MỤC LỤC
Lời mở đầu…………………………………………………………………...1
Chương I: Lí luận chung về chất lượng phân tích tài chính khách hàng của ngân hàng thương mại
Phân tích tài chính khách hàng của NHTM………….……………….....2
Khái niệm về phân tích tài chính doanh nghiệp……………………...2
Mục tiêu của phân tích tài chính khách hàng trong NHTM ………3
1.1.3 Thông tin và phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính khách hàng5
1.1.3.1 Thông tin sử dụng …………………………………………………..5
1.1.3.2 Phương pháp sử dụng trong phân tích tà
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1261 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) - Chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i chính khách hàng ………9
1.1.4 Nội dung phân tích tài chính khách hàng ……………………………11
1.1.4.1 Phân tích các tỉ lệ tài chính ………………………………………...11
1.1.4.2 Phân tích báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp 21
1.1.4.3 Dự báo về bảng cân đối kế toán và báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn…22
1.2 Chất lượng phân tích tài chính khách hàng ………………………… 22
1.2.1 Quan điểm về chất lượng phân tích tài chính khách hàng…………….22
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng phân tích tài chính khách hàng…….23
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng phân tích tài chính khách hàng.27
1.2.3.1 Nhân tố chủ quan……………………………………………………27
1.2.3.2 Nhân tố khách quan…………………………………………………30
Chương II: Thực trạng chất lượng phân tích tài chính khách hàng doanh nghiệp tại chi nhánh Hà Nội NHTMCP Á Châu
2.1 Khái quát về ngân hàng thương mại Á Châu …………………………...32
2.1.1 Quá trình ra đời và phát triển …………………………………………32
2.1.2 Hoạt động chủ yếu và khách hàng của ngân hàng ……………………34
2.1.3 Cơ cấu tổ chức ………………………………………………………..36
2.1.4 Kết quả kinh doanh trong thời gian qua ………………………………39
2.2 Thực trạng chất lượng phân tích tài chính khách hàng tại ACB Hà Nội….44
2.2.1Qui trình cho các DN vay vốn và thẩm định tài chính khách hàng …...44
2.2.1.1 Qui trình cấp tín dụng cho doanh nghiệp …………………………...45
2.2.1.1.1 Bộ hồ sơ vay………………………………………………………45
2.2.1.1.2 Nội dung tờ trình thẩm định khách hàng xin vay vốn…………….46
2.2.1.2 Qui trình phân tích tài chính ………………………………………..48
2.2.1.2.1 Tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính và rủi ro……...49
2.2.1.2.2 Nhu cầu vốn ………………………………………………………50
2.2.1.2.3 Chấm điểm tín dụng ………………………………………………51
2.2.2 Thẩm định tài chính khách hàng mẫu ………………………………...51
2.3 Đánh giá về chất lượng phân tích tài chính khách hàng ………………..56
2.3.1 Kết quả đạt được………………………………………………………56
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân………………………………………………59
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng tại Ngân hàng thương mại Á Châu – Chi nhánh Hà Nội
3.1 Định hướng phát triển của ngân hàng …………………………………..61
3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng ………..62
3.2.1 Hòan thiện nội dung phân tích………………………………………..62
3.2.2 Nâng cao chất lượng nguồn thông tin…………………………………64
3.2.3 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực……………………………..…..65
3.2.4 Rút ngắn thời gian xét duyệt…..…………………………………...….67
3.2.5 Nâng cao hệ thống cơ sở trang thiết bị công nghệ thông tin………….67
3.2 Kiến nghị ……………………………………………………………….69
3.1 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước………………………………...…..69
3.2 Kiến nghị với các Bộ ngành có liên quan khác………………………...70
Kết luận……………………………………………………………………..72
LỜI MỞ ĐẦU
Phân tích tài chính doanh nghiệp cung cấp thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp cho những nhà đầu tư, nhà quản lí và cả người cho vay. Từ đó giúp họ ra quyết định đúng đắn và hiệu quả.
Đối với những khách hàng có nhu cầu vay vốn ngân hàng cũng cần phải thẩm định tài chính khách hàng, do vậy phân tích tài chính khách hàng là một trong những bước quan trọng để đi đến quyết định cho vay hay không.
