hợp hai yếu tố này làm cho sản xuất phát triển, kết quả là gia tăng sản lượng nền kinh tế. Mô hình số nhân đầu tư phản ánh quan hệ giữa gia tăng thu nhập với gia tăng đầu tư, theo Keynes mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo sự gia tăng nhu cầu bổ sung công nhân, nâng cao cầu về tư liệu sản xuất, do vậy làm tăng cầu về tiêu dùng, tăng giá hàng, làm tăng việc làm cho công nhân. Tất cả điều đó làm cho thu nhập tăng lên, đến lượt mình thu nhâp lại là tiền đề cho sự gia tăng đầu tư mới, tăng đầu tư mới lại làm tăng thu nhập mới. Cứ như vậy, đầu tư quyết định thu nhâp, thu nhâp lại tạo tiền đề để gia tăng đầu tư. 2.2. Gia tốc đầu tư Số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ giữa gia tăng đầu tư gia tăng sản lượng hay việc gia tăng đầu tư có ảnh hưởng như thế nào đến sản lượng. Như vậy, đầu tư xuất hiện như một yếu tố của tổng cầu. Theo Keynes (nhà kinh tể học trong thập niên 30 thế kỉ trước), đầu tư cũng được xem xét từ góc độ tổng cung, nghĩa là, mỗi sự thay đổi của sản lượng làm thay đổi đầu tư như thế nào. Theo lí thuyết này, để sản xuất ra 1 đơn vị đầu ra cho trước cần phải có một lượng vốn đầu tư nhất định. Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể được biểu diễn như sau: x = (4) Trong đó: K: Vốn đầu tư tại thời kì nghiên cứu Y: Sản lượng tại thời kì nghiên cứu x : Hệ số gia tốc đầu tư Từ công thức (4) suy ra: K = x * Y (5) Như vậy, nếu x không đổi thì khi quy mô sản lượng sản xuất tăng dẫn đến nhu cầu vốn đầu tư tăng theo và ngược lại. Nói cách khác, chi tiêu đầu tư tăng hay giảm phụ thuộc nhu cầu về tư liệu sản xuất và nhân công. Nhu cầu các yếu tố sản xuất lại phụ thuộc vào quy mô sản phẩm cần sản xuất. Theo công thức (5), có thể kết luận:sản lượng phải tăng liên tục mới là cho đầu tư tăng cùng tốc độ, hay không đổi so với thời kì trước. - Theo lí thuyết này toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện ngay trong cùng một thời kì. Điều này không đúng bởi nhiều lí do, chẳng hạn do việc cung cấp các yếu tố liên quan đến thực hiện vốn đầu tư không đáp ứng, do cầu vượt quá cung… Do đó, lí thuyết gia tốc đầu tư tiếp tuc được hoàn thiện qua thời gian.theo lí thuyết gia tốc đầu tư sau này thì vốn đầu tư mong muốn được xác định như là một hàm của mức sản lượng hiện tạivà quá khứ, nghĩa là, qui mô đầu tư mong muốn được xác định trong dài hạn. Nếu gọi: Kt và K (t-1) là vốn đầu tư thực hiện ở thời kì t và (t-1) Kt* là vốn đầu tư mong muốn là một hằng số ( 0<<1 ) Thì: Kt – K(t-1) = *(Kt* - K(t-1)) Có nghĩa là, sự thay đổi đầu tư thực hiện giữa hai kì chỉ bằng một phần của chênh lệch giữa vốn đầu tư mong muốn thời kì t và vốn đầu tư thực hiện thời kì t - 1. Nếu thì Kt = Kt*. Và lí thuyết gia tốc đầu tư hoàn thiện sau này cũng đã đề cập đến tổng đầu tư. Theo lí thuyết gia tốc đầu tư ban đầu thi đầu tư thuần: Theo lí thuyết gia tốc đầu tư sau này thì: Kt – K(t-1) = . Và do đó: Để xác định tổng đầu tư,chúng ta giả định: Dt = là hệ số khấu hao và 0. Do đó: It –Dt = It - hoặc It = (11) It chính là tổng đầu tư trong kì và là hàm của vốn mong muốn và vốn thực hiện. Lí thuyết gia tốc đầu tư và số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ qua lại giữa đầu tư và sản lượng. Mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo việc gia tăng bổ sung lao động,nguyên vật liệu sản xuất… dẫn đến gia tăng sản phẩm (giải thích qua số nhân đầu tư). Sản lượng gia tăng,dẫn đến gia tăng tiêu dung (do thu nhập người tiêu dùng tăng), tăng cầu hàng hóa và dịch vụ nên lại đòi hỏi gia tăng đầu tư mới (giải thích qua mô hình gia tốc đầu tư). Gia tăng đầu tư mới dẫn đến gia tăng sản lượng, gia tăng sản lượng lại là nhân tố thúc đẩy gia tăng đầu tư. Quá trình này diễn ra liên tuc, dây chuyền 2.3.Quỹ nội bộ của đầu tư Theo lí thuyết này,đầu tư có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận thực tế: I = f (lợi nhuận thực tế). Do đó, dự án đầu tư nào đem lại lợi nhuận cao sẽ được lựa chọn. Vì lợi nhuân cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn và mức đầu tư sẽ cao hơn. Nguồn vốn cho đầu tư có thể huy động bao gồm: Lợi nhuận giữ lại, tiền trích khấu hao, đi vay các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu và bán cổ phiếu. Lợi nhuận giữ lại và tiền trích khấu hao tài sản là nguồn vốn nội bộ của doanh nghệp, còn đi vay và phát hành trái phiếu, bán cổ phiếu là nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Vay mượn thì phải trả nợ, trường hợp nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, doanh nghiệp có thể không trả được nợ và lâm vào tình trạng phá sản. Do đó việc đi vay không phải là điều hấp dẫn, trừ khi được vay ưu đãi. Cũng tương tự, việc tăng vốn đầu tư bằng phát hành trái phiếu cũng không phải là biện pháp hấp dẫn. Còn bán cổ phiếu để tài trợ cho đầu tư chỉ được các doanh nghiệp thực hiện khi hiệu quả của dự án đầu tư là rõ ràng và thu nhập do dự án đem lại trong tương lai lớn hơn các chi phí đã bỏ ra. Chính vì vậy, theo lí thuyết quỹ nôi bộ của đầu tư, các doanh nghiệp thường chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và chính sự gia tăng của lợi nhuận sẽ làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn. Sự khác nhau giữa lí thuyết gia tốc đầu tư và lí thuyết nàydẫn đến việc thực thi các chính sách khác nhau để khuyến khích đầu tư. Theo lí thuyết gia tốc đầu tư, chính sách tài khóa mở rộng sẽ làm cho mức đầu tư cao hơn và do đó sản lượng thu được cũng sẽ cao hơn. Còn việc giảm thuế lợi tức của doanh nghiệp không có tác dụng kích thích đầu tư. Ngược lại, theo lí thuyết quỹ nội bộ của đầu tư thì việc giảm thuế lợi tức của doanh nghiệp sẽ làm tăng lợi nhuận từ đó tăng đầu tư và tăng sản lượng, mà tăng lợi nhuận có nghĩa là tăng quỹ nội bộ. Quỹ nội bộ là một yếu tố quan trọng để xác định lượng vốn đầu tư mong muốn, còn chính sách tài khóa mở rộng không có tác dụng trực tiếp làm tăng đầu tư theo lí thuyết này. 2.4. Lí thuyết tân cổ điển Các nhà kinh tế tân cổ điển đã cố gắng giải thích nguồn gốc của sự tăng trưởng thông qua hàm sản xuất. Hàm số này nêu lên mối quan hệ giữa sự tăng lên của đầu ra với sự tăng lên của các yếu tố đầu vào: vốn, lao động, tài nguyên và khoa học – công nghệ. Y=f (K, L, R, T) Trong đó: Y: Đầu ra (ví dụ GDP) K: Vốn sản xuất L: Số lượng lao động R: Nguồn tài nguyên thiên nhiên T: Khoa học – công nghệ Một dạng của kiểu phân tích này là hàm Cobb-Douglas, hàm này có dạng: Y=T.Kα..Lβ.Rγ Ở đây α, β, γ là các số luỹ thừa, phản ánh tỷ lệ cận biên của các yếu tố đầu vào. (α + β + γ = 1) Sau khi biến đổi Cobb-Douglas thiết lập được mối quan hệ theo tốc độ tăng trưởng của các biến số. g = t + αk + βl + γr Trong đó: g: Tốc độ tăng trưởng của GDP K, l, r: Tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào. T: Phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ. Ví dụ: Giả sử các biến số của phương trình trên nhận các giá trị sau: y = 0,07 (vốn tăng 7%) k = 0,02 (lao động tăng 2%) r = 0,01 (tài nguyên – ví dụ đất đai – tăng 1%) α = 0,3 (vốn