Lời mở đầu
Trước xu thế mở cửa nền kinh tế đón nhận những văn minh văn hoá, khoa học kỹ thuật từ bên ngoài, trước xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế, nhu cầu phát triển kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam ngày càng lớn. Nhu cầu phát triển kinh tế ngày càng cao hoạt động đầu tư ngày càng nhiều trong đó chủ yếu là đầu tư theo dự án. Cụ thể, hầu hết các dự án đầu tư lớn nhỏ tại Việt Nam trong những năm gần đây đều đầu tư theo dự án. Tuy nhiên thực trạng hoạt đông đầ
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1352 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Công ty xây dựng công trình giao thông 874, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u tư theo dự án vẫn còn tràn lan, dàn trải, chưa hiệu quả gây lãng phí nguồn tài chính quốc gia.
Nhận thức được tầm quan trọng của các dự án trong sự phát triển kinh tế của quốc gia nói chung và lợi ích của doanh nghiệp nói riêng cụ thể tại đơn vị tôi thực tập là công ty công trình giao thông 874 (thuộc tổng 8- bộ giao thông vận tải) tôi đã lựa chọn đề tài “ nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại công ty công trình giao thông 874” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. Tại công ty xây dựng công trình giao thông 874 các hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản hầu hết đầu tư theo các dự án.Việc đầu tư theo dự án có hiệu quả quyết định phần lớn sự thành bại của công ty. Do đó mà thẩm định tài chính dự án là công việc hết sức quan trọng đối với công ty. Tuy đã được chú trọng song do tính phức tạp riêng có mà công tác thẩm định tài chính dự án tại công ty còn gặp nhiều bất cập. Sau thời gian thực tập tốt nghiệp tại công ty tôi đã nhận thấy được tầm quan trọng của công việc thẩm định tài chính dự án do đó tôi đã chọn đề tài “nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại công ty” với mong muốn đóng góp một phần công sức của mình vào sự thành công của công ty. Thông qua đề tài này tôi cũng muốn áp dụng những kiến thức đã được học trên giảng đường đại học vào thực tế để nâng cao kỹ năng của mình.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu các dự án đầu tư mà công ty xây dựng công trình giao thông 874 thực hiện trong những năm gần đây và tiến hành phân tích một dự án điển hình: Dự án nâng cấp mở rộng QL 32A, QL 32B, QL 37 đoạn Cổ Tiết- Thu Cúc- Mường Tơi- Gia Phù( Phú Thọ) đoạn Km108- Km118.
Phương pháp nghiên cứu đề tài: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, so sánh cùng với việc sử dụng các số liệu thực tế minh hoạ, đồng thời có sự tham khảo các tài liệu liên quan đến lĩnh vực tài chính.
Kết cấu của đề tài: ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm có 3 phần:
Phần I : Những vấn đề cơ bản về dự án và thẩm định tài chính dự án của doanh nghiệp.
Phần II: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án tại công ty xây dựng công trình giao thông 874.
Phần III: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại công ty xây dựng công trình giao thông 874.
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỰ ÁN VÀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 DỰ ÁN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1 Khái niệm dự án
Doanh nghiệp là một thực thể của xã hội. Giống như những thực thể khác trong xã hội, doanh nghiệp có những hoạt động riêng để tự tồn tại và phát triển. Có nhiều cách hiểu khác nhau về doanh nghiệp.Doanh nghiệp có thể hiểu là chủ thể kinh tế độc lập hoặc là một cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu. Theo luật doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Như vậy, doanh nghiệp có thể thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường. Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tối đa hóa giá trị của chủ sở hữu.
Để thực hiện được mục tiêu đó doanh nghiệp phải tiến hành các hoạt động. Những hoạt động đó có thể là hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động cung ứng các dịch vụ và hoạt động đầu tư. Trong đó đầu tư là một hoạt động vô cùng quan trọng của bất kỳ tổ chức nào trong nền kinh tế. Có thể hiểu một cách đơn giản đầu tư là hoạt động bỏ vốn với hy vọng đạt được lợi ích tài chính, kinh tế xã hội trong tương lai. Muốn đạt được mục tiêu là tối đa hóa giá trị của mình, doanh nghiệp phải tiến hành hoạt động đầu tư. Lấy ví dụ về hoạt động đầu tư của doanh nghiệp: doanh nghiệp mới thành lập thường đầu tư vào cơ sở hạ tầng, mua trang thiết bị, nguyên nhiên vật liệu để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh. Đối với những doanh nghiệp đã thành lập, có thể bỏ vốn xây dựng mới cơ sở hạ tầng, đổi mới dây truyền công nghệ, phát triển sản phẩm mới.
Ngày nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, nhằm tối đa hóa hiệu quả đầu tư, các hoạt động đầu tư đều được thực hiện theo dự án. Vậy dự án là gì? Theo WORLD BANK (ngân hàng thế giới) dự án là tổng thể các chính sách, hoạt động và chi phí có liên quan với nhau được hoạch định nhằm đạt được những mục tiêu nào đó trong thời gian nhất định. Theo từ điển về quản lý dự án AFNOR, dự án là hoạt động đặc thù tạo nên một thực thể mới một cách có phương pháp với các nguồn lực đã định. Theo nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 07 năm 1999 của Chính phủ về đầu tư và xây dựng, dự án là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định.
Một cách tổng quát nhất, dự án được hiểu là một tập hợp các hoạt động đặc thù liên kết chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau nhằm đạt được trong tương lai ý tưởng đã đặt ra(mục tiêu nhất định) với nguồn lực và thời gian xác định.
Mỗi doanh nghiệp phải tự tìm kiếm và lựa chọn dự án cho riêng mình. Việc tìm kiếm dự án phụ thuộc vào mục tiêu, lĩnh vực kinh doanh và khả năng tìm kiếm của doanh nghiệp. Trong các dự án tìm kiếm được doanh nghiệp sẽ lựa chọn đầu tư vào dự án đem lại lợi ích lớn nhất, không chỉ dừng lại ở lợi ích kinh tế mà cả lợi ích xã hội. Như vậy có thể thấy dự án có vai trò rất quan trọng đối với các chủ đầu tư, các nhà quản lý, các tổ chức tài chính, nhà nước và các đối tượng có liên quan khác.
1.1.2 Vai trò của dự án
Trong nền kinh tế hiện đại, nhu cầu đầu tư, nhu cầu phát triển ngày càng tăng. Nhu cầu đó được đặt trong môi trường cạnh tranh cực kỳ khốc liệt. Nguồn lực ngày càng khan hiếm, thời gian và thông tin trở thành những thước đo của sự thành công. Để không lãng phí nguồn lực và chắc chắn sẽ thành công, người ta thường đầu tư theo dự án. Vì hầu hết các dự án đều được thẩm định trước khi được triển khai nên đầu tư theo dự án sẽ giảm thiểu rủi ro cho chủ đầu tư. Dự án giúp chủ đầu tư quản lý vốn, vật tư, lao động trong quá trình thực hiện đầu tư một cách dễ dàng hơn. Không chỉ có vậy, hoạt động đầu tư theo dự án còn làm gia tăng giá trị của doanh nghiệp và tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Đối với đơn vị quản lý vĩ mô như nhà nước thì dự án cũng có vai trò rất quan trọng. Dự án tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nếu không có dự án, nền kinh tế sẽ khó nắm bắt được cơ hội phát triển. Dự án giúp gia tăng tổng thu nhập quốc dân, tạo công ăn việc làm cho người lao động, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo.
Dự án còn là căn cứ để các tổ chức tài chính đưa ra quyết định tài trợ, các cơ quan chức năng của Nhà nước phê duyệt và cấp giấy phép đầu tư.
1.1.3 Phân loại dự án
Dự án và đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đầu tư là nguồn gốc ra đời của dự án, việc xây dựng và thực hiện dự án sẽ kiểm nghiệm tính đúng đắn của quyết định đầu tư. Trong nền kinh tế có rất nhiều loại hình doanh nghiệp hoạt động trong rất nhiều các lĩnh vực khác nhau. Mỗi doanh nghiệp lại có những quyết định đầu tư riêng của mình. Do vậy có thể thấy trong nền kinh tế có rất nhiều loại dự án khác nhau. Các dự án rất đa dạng về lĩnh vực, loại hình,cấp độ,quy mô, thời hạn…. Do đó để đưa ra được cách phân loại dự án một cách hiệu quả để thấy hết được sự khác nhau giữa các dự án là vô cùng khó khăn. Tuy nhiên người ta có thể phân loại dự án theo các tiêu thức sau:
Theo lĩnh vực dự án: Dự án được phân loại thành dự án xã hội, dự án kinh tế, dự án quốc gia, dự án quốc tế.
Theo loại hình dự án: Dự án được phân loại thành dự án Nghiên cứu và phát triển, dự án Giáo dục đào tạo, dự án đổi mới.
Theo thời hạn: Dự án ngắn hạn, dự án trung hạn, dự án dài hạn.
Theo cấp độ: Dự án được phân loại thành dự án lớn, dự án nhỏ.
Ngoài ra người ta còn có rất nhiều cách khác để phân loại dự án. Đây là cách phân loại tổng hợp nhất đối với các dự án. Ở Việt Nam, theo “Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng” ban hành kèm theo Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000 dự án được phân loại cụ thể thành các dự án nhóm A, dự án nhóm B, dự án nhóm C.