Đối với những ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng Á Châu nói riêng, hoạt động tín dụng là một phần vô cùng quan trọng, ảnh hưởng tới sự phát triển và tồn tại của ngân hàng. Chính vì vậy hoạt động phân tích tài chính khách hàng của ngân hàng Á Châu được quan tâm chú trọng. Khách hàng mục tiêu của ngân hàng là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên mảng phân tích tài chính doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Trong thời gian thực tập tại chi nhánh ACB Hà Nội, tôi nhận thấy rằng hoạt động phân tích tài chính khách hàng doanh nghiệp của ngân hàng tuy đã có những chất lượng tương đối tốt nhưng vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục. Vì lí do đó tôi đã lựa chọn nội dung chất lượng phân tích tài chính khách hàng doanh nghiệp để nghiên cứu tìm hiểu. Nội dung nghiên cứu đi từ lí thuyết tới thực tiễn hoạt động tại ngân hàng, từ đó tôi đề ra một số giải pháp với ngân hàng Á Châu và có kiến nghị với các cơ quan ban ngành có liên quan giúp nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng của ngân hàng.
CHƯƠNG I : LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Phân tích tài chính khách hàng của ngân hàng thương mại
Khái niệm về phân tích tài chính doanh nghiệp
Từ đầu thế kỉ 20 tới nay phân tích tài chính thực sự được phát triển và được chú trong hơn bao giờ hết bởi nhu cầu quản lí doanh nghiệp có hiệu quả ngày càng tăng, sự phát triển của hệ thống tài chính, sự phát triển của các tập đoàn kinh doanh và khả năng ứng dụng rộng rãi của công nghệ thông tin. Hoạt động phân tích tài chính là một khâu quan trọng trong quá trình quản lí doanh nghiệp, làm cơ sở cho việc ra quyết định của các chủ thể như nhà quản lí, nhà đầu tư, cho vay, cơ quan thuế hay đáp ứng yêu cầu của những người muốn có thông tin về tình hình hoạt động của doanh nghiệp như thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật sư, người lao động trong doanh nghiệp… để thực hiện công việc của họ tốt hơn.
Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lí các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lí nhằm đánh giá tình hình tài chính một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Qui trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi trong mọi đơn vị kinh tế được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức, được áp dụng trong các tổ chức xã hội, tập thể và các cơ quan quản lí, tổ chức công cộng. Đặc biệt, sự phát triển của các doanh nghiệp, các ngân hàng, và của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để phân tích tài chính chứng tỏ thực sự là có ích và vô cùng cần thiết.
Đối với các ngân hàng thương mại, hoạt động chủ yếu là huy động và cho vay. Để ngân hàng hoạt động có hiệu quả thì điều quan trọng bậc nhất là các khoản cho vay của ngân hàng phải luôn đảm bảo ở mức an toàn. Cơ sở để hình thành một khoản vay tốt phụ thuộc rất nhiều vào việc phân tích tài chính khách hàng. Qua kết quả của phân tích tài chính, người cho vay sẽ nắm được tình hình sản xuất kinh doanh ở hiện tại cũng như trong quá khứ của doanh nghiệp, phân tích tài chính sẽ trả lời cho họ những câu hỏi như khách hàng có phương án sử dụng vốn hiệu quả không? mục đích sử dụng vốn vay có hợp lí không? khách hàng có thể trả nợ và lãi đúng hạn hay không? ngân hàng có quyền đối với tài sản và thu nhập của khách hàng khi khoản vay có vấn đề và ngân hàng có thể thu hồi vốn nhanh chóng với rủi ro và chi phí thấp được không? …Do vậy phân tích tài chính khách hàng được xem là cơ sở quan trọng để đưa ra các quyết định trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Do đó phân tích tài chính trong thẩm định tín dụng của ngân hàng thương mại là việc đánh giá một cách khách quan, khoa học, và có hệ thống toàn bộ tình hình tài chính doanh nghiệp trên giác độ ngân hàng, nhằm đảm bảo tính hiệu quả của khoản vay trước khi ra quyết định cấp tín dụng cho doanh nghiệp.