chiếm 30% trong GDP) β = 0,6 (lao động chiếm 60% trong GDP) γ = 0,1 (tài nguyên chiếm 10% trong GDP). Thay các số liệu vào phương trình trên chúng ta có: 0,06 = t + (0,3 x 0,07) + (0,6 x 0,02) + (0,1 x 0,01) t = 0,026 Con số này cho biết rằng trong số 6% tăng GDP thì tác động của khoa học công nghệ là 2,6%. Như vậy hàm sản xuất Cobb – Douglas cho biết có 4 yếu tố cơ bản tác động đến tăng trưởng kinh tế và cách thức tác động của 4 yếu tố này là khác nhau giữa các yếu tố K, L, R với yếu tố T. Họ cũng cho rằng khoa học – công nghệ có vai trò quan trọng nhất với sự phát triển kinh tế. 2.5. Mô hình Harrod - Domar Mô hình Harrod - Domar giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với yếu tố tiết kiệm và đầu tư. Để xây dựng mô hình, các tác giả đưa ra 2 giả định: - Lao động đầy đủ việc làm, không có hạn chế với cung lao động. - Sản xuất tỷ lệ với khối lượng máy móc. Nếu gọi: Y : Là sản lượng năm t g = : Tốc độ tăng trưởng kinh tế : Sản lượng gia tăng trong kì S : Tổng tiết kiệm trong năm s = : Tỷ lệ tiết kiệm/GDP ICOR : Tỷ lệ gia tăng của vốn so với sản lượng Từ công thức: ICOR = Nếu , ta có : ICOR = Ta lại có: I = S =s *Y. Thay vào công thức tính ICOR,ta có: ICOR = Từ đây suy ra: Phương trình phản ánh tốc độ tăng trưởng kinh tế: Cuối cùng ta có: Như vậy, theo Harrod - Domar, tiết kiệm là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Muốn gia tăng sản lượng với tốc độ g thì cần duy trì tỷ lệ tích luỹ để đầu tư trong GDP là s với hệ số ICOR không đổi. Mô hình thể hiện S là nguồn vốn của I, đầu tư làm gia tăng vốn sản xuất (K), gia tăng vốn sản xuất sẽ trực tiếp gia tăng Y. Cũng lưu ý rằng, do nghiên cứu ở các nước tiên tiến,nhằm xem xét vấn đề: để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế 1% thì đầu tư phải tăng bao nhiêu, nên những kết luận của mô hình cẩn được kiểm nghiệm kỹ khi nghiên cứu đối với các nước đang phát triển như ở nước ta. Ở những nước đang phát triển, vấn đề không đơn thuần chỉ là duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế như cũ mà quan trọng là phải tăng với tốc độ cao hơn. Đồng thời do thiếu vốn, thừa lao động, họ thường sử dụng nhiều nhân tố khác phục vụ tăng trưởng. II.NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ. 1.Tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng này được thể hiện ở quy mô và tốc độ tăng trưởng. Quy mô phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít còn tốc độ tăng trưởng được dùng để so sánh sự gia tăng giữa các thời kỳ. Người ta thường xác định tăng trưởng kinh tế thông qua các chỉ tiêu GDP (tổng sản phẩm quốc nội), GNP (tổng sản phẩm quốc dân) và GNI (thu nhập bình quân đầu người). Đầu tư là một trong những yếu tố được tính đến trong tăng trưởng kinh tế, dựa vào công thức tính GDP sau: GDP = S + I + G + (X – IM) Trong đó: S: tổng tiết kiệm trong nền kinh tế I: đầu tư G: chi tiêu của chính phủ X: xuất khẩu IM: nhập khẩu. Bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế còn đầu tư phát triển không những làm gia tăng tài sản của nhà đầu tư mà còn trực tiếp làm tăng tài sản của nền kinh tế quốc dân, chẳng hạn khi nhà đầu tư xây dựng một nhà máy thì nhà máy đó không những là tài sản của nhà đầu tư mà còn là tiềm lực sản xuất của cả nền kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Như vậy đầu tư phát triển chính là một yếu tố không thể thiếu đối với quá trình tăng trưởng của một nền kinh tế. 2.phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế là một khái niệm rộng hơn tăng trưởng. Nếu tăng trưởng được xem là quá trình biến đổi về lượng thì phát triển là quá trình biến đổi cả về lượng và chất của nền kinh tế. Đó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của cả hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Phát triển kinh tế bao gồm có tăng trưởng, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tiến bộ (thường xét đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành: sự gia tăng tỉ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp), sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội (xóa bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, tăng tuổi thọ bình quân, tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, nước sạch của người dân, đảm bảo phúc lợi xã hội, giảm thiểu bất bình đẳng trong xã hội…). Một mặt trái của đầu tư phát triển, bên cạnh việc làm tăng sản lượng của nền kinh tế, đầu tư phát triển còn gây nên một số tác động tiêu cực như ô nhiễm, suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Hiện nay, ở nhiều quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, người ta đã chú ý tới những ảnh hưởng tiêu cực đến tương lai do tăng trưởng nhanh gây ra. Trên thế giới đã xuất hiện khái niệm mới về phát triển, đó là phát triển bền vững. Theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới WB: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Nói cách khác, phát triển bền vững là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ, hợp lý cả về ba mặt: tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. III.VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THÔNG QUA LÝ THUYẾT VỀ KINH TẾ ĐẦU TƯ 1. Đầu tư kích thích tổng cầu nền kinh tế:. 1.2. Vai trò của đầu tư với tổng cầu: 1.2.1. Vai trò của đầu tư với tổng cầu thông qua mô hình số nhân của Keynes: Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư đối với sản lượng. Cụ thể như sau: mỗi sự gia tăng của vốn đầu làm tăng nhân công và tư liệu sản xuất, từ đó dẫn đến sự gia tăng của nhu cầu tiêu dùng và kéo theo đó là thu nhập. Thu nhập gia tăng lại làm tăng sự đầu tư mới. Quá trình này lặp đi lặp lại, kết quả là thu nhập sẽ gia tăng theo cấp số nhân nhờ sự gia tăng của đầu tư. Đó là nội dung của mô hình số nhân. k = dR/dI = dR/dS = 1/(1- dC/dR ) Trong đó k hệ số nhân đầu tư dR sự gia tăng thu nhập dI sự gia tăng đầu tư dS sự gia tăng tiết kiệm dC sự gia tăng tiêu dùng 1.2.2. Vai trò của đầu tư thông qua các chính sách kinh tế: Qua phân tích tổng quan về việc làm, Keynes đã đi đến kết luận, muốn thoát khỏi khủng hoảng, thất nghiệp, Nhà nước phải thực hiện điều tiết bằng các chính sách kinh tế, những chính sách này nhằm nâng cao cầu tiêu dùng, đồng thời kích thích đầu tư. Theo ông nhà nước nên sử dụng ngân sách để kích thích đầu tư thông qua các đơn đặt hàng và trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp. Ông đánh giá cao vai trò của các chính sách tài khóa và tiền tệ. Ông tán thành đầu tư của chính phủ vào công trình công cộng, đồng thời cũng phải đẩy mạnh và khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân. Như vậy các chính sách của nhà nước có vai trò quan trọng trong việc khuyến khích đầu tư, tăng cầu tiêu dùng và từ đó sản xuất phát triển - là nhân tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế. 2. Đầu tư là cú huých bên ngoài thoát khỏi vòng luẩn quẩn: Mô hình vòng luẩn quẩn của Samuelson: Theo ông các nước có trình độ kinh tế phát triển thấp thường rơi vào vòng luẩn quẩn. Vòng luẩn quẩn này đưa các nước đang phát triển từ mức phát triển thấp đến thấp hơn, và gần như không thoát ra nổi tình trạng đó. Tiết kiệm và đầu tư thấp Thu nhập bình quân thấp Tốc độ tích lũy vốn thấp Năng xuất thấp Vậy phải có những giải pháp gì để thoát khỏi vòng luẩn quẩn đó? Samuelson cho rằng, giải pháp duy nhất để thoát khỏi vòng luẩn quẩn đó là cú huých từ bên ngoài, cũng có nghĩa là đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài chính là cú huých mạnh nhất, có hiệu quả nhất. Muốn vậy, các nước đang phát triển phải tạo ra các điều kiện thuận lợi nhằm kích thích đầu tư nước ngoài, cụ thể bằng các chính sách của nhà nước, bằng môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư. Đây chính là vai trò quan trọng của đầu tư nước ngoài trong việc thúc đẩy kinh tế của các nước đang phát triển. 