1.1.4 Các giai đoạn của dự án
Thực hiện một dự án phải thông qua rất nhiều các giai đoạn riêng biệt. Các dự án có thể bao gồm các giai đoạn giống hoặc khác nhau. Thông thường các giai đoạn của dự án bao gồm: Xác định dự án, phân tích và lập dự án, duyệt dự án, thực hiện dự án, nghiệm thu tổng kết giải thế. Các giai đoạn này gắn kết một cách chặt chẽ với nhau, đan xen nhau theo một tiến trình logic. Để hiểu một cách toàn diện và hệ thống, người ta nghiên cứu chúng một cách độc lập tương đối và trên các góc độ khác nhau.
1.1.4.1 Xác định dự án
Giai đoạn xác định dự án đối với một doanh nghiệp rất quan trọng. Đây là giai đoạn hình thành ý tưởng đầu tư. Tùy thuộc vào chiến lược phát triển của mình, cũng như xem xét thông tin, chiến lược phát triển kinh tế của cả nước, của từng ngành, từng lĩnh vực, doanh nghiệp hình thành ý tưởng đầu tư, lựa chọn dự án để đầu tư cho phù hợp. Sự phù hợp ở đây thể hiện ở mặt không gian và thời gian cũng như về kinh tế. Việc xác định các dự án để đầu tư đối với một doanh nghiệp là vô cùng quan trọng bởi lẽ thực hiện một dự án thường tốn rất nhiều tiền, thời gian và công sức của doanh nghiệp. Một dự án đầu tư sai thường đem lại hậu quả rất lớn cho doanh nghiệp có thể dẫn đến phá sản. Vì vậy mà các doanh nghiệp phải thật thận trọng trước khi lựa chọn dự án đầu tư.
1.1.4.2 Phân tích và lập dự án đầu tư
Giai đoạn phân tích và lập dự án bao gồm nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi.
Nghiên cứu tiền khả thi: Doanh nghiệp nghiên cứu sơ bộ ban đầu về nhu cầu, khả năng tiến hành dự án và kết quả của dự án. Trong đó doanh nghiệp nghiên cứu sự cần thiết, điều kiện thuận lợi cũng như khó khăn của doanh nghiệp khi thực hiện dự án có thể gặp phải. Bên cạnh đó doanh nghiệp dự kiến quy mô đầu tư( tổng mức vốn đầu tư), hình thức đầu tư, khả năng tự tài trợ, các phương án huy động vốn và phương án trả nợ của doanh nghiệp. Phân tích lựa chọn sơ bộ công nghệ, kỹ thuật, nguồn cung nguyên vật liệu, năng lượng cần thiết cho dự án cũng được tiến hành trong giai đoạn này.
Nghiên cứu khả thi: đây là giai đoạn nghiên cứu một cách cụ thể những gì đã được nghiên cứu trong giai đoạn tiền khả thi. Giai đoạn này doanh nghiệp xác định phương án được lựa chọn như phương án kỹ thuật, công nghệ, phương án thiết kế thi công, phương án tài trợ cho dự án, các mốc thời gian thực hiện đầu tư và các hình thức quản lý dự án.
Sau khi phân tích và lập dự án, khâu quan trọng tiếp theo là thẩm định dự án. Việc phân tích và lập dự án càng được thực hiện một cách chi tiết và chính xác thì việc thẩm định càng có hiệu quả. Vấn đề về thẩm định dự án sẽ được đề cập riêng ỏ mục sau.
1.1.4.3 Duyệt dự án
Đây là giai đoạn doanh nghiệp đưa ra quyết định có đầu tư vào dự án hay không. Việc đưa ra quyết định này chủ yếu dựa vào những kết luận đã được tổng hợp từ các giai đoạn trước đặc biệt là giai đoạn thẩm định dự án. Nếu dự án được khẳng định là có hiệu quả và khả thi thì doanh nghiệp sẽ quyết định đầu tư và ngược lại nếu dự án không có hiệu quả hoặc không khả thi thì không có lý do gì doanh nghiệp lại đầu tư. Đối với những dự án mang tính cộng đồng, có thể dự án không có tính khả thi nhưng nó mang lại lợi ích xã hội lớn có thể vẫn được đầu tư. Chủ đầu tư vào những dự án này thường là Nhà nước.
1.1.4.4 Thực hiện dự án
Giai đoạn này bao gồm một số công đoạn: thi công xây dựng dự án, vận hành dự án(dự án sinh lời), kết thúc dự án. Đây là giai đoạn doanh nghiệp biến những gì đã được dự đoán, tính toán ở các giai đoạn trước vào thực tế. Để đạt được đúng chỉ tiêu cũng như chất lượng công trình đã được đưa ra nhà quản lý dự án phải giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện dự án giảm thiểu các rủi ro có thể gặp phải.
1.1.4.5 Nghiệm thu, tổng kết và giải thể
Mục tiêu của giai đoạn này là đánh giá một cách toàn diện những thành công và thất bại từ giai đoạn đầu của dự án đến khi kết thúc dự án. Trong đó doanh nghiệp cần phải phân tích rõ các nguyên nhân thất bại, cách khắc phục những sai phạm để làm kinh nghiệm, rút ra bài học, quản lý tốt hơn các dự án sau này.
1.2 THẨM ĐỊNH DỰ ÁN
1.2.1 Khái niệm thẩm định dự án
Thẩm định dự án là một khâu của quá trình phân tích và lập dự án- một giai đoạn của dự án. Thẩm định dự án là việc rà soát lại, kiểm tra lại một cách khoa học, khách quan và toàn diện mọi nội dung của dự án và liên quan đến dự án nhằm khẳng định tính hiệu quả cũng như tính khả thi của dự án trước khi quyết định đầu tư. Trong quá trình phân tích và lập dự án thường không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, sai lệch. Thẩm định dự án để xem xét, phát hiện, sửa chữa các sai lệch, từ đó khẳng định một cách chắc chắn hơn sự hợp lý, hiệu quả cũng như tính khả thi của dự án. Thẩm định dự án giúp cho quyết định đầu tư thực hiên dự án hiệu quả hơn tránh những sai lầm đáng tiếc có thể xảy ra. Như vậy việc thẩm định dự án là không thể thiếu đối với bất kỳ một dự án nào cho dù dự án đó là nhỏ hay lớn, ở tầm vi mô hay vĩ mô.
1.2.2 Nội dung thẩm định dự án
Nội dung của thẩm định dự án là những công việc chính mà người thẩm định phải làm khi tiến hành thẩm định dự án. Thẩm định dự án được tiến hành chủ yếu đối với các giai đoạn xác định dự án, phân tích dự án và lập dự án, duyệt dự án. Nội dung thẩm định dự án thường bao gồm: thẩm định kỹ thuật, thẩm định kinh tế xã hội và thẩm định tài chính, thẩm định thị trường.
1.2.2.1 Thẩm định kỹ thuật
Thẩm định kỹ thuật là việc thẩm định những yếu tố thuộc về mặt kỹ thuật của dự án như quy mô dự án, công nghệ và trang thiết bị của dự án, phương án thi công, địa điểm xây dựng dự án, phương án kiến trúc, nguồn nguyên liệu và các yếu tố đầu vào khác của dự án. Trong đó người thẩm định phải xác định được mức độ phù hợp của các yếu tố trên với thực tế yêu cầu đặt ra. Ví dụ như quy mô của dự án phải phù hợp với công suất sử dụng, khả năng đáp ứng vốn, khả năng cung ứng nguyên vật liệu cũng như khả năng quản lý dự án của các nhà quản lý. Nguồn nguyên liệu và các yếu tố đầu vào phải phù hợp với dây truyền công nghệ máy móc thiết bị được sử dụng trong dự án. Việc chọn địa điểm xây dựng có thuận tiện về nguồn nguyên liệu, hệ thống giao thông, cơ sở hạ tầng, mức độ đền bù giải phóng mặt bằng? Ngoài những nội dung trên người thẩm định còn phải xem xét nhiều yếu tố khác như quản lý dự án…
1.2.2.2 Thẩm định kinh tế xã hội
Đây là việc đánh giá lại hiệu quả của dự án dưới giác độ toàn bộ nền kinh tế, xem xét sự tác động của dự án tới môi trường, tới các đối tượng khác trong xã hội. Một dự án mặc dù hiệu quả đối với doanh nghiệp song có thể vẫn không được thực hiện do nó tác động xấu tới các đối tượng khác trong xã hội như làm ảnh hưởng đến môi trường, gây nguy hại đến sức khỏe của người dân nơi dự án được thực hiện. Song cũng cần phải đánh giá những đóng góp của dự án đối với toàn bộ nền kinh tế như giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống cho nhân dân, làm tăng thu nhập quốc dân, đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Nhà đầu tư phải xem xét chênh lệch lợi ích mà dự án mang lại với những thiệt hại mà nó gây ra đối với nền kinh tế để đưa ra quyết định đầu tư đúng. Việc thẩm định kinh tế xã hội của dự án khá phức tạp và khó khăn song không thể thiếu nhất là trong điều kiện nền kinh tế toàn cầu như hiện nay.
1.2.2.3 Thẩm định thị trường
Thẩm định thị trường là việc phân tích các kết quả nghiên cứu thị trường nhằm đưa ra kết luận hợp lý, chính xác về thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Thẩm định thị trường bao gồm:
Thẩm định nhu cầu hiện tại và tương lai về sản phẩm của dự án trên thị trường dự kiến thâm nhập.