Mục tiêu của phân tích tài chính khách hàng trong ngân hàng thương mại
Những người ở những vị trí khác nhau có những mục tiêu khác nhau khi tiến hành phân tích tài chính. Mối quan tâm của từng đối tượng cũng như quyết định của từng đối tượng chỉ phù họp và được đáp ứng khi tiến hàng phân tích tài chính. Mục đích chính của phân tích tài chính là giúp các đối tượng sử dụng thông tin đánh giá đúng tình hình tài chính, khả năng sinh lãi và triển vọng của doanh nghiệp từ đó đưa ra những quyết định phù hợp với mục tiêu mà họ quan tâm. Tuy nhiên những báo cáo tài chính là những tài liệu mang tính chất lịch sử vì chúng cho biết thông tin của một thời kì nhất định vì thế mục đích của phân tích tài chính là giúp đối tượng quan tâm đưa ra quyết định và hành động hợp lí trên cơ sở thông tin mang tính lịch sử của báo cáo tài chính.
Đối với nhà quản trị phân tích tài chính để nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xác định điểm mạnh điểm yếu của doanh nghiệp, đó là cơ sở để định hướng cho các quyết định của ban giám đốc, giám đốc tài chính, dự báo tình hình tài chính, kế hoạch đầu tư, ngân quĩ, và kiểm soát các hoạt động quản lí khác. Mối quan tâm hàng đầu của nhà quản trị là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ để đảm bảo khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, ngoài ra còn có các mục tiêu khác như tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường… những mục tiêu này chỉ thực hiện được khi doanh nghiệp làm ăn có lãi.
Đối với các nhà đầu tư thông qua hoạt động phân tích tài chính, họ có thể thu thập nhưng thông tin về tình hình thu nhập của chủ sở hữu- lợi tức cổ phần và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư. Họ quan tâm tới phân tích tài chính để nhận biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp, rủi ro, khả năng hoàn vốn, mức tăng trưởng hiện tại và tương lai. Đó là một trong những căn cứ giúp họ ra quyết định bỏ vốn vào doanh nghiệp hay không.
Đối với người cho vay, cần phân tích tài chính để nhận biết khả năng trả nợ vay của khách hàng, mà chủ yếu là tập trung xem xét luồng tiền tạo ra của doanh nghiệp, các tài sản có khả năng chuyển đổi nhanh thành tiền, vốn chủ sở hữu, tỉ lệ vốn nợ của doanh nghiệp để biết rằng doanh nghiệp có khả năng thanh toán nợ và lãi đúng hạn hay không. Thông thường, ngân hàng thường xem xét tình hình tài chính của khách hàng để trả lời những câu hỏi quan trọng như: khách hàng có đáng tin cậy không? liệu khoản vay có đảm bảo an toàn cho ngân hàng, khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích không, liệu ngân hàng có quyền đối với những tài sản và thu nhập của doanh nghiệp khi khoản vay có vấn đề, liệu ngân hàng có thể thu hồi vốn và lãi với rủi ro và chi phí thấp được không.
Như vậy mối quan tâm hàng đầu của người phân tích tài chính là đánh giá khả năng xảy ra rủi ro phá sản tác động tới doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, khả năng hoạt động cũng như khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp tục nghiên cứu và đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Nói cách khác phân tích tài chính là cơ sở để dự đoán tài chính. Tuy nhiên phân tích tài chính có thể đước ứng dụng theo nhiều phương cách khác nhau nhưng trình tự phân tích và dự đoán đều phải tuân theo những nghiệp vụ phân tích thích ứng với từng giai đoạn dự đoán.
1.1.3 Thông tin và phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính khách hàng
1.1.3.1 Thông tin sử dụng
Trong phân tích tài chính nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn thông tin: từ những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ những thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Những thông tin này đều giúp nhà phân tích có thể đưa ra những nhận xét kết luận chi tiết và thích đáng.
Trong những thông tin bên ngoài cần chú ý tới những thông tin chung của ngành, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp như: cơ hội kinh doanh, chính sách thuế, lãi suất, vị trí của ngành trong nền kinh tế, cơ cấu ngành và các sản phẩm của ngành, tình trạng công nghệ, thị phần của doanh nghiệp, các thông tin về pháp lí, kinh tế đối với doanh nghiệp như tình hình quản lí, kế toán, kiểm toán, kế hoạch sử dụng kết quả kinh doanh… Ngoài ra nguồn cung cấp thông tin cũng là một yếu tố quyết định tới độ chính xác và đáng tin cậy của thông tin sử dụng phân tích tài chính. Đối với ngân hàng nguồn thông tin có thể từ nhiều nguồn cung cấp như: chính khách hàng cung cấp, từ cơ quan thuế, cơ quan quản lí cấp trên của doanh nghiệp, thông tin từ ngân hàng nhà nước, từ các ngân hàng khác, từ báo chí… hoặc thông tin từ chính trung tâm thông tin của ngân hàng.