3.Tác động của đầu tư phát triển đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đầu tư phát triển vừa tác động đến tốc độ phát triển vừa tác động đến chất lượng tăng trưởng. Tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế do đó nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa đầu tư phát triển với tăng Hệ số ICOR ( Incremental - tỷ số gia tăng của vốn so với sản lượng ) là tỷ số giữa quy mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng hay là phần đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị sản lưọng GDP tăng thêm: Vốn đầu tư tăng thêm Đầu tư trong kỳ ICOR= = GDP tăng thêm GDP tăng thêm Chia cả tử cả mẫu của công thức trên cho GDP, ta có: Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP ICOR= Tốc độ tăng trưởng kinh tế Từ công thúc trên cho thấy: Nếu COR không đổi thì mức tăng trưởng kinh tế hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Hệ số ICOR của nền kinh tế cao hay thấp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: * Do thay đổi của cơ cấu đầu tư ngành.Cơ cấu đầu tư ngành thay đổi ảnh hưởng đến hệ số ICOR từng ngành, từ đó tác động đến ICOR chung. * Sự phát triển của khoa học công nghệ có ảnh hưởng đến ICOR.Gia tăng khoa học công nghệ làm cho đầu tư trong kỳ (tử số của công thức) tăng thêm, mặt khác sẽ làm cho máy móc hoạt động có hiệu quả hơn, năng suất cao hơn kết quả làm cho đấu tư tăng lên, GDP tăng lên (mẫu số của công thức). *Do thay đổi cơ chế chính sách và phương pháp tổ chức quản lý, nếu cơ chế chính sách phù hợp thì đầu tư có hiệu quả hơn làm cho ICOR giảm và ngược lại. 4. Đầu tư phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế là cơ cấu tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế ,có quan hệ chặt chẽ với nhau, được thể hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tuỳ thuộc thay đổi tỷ trọng của bộ phận cấu thành nền kinh tế.Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế xảy ra có sự phát triển không đồng đều về quy mô, tốc độ giữa các nghành , vùng.Những cơ cấu kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân bao gồm cơ cấu kinh tế ngành, lãnh thổ, theo thành phần kinh tế. Đầu tư có tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.nó góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật và chiến lược phát triển kinh tế kinh tế xã hội của một quốc gia trong từng thời kỳ, tạo cân đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng, phát huy nội lực của nền kinh tế,trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực. Đối với cơ cấu ngành, đầu tư vốn vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư ngành nhiều hay ít, việc sử dụng vốn hiệu quả cao hay thấp đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành ,tạo tiền đề vật chất để phát triển các ngành mới, do đó, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Có thể đánh giá vai trò của đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế qua các chỉ tiêu dưới đây: % thay đổi tỷ trọng đầu tư của Hệ số co dãn giữa việc ngành/tổng vốn đầu tư xã hội giữakỳ thay đổi cơ cấu đầu tư nghiên cứu so với kỳ trước với thay đổi cơ cấu = kinh tế ngành %thay đổi tỷ trọng GDPcủa ngành trong tổng GDP giữa kỳ nghiên cứuvới kỳ trước Chỉ tiêu này cho biết, để tăng 1% tỷ trọng GDP của ngành trong tổng GDP(thay đổi cơ cấu kinh tế ) thì phải đầu tư cho ngành tăng thêm bao nhiêu. % thay đổi tỷ trọng vốn đầu tư của ngành Hệ số co dãn giữa việc nào đó /tổng vốn đầu tư xã hội knghiên thay đổi cơ cấu cứu so với kỳ trước đầu tư ngành với thay = đổi GDP % thay đổi tốc độ tăng trưởng GDP giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước Chỉ tiêu này cho biết : để góp phần dưa tăng trưởng kinh tế ( GDP ) lên 1% thì tỷ trọng đầu tư vào một ngành nào đó tăng lên bao nhiêu. 5. Tác động của đầu tư phát triển đến khoa học và công nghệ Đầu tư là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát triển khoa học công nghệcủa một doanh nghiệp và quốc gia. Công nghệ bao gồm các yếu tố cơ bản: phần cứng ( máy móc,thiết bị ),phần mềm( các văn bản,các tài liệu,các bí quyết …),yếu tố con người ( các kỹ năng quản lý,kinh nghiệm ),yếu tố tổ chức(các thể chế,phương pháp tổ chức…) .Muốn có công nghệ ,cần phải đầu tư vào các yếu tố cấu thành. Đối với các nước đang phát triển ,do có nhiều lao động và nguyên liệu thường đầu tư các loại công nghệ sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu,sau đó, ảm dần hàm lượng lao động và nguyên liệu trong sản xuất sản phẩm và tăng dần hàm lượng vốn thiết bị và tri thức thông qua việc đầu tư công nghệ hiện đại hơn và đầu tư đúng mức để phát triển nguồn nhân lực. Đến giai đoạn phát triển,xu hướng đầu tư mạnh vốn thiết bị và gia tăng hàm lượng tri thức chiếm ưu thế tuyệt đối. Công nghệ mà doanh nghiệp có được là do nhập khẩu từ bên ngoài hoặc tự nghiên cứu và ứng dụng.Dù nhập hay là nghiên cứu thì đề đòi hỏi vốn đầu tư lớn.Mỗi doanh nghiệp mỗi nước mỗi nước khác nhau cần có bước đi phù hợp để lựa chọn công nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó, đầu tư có hiệu quả để phát huy lợi thế so sánh của từng đơn vị cũng như toàn nền kinh tế quốc dân. Để phản ánh sự tác động của đầu tư đến trình độ phát triển khoa học và công nghệ ,có thể sử dụng các chỉ tiêu sau : Tỷ trọng vốn đầu tư đổi mới công nghệ /tổng vốn đầu tư .Chỉ tiêu này cho thấy mức độ đầu tư đổi mới công nghệ nhiều hay ít trong mỗi thời kỳ. Tỷ trọng chi phí mua sắm máy móc thiết bị /tổng vốn đầu tư thực hiện.Chỉ tiêu này cho thấy tỷ lệ vốn là do máy máoc thiết bị chiếm bao nhiêu. Đối với doanh nghiệp sản xuất công nghệ khai khoáng, chế tạo, lắp ráp, tỷ lệ này phải lớn. Tỷ trọng vốn đầu tư theo chiều sâu /tổng vốn đầu tư thực hiện. Đầu tư chiều sâu thường gắn liền với đổi mới công nghệ. Do đó, chỉ tiêu này càng lớn phản ánh mức độ đầu tư đổi mới khoa học công nghệ cao. Tỷ trọng vốn đầu tư cho các công trình mũi nhọn ,trọng điểm. Các công trình trọng điểm mũi nhọn thường là các công trình đầu tư lớn,công nghệ hiện đại,mang tính chất đầu tư mồi,tạo tiền đề để đầu tư phát triển các công trình khác. Chỉ tiêu này cho thấy mức độ tập trung của công nghệ và gián tiếp phản ánh mức độ hiện đại của công nghệ. CHƯƠNG II. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1990 – 2009 1. ĐẦU TƯ TÁC ĐỘNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 1.1. Tỷ trọng đầu tư trong GDP cao: Ở Việt Nam trong giai đoạn 2000-2007 vừa qua kinh tế cũng đạt được những thành tựu khả quan. Tốc độ tăng trưởng hằng năm cao, ổn định (khoảng 7,6%). Trong đó tỷ lệ đầu tư chiếm tỷ trọng khá lớn (>30%). Năm 2008 khủng hoảng kinh tế tác động mạnh tới kinh tế Việt Nam làm giảm tăng trưởng GDP xuống còn 6.18%, năm 2009 tăng trưởng GDP là 5,32% đầu tư tăng gần 17% chiếm gần 43% GDP Bảng: Dự báo tăng trưởng kinh tế của WB tháng 11 năm 2008 1.2. Đầu tư tác động đến tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây liên tục gia tăng nhưng chất lượng tăng trưởng chưa cao, chủ yếu do đóng góp từ việc gia tăng quy mô vốn mà chưa phải là gia tăng chất lượng sử dụng nguồn lực. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều đã vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006 đạt 41%, năm 2007 đạt 40,4%, năm 2009 là 42,8%), kế hoạch năm 2010 ước chừng tầm 40-42%. Đây là một trong những tỉ lệ cao nhất của thế giới, chỉ đứng sau Trung Quốc. Ngồn: số liệu Tổng cục thống kê Việt Nam Để làm rõ vấn đề này, đề tài sử dụng mô hình tăng trưởng nội sinh để hồi quy và phân tích những đóng góp của các yếu tố đầu vào cơ bản đến tăng trưởng và từ đó đánh giá tác động của việc sử dụng vốn đến chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua, như thể hiện trong các bảng sau. Bảng : Tỷ trọng đóng góp của các yếu tố đầu vào cơ bản cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1994-2003 Đơn vị : % Năm Tăng trưởng kinh tế Vốn đầu tư Lao động Năng suất nhân tố tổng thể (TFP) 1994 100 28.8 23.1 48.1 1995 100 28.4 20.6 51 1996 100 34.4 16.5 49.1 1997 100 42.5 18.6 38.9 1998 100 56.3 26 17.7 1999 100 68.8 47 4.2 2000 100 48.5 21.5 30 2001 100 49.3 26.9 23.8 2002 100 48.7 27.3 24 2003 100 49.6 27.1 23.3 2004 100 47.2 28.3 24.5 Nguồn : Từ Quang Phương và tập thể tác giả Khoa Kinh tế đầu tư. Đề tài khoa học cấp Bộ ‘‘ Tác động của việc sử dụng vốn đầu tư đến chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam, Thực trạng và giải pháp’’ 2005 Bảng: Tỷ trọng đóng góp của các yếu tố đầu vào cơ bản cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam qua các giai đoạn. Đóng góp của các yếu tố 1993 - 1997 1998 - 2002 2003 – 2006 1. Đóng góp theo điểm phần trăm (%) 8,8 6,2 7,84 - Vốn 6,10 3,56 3,78 - Lao động 1.40 1,24 1,40 - TFP 1,30 1,40 2,07 2. Đóng góp theo tỷ lệ phần trăm (%) 100,0 100,0 100,0 - Vốn 69,30 57,40 52,73 - Lao động 15,90 20,00 19,07 - TFP 14,80 22,60 28,20 Nguồn: Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương và Thời báo kinh tế Việt Nam Số liệu tính toán ở các bảng trên cho phép rút ra một số kết luận sau: Thứ nhất, đóng góp của vốn đầu từ đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1994-2004 là rất đáng kể và có xu hướng ngày càng gia tăng. Nếu như vào năm 1994, vốn đầu từ chỉ đóng góp 28.8% vào tăng trưởng kinh tế thì đến năm 2002 mức đóng góp đã là 48.7% và năm 2003 là 49.6%. Cá biệt có năm 1998, 1999 mức đóng góp của vốn đầu tư là 56.3 và 68.8%. Nguyên nhân là do đây là thời kì nền kinh tế nước ta bắt đầu trong quá trình mở cửa và nền kinh tế mới nổi đầy tiềm năng này đã thu hút được các nhà đầu tư. Nhưng quy mô vốn đầu tư là chưa cao, chưa tương xứng. Tuy nhiên trong giai đoạn tiếp theo từ năm 2000 đ._.ến năm 2004, đây là thời kì đánh dấu bước chuyển mình của nền kinh tế Việt Nam. Chúng ta đã thu hút được rất nhiều vốn đầu tư từ trong nước, nước ngoài, từ các nguồn viện trợ ...và tỷ trọng vốn đầu tư trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam ở mức cao nhưng chưa phát triển một cách liên tục. Thứ hai, kết quả tính toán cũng cho thấy mức đóng góp của lao động vào tăng trưởng là tương đối ổn định. Giai đoạn 1998-2004 nếu tính cả sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và sự đóng góp của yếu tố số lượng lao động, thì hai yếu tố này đã đóng góp trên ba phần tư tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Điều đó chứng tỏ, sự đóng góp của yếu tố TFP đối với tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế còn nhỏ, chưa được một phần tư, thấp chỉ bằng hai phần ba tỷ trọng đóng góp của yếu tố này của các nước trong khu vực hiện nay. Thứ ba, mức đóng góp của năng suất nhân tố tổng thể có xu hướng giảm. Nếu như năm 1994, mức đóng góp của năng suất nhân tố tổng thể là 48.1% thì đến năm 2003 chỉ còn đóng góp 23.3% vào mức tăng trưởng kinh tế. Điểm đáng lưu ý là mức đóng góp của năng suất nhân tố tổng thể vào tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Kết luận: Tăng trưởng kinh tế của Việt nam vẫn chủ yếu nghiêng về bề rộng hơn là về chiều sâu. Trong xu hướng phát triển theo chiều rộng thì chủ yếu nghiêng về yếu tố vốn, một yếu tố mà Việt Nam còn thiếu và sử dụng chưa thật hiệu quả. Trên góc độ khác lại thấy rằng, mặc dù sử dụng chưa hiệu quả nhưng đóng góp cho tăng trưởng vẫn xấp xỉ 50%. Điều này phản ánh dư địa cho tăng trưởng kinh tể của Việt nam vẫn rất tiềm tàng khi vốn được sử dụng hiệu quả hơn, tình trạng thất thoát và lãng phí vốn được cải thiện. 2. HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CHUNG TOÀN XÃ HỘI CHƯA CAO DẪN ĐẾN CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CÒN NHIỀU HẠN CHẾ Trong quá trình đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động đầu tư theo hướng thị trường, các nguồn vốn đầu tư ngày càng được đa dạng hóa, quy mô vốn đầu tư ngày càng được mở rộng. Đây là nhân tố tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua. Cơ chế phân bổ và sử dụng vốn đầu tư công, đặc biệt bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước còn chưa hợp lý dẫn đến hiệu quả đầu tư của nguồn vốn này có xu hướng giảm sút và do đó làm hiệu quả đầu tư chung toàn xã hội không cao. Cụ thể: Tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực nhà nước dao động từ 55 đến 58% tổng quy mô vốn đầu tư toàn xã hội, của khu vực ngoài quốc doanh trong nước từ 24–27% và của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tương đối ổn định ở mức 18%. Điều này cho thấy nguồn lực đầu tư từ vốn nhà nước vẫn chiếm vị trí chi phối quá trình tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Nguồn vốn nhà nước bộc lộ những yếu kém bất cập dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng tăng trưởng chưa đạt được yêu cầu phát triển của đất nước. Do cơ chế phân bổ chưa hiệu quả , hiệu quả mỗi đồng vốn đầu tư gia tăng chưa tương xứng với tiềm năng, hiện đang có xu hướng sụt giảm. Hệ số ICOR có xu hướng ngày càng tăng. Cụ thể là : nếu năm 1995, hệ số ICOR chỉ mới đạt 3,3, thì năm 2000 là 4,9 và đến năm 2005 đã là 5.3 (tức là để tăng 1 đơn vị GDP thì cần phải tăng thêm 5.3 đơn vị vốn đầu tư). Khác hẳn với giai đoạn trước đây. Quan sát hai bảng dưới để thấy rõ được điều này: Bảng: Tốc độ tăng trưởng và hệ số ICOR các năm trong giai đoạn 1986-2007 Năm Tốc độ tăng trưởng % ICOR Năm Tốc độ tăng trưởng % ICOR 1986 2.4 4.8 1997 8.2 4.2 1987 3.7 3 1998 5.8 5.6 1988 5.9 2.4 1999 4.8 6.9 1989 8.0 1.5 2000 6.8 4.9 1990 5.1 2.8 2001 6.8 4.95 1991 6.0 2.5 2002 7.0 5.09 1992 8.6 2.1 2003 7.24 5.0 1993 8.1 3.1 2004 7.7 5.0 1994 8.8 2.9 2005 8.44 5.3 1995 9.5 3.3 2006 8.17 4.88 1996 9.3 3.4 2007 8.48 4.90 Nguồn: Tạp chí nghiên cứu kinh tế So sánh ICOR của Việt Nam với các nước trong khu vực có cùng giai đoạn phát triển kinh tế, ICOR của Việt Nam cao hơn rất nhiều. Điều đó chứng tỏ, hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn thấp. Hiệu quả đầu tư còn được tính theo cách lấy GDP chia cho vốn đầu tư hàng năm (đều tính theo giá thực tế). Theo cách này, thì GDP/vốn đầu tư (có nghĩa là 1 đồng vốn đầu tư tạo ra được bao nhiêu đồng GDP) của Việt Nam đã bị sút giảm qua các thời kỳ: nếu thời kỳ 1991-1995 đạt 3,55 đồng/đồng, thì năm 1996-2000 còn 3,0 đồng/đồng, 2001-2005 còn 2,56 đồng/đồng, 2006-2007 còn 2,46 đồng/đồng. Ở tầm vi mô, tỷ suất lợi nhuận trên vốn và tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp đầu tư trong nước rất thấp, có nơi có lúc còn thấp hơn lãi suất ngân hàng, trong khi tỷ trọng vốn vay lại rất lớn. Bảng: Hệ số ICOR thời kỳ 1995-2003 Năm VĐT (Ngàn tỷ đồng) GDP (Giá thực tế) Tốc độ tăng GDP % VĐT/GDP % ICOR (lần) 1995 72.45 229.9 9.54 31.65 3.3 1996 87.39 272 9.34 32.13 3.4 1997 108.37 313.6 8.15 34.56 4.2 1998 117.13 361 5.76 32.45 5.6 1999 131.17 399.9 4.77 32.80 6.9 2000 145.33 441.6 6.79 32.91 4.9 2001 163.54 481.3 6.86 33.98 4.95 2002 193.10 535.8 7.08 36.04 5.09 2003 219.68 605.6 7.26 36.27 5.0 Nguồn: Sách kinh tế đầu tư trang 27. Bảng 2.2 Có 2 nguyên nhân liên quan đến cơ chế quản lý và phần bổ nguồn lực làm cho hiệu quả đầu tư ngày càng thấp: + Thứ nhất, vào những năm đầu của thập kỉ 1990 tăng trưởng kinh tế chủ yếu thiên về bề rộng, vì thế hiệu suất sử dụng vốn đầu tư được gắn liền với chính sách đổi mới kinh tế và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế. Do vậy nhu cầu về vốn đầu tư thấp mà hiệu quả vẫn cao. + Thứ hai, trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, nhìn chung các yếu tố về đổi mới cơ chế chính sách đã phát huy hết tiềm năng vốn có của nó. Để tăng trưởng cần đầu tư nhiều vốn hơn. 3. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Một xã hội muốn tồn tại và phát triển cần phải đầu tư, đầu tư đó được biểu hiện dưới dạng tiền gọi là vốn đầu tư. Xét về phương diện toàn xã hội thì vốn đầu tư là toàn bộ giá trị nhân lực, tài lực được bỏ thêm vào cho hoạt động của toàn xã hội trong thời gian nhất định thường là một năm. Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, đầu tư  gồm: - Đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi trường; - Đầu tư cho sức khoẻ con người và phát triển trí tuệ văn hoá xã hội; - Đầu tư khác như: đầu tư cho bộ máy quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, hợp tác quốc tế,.. Suy cho cùng, đầu tư đều đưa tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nhưng tác động đến tăng trưởng kinh tế thì đầu tư ở mỗi lĩnh vực lại không giống nhau; Đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi trường có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và hiệu quả của đầu tư cho thấy nhanh hơn, rõ ràng hơn. Chính vì vậy vốn đầu tư vào lĩnh vực này được xem là quan trọng nhất, đặc biệt với các nước đang phát triển. Trong nhiều diễn đàn đầu tư người ta xem đây là đầu tư vào kinh tế và dùng để tính các chỉ tiêu phát triển kinh tế tầm vĩ mô. Đầu tư cho sức khoẻ con người, phát triển trí tuệ, văn hoá xã hội và đầu tư khác cũng có tác động không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, nhưng gián tiếp qua nguồn nhân lực và các nhân tố về môi trường đầu tư; hơn nữa tác động của đầu tư ở các lĩnh vực này mang tính chiến lược, bởi vậy hiệu quả phải sau thời gian dài, thậm chí 10 năm hoặc 20 năm sau mới thấy được, mặc dù hiệu quả đó là rất to lớn, cho nên khi nghiên cứu về vốn đầu tư trong các lĩnh vực này phải chú ý đến tác động của nó tới lĩnh vực xã hội. 3.1. Về cơ cấu nguồn vốn đầu tư Cơ cấu vốn đầu tư thể hiện quan hệ tỷ lệ giữa từng loại vốn trong tổng vốn đầu tư xã hội, vốn đầu tư của doanh nghiệp hay một dự án. Trên thực tế có một số cơ cấu đầu tư quan trọng cần được chú ý xem xét như cơ cấu vốn xây lắp và vốn máy móc thiết bị trong tổng vốn đầu tư, cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản, vốn đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học công nghệ và môi trường, vốn đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực, những chi phí tạo ra tài sản lưu động và những chi phí khác như chi phí quảng cáo, tiếp thị... Cơ cấu vốn đầu tư theo quá trình lập và thực hiện dự án như chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí chuẩn bị thực hiện đầu tư, chi phí thực hiện đầu tư... 3.2. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành 3.2.1. Cơ cấu đầu tư theo 2 nhóm ngành: Sản xuất sản phẩm xã hội và nhóm ngành kết cấu hạ tầng Bảng :Cơ cấu đầu tư thời kỳ 1996-2005. Đơn vị tính:% Khối ngành 1996-2000 2001-2005 1996-2005 Tổng vốn đầu tư xã hội 100 100 100 Sản xuất kinh doanh 54,7 54,8 54,9 Kết cấu hạ tầng 45,3 45,2 45,1 (Nguồn: Niên giám thống kê) Trong những năm qua nền kinh tế nước ta diễn ra sự chuyển dịch theo hướng ngày càng hợp lý hơn về cơ cấu vốn đầu tư cho 2 ngành sản xuất kinh doanh và kết cấu hạ tầng, đảm bảo kết cấu hạ tầng được đầu tư đúng mức phát triển đi trước một bước để thúc đẩy ngành sản xuất sản phẩm xã hội phát triển. Cơ cấu vốn đầu tư cho khối ngành kết cấu hạ tầng có xu hướng giảm xuống, dành vốn cho khối ngành sản xuất sản phẩm dịch vụ để thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế. 3.2.2. Cơ cấu đầu tư theo 3 nhóm ngành là: Công nghiệp, Nông lâm ngư nghiệp và Dịch vụ. Bảng: Cơ cấu đầu tư phân theo ngành thời kỳ 1996-2009. Đơn vị tính:% Khối ngành 1996-2000 2001-2005 1996-2005 2006-2009 Tổng vốn đầu tư xã hội 100 100 100 100 Công nghiệp 36,1 40,6 38,9 39,9 Nông, lâm, ngư nghiệp 13,7 9,1 10,8 22,0 Dịch vụ 50,2 50,3 50,3 38,1 (Nguồn: Niên giám thống kê). Nguồn vốn đầu tư cho ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong giai đoạn từ 1996 đến 2005 giảm từ 13,7% xuống 10,8%, nhưng trong giai đoạn 2006-2009 đã tăng lên 22,0%. Nguồn vốn đầu tư cho ngành công nghiệp trong giai đoạn 5 năm từ chiếm 36,1% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội trong giai đoạn 1996-2000, và sang giai đoạn 2001-2005 đã tăng lên mức 40,6%, sau đấy giảm nhẹ xuống 39,9% vào giai đoạn 2006-2009. Nguồn vốn đầu tư cho các ngành dịch vụ cũng liên tục tăng lên nhưng tỷ trọng vốn đầu tư gần như không thay đổi, chiếm 50,2% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội trong giai đoạn 1996-2000, giảm đôi chút xuống 38,1% vào giai đoạn 2006-2009. Bảng: Tỉ trọng các ngành trong GDP giai đoạn 2000-2009. Đơn vị tính:% Khối ngành 2000 2001 2003 2005 2007 2009 GDP 100 100 100 100 100 