Thẩm định nguồn và kênh đáp ứng nhu cầu.
Thẩm định các yếu tố về sản phẩm tiêu thụ.
Thẩm định sự cạnh tranh.
1.2.2.4 Thẩm định tài chính dự án
Thẩm định tài chính dự án là một nội dung lớn trong thẩm định dự án. Thẩm định tài chính dự án sẽ được trình bày chi tiết, cụ thể trong các phần tiếp theo.
1.3 THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN
1.3.1 Khái niệm, mục đích ý nghĩa của thẩm định tài chính dự án
Thẩm định tài chính dự án là rà soát, đánh giá một cách khoa học và toàn diện mọi khía cạnh tài chính dự án trên giác độ của nhà đầu tư, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác, các cá nhân. Thẩm định tài chính dự án là nội dung rất quan trọng của thẩm định dự án. Dựa vào kết luận của thẩm định tài chính dự án và các kết luận của các nội dung khác trong thẩm định dự án như thẩm định kinh tế, thẩm định kinh tế xã hội nhà đầu tư sẽ đưa ra quyết định đầu tư của mình. Thẩm định tài chính dự án là căn cứ quan trọng để quyết định bỏ vốn đầu tư, xây dựng kế hoạch đầu tư và theo dõi quá trình thực hiện đầu tư.
Một dự án thường tồn tại trong vòng nhiều năm kể từ khi xác định dự án, thực hiện dự án đến khi dự án sinh lời và kết thúc dự án. Nghiên cứu vấn đề tài chính của dự án trong từng giai đoạn, thẩm định tài chính dự án giúp nhà đầu tư nắm bắt được tình hình tài chính của dự án không chỉ trong một kỳ sản xuất kinh doanh mà là một khoảng thời gian dài từ khi bắt đầu đến khi kết thúc dự án.
13.2 Nội dung của thẩm định tài chính dự án
1.3.2.1 Dự toán vốn đầu tư
Trước tiên chúng ta sẽ tìm hiểu thế nào là vốn đầu tư. Như đã khẳng định ở phần trên, doanh nghiệp hình thành và hoạt động với mục tiêu là tối đa hóa giá trị của chủ sở hữu, của doanh nghiệp.Và một trong những hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp đó là hoạt động đầu tư. Nếu chúng ta xem xét giá trị của doanh nghiệp là một hàm của các quyết định đầu tư, quyết định tài trợ và quyết định hoạt động, thì giá trị của doanh nghiệp được xác định như sau:
V = S + B
Trong đó:
- V là giá trị doanh nghiệp
- S là giá trị vốn chủ sở hữu
- B là giá trị nợ
Để tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp(V) bước đầu tiên là phải có được các quyết định đầu tư hiệu quả.
Muốn cho bất kỳ một hoạt động nào được thực hiện nhất là hoạt động đầu tư đều phải cần vốn đầu tư. Ở đây chúng ta chỉ nghiên cứu vốn đầu tư dưới giác độ của dự án. Theo đó, vốn đầu tư là tổng số tiền được chi tiêu để hình thành nên các tài sản cố định và tài sản lưu động cần thiết. Những tài sản này được sử dụng trong việc tạo ra doanh thu, chi phí, thu nhập suốt vòng đời hữu ích của dự án.
Như vậy, vốn đầu tư bao gồm vốn đầu tư vào tài sản cố định, vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Hoặc người ta có thể chia vốn đầu tư thành vốn tự có, nợ và sự kết hợp giữa hai hình thức đó. Đây là cách phân loại vốn đầu tư theo tính chất sở hữu hay nguồn hình thành. Ngoài ra còn có nhiều cách khác phân loại vốn đầu tư.
Không phải với bất kỳ quy mô vốn nào dự án đều được thực hiện và đều có hiệu quả. Với một quy mô vốn đầu tư quá lớn hoặc quá nhỏ có thể sẽ làm hỏng một dự án tốt. Vì vậy mỗi một dự án cụ thể đòi hỏi phải có một quy mô vốn thích hợp. Cán bộ thẩm định tài chính dự án khi dự toán vốn đầu tư không chỉ xác định quy mô vốn mà còn phải xác định cơ cấu vốn tối ưu cho dự án. Đó là việc xác định xem dự án nên được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu hay vốn vay hay kết hợp cả hai hình thức đó. Nếu kết hợp cả vốn chủ sở hữu và vốn vay thì vốn vay chiếm bao nhiêu phần trăm là hợp lý. Để xác định được quy mô vốn thích hợp hay một cơ cấu vốn tối ưu cho dự án không phải là chuyện đơn giản. Cán bộ thẩm định cần phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau thuộc dự án hoặc liên quan đến dự án. Các yếu tố này chính là căn cứ để lập dự toán.
- Xét các yếu tố thuộc dự án như quy mô dự án, mức độ quan trọng của dự án. Rõ ràng dự án xây dựng một chiếc cầu của nhà nước sẽ có quy mô lớn và quan trọng hơn dự án đổi mới dây truyền công nghệ của một doanh nghiệp nào đó. Nhu cầu vốn thực tế của dự án là một yếu tố quan trọng nhất. Từ việc xác định các chi phí cần thiết cho dự án như chi phí mua nguyên vật liệu, chi phí thuê công nhân, chi phí vận hành máy móc thiết bị, chi phí bảo dưỡng… cán bộ thẩm định sẽ tính được nhu cầu vốn thực tế của dự án và dự toán được vốn đầu tư.
- Xét các yếu tố không thuộc dự án nhưng liên quan đến dự án như chính sách kinh tế, thị trường cạnh tranh, chính sách tài chính, công nghệ, và khả năng tài chính của doanh nghiệp. Đây là các yếu tố sẽ ảnh hưởng gián tiếp đến nhu cầu vốn của dự án. Sự thay đổi trong chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước ảnh hưởng tới hoạt động nói chung của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư nói riêng. Do đó mà cần phải dự báo được những ảnh hưởng của yếu tố này đến hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai từ đó tiến hành lập dự toán vốn một cách có hiệu quả. Tương tự như vậy, sự thay đổi trong chính sách tài chính của Nhà nước như chính sách thuế, chính sách lãi suất sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chi phí vốn và cơ cấu vốn của dự án. Doanh nghiệp cần phải dự báo chính xác sự thay đổi của các yếu tố này, thay đổi như thế nào và thay đổi bao nhiêu để có thể dự toán vốn thẩm định cho dự án. Nghiên cứu thị trường hay các yếu tố cạnh tranh cũng rất quan trọng trong việc dự toán vốn đầu tư. Yếu tố tiến bộ khoa học công nghệ ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn các trang thiết bị, phương pháp khấu hao tài sản cố định, chất lượng và giá thành sản phẩm. Nếu không xét đến yếu tố này thì sản phẩm của doanh nghiệp mặc dù chưa ra đời song có thể không được thị trường chấp nhận do công nghệ lạc hậu. Cuối cùng là khả năng tài chính của doanh nghiệp. Quyết định đầu tư phải xem xét trong giới hạn về khả năng huy động vốn của doanh nghiệp và dự báo các nhu cầu đầu tư khác của doanh nghiệp trong tương lai.
Tóm lại, dự toán vốn đầu tư là một nội dung quan trọng trong thẩm định tài chính dự án của doanh nghiệp. Đặc điểm của các dự án là thường yêu cầu một lượng vốn lớn và sử dụng trong thời gian dài. Sai lầm trong việc dự toán vốn đầu tư có thể dẫn tới tình trạng lãng phí vốn lớn, gây hậu quả nghiêm trọng đối với doanh nghiệp. Dựa vào các căn cứ dự toán và sử dụng phương pháp dự toán thích hợp cán bộ thẩm định phải dự toán chính xác vốn đầu tư cho dự án.
1.3.2.2 Dự tính các dòng tiền của dự án
Dòng tiền của một dự án được hiểu là các khoản chi và thu được kỳ vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt chu kỳ của dự án. Lấy khoản tiền thu được trừ đi khoản chi ra thì chênh lệch này được doanh nghiệp gọi là dòng tiền của dự án tại các mốc thời gian khác nhau. Chu kỳ của dự án là toàn bộ khoảng thời gian tính từ khi dự án bắt đầu được triển khai, dự án sinh lãi và kết thúc dự án.
Ta có:
Trong đó:
- là dòng tiền của dự án
- là dòng tiền vào của dự án
- là dòng tiền ra của dự án
Do tiền có giá trị về thời gian nên chúng ta không thể so sánh các dòng tiền xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau mà phải quy chúng về một mốc để so sánh. Nếu quy các dòng tiền xuất hiện tại các mốc khác nhau về hiện tại người ta gọi là hiện tại hóa dòng tiền, nếu quy về thời điểm tương lai ta có khái niệm tương lai hóa dòng tiền. Việc quy các dòng tiền về hiện tại là cơ sở để tính NPV(giá trị hiện tại ròng của dự án).
Trong đó:
- là giá trị hiện tại ròng của dự án
- là lãi suất chiết khấu
- ,, là dòng tiền ròng xuất hiện tại các thời điểm khác nhau của dự án
- là chi phí vốn đầu tư được hiện tại hóa tại thời điểm ban đầu
Dòng tiền là cơ sở để định giá doanh nghiệp cũng như xác định giá cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp. Từ việc xác định dòng tiền người ta có thể biết được giá trị hiện tại của dự án.