Tuy nhiên để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp có thể sử dụng thông tin kế toán như là một nguồn thông tin quan trọng nhất. Với tính hệ thống, đồng nhất, phong phú kế toán hoạt động như một nhà cung cấp thông tin quan trọng và tin cậy cho phân tích tài chính. Mặt khác doanh nghiệp cũng cần phải cung cấp những thông tin kế toán cho các bên đối tác trong và ngoài doanh nghiệp. Thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính - được hình thành thông qua việc xử lí các thông tin của kế toán cung cấp, đó là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình hình tài chính của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là một báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh, và quan hệ quản lí với doanh nghiệp. Thông thường bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán: một bên phản ánh tài sản và một bên phản ảnh nguồn vốn của doanh nghiệp.
Bên tài sản của bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện thời ở thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lí và sử dụng của doanh nghiệp đó là tài sản lưu động và tài sản cố định. Bên nguồn vốn phản ánh số vốn để hình thành các loại tài sản ở cùng thời điểm đó là vốn chủ sở hữu và vốn vay. Các khoản mục bên phía tài sản được sắp xếp theo thứ tự tính thanh khoản giảm dần còn bên nguồn vốn các khoản mục được sắp xếp theo nghĩa vụ nợ giảm dần.
Bên tài sản bao gồm các khoản mục Tài sản lưu động, và tài sản cố định. Trong tài sản lưu động lại gồm: tiền mặt, các loại chứng khoán thanh khoản, các khỏan phải thu khách hàng hoặc phải thu nhà cung cấp, nguyên vật liệu hàng, công cụ dụng cụ dự trữ, hàng hóa trong kho… Tài sản cố định bao gồm máy móc, nhà xưởng, thiết bị, công nghệ, các khoản đầu tư góp vốn dài hạn, thương hiệu, bản quyền, giấy phép …
Bên nguồn vốn có nợ phả trả: các khoản nợ ngắn hạn như nợ nhà cung cấp, phải trả khách hàng, lương công nhân viên chưa thanh toán, nợ ngân hàng ngắn hạn, lãi ngân hàng sắp phải trả… nợ dài hạn gồm nợ ngân hàng, trái phiếu, kí quĩ… vốn chủ sở hữu bao gồm vốn góp ban đầu, lợi nhuận chưa chia, các quĩ khen thưởng, phúc lợi, vốn liên doanh liên kết…
Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh qui mô và kết cấu các loại tài sản, bên nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp. Bên tài sản cũng như bên nguồn vón của bảng cân đối kế toán thường đều có cột chỉ tiêu số dư đầu kì cuối kì. Ngoài ra còn có một số chỉ tiêu ngoại bảng như: Tài sản thuê ngoài, vật tư hàng hóa nhận giữ hộ, nhận gia công , nhận bán hộ, ngoại tệ các loại…
Thông tin trong bảng cân đối kế toán giúp nhà phân tích nhận biết được loại hình doanh nghiệp, qui mô, mức độ tự chủ về tài chính. Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính quan trọng bậc nhất, thông qua đó nhà phân tích có thể tính toán đánh giá được các chỉ tiêu như khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn.
Báo cáo kết qủa kinh doanh cũng là một tài liệu cần thiết cho hoạt động phân tích tài chính. Báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo này giúp nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực tế nhập quĩ khi bán hàng, cung cấp dịch vụ, so sánh tổng chi phí phát sinh với số tiền thực xuất ra để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu chi phí, có thể xác định kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị lãi hay lỗ trong một giai đoạn thường tính theo tháng, quí, năm. Khác với bảng cân đối kế toán cho biết số liệu thời điểm, báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả kinh doanh trong cả một giai đoạn, thời kì nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các yếu tố đầu vào như: nhân công, nguyên vật liệu, kĩ thuật, trình độ quản lí sản xuất kinh doanh của bản thân doanh nghiệp.