100 Nông lâm ngư nghiệp 24,53 23,24 22,54 20,70 20,30 20,44 Công nghiệp-Xây dựng 36,73 38,13 39,47 40,8 41,58 40,18 Dịch vụ 38,73 38,63 37,99 38,5 38,12 39,38 (Nguồn: Niên giám thống kê) Nhìn chung trong những năm qua, xét theo tỷ trọng gia tăng thêm trong nền kinh tế thì tỷ trọng giá trị chiếm trong GDP của khu vực công nghiệp và xây dựng đã tăng từ 38,13% vào năm 2001 lên 40,18% vào năm 2009; khu vực nông-lâm-ngư-nghiệp tuy đạt tốc độ tăng bình quân hàng năm là 5,42% nhưng tỷ trọng GDP đã giảm từ 23,24% năm 2001 xuống 20,44% vào năm 2009; khu vực dịch vụ vẫn duy trì được tỷ trọng trên dưới 39% tổng GDP. Bảng : Đóng góp của các ngành kinh tế vào tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước giai đoạn 2001-2009. Đơn vị tính:% Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2009 Tốc độ tăng GDP 6,84 7,08 7,34 7,79 8,43 8.17 5,3 Nông lâm ngư nghiệp 0,69 0,93 0,79 0,92 0,82 0.85 1,8 Công nghiệp & Xây dựng 3,63 3,47 3,92 3,93 4,19 4.62 5,5 Dịch vụ 2,52 2,68 2,63 2,94 3,42 3.70 6,6 (Nguồn: Niên giám thống kê) Trong 3 khu vực kinh tế thì khu vực công nghiệp và xây dựng có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm cao nhất là 10,24%/năm, tiếp theo là khu vực dịch vụ với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 6,96%/năm, khu vực nông lâm ngư nghiệp có mức tăng trưởng thấp nhất là 3,83%/năm. Qua đây, cho thấy tốc độ phát triển của các ngành CN-XD và Dịch vụ chưa tương xứng với mức đầu tư dành cho ngành đó. Tỷ trọng của 3 khu vực qua các năm đã thể hiện rõ nền kinh tế đang tiếp tục chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH Bảng: Chuyển dịch cơ cấu của hai ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp Giai đoạn 1990-1994 1995-1999 2000-2004 Cos θº 0.97957 0.99959 0.99799 Góc θº 11.60 1.64 3.64 Hệ số k 0.129 0.018 0.040 Độ lệch tỷ trọng NN -11.31% -1.75% -4.13% Nguồn : Sách Kinh tế đầu tư. Trang 32 Bảng 2.4 Độ lệch trong tỷ trọng nông nghiệp (dNN) thời kỳ 1990-2004 âm, giai đoạn 1990-1994 là -11.31%, giai đoạn 1995-1999 là -1.75% và giai đoạn 200-2004 là -4.13%. Số liệu này cho thấy, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH diễn ra bình thường. Hệ số k chuyển dịch cơ cấu kinh tế của hai ngành Nông nghiệp và Phi Nông nghiệp thời kỳ 1990-2004 đều dương và nhỏ hơn ½ cho thấy: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng hướng CNH- HDH nhưng chưa có sự chuyển dịch mạnh mẽ. Giai đoạn chuyển dịch chậm nhất (k= 0.018) là 1995-1999. 3.2.3. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế Cơ cấu thành phần kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và tăng đóng góp của thành phần kinh tế ngoài nhà nước. Bảng: Cơ cấu vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế giai đoạn 2001-2009. Đơn vị tính: Tỷ đồng Năm 2001 2003 2005 2007 2009 Kinh tế nhà nước 101973 126558 161635 197989 626270 Kinh tế ngoài nhà nước 38512 74388 130398 204705 676576 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 30011 38300 51102 129399 687945 Tổng số vốn 170496 239246 343135 532093 1990791 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Kinh tế nhà nước tăng bình quân hàng năm là 7,46%, gần bằng mức tăng trưởng chung của nền kinh tế. Cơ cấu vốn đầu tư vào thành phần kinh tế nhà nước vẫn duy trì ở mức cao. Kết quả thu được là do đã có sự sắp xếp lại hoạt động và tổ chức của các doanh nghiệp nhà nước, tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp, giảm đáng kể các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Do vậy, trong giai đoan 10 năm từ 2001-2009, kinh tế nhà nước vẫn giữ được tỷ trọng tương đối ổn định. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng trưởng bình quân hàng năm với tốc độ 9,9%/năm, chính vì vậy giá trị gia tăng của khu vực này cũng tăng lên, năm 2001 thành phần kinh tế nay đã đóng góp 17,6% vào giá trị của tổng sản phẩm trong nước, và năm 2009 tỷ lệ này là 35%. Trong 10 năm 2001-2009, VN đã đạt được nhiều thành tích quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội cũng như trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại. Các nhà tài trợ đã cam kết dành cho VN nguồn vốn ODA khá lớn với tổng giá trị đạt gần 14,9 tỉ USD. Các chương trình, dự án ODA đã được ký kết có giá trị hơn 11,2 tỉ USD, trong đó khoảng 80% là nguồn vốn vay ưu đãi. Vốn ODA giải ngân trong thời kỳ này đạt hơn 7,9 tỉ USD. Trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, ODA đã bổ sung một nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, khoảng 11% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và khoảng 17% trong tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Tỷ trọng giá trị tăng thêm của khu vực kinh tế ngoài nhà nước thường chiếm 46-47% giá trị tổng sản phẩm trong nước và những năm gần đây có xu hướng giảm xuống do khu vực kinh tế cá thể chiếm tỷ trọng 2/3 khu vực kinh tế ngoài nhà nước nhưng chỉ tăng bình quân hàng năm là 6,26%. Trong khu vực kinh tế này thì kinh tế tư nhân tuy có tốc độ tăng trưởng cao nhưng mới chiếm tỷ trọng trên 8% trong giá trị tổng sản phẩm trong nước nên không bù đắp được cho sự tăng trưởng thấp của khu vực kinh tế cá thể và khu vực kinh tế tập thể. Biểu đồ: Cơ cấu vốn đầu tư theo thành phần kinh tế giai đoạn 1995-2007 Nguồn: Đề tài, Tiết kiệm - đầu tư và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam Nguyễn Ngọc Sơn Giảng viên, Trường Đại học Kinh tế quốc dân (NEU) Nghiên cứu viên, Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF) Bảng: Tỷ trọng cơ cấu vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế giai đoạn 2001-2009 Đơn vị tính: % Năm 2001 2003 2005 2007 2009 Tổng số 100 100 100 100 100 Kinh tế nhà nước 58,1 56,0 52,5 37,2 31 Kinh tế ngoài nhà nước 23,5 26,5 32,8 38,5 34 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 18,4 17,5 14,7 24,3 35 (Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, kinh tế Việt Nam và thế giới 2009) Trong tổng số vốn đầu tư giai đoan 2001-2005 thì vốn đầu tư trong nước chiếm tới 81.6%, cao hơn hẳn tỷ lệ 78,6% ở giai đoạn 1996-2000. Sở dĩ có được kết quả này một mặt là do nhà nước tăng cường đầu tư vốn, mặt khác là do các chính sách khuyến khích kinh tế ngoài nhà nước phát triển, trong đó có nghị quyết trung ương 5( khoá IX) về kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân đã góp phần rất quan trọng vào sự phát triển của thành phần kinh tế này.Trong 5 năm từ 2001-2005 đã có gần 14 vạn doanh nghiệp dân doanh đăng ký thành lập với tổng số vốn đăng ký lên tới 294 nghìn tỷ đồng; số vốn của khu vực này tăng từ 23.5%( năm 2001) lên 32,8%( năm 2005). Thực tế, vai trò của đầu tư đối với sự phát triển chung và riêng của từng thành phần kinh tế còn rất nhiều hạn chế. Nguyên nhân có thể rút ra là: Chuyển dịch sang cơ chế thị trường diễn ra chậm, chưa đồng bộ. Môi trường đầu tư chưa thực sự tạo cơ chế thông thoáng cho chủ đầu tư. Các chính sách đưa ra chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư đổ vốn vào nền kinh tế, các chính sách thực hiện thiếu sự đồng bộ, chưa phát huy được hết thế mạnh sẵn có của các vùng kinh tế. Khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn hoat động trong nhiều ngành kinh tế quan trọng, các ngành này được hưởng nhiều ưu đãi nhưng hoạt động kém hiệu quả. Xu hướng cổ phần hoá diễn ra chậm. Vốn đầu tư của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước chênh lệch giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện còn rất lớn. 3.2.4. Tác động của đầu tư đến tăng trưởng kinh tế đứng trên góc độ doanh nghiệp Đầu tư doanh nghiệp FDI đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua. Khu vực này luôn tăng trưởng nhanh hơn toàn nền kinh tế, mà đỉnh cao là 20,7% năm 1997. Tỷ trọng vốn FDI đã tăng lên rất nhanh trong thời kỳ 1990 – 1996, đặc biệt là thời kỳ 1995, 1996 đã đạt tới 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư của nền kinh tế. Tuy nhiên nguồn vốn FDI lại có xu hướng giảm trong giai đoạn 1997 – 2002 và chỉ có xu hướng phục hồi từ năm 2003 đến nay. "Làn sóng đầu tư nước ngoài" thứ hai vào Việt Nam đang được chú ý. Đặc biệt FDI vào Việt Nam có xu hướng tăng nhanh trong năm 2006 và 2007, đạt 10,2 tỷ USD năm 2006 và 18,9 tỷ USD năm 2007. Trong 3 loại hình doanh nghiệp tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm ưu thế trong giai đoạn 1995 – 2007 và đạt trung bình 38,2% trong tổng đầu tư của khu vực doanh nghiệp. Mặc dù tỷ trọng này đã giảm mạnh từ những năm 2000 do nỗ lực đẩy nhanh cổ phần hóa DNNN. Tuy nhiên tỷ trọng đầu tư của các DNNN vẫn còn cao so với các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Một xu hướng tích cực trong sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo loại hình doanh nghiệp là tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp tư nhân có xu hướng tăng nhanh, đặc biệt là từ năm 2000. Luật doanh nghiệp ra đời là động lực lớn cho sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân, tỷ trọng đầu tư của DNTN trong tổng đầu tư của khu vực DN tăng từ 28,3% năm 1999 lên 33,0% năm 2000 và đạt 38,7% năm 2005. Như vậy trong năm 2005 tỷ trọng vốn đầu tư của DNTN trong tổng đầu tư của khu vực doanh nghiệp đã vượt tỷ trọng của hai loại hình doanh nghiệp còn lại. Xem bảng: Tỷ trọng đầu tư của DNNN, DN FDI và DNTN trong tổng đầu tư của khu vực DN Nguồn: Đề tài, Tiết kiệm - đầu tư và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam Nguyễn Ngọc Sơn Giảng viên, Trường Đại học Kinh tế quốc dân (NEU) Nghiên cứu viên, Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF 3.2.5. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu theo vùng lãnh thổ Những năm gần đây, đầu tư tương đối tập trung cho các vùng kinh tế trọng điểm (năm 2000 là 52.51% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội và đến năm 2003 là 54,12% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Bảng: Tỷ trọng vốn đầu tư của 3 vùng kinh tế trọng điểm trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội Đơn vị (%) Vùng kinh tế 1995 2000 2001 2002 2003 Cả nước 100 100 100 100 100 Ba vùng kinh tế trọng điểm 58.57 52.51 53.62 53.83 54.12 Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 22.39 20.16 20.08 19.95 19.40 Vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung 3.82 5.18 5.31 5.20 5.22 Vùng kinh tế trọng điểm Miền Nam 32.36 27.17 28.23 28.68 29.50 Nguồn : Từ Quang Phương và tập thể tác giả Khoa Kinh tế đầu tư. Đề tài khoa học cấp Bộ ‘‘ Tác động của việc sử dụng vốn đầu tư đến chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam, Thực trạng và giải pháp’’ 2005 Các vùng kinh tế trọng điểm đã bước đầu phát huy được thế mạnh và tiềm năng của vùng. Với tốc độ tăng trưởng gấp 1,2 – 1,3 lần mức tăng trưởng bình quân của cả nước, các vùng kinh tế trọng điểm tiếp tục gia tăng mức đóng góp của mình vào GDP cả nước. So với cả nước, tỷ trọng GDP của 3 vùng kinh tế trọng điểm tăng từ 42.5% năm 1990 lên 53.9% năm 1995 và 60.5% năm 2003.Tỷ trọng giá trị gia tăng công nghiệo tăng từ 62.8% năm 1990 len 68.9% năm 1995 và 72.3% năm 2003. Ba vùng kinh tế trọng điểm đã đóng góp 60% cho tăng trưởng GDP cả nước, 71.8% cho tăng trưởng công nghiệp và 59% cho tăng trưởng khu vực dịch vụ trên 70% giá trị hàng xuất khẩu và khoảng 73% thu ngân sách của cả nước. 4. SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ LÃNG PHÍ, THẤT THOÁT ẢNH HƯỞNG XẤU ĐẾN CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Trong sơ đồ dưới đây, thể hiện mối quan hệ và nguyên nhân của dàn trải, kéo dài, kém hiệu quả, thất thoát, lãng phí và tổn thất vốn nhà nước đầu tư cho xây dựng cơ bản Thất thoát lãng phí trong khâu quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành.Ví dụ về đầu tư lãng phí thất thoát trong xây dựng cơ bản: Sai phạm về tài chính (Tỷ đồng) Năm Số DA đã thanh tra Tổng vốn ĐT (tỷ đồng) Tỷ lệ (%) 871 2002 17 9.385 13.6 1235 2003 14 8.193 19 1134 2004 64 6.000 18.9 402 2005 84 2054.2 19.6 (Báo cáo của Chính phủ về đầu tư xây dựng cơ bản trước QH 06/11/2005) 5. TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG VỐN ĐẾN TRÌNH ĐỘ KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ VÀ KHẢ NĂNG NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ 5.1 Về đầu tư đổi mới công nghệ Trình độ KHCN của ta nói chung thấp hơn hẳn so với đa số các nền kinh tế khác trong khu vực và trên thế giới. Trong khi đó chúng ta lại khá lúng túng trong việc hình thành, triển khai chiến lược đầu tư thích hợp để nâng cao trình độ KHCN Đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ còn hạn hẹp Mức đầu tư cho đổi mới công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam chỉ đạt khoảng 3% doanh thu/ năm trong khi tỷ lệ này ở các nước tiên tiến là gần 30%/năm Đầu tư xây dựng tiềm lực KH&CN trong thời gian dài còn chưa được chú trọng đúng mức, thiếu tập trung vào lĩnh vực trọng điểm, ưu tiên, dẫn đến cơ sở hạ tầng KH&CN lạc hậu, hiệu quả đầu tư thấp. TS Lê Xuân Bá, phó viện trưởng Viện Quản lý kinh tế trung ương, dẫn chứng: doanh nghiệp trong nước mới chỉ đầu tư 0,2-0,3% doanh thu cho đổi mới công nghệ, trong khi ở Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc 10%.... Ông nêu ra thống kê khác: có đến 76% máy móc, thiết bị và dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp trong nước thuộc thế hệ những năm 50-60 của thế kỷ trước; 75% thiết bị đã hết khấu hao và 50% là đồ tân trang. “Thiết bị hiện đại chỉ ở mức 10%, trung bình chiếm 38%, còn loại lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 52%” Một số cuộc khảo sát gần đây cho thấy, 80% doanh nghiệp Việt Nam sử dụng công nghệ lạc hậu từ 3-4 thế hệ so với thế giới. Đa số doanh nghiệp sử dụng công nghệ của những năm 80 của thế kỷ trước và năng lực để đầu tư đổi mới công nghệ rất hạn chế.   Việc đầu tư công nghệ tại các doanh nghiệp nhỏ còn hạn chế, nên công nhân làm việc theo kiểu thủ công.   Ảnh: Bá Hoạt Mức độ đầu tư cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (R&D): Đầu tư cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của các doanh nghiệp còn rất khiêm tốn, chỉ vào khoảng 3% doanh thu mỗi năm, bằng 22,22% so với các chi phí khác. Các doanh nghiệp đầu tư cho R&D chủ yếu là các DN cổ phần, DN nhà nước và các tổ chức KH&CN chuyển đổi thành DN KH&CN. Các DN ngoài quốc doanh hầu như không chi cho R&D. Trong chi phí cho R&D, chi phí tiếp nhận công nghệ và bí quyết không hàm chứa (thiết kế công nghiệp và mỹ thuật) chiếm 28,57%; mua bằng sáng chế và giấy phép khai thác chiếm 11,11%; các hoạt động khác như mua máy móc, thiết bị với tính năng cải tiến chiếm 38,1%. 5.2 Tác động của việc đầu tư chất lượng chưa cao, chưa hiệu quả dẫn đến năng lực cạnh tranh của Việt Nam ngày càng xấu Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững. Bảng: Xếp hạng năng lực cạnh tranh của VN Năm xếp hạng Thứ hạng cạnh tranh trong ngắn hạn Thứ hạng cạnh tranh trong dài hạn Năm 1998 với 53 quốc gia 43/53 Năm 1999 với 58 quốc gia 50/58 52/58 Năm 2000 với 58 quốc gia 53/58 52/58 Năm 2002 với 75 quốc gia 60/75 Nguồn: Tạp chí nghiên cứu kinh tế Bảng: Xếp hạng năng lực cạnh tranh của VN Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Xếp hạng 60/102 77/104 74/111 77/122 68/131 70/134 75/133 Nguồn Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) Theo số liệu bảng trên, chỉ số cạnh tranh quốc tế của Việt nam cả trong ngắn hạn và dài hạn ngày càng lùi xa vị trí xếp hạng đầu tiên trong bảng. Từ đó cho thấy, trong thời gian gần đây, năng lực cạnh tranh của Việt Nam vẫn rất yếu kém so với nhiều nước khác, thậm chí còn có sự thụt lùi. Điều này cũng gián tiếp phản ánh chất lượng tặng trưởng còn hạn chế và cần phải được cải thiện mạnh nhằm mục tiêu chủ động hội nhập kinh tế toàn cầu. Trên góc độ doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh cũng có sự suy giảm, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do: nhận thức về đầu tư đổi mới công nghệ còn hạn chế, cơ chế chính sách cho đầu tư đổi mới công nghệ chưa hoàn thiện và đồng bộ 6. ĐẦU TƯ GÓP PHẦN XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO VÀ THỰC HIỆN CÔNG BĂNG XÃ HỘI. Với chính sách đổi mới, mở cửa và kiên trì theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã đạt được thành tựu nhất định về tăng trưởng kinh tế gắn với mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Việt nam được Ngân hàng thế giới đánh giá là một trong những điển hình về xoá đói giảm nghèo trên thế giới. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển Việt Nam vẫn không thể tránh khỏi một thực tế mà nhiều nước công nghiệp hoá mắc phải đó là phân hoá giàu nghèo đang trở thành một vấn đề xã hội và ngày càng trở nên sâu sắc. Hiện tại, ở Việt nam vẫn còn một tỷ lệ lớn trong dân cư có mức sống cận giới hạn nghèo. 6.1 Đầu tư tác động đến mức sống của người dân 6.1.1 Tăng thu nhập Cùng với việc tăng quy mô đầu tư và mở rộng sản xuất, vấn đề việc làm đã được giải quyết cho một bộ phận lớn dân cư. Từ năm 2001 đến nay , số người có việc làm tăng thêm 5,55 triệu người , bình quân mỗi năm tăng thêm từ 900 nghìn đến 1.3 triệu việc làm mới.Thu nhập bình quân đầu người đạt gần 820 USD /năm xếp thứ 122 trên 177 quốc gia (2007), thu nhập bình quân đầu người năm 2008 đạt 960 USD/năm và như thế chúng ta không bị xếp vào nước có thu nhập thấp, nói cách khác là nước nghèo" và đến năm 2009 thì đã tăng lên 1023 USD/năm. “Như vậy, so với kế hoạch 5 năm là 1.050 - 1.100 USD/người vào 2010 thì chúng ta hoàn thành kế hoạch trước một năm”, Thủ tướng phát biểu Đời sống của bộ phận những người làm công ăn lương cũng tiếp tục được cải thiện. Thu nhập bình quân tháng của lao động khu vực Nhà nước năm 2009 đạt 3084,8 nghìn đồng, tăng 14,2% so với năm 2008, trong đó thu nhập của lao động trung ương đạt 3979,1 nghìn đồng, tăng 16,1%; địa phương đạt 2532,9 nghìn đồng, tăng 13% 6.1.2 Tỷ lệ nghèo đói có xu hướng giảm Trên cơ sở kinh tế tăng trưởng nhanh, mức độ nghèo đói của dân cư giảm mạnh. Số hộ giàu tăng lên và đến nay đã đạt trên 10% ,số hộ nghèo giảm xuống từ 55% (1989)xuống còn 11.4(2000 ). Và đến năm 2006, tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam là 18,1% (tính theo chuẩn nghèo quốc tế) và được thế giới đánh giá là quốc gia thành công nhất trong “sự nghiệp” chống nghèo đói. Theo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, đến hết năm 2008, tỷ lệ hộ nghèo cả nước sẽ còn khoảng 13% (tương đương 2,4 triệu hộ), giảm gần 2% so với năm 2007.Và đến năm 2009 tỷ lệ hộ nghèo là ước dưới 11% Theo chuẩn nghèo được đề xuất tăng gấp 1,5 lần hiện hành này, hộ nghèo là những hộ có thu nhập 300.000 đồng/người/tháng đối với khu vực nông thôn và 390.000 đồng đối với khu vực thành thị. Theo báo cáo của các địa phương, năm 2009 trên địa bàn cả nước có 676,5 nghìn lượt hộ với 2973,3 nghìn lượt nhân khẩu bị thiếu đói, giảm 29,4% số lượt hộ và giảm 26,2% số lượt nhân khẩu thiếu đói so với năm trước. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, các cấp, các ngành và địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 43 nghìn tấn lương thực và 65,2 tỷ đồng, riêng tháng 12/2009 hỗ trợ 5,3 nghìn tấn lương thực và 23,9 tỷ đồng. 6.1.3 Đời sống kinh tế, sinh hoạt của người dân ngày càng được cải thiện và từng bước nâng cao hơn Đến nay ở Việt Nam có 89,4% xã có điện, 94,6% xã có đường trải nhựa, 98,8% xã có trường tiểu học và 99% xã có trạm y tế. Số người đi học bình quân tính trên 1 vạn dân đã tăng từ 1834 người năm 1990 lên 2171 năm 1995. Tỷ lệ người biết đọc, biết viết tăng từ 88% năm 1989 lên 93% năm 2000. Ngoài ra nhiều mục tiêu được đề ra trong những năm trước đó thì nay chúng ta đều đạt được hoặc đạt vượt mức như tỷ lệ chết ở trẻ em dưới 1 tuổi chỉ còn 2,1% (2007), tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi còn 25% (2007). Tuổi thọ của người dân (năm 2006) đạt 71,3 tuổi.Phần lớn người dân Việt Nam đã có những tiện nghi tối thiểu cho sinh hoạt như điện, nước sạch...Tỷ lệ hộ dân có phương tiện đi lại bằng xe máy, ô tô ...và các phương tiện sinh hoạt cao cấp khác ngày càng có xu hướng tăng nhanh. Cơ sở vật chất của các trường phổ thông đã được quan tâm đầu tư nhiều hơn nên năm học 2008-2009 cả nước có 444 nghìn phòng học cho cả ba cấp, tăng 5,4 nghìn phòng so với năm học trước. Sau một năm triển khai thực hiện Quyết định số 20/2008/QĐ-TTg ngày 01/2/2008 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án Kiên cố hoá trường lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008-2012, đã xây dựng được 9,5 nghìn phòng học và 16,6 nghìn phòng học khác đang xây dựng, đạt 88,1% kế hoạch; 4,2 nghìn nhà công vụ đã xây dựng hoàn thành và 4,9 nghìn nhà công vụ khác đang xây dựng, đạt 93,1%. 6.1.4 Chỉ số phát triển con người Chỉ số HDI phản ánh mức sống lâu và khỏe mạnh (đo tuổi thọ trung bình); được học hành (đo tỉ lệ biết chữ ở người lớn và tỉ lệ nhập học chung trong giáo dục) và mức sống (đo bằng thu nhập GDP theo sức mua tương đương PPP). Tuy nhiên._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26043.doc
Tài liệu liên quan