Như vậy, để xác định được dòng tiền tại các thời điểm khác nhau của dự án ta phải tính toán được dòng tiền vào ra của dự án tại các thời điểm đó. Dòng tiền vào của dự án thường xuất hiện khi dự án trong giai đoạn sinh lãi. Đó thường là các khoản thu từ dự án. Dòng tiền ra của dự án đó là những khoản chi phí phát sinh do việc thực hiện dự án tạo ra. Câu hỏi đặt ra trong khi xác định dòng tiền ra của dự án là các chi phí như chi phí chìm(chi phí đã xuất hiện từ trước mà không thể bù đắp cho dù dự án có được chấp thuận hay không), chi phí cơ hội(lợi nhuận lớn nhất bị bỏ qua khi đầu tư vào dự án) có được đưa vào trong quá trình tính dòng tiền ra của dự án hay không? Theo quan điểm của người làm luận văn thì những chi phí này không nên đưa vào trong quá trình tính dòng tiền ra của dự án. Lý do của vấn đề này sẽ được giải thích rõ trong phần lãi suất chiết khấu.
Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu phương pháp xác định dòng tiền của dự án với những phương thức tài trợ khác nhau.
* Khi dự án được tài trợ hoàn toàn bằng vốn chủ sở hữu:
Theo phương pháp từ trên xuống
NCF = Lợi nhuận sau thuế + KH
NPV = ∑NCF được hiện tại hóa – VCSH()
* Khi dự án được tài trợ bằng nợ và VCSH
- Nếu phương thức trả nợ là trả gốc và lãi hàng năm:
NCF = Lợi nhuận sau thuế + KH - Trả vốn vay
NPV = ∑NCF được hiện tại hóa – VCSH()
- Nếu phương thức trả nợ là trả lãi hàng năm, trả gốc vào cuối năm
NCF = Lợi nhuận sau thuế + KH
NPV = ∑NCF được hiện tại hóa – VCSH()
* Khi TSCĐ của dự án được hình thành thông qua thuê
NCF = Lợi nhuận sau thuế
NPV = ∑NCF
Khi dự toán vốn đầu tư nhà thẩm định đã xác định được cơ cấu vốn tài trợ cho dự án. Với những phương pháp tài trợ khác nhau của dự án ta có các cách tính dòng tiền khác nhau.
1.3.2.3 Xác định lãi suất chiết khấu
Trước khi nghiên cứu về lãi suất chiết khấu chúng ta hãy tìm hiểu về giá trị trị thời gian của tiền. Đây là một khái niệm rất phổ biến trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Theo nguyên tắc giá trị thời gian của tiền, một đồng hôm nay sẽ có giá trị khác một đồng hôm qua, khác với một đồng ngày mai.
Nguyên nhân cơ bản của sự thay đổi về giá trị của tiền đó là do tác động của lạm phát hoặc giảm phát và chi phí cơ hội của việc giữ tiền. Nếu nền kinh tế có lạm phát thì một đồng hôm nay có giá trị cao hơn một đồng ngày mai và ngược lại nếu do tác động của giảm phát thì một đồng hôm nay có giá trị thấp hơn một đồng ngày mai. Tương tự chi phí cơ hội cũng làm cho tiền tại các thời điểm khác nhau có giá trị khác nhau.
Do tiền xuất hiện tại các thời điểm khác nhau có giá trị khác nhau, nên để có thể so sánh các dòng tiền xuất hiện tại các thời điểm khác nhau với nhau, người ta sử dụng lãi suất chiết khấu để qui đổi các dòng tiền đó về cùng một mốc để so sánh. Khi quy đổi các dòng tiền về thời điểm hiện tại, gọi là hiện tại hóa dòng tiền. Khi quy đổi vể thời điểm tương lai gọi là tương lai hóa dòng tiền. Vậy lãi suất chiết khấu là gì? Và được xác định như thế nào?
Khi thực hiện một dự án, nhà đầu tư sẽ bỏ qua lợi tức kỳ vọng của các dự án hay tài sản khác có cùng mức rủi ro. Chính vì vậy, nhà đầu tư sẽ đòi hỏi một tỷ lệ sinh lời cần thiết đối với dự án đó. Đó chính là lãi suất chiết khấu.Vậy, lãi suất chiết khấu là tỷ lệ sinh lời cần thiết mà nhà đầu tư yêu cầu đối với một dự án, là cơ sở để chiết khấu các dòng tiền trong việc xác định giá trị hiện tại ròng của dự án.
Về bản chất lãi suất chiết khấu của một dự án chính là chi phí vốn của dự án đó. Với mỗi dự án có phương thức tài trợ khác nhau, chi phí vốn của các dự án đó cũng khác nhau do đó mà lãi suất chiết khấu được sử dụng để chiết khấu dòng tiền cũng khác nhau. Việc xác định chi phí vốn đã khó khăn, việc xác định chính xác lãi suất chiết khấu cũng không dễ dàng hơn.
* Nguyên tắc dự tính lãi suất chiết khấu:
- Mối quan hệ giữa rủi ro và lợi tức kỳ vọng:
Lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Quy tắc đó không còn xa lạ đối với bất kỳ nhà kinh tế nào. Để thuận lợi trong việc xác định lãi suất chiết khấu của dự án, người ta so sánh mức độ rủi ro của dự án này với các dự án mà công ty thực hiện trước đây. Tùy vào kết quả so sánh mà sẽ lựa chọn lãi suất chiết khấu của dự án hiện tại bằng cách giữ nguyên hay điều chỉnh lãi suất chiết khấu của các dự án trước.
- Mối quan hệ giữa cơ cấu vốn của dự án và cơ cấu vốn của doanh nghiệp:
Đối với một doanh nghiệp, cơ cấu vốn khác nhau thì chi phí vốn trung bình(WACC) khác nhau do đó lãi suất chiết khấu cũng khác nhau. Trong quá trình thẩm định tài chính dự án người ta giả định rằng mức độ rủi ro và cơ cấu vốn đầu tư của dự án hiện tại tương tự như đối với doanh nghiệp. Khi đó chúng ta có thể xem WACC của doanh nghiệp là lãi suất chiết khấu của dự án. Dự án đang xem xét phải đặt trong mối tương quan với các TSTC và dự án khác có cùng mức độ rủi ro.
- Nguyên tắc nhất quán:
Theo nguyên tắc này dòng tiền thuộc về chủ thể nào thì việc xác định lãi suất chiết khấu không thể biệt lập với chủ thể đó.
Qua phân tích cho thấy lãi suất chiết khấu phụ thuộc chủ yếu vào ba yếu tố là khả năng sinh lời của dự án, mức độ rủi ro của dự án, cơ cấu vốn tài trợ cho dự án. Khi xác định lãi suất chiết khấu cán bộ thẩm định phải phân tích rõ tầm ảnh hưởng của các yếu tố này để xác định lãi suất chiết khấu cho phù hợp.
Một cách tổng quát:
Lãi suất chiết khấu = Lợi tức phi rủi ro + Phần bủ rủi ro
- Khi vốn đầu tư là nợ thì lãi suất chiết khấu của dự án thường được coi là lãi suất lãi vay.
- Khi vốn đầu tư là VCSH thì lãi suất chiết khấu của dự án chính là chi phí cơ hội của việc sử dụng đồng vốn đó hay tỷ lệ sinh lời tốt nhất bị bỏ qua.
- Khi sử dụng kết hợp cả VCSH và nợ thì lãi suất chiết khấu chính là chi phí vốn trung bình(WACC)
1.3.2.4 Xét các chỉ tiêu thẩm định tài chính dự án
Nội dung tiếp theo của công việc thẩm định tài chính dự án chính là việc tính toán các chỉ tiêu tài chính dự án và dựa vào đó để đưa ra kết luận cuối cùng có nên thực hiện dự án hay không. Có rất nhiều các chỉ tiêu. Dưới đây chúng ta sẽ nghiên cứu một vài chỉ tiêu quan trọng.
* Giá trị hiện tại ròng( NPV)
NPV(net present vaule)- giá trị hiện tại ròng- là chênh lệch giữa tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền thu được trong từng năm thực hiện dự án với vốn đầu tư bỏ ra được hiện tại hóa ở mốc 0. NPV có thể mang giá trị dương, âm hoặc bằng không. NPV mang giá trị dương có nghĩa là việc thực hiên dự án sẽ tạo ra giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư. Nếu NPV âm, dự án không đủ bù đắp vốn đầu tư, đem lại thua lỗ cho chủ đầu tư.
+ Công thức xác định:
Trong đó:
- : Giá trị hiện tại ròng của dự án.
- : Lãi suất chiết khấu, giả định là không đổi trong các năm.
- ,, : Dòng tiền ròng xuất hiện tại các thời điểm khác nhau của dự án.
- : Vốn đầu tư bỏ ra ban đầu.
- : Số._. năm thực hiện dự án.
+ Tiêu chuẩn lựa chọn dự án là NPV dương.
NPV phản ánh giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư hay nói một cách khác nó mang ý nghĩa về tài chính. Đối với những dự án mang tính xã hội thì NPV lại chưa phản ánh hết được lợi ích tăng thêm từ việc thực hiện dự án. Lúc đó phải lượng hóa các tác động của xã hội lên dòng tiền của dự án. Đây không phải là một công việc dễ dàng. Hơn thế nữa theo công thức tính NPV thì ta chỉ có thể so sánh được những dự án có thời hạn giống nhau, vốn đầu tư tương tự nhau. Những dự án có thời hạn khác nhau và vốn đầu tư khác nhau rõ ràng NPV của chúng là khác nhau và việc dùng chỉ tiêu NPV để so sánh là không chính xác.
* Tỷ suất hoàn vốn nội bộ(IRR)
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ là giá trị của lãi suất chiết khấu(tính theo công thức đã đưa ra ở phần NPV), tại giá trị lãi suất chiết khấu đó NPV bằng không. IRR phản ánh tỷ suất hoàn vốn của dự án, dựa trên giả định các dòng tiền thu được trong các năm được tái đầu tư với lãi suất bằng lãi suất chiết khấu.
+ Công thức xác định:
+ Tiêu chuẩn lựa chọn dự án là IRR lớn hơn lãi suất chiết khấu.
* Chỉ số doanh lợi(PI)
Chỉ số doanh lợi( profit index) là chỉ số phản ánh khả năng sinh lợi của dự án, tính bằng tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền trong tương lai chia cho vốn đầu tư bỏ ra ban đầu. PI cho biết một đồng vốn đầu tư bỏ ra sẽ tạo ra bao nhiêu đồng thu nhập. Thu nhập này chưa tính đến chi phí vốn đầu tư đã bỏ ra.
+ Công thức xác định:
+ Tiêu chuẩn lựa chọn dự án là PI càng cao càng dễ chấp nhận, nhưng tối thiểu phải bằng lãi suất chiết khấu.
Tiêu chuẩn này khắc phục được những nhược điểm của NPV. Nó có thể sử dụng trong việc so sánh các dự án có thời hạn khác nhau và vốn đầu tư khác nhau. Song vì là một chỉ tiêu tương đối nên nó không phản ánh được quy mô gia tăng giá trị cho chủ đầu tư.
* Thời gian hoàn vốn(PP)
Thời gian hoàn vốn là thời gian để chủ đầu tư thu hồi được số vốn đã đầu tư vào dự án. PP phản ánh thời gian thu hồi vốn đầu tư vào dự án, nó cho biết sau bao lâu thì dự án thu hồi đủ số vốn đầu tư.
Vì mỗi dự án có mức rủi ro khác nhau, thời gian thu hồi vốn là khác nhau do đó khó có thể đưa ra một tiêu chuẩn chun nhất cho việc lựa chọn dự án theo PP. Nhưng đối với chủ đầu tư dự án có thời hạn hoàn vốn càng ngắn càng tốt.
PP cho biết khả năng tạo thu nhập của dự án từ khi thực hiện dự án cho đến khi thu hồi đủ vốn song lại không xem xét đến khả năng tạo ra thu nhập sau khi dự án đã thu hồi vốn đầu tư.
* Lợi nhuận kế toán bình quân(AAP)
Lợi nhuận kế toán bình quân là lợi nhuận kế toán bình quân trong các năm của dự án. AAP phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận về mặt kế toán trong các năm thực hiện của dự án. AAP cho biết dự án tạo ra bao nhiêu lợi nhuận bình quân trong các năm của dự án.
+ Cách xác định:
AAP =∑( Doanh thu – Chi phí - Thuế thu nhập doanh nghiệp )\n
Trong đó:
n: số năm thực hiện dự án.
+ Tiêu chuẩn lựa chọn: AAP càng cao thì dự án càng mang lại nhiều thu nhập.
Hạn chế của AAP đó là chỉ xem xét lợi nhuận thuần túy mà không tính đến giá trị thời gian của tiền. Đây là chỉ tiêu ít khi được sử dụng và chỉ được dùng như một chỉ tiêu bổ trợ.
* Điểm hòa vốn( BP)
Điểm hòa vốn là mức sản lượng mà tại đó nhà đầu tư thu hồi đủ vốn đầu tư. BP cho biết phải sản xuất và tiêu thụ bao nhiêu đơn vị sản phẩm thì thu hồi đủ vốn.
+ Cách xác định:
Trong đó:
: Sản lượng hoàn vốn
: Tổng chi phí cố định
: Chi phí biến đổi tính trên một đơn vị sản phẩm
: Giá bán
+ Tiêu chuẩn lựa chọn dự án là mức sản lượng tiêu thụ dự tính lớn hơn sản lượng hòa vốn của dự án.
1.3.2.5 Đánh giá rủi ro của dự án
Rủi ro được hiểu một cách chung nhất là khả năng mà một sự kiện không có lợi nào đó xuất hiện.
Rủi ro của dự án là khả năng một sự kiện không có lợi nào đó xuất hiện làm cho lợi tức thực tế nhỏ hơn lợi tức dự kiến.
Lợi tức của dự án là chỉ tiêu cuối cùng để xét tính hiệu quả của một dự án. Lợi tức của dự án chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Giữa các yếu tố đó cũng có sự tác động, bù trừ cho nhau. Do đó mà để đánh giá được chính xác rủi ro của dự án là việc không dễ dàng.
Phân loại rủi ro:
- Rủi ro loại 1: Đây là loại rủi ro riêng của chính bản thân dự án hay rủi ro của một tài sản khi nó là tài sản duy nhất của doanh nghiệp. Rủi ro này được đo bằng sự biến thiên lợi tức dự kiến của dự án.
- Rủi ro loại 2: Rủi ro này thể hiện ở sự ảnh hưởng của dự án đối với rủi ro của doanh nghiệp. Rủi ro này được đo bằng sự tác động của dự án đối với sự biến thiên thu nhập của doanh nghiệp.
- Rủi ro loại 3: Đây là phần rủi ro của dự án mà không thể loại bỏ được bằng việc đa dạng hóa đầu tư. Rủi ro này được đó lường thông qua hệ số β của dự án. β càng lớn thì rủi ro loại 3 càng lớn.
Các rủi ro của dự án vừa có tính độc lập tương đối vừa có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Điều đó có thể thấy ở một dự án có mức rủi ro loại 2 cao thì chưa chắc rủi ro loại 1 và loại 3 sẽ cao.
Nghiên cứu rủi ro người ta không mong muốn có thể triệt tiêu được chúng bởi thực tế cho thấy công việc đó là không thể. Tuy nhiên đo lường và phòng ngừa rủi ro của dự án là hoàn toàn có thể. Công việc của các nhà thẩm định là làm sao phát hiện được những rủi ro có thể xảy ra và tối thiểu hóa tác động của chúng đến kết quả thẩm định tài chính dự án. Đối với những loại rủi ro khác nhau có những phương pháp đánh giá khác nhau.
Đối với rủi ro loại 1, người ta thường dùng phương pháp phân tích độ nhạy để đánh giá. Đo lường rủi ro loại 1 tức là đo lường sự biến động của dòng tiền của dự án. Về mặt lý thuyết cũng như trên thực tế cho thấy có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng và tác động đến dòng tiền của dự án. Các yếu tố tác động đến dòng tiền được thiết lập trên cơ sở của sự phân bố xác suất và tính kỳ vọng toán chứ không phải biết chúng một cách chắc chắn. Thực hiện phương pháp tính độ nhạy là chỉ ra chính xác các chỉ tiêu tài chính thay đổi như thế nào khi các biến đầu vào thay đổi. Ví dụ như khi biến số lượng bán hàng thay đổi sẽ dẫn đến dòng tiền thay đổi và khi đó NPV, IRR của dự án cũng thay đổi.
Các biến đầu vào của dự án có thể là số lượng bán hàng, các loại chi phí như chi phí cố định, chi phí biến đổi và nhiều biến khác. Trong số các biến đầu vào này có thể chỉ có một biến thay đổi hoặc cũng có thể nhiều biến thay đổi cùng một lúc. Trường hợp một biến thay đổi, người ta chọn biến có khả năng thay đổi và sẽ có tác động đến dòng tiền cho nó thay đổi còn các biến khác được giữ nguyên để xem xét tác động của nó đến NPV và IRR. Tính toán được giới hạn của sự thay đổi cũng là yếu tố quan trọng để đánh giá tác động của chúng đến NPV, IRR. Trong thực tế trường hợp một biến thay đổi là ít khi xảy ra, thường các biến sẽ thay đổi đồng thời. Do vậy, các nhà phân tích cũng phải phân tích và xem xét sự thay đổi của nhiều yếu tố tác động đồng thời đến NPV và IRR trên cơ sở đó đánh giá sự an toàn, phòng ngừa rủi ro và quản lý tốt dự án.
Rủi ro loại 2 chính là ảnh hưởng của dự án đối với rủi ro của doanh nghiệp. Đối với loại rủi ro này, nhà phân tích sẽ xác định lợi tức của các cổ đông khi thực hiện dự án và so sánh với lợi tức vốn của doanh nghiệp. Nếu lợi tức khi thực hiện dự án lớn hơn lợi tức vốn thì doanh nghiệp có thể đầu tư vào dự án và ngược lại.
Đối với rủi ro loại 3 (còn gọi là rủi ro thị trường), người ta phân tích rủi ro trên góc độ của một tổng thể đầu tư. Người ta đã thiết lập ra phương trình:
Trong đó:
: Là tỷ suất sinh lời của nhà đầu tư.
: Là tỷ suất sinh lời phi rủi ro và được tính bằng lãi suất trái phiếu dài hạn của chính phủ.
: Là tỷ suất sinh lời của danh mục thị trường.
: Là rủi ro của khoản đầu tư.
Với các giá trị ,có thể dự tính được và bằng các ước lượng giá trị của doanh nghiệp, tỷ suất sinh lời của doanh nghiệp khi thực hiện dự án ()hoàn toàn có thể xác định. Theo đó, doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư vào những dự án có mức độ rủi ro trung bình nếu doanh nghiệp dự tính kiếm được một tỷ suất sinh lời lớn hơn hoặc bằng . Những dự án có mức độ rủi ro trung bình là những dự án có mức độ rủi ro tương tự như tài sản hiện có của doanh nghiệp. Khi xác định NPV của một dự án có mức rủi ro trung bình, doanh nghiệp có thể lấy giá trị làm lãi suất chiết khấu.
1.4 Chất lượng thẩm định tài chính dự án
Chất lượng là một khái niệm tương đối trừu tượng, mỗi người, mỗi tổ chức có thể có những các hiểu khác nhau về chất lượng. Theo hệ thống quản lý chất lượng ISO: chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng các yêu cầu. Theo khái niệm đó về chất lượng ta có thể rút ra :
Thứ nhất: Chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu.
Thứ hai : Do chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu mà nhu cầu thì luôn luôn biến đổi nên chất lượng cũng luôn biến đổi theo thời gian, không gian.
Thứ ba : Khi đánh giá chất lượng của một đối tượng phải xét và chỉ xét điều kiện sử dụng và mọi đặc tính của đối tượng có liên quan đến sự thỏa mãn một nhu cầu cụ thể.
Thứ tư : Nhu cầu có thể được công bố rõ ràng dưới dạng các quy định, tiêu chuẩn nhưng cũng có nhu cầu không thể miêu tả rõ ràng, người sử dụng chỉ có thể cảm nhận chúng qua quá trình sử dụng.
Thứ năm: Chất lượng không phải chỉ là thuộc tính của sản phẩm, hàng hóa mà nó còn áp dụng cho mọi thực thể, thực thể đó có thể là sản phẩm, hành động, quá trình, doanh nghiệp hoặc con người.
Theo đó chất lượng thẩm định tài chính dự án là tập hợp các tiêu chí bao gồm các nội dung thẩm định tài chính, quy trình thẩm định, kỹ thuật thẩm định đáp ứng được yêu cầu của mục tiêu đề ra. Mặc dù khó xác định được giá trị, chất lượng của sản phẩm dịch vụ và khó đưa ra những tiêu chuẩn định lượng một cách chính xác nhưng vẫn cần phải thiết lập những tiêu chí để đánh giá chất lượng cho nó. Đối với thẩm định tài chính dự án, một dự án có chất lượng thẩm định tốt có nghĩa là dự án đó khi được thực hiện trong tương lai sẽ diễn biến theo đúng những gì mà nhà phân tích đã nhận định trong phần thẩm định tài chính cả về vốn đầu tư, doanh thu, chi phí, lợi nhuận, số năm hoàn vốn thực tế … Một dự án sau khi kết thúc được nhìn nhận và đánh giá lại nếu lợi nhuận đem lại hoặc các mục tiêu khác mà dự án không đạt được như trong phân tích lúc ban đầu cũng chưa hẳn đã có sự sai lệch trong phân tích tài chính. Nguyên nhân có thể do việc quản lý vận hành dự án. Tuy vậy, phương pháp thẩm định tài chính dự án có hiệu quả và chính xác là điều kiện tiền đề để vận hành một dự án tốt.
1.4.1 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án
1.4.1.1 Sự tuân thủ quy trình thẩm định
Quy trình thẩm định bao gồm: Nội dung thẩm định, phương pháp thẩm định, trình tự thẩm định. Đó là quá trình mà khi làm thẩm định dự án cán bộ thẩm định phải tuân theo.
1.4.1.2 Thời gian và chi phí thẩm định
Thời gian thẩm định tài chính dự án là khoảng thời gian cán bộ thẩm định bắt đầu thu thập thông tin để thẩm định dự án đến khi thẩm định xong. Tùy từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể có thể đặt ra một chuẩn mực thời gian cho thẩm định tài chính dự án. Ví dụ có thể đặt thời gian cho thẩm định tài chính dự án theo các dự án nhóm A, nhóm B và nhóm C hoặc đặt chỉ tiêu thời gian cho từng khâu của dự án.
Nếu thời gian thẩm định ngắn, các cán bộ tôn trọng quá trình thẩm định, lượng thông tin thu thập đầy đủ, cập nhật, quá trình xử lý thông tin tốt thì có thể coi chất lượng thẩm định là cao. Ngược lại để đảm bảo các tiêu chuẩn của thông tin và quá trình thẩm định mà thời gian thẩm định kéo dài làm ảnh hưởng đến quá trình triển khai dự án từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận đem lại của dự án nhất là các dự án mang tính thời sự cao.
Chi phí thẩm định dự án cũng rất quan trọng. Đó là những khoản chi phí bỏ ra cho việc tiến hành thẩm định dự án như chi phí thuê các bộ thẩm định, chi phí thu thập thông tin, tiền mua máy móc thiết bị, công nghệ xử lý thông tin. Thẩm định tài chính cũng giống hoạt động tài chính khác là một hoạt động cung cấp dịch vụ, lượng chi phí bỏ ra ảnh hưởng lớn đến doanh thu và giá cả của dịch vụ, phản ánh chất lượng của dịch vụ đó. Chất lượng thẩm định tài chính dự án sẽ cao nếu chi phí bỏ ra là nhỏ nhất mà vẫn đảm bảo các yêu cầu khác của thẩm định.
Thời gian và chi phí là hai yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án. Trong thời đại công nghệ thông tin như hiện nay bất kỳ một sự chậm chễ nào cũng có thể đem lại hậu quả khôn lường nhất là đối với các hoạt động đầu tư lớn như dự án. Hơn thế nữa, mọi nguồn lực là có hạn. Người ta không thể lãng phí nó. Tối thiểu hóa chi phí thẩm định tài chính dự án đến mức có thể là mục tiêu của doanh nghiệp và là yếu tố để quyết định chất lượng thẩm định tài chính dự án.
1.4.1.3 Kết quả thẩm định
Kết quả thẩm định dự án là mục tiêu cuối cùng của việc thẩm định dự án. Sau khi thẩm định, cán bộ thẩm định phải đưa ra được thành quả mà mình đã làm việc đó là kết quả thẩm định. Kết quả thẩm định được biểu hiện ở các chỉ tiêu như giá trị hiện tại ròng của dự án, khả năng sinh lời của dự án, độ rủi ro của dự án. Đây là những yếu tố quan trọng để nhà đầu tư quyết định có đầu tư vào dự án hay không. Kết quả thẩm định sai sẽ dẫn đến quyết định đầu tư sai, điều đó sẽ để lại hậu quả nặng nề cho doanh nghiệp. Vì dự án thường kéo dài trong thời gian tương đối dài và đòi hỏi lượng đầu tư vốn lớn do đó mà kết quả của thẩm định không được phép sai hay nhầm lẫn. Kết quả thẩm định là tiêu chuẩn cuối cùng đánh giá chất lượng thẩm định dự án.
1.4.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án
Nói đến dự án người ta phải nghĩ đến dự án đó của ai, của doanh nghiệp, nhà đầu tư nào. Hay nói một cách khác dự án không tồn tại biệt lập mà nó nằm trong môi trường cụ thể như môi trường của doanh nghiệp, nền kinh tế quốc dân hoặc có thể là môi trường quốc tế. Trong các môi trường đó chứa đựng các yếu tố ảnh hưởng đến dự án. Tùy vào từng loại dự án mà môi trường tồn tại của chúng là khác nhau và do đó các yếu tố ảnh hưởng đến dự án cũng khác nhau. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến dự án để ngăn chặn, hạn chế những tác động của chúng đến kết quả của dự án. Vì kết quả của dự án có ý nghĩa rất quan trọng nên nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến dự án là điều tất yếu. Có thể chia các yếu tố ảnh hưởng đến dự án thanh hai nhóm như sau:
1.4.2.1 Các yếu tố chủ quan
Đây là nhóm các yếu tố thuộc về doanh nghiệp tiến hành thẩm đinh tài chính dự án. Chính các yếu tố này làm chất lượng của việc thẩm định tài chính dự án không cao. Các yếu tố chủ quan bao gồm:
Thứ nhất: Trình độ của cán bộ thẩm định
Cán bộ thẩm định là người trực tiếp tiến hành thẩm định tài chính dự án. Trình độ của cán bộ thẩm định tài chính dự án ảnh hưởng trực tiếp đến các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án. Một trong những yếu tố đầu tiên phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án đó là sự tuân thủ quy trình thẩm định. Từ việc dự toán vốn đầu tư, xem xét các nguồn tài trợ cho đến việc lập báo cáo tài chính dự kiến cho từng năm hoặc từng giai đoạn của dự án các cán bộ phải làm theo đúng trình tự đã định mà không được tự ý thay đổi. Phương pháp thẩm định nào đã được lựa chọn thì các cán bộ phải làm theo đúng phương pháp đó và phải tuân theo tiêu chuẩn của nó. Các cán bộ thẩm định cần phải hiểu biết và trình độ cao đặc biệt là trình độ chuyên môn. Có hiểu biết về lĩnh vực mình thẩm định thì họ mới lựa chọn được những thông tin chính xác nhất và cần thiết nhất cho việc thẩm định. Từ đó tiết kiệm thời gian chi phí cho việc thẩm định.
- Thứ hai: Chất lượng thông tin
Thẩm định tài chính dự án là việc phân tích, rà soát, kiểm tra mọi yếu tố tài chính thuộc dự án. Thẩm định tài chính dự án được thực hiện dựa trên các thông tin trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến dự án. Chất lượng, tính cập nhật, kịp thời cũng như sự đa dạng của thông tin tác động rất lớn đến chất lượng thẩm định tài chính dự án. Thông tin có cập nhật thì kết luận của việc thẩm định mới chính xác và theo kịp xu hướng phát triển của thời đại. Quá trình thu thập thông tin cũng ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án. Chất lượng thông tin được đảm bảo khi người thẩm định tìm kiếm số liệu từ những nguồn cung cấp có chất lượng.Việc xử lý dữ liệu thể hiện trình độ của cán bộ thẩm định và khả năng biến các thông tin thu thập được phục vụ cho mục đích của mình. Nếu thao tác tốt và sử dụng các phần mềm lập trình xử lý thông tin tốt, cán bộ thẩm định sẽ tránh được những sai sót đáng tiếc, đưa ra được kết quả thẩm định chính xác.
- Thứ ba: Quy trình thẩm định tài chính dự án
Quy trình thẩm định tài chính dự án đó là các bước, các công đoạn mà cán bộ thẩm định tài chính dự án phải tuân theo khi tiến hành thẩm định thẩm định dự án. Xét một dự án, quy trình thẩm định thường trải qua các bước như dự toán vốn đầu tư, xác định dòng tiền của dự án trong đó phải xác định rõ dòng tiền ra của dự án (chi phí của dự án bao gồm chi phí nguyên vật liệu, chi phí trả lãi ngân hàng, chi phí nhân công…) dòng tiền vào của dự án( doanh thu…), xác định lãi suất chiết khấu dùng cho dự án, tính toán các chỉ tiêu thẩm định tài chính dự án và đưa ra kết luận.
Đối với những dự án khác nhau thường quy trình thẩm định khác nhau. Tuy nhiên dù là dự án lớn hay nhỏ thì cán bộ thẩm định cũng nên tuân thủ nghiêm ngặt những bước của quy trình, không nên cắt bớt hoặc tự ý thay đổi quy trình thẩm định. Điều này có thể ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án và ảnh hưởng đến kết quả của việc thẩm định.
PHẦN II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI CÔNG TY XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG 874
2.1 TỔNG QUAN VỂ CÔNG TY CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG 874
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Công ty XD.CTGT 874, tiền thân là công trình 674 được thành lập ngày 16/08/1974. Ngày 31/11/1982 đổi tên thành xí nghiệp 674. Để phù hợp với tình hình phát triển của công ty, ngày 16/06/1983 đổi tên thành công ty xây dựng công trình giao thông 874, theo quyết định 1185/QĐ-BTC của Bộ Giao Thông Vận Tải là thành viên chính thức của Tổng Công Ty Xây Dựng Công Trình Giao Thông 8.
Tên gọi: Công Ty Xây Dựng Công Trình Giao Thông 874.
Trụ sở chính: Km9- Đường Nguyễn Trãi- Thanh Xuân- Hà Nội.
Văn phòng đại diện: 215- Phường Lê Lợi- Thành Phố Vinh- Tỉnh Nghệ An (Hiện nay văn phòng đại diện Vinh chính là xưởng sửa chữa của công ty).
Tổng số cán bộ, công nhân viên: 470 người.
Trong đó cán bộ, công nhân viên trong công ty: 435 người.
Hợp đồng thuê ngoài: 35 người.
Công ty được thành lập vào lúc khi nền kinh tế còn đang trong giai đoạn khó khăn vì thế càng khó khăn hơn đối với một doanh nghiệp còn non trẻ. Nhưng với tinh thần đoàn kết nỗ lực phấn đấu của toàn bộ cán bộ, công nhân viên, công ty đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Với đội ngũ cán bộ công nhân viên dày dạn kinh nghiệm, công ty có đầy đủ năng lực để tham gia đấu thầu, nhận thầu từ các dự án xây dựng công trình giao thông với chất lượng cao đảm bảo tiến độ thi công.
Phạm vi hoạt động chủ yếu của công ty là các công trình giao thông trên địa bàn Việt Nam và nước Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Lào.
Chức năng, nhiệm vụ của công ty là xây dựng nghiều công trình giao thông trọng điểm ở trong nước và nước Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Lào như: Đường 13 Bắc Lào, Sân bay Lạc Xao, Quốc lộ 6, 7, 8 (Lào), Đường Bắc- Thăng Long- Nội Bài, Đường Nam Thăng Long, Mai Dịch, Dự án nâng cấp quốc lộ 5, Liên doanh với Đài Loan mặt bằng nhà máy xí nghiệp Xi Măng Nghi Sơn- Thanh Hoá, Liên doanh với Fujita ( Nhật Bản), Đường cao tốc Láng- Hoà Lạc. Những năm gần đây công ty tham gia xây dựng công trình Quốc Lộ 1A đoạn Hà Nội- Cầu Giẽ, Đường 18B (Lào), Đường tránh thuế, Đường Hồ Chí Minh...
Cùng với khí thế phát triển của công cuộc đổi mới trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, theo tinh thần nghị quyết của Đại Hội Đảng đồng thời cũng là giai đoạn Tổng Công Ty phấn đấu trở thành tập đoàn kinh tế vững mạnh, hoà chung vào tinh thần đó công ty Xây Dựng Công Trình Giao Thông 874 với tư cách là một thành viên của Tổng Công Ty Xây Dựng Công Trình Giao Thông 8 đã nỗ lực cố gắng vươn lên đạt được những chỉ tiêu đề ra. Với sự quyết tâm lớn của toàn thể cán bộ, công nhân viên, công ty đã được Đảng Nhà nước Việt Nam và nước Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Lào tặng thưởng nhiều huân, huy chương cao quý.
Năm 1997 công ty vinh dự được Nhà nước phong tặng tập thể anh hùng lao động.
Trong những năm qua công ty Xây Dựng Công Trình Giao Thông 874 đã trở nên quen thuộc trên thị trường xây dựng trong và ngoài nước, với chất lượng công trình cao, luôn đảm bảo tiến độ thi công. Hình ảnh công ty luôn đựoc đánh giá cao và bạn hàng tin tưởng. Do đó doanh thu và lợi nhuận thu được ngày càng cao, nguồn vốn tự có ngày càng lớn, số lượng các công trình giao thông do công ty đảm nhận ngày càng tăng lên cả về mặt số lượng cũng như tầm quan trọng của các công trình, từ đó tạo điều kiện cho công ty có cơ hội đầu tư trang bị thêm TSCĐ phục vụ tốt hơn cho hoạt động tham gia đấu thầu các công trình và xây dựng các công trình. Điều này đựoc thể hiện qua các chỉ tiêu trích trong bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh:
Bảng 1: Kết quả hoạt động của công ty trong 5 năm gần nhất
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006(dk)
Doanh thu
63443
77920
84761.3
90657
88527
TSLĐ
68464
100087
101775
TSCĐ
37694.7
60000
30560
LNST
635.6
53.327
934.4
1247
VCSH
7027
7629
7558
( Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác SXKD các năm)
2.1.2 Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, tổ chức bộ máy quản lý của công ty XD.CTGT 874
2.1.2.1 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty:
Công ty XD.CTGT 874 hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Uỷ công ty, chịu sự quản lý trực tiếp của cơ quan cấp trên là Tổng Công Ty Xây Dựng Công Trình Giao Thông 8 và là cơ quan quản lý nhà nước về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện kinh doanh theo đúng pháp luật của Nhà nước và quốc tế. Việc kiện toàn bộ máy quản lý của mình sao cho ngày càng phù hợp với tình hình liên doanh liên kết trong đấu thầu các công trình và mở rộng thêm lĩnh vực hoạt động trong điều kiện cho phép luôn là yêu cầu đặt ra với công ty trong điều kiện hiện nay. Hệ thống các bộ phận, phòng ban, đơn vị, trực thuộc của công ty được tổ chức theo quy mô điển hình: Trực tuyến chỉ huy. Theo hình thức này mọi quyết định của cấp trên đều được thông báo tới từng bộ phận hay cá nhân có trách nhiệm thực hiện. Vì công ty thực hiện quản lý theo chế độ một thủ trưởng nên giám đốc là người có quyền quyết định cao nhất trong mọi vấn đề của công ty. Các bộ phận, các phòng ban và các bộ phận sản xuất đều phải báo cáo kết quả thực hiện công việc trực tiếp với nơi và người đưa ra quyết định chỉ đạo, quan hệ giữa các phòng ban và các đội sản xuất là quan hệ hợp tác.
2.1.2.2 Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban, bộ phận Tổng công ty
*Ban lãnh đạo công ty:
Gồm có giám đốc và 4 phó giám đốc. Trong đó giám đốc là người có quyền quyết định cao nhất đồng thời là người đại diện chịu trách nhiệm pháp lý trước Nhà nước về mọi hoạt động của công ty.
*Các phòng ban của công ty:
Bao gồm có phòng Kế Hoạch-Kĩ thuật, phòng Tài chính- Kế toán, phòng tổ chức cán bộ, phòng thiết bị vật tư, phòng hành chính quản trị, trạm đại diện Vinh, Xưởng sản xuất số 1.
-Xưởng sản xuất số 1: Địa chỉ là 33- Dịch Vọng, Xưởng này là đơn vị kinh doanh của công ty hạch toán phụ thuộc công ty, có 3 đội sản xuất:
.Trạm đại diện Vinh: Hiện nay trạm đại diện Vinh của công ty chính là bộ phận sửa chữa, bộ phận này tham gia sửa chữa các TSCĐ của doanh nghiệp khi TSCĐ của doanh nghiệp bị hư hỏng nặng cần thiết tiến hành sửa chữa lớn hoặc tiến hành sửa chữa thường xuyên TSCĐ của công ty.
.Phòng tổ chức cán bộ: Tham mưu cho lãnh đạo về cơ cấu tổ chức sắp xếp định biên. sắp xếp bố trí lực lượng đảm bảo cho yêu cầu sản xuất kinh doanh. Tham mưu cho lãnh đạo về việc tuyển dụng, hợp đồng lao động, đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ người lao động. Tham mưu cho lãnh đạo về công tác đào tạo lại và cho đào tạo mới, bổ nhiệm cán bộ thừa hành.
.Phòng Kế Hoạch- Kĩ Thuật: Tham mưu cho lãnh đạo trên các lĩnh vực kế hoạch sản xuất kinh doanh, định hướng phát triển trước mắt và lâu dài; Công tác đấu thầu, chọn thầu các công trình xây dựng; Tham mưu về công tác khoa học kĩ thuật, công nghệ thi công, chất lượng, kĩ thuật, mỹ thuật, công trình, lập dự toán; Tổng dự toán thanh quyết toán công trình; Lập hồ sơ, chọn thầu.
.Phòng Tài Chính- Kế Toán: Tham mưu cho lãnh đạo công tác thu chi tài chính; đảm bảo và phát triển vốn, hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước và cấp trên. Xây dựng cơ chế tài chính, huy động vốn; Cung cấp số liệu, tài liệu cho việc điều hành sản xuất kinh doanh; Kiểm tra hoạt động tài chính các đơn vị sản xuất.
.Phòng Vật tư thiết bị: Tham mưu cho lãnh đạo; khai thác, bảo quản, sửa chữa thay thế đầu tư xe, máy thiết bị, cung ứng vật tư. Tham mưu cho lãnh đạo công ty về đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị thi công.
.Phòng Hành chính- Quản trị: Xây dựng nội quy, quy định họat động của cơ quan văn phòng; Quản lý hồ sơ lưu trữ, tiếp nhận chuyển giao công văn đi đến, quản lý con dấu và đóng dấu các văn bản. Đón tiếp khách của công ty hàng ngày...
*Các đội sản xuất:
Hiện nay công ty có 9 đội sản xuất và nột xưởng sửa chữa. Các đội sản xuất trực tiếp thi công các công trình, xưởng sửa chữa có nhiệm vụ sửa chữa các loại xe, máy thi công.
2.1.2.3 Quy trình công nghệ
Công ty XD.CTGT 874 hoạt động trong việc xây dựng cơ bản. Do vậy điều kiện sản xuất kinh doanh cũng như sản phẩm của công ty có sự khác biệt lớn so với các ngành sản xuất kinh doanh khác. Về quy trình công nghệ của công ty có thể khái quát bằng sơ đồ sau:
QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ CỦA QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT
Giải phóng bằng, phá dỡ công trình cũ san nền lấp nền
Thi công nền móng
Thi công phần thô
- làm cống
- làm móng
- làm mặt
Thi công bề mặt và hoàn thiện công trình
Quy trình sản xuất của công ty là quy trình hỗn hợp vừa thi công bằng lao động, vừa thi công bằng máy móc. Một số công việc như đào, xúc đất ...Công ty có thể sử dụng lao động thuê ngoài ngay taị các địa phương. Giai đoạn thi công bằng máy và làm các phần thô sơ thường do máy đảm nhận.
Cuối cùng là giai đoạn thi công bề mặt và hoàn thiện công trình vừa sử dụng lao động thủ công, vừa sử dụng lao động bằng máy. Máy móc do phòng Vật tư thiết bị quản lý được đưa tới công trình phục vụ thi công theo hợp đồng được kí kết giữa phòng Vật tư và đội xây dựng.
Hình thức kinh doanh được áp dụng tại công ty là khoán gọn công trình cho từng đội xây dựng. Các đội xây dựng phải tự đảm bảo về mặt nhân lực, vật lực cho thi công công trình. Khi công trình hoàn thành bàn giao được công ty thanh toán theo giá khoán ghi trong hợp đồng khoán đã kí kết.
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH CỦA CÔNG TY XD.CTGT 874
Giám đốc
Phó giám đốc
Phó giám đốc
Phó giám đốc
Phó giám đốc
Phòng KH- KT
Phòng
TC- KT
Phòng
TC- CB
Phòng
TB- VT
Phòng
HC- QT
Phân xưởng 1
Đội XD1
Đội XD2
Đội XD3
Đội XD
Số 3
Đội XD
Số 4
Đội XD
Số 2
Đội XD
Số 5
Đội XD Số 6
Đội XD Số 7
Đội XD Số 8
Đội XD Số 9
Xưởng
sửa chữa
Đội
XD số 1
2.2 CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI CÔNG TY XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG 874
2.2.1 Tổng hợp các dự án của công ty trong những năm gần đây
Công ty công trình giao thông 874 là một công ty lớn hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. Từ khi ra đời cho đến nay công ty đã thi công rất nhiều công trình, thực hiện nhiều dự án khác nhau đem lại công việc cho người lao động và tăng lợi nhuận của công ty. Xét trong 5 năm gần đây công ty đã thực hiện rất nhiều dự án trong đó có một số dự án lớn với mức vốn đầu tư như sau :
Dự án quốc lộ 45- Thanh Hóa : 6.850,143 triệu đồng
Dự án quốc lộ 32 A- Phú Thọ : 12.850 triệu đồng
Dự án quốc lộ 18B- Lào- giai đoạn 1: 29.436 triệu đồng
Dự án quốc lộ 18B- Lào- giai đoạn 2: 44.329 triệu đồng
Dự án quốc lộ 38- Yên lệnh : 36.000 triệu đồng
Dự án khu công nghiệp Dung Quất- Quảng Ngãi: 14.390 triệu đồng
Dự án quốc lộ 61- Cần Thơ : 34.000 triệu đồng
Dự án quốc lộ 63- Kiên Giang: 13.840 triệu đồng
Dự án quốc lộ 1B- Lạng Sơn: 12.350 triệu đồng
Dự án quốc lộ 3- Cao Bằng- G2: 24.005 triệu đồng
Dự án quốc lộ 3- Cao Bằng-G11: 12.063 triệu đồng
Đặc điểm của các dự án của công ty đó là địa điểm thực hiện tại những vị trí khác nhau. Kéo dài suốt chiều dài đất nước, thậm chí còn có một số dự án thuộc nước bạn Lào. Mức vốn đầu tư cho dự án rất lớn lên tới vài chục tỷ. Trong giai đoạn từ năm 2002 đến 2005, dự án có mức vốn nhỏ nhất cũng lên tới gần 7 tỷ, và dự án có mức vốn lớn nhất là hơn 44 tỷ.
Liên tục thực hiện các dự án lớn, công ty đã thu được nhiều thành quả lớn trong thời gian qua. Lợi nhuận của công ty liên tục tăng, giá trị nộp ngân sách Nhà nước lớn, tăng thu cho ngân sách, đóng góp một phần vào công cuộc phát triển kinh tế của cả nước. Với sự nỗ lực không ngừng, ban lãnh đạo công ty đã liên tục tìm kiếm dự án, mở rộng hoạt động, tăng thu nhập, tạo công ăn việc làm cho gần 500 công nhân viên trong công ty và đạt được nhiều thành quả. Điều đó thể hiện rõ trong bảng tổng kết thu nhập trung bình của công nhân viên trong bảng sau:
Bảng kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006(dk)
TNBQ
1.309
1.4
1.45
1.47
1.71
Nộp NS
272
391
489.1
521
349
LNST
630.8
794.3
884.5
934.4
1247
(Nguồn: Báo cáo kế hoạch sản xuất các năm)
Từ bảng số liệu trên chúng ta có thể thấy lợi nhuận sau thuế của công ty liên tục tăng qua các năm. Chỉ trong vòng 4 năm( Từ năm 2002 đến 2005) LNST của công ty đã tăng hơn một nửa. Theo dự kiến năm 2006 lợi nhuận sau thuế của công ty sẽ tăng 30.5% so với năm 2005. Hoạt động chủ yếu của công ty là tiến hành thi công các công trình xây dựng theo dự án. Như vậy, thu nhập của công ty ngày càng tăng chứng tỏ tính hiệu quả của các dự án. Qua đây chúng ta có thể thấy vai trò to lớn của các dự án đối với công ty công trình giao thông 874.
Hoạt động chủ yếu là thực hiện các dự án xây dựng công trình giao thông, công ty cần phải lựa chọn được dự án mang lại hiệu quả cao nhất cho công ty để thực hiện. Để đạt được điều đó, thẩm định dự án là không thể thiếu. Trong những năm qua công ty đã không ngừng nỗ nực nâng cao chất lượng thẩm định để đưa ra những kết luận thẩm định chính xác, quyết định đầu tư hiệu quả hơn. Điều đó thể hiện ở lợi nhuận của công ty li._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29197.doc