Các khoản mục chủ yếu của báo cáo kết quả kinh doanh thường là: doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính, doanh thu từ hoạt động tài chính, doanh thu từ hoạt động bất thường, chi phí tương ứng với những hoạt động đó, tình hình nghĩa vụ phải thực hiện với nhà nước, lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận sau thuế…
Để đánh giá một doanh nghiệp có khả năng chi trả hay không, nhà phân tích tài chính cần tìm hiểu tình hình ngân quĩ của doanh nghiệp. Ngân quĩ thường được xác định cho khoảng thời gian ngắn thường là hàng tháng. Bao gồm dòng tiền thực nhập quĩ từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ, dòng tiền nhập quĩ từ các hoạt động tài chính, đầu tư, hoạt động bất thường khác, dòng tiền thực xuất quĩ để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện hoạt động đầu tư, tài chính, hoạt động bất thường.
Trên cơ sở dòng tiền xuất và nhập có thể dự báo cho nhu cầu trong thời gian tới của doanh nghiệp, cũng từ đó có thể thực hiện cân đối ngân quĩ với số dư ngân quĩ đầu kì để xác định số dư ngân quĩ cuối kì. Từ đó lập mức dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục tiêu đảm bảo khả năng chi trả cho doanh nghiệp.
Như vậy để thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp các nhà phân tích cần phải đọc và hiểu được các báo cáo tài chính, thông qua đó họ nhận biết được và tập trung vào các chỉ tiêu tài chính có liên quan trực tiếp tới mục đích mà họ hướng tới. Đối với hoạt động phân tích tài chính khách hàng doanh nghiệp trong ngân hàng thương mại mục đích chính của ngân hàng là tìm hiểu về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khả năng chi trả, diễn biến của dòng tiền xuất quĩ nhập quĩ, khả năng tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì thế phân tích tài chính cần sử dụng thông tin đa dạng, từ nhiều nguồn, không chỉ là những báo cáo tài chính, mà còn có cả những thông tin khác có liên quan như tình hình quan hệ tín dụng của doanh nghiệp đối với tất cả các tổ chức tín dụng, với bạn hàng, khách hàng của doanh nghiệp, ngoài ra còn có những thông tin chung về hiện trạng và xu hướng phát triển của ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm mà doanh nghiệp đang tham gia hoạt động.
Vì yêu cầu của việc phân tích, nhân viên tín dụng không thể sử dụng những thông tin đơn thuần từ các báo cáo tài chính. Để hiểu thật kĩ hoạt động của khách hàng, có khi cần phải sử dụng số liệu chi tiết. Như tìm hiểu những khoản phải thu, phải trả của chi tiết từng đối tác của khách hàng, nhờ đó mà nhân viên tín dụng mới có thể tìm hiểu tập quán bán hàng cũng như mua hàng của doanh nghiệp. Chính sách bán hàng trả chậm của doanh nghiệp có thể có số ngày ít hơn hoặc lâu hơn so với hóa đơn, hợp đồng kinh tế, những điều này nhân viên tín dụng chỉ có thể tìm hiểu thông qua việc đi thực tế, xem chi tiết các tiểu khoản.
1.1.3.2 Phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính khách hàng
Phương pháp truyền thống được sử dụng trong phân tích tài chính đó là phương pháp tỉ số, trong đó các tỉ số được thiết lập từ việc so sánh chỉ tiêu này so sánh với chỉ tiêu khác. Đây là phương pháp ngày càng được sử dụng nhiều bởi tính hiện thực của nó, các điều kiện áp dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. nguồn thông tin kế toán ngày càng được bổ sung và hoàn thiện, cải tiến và được cung câp ngày một đầy đủ hơn. Đây là cơ sở để hình thành những tỉ lệ tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỉ số của một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp. Việc áp dụng công nghệ thông tin cho phép tích lũy dữ liệu và thúc đẩy nhanh chóng quá trình tính toán hàng loạt các chỉ số, hơn thế nữa phương pháp này giúp người phân tích khai thác sử dụng triệt để những số liệu và phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỉ số theo thời gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn cụ thể.
Khi sử dụng phương pháp này cần phải có một ngưỡng để tham chiếu so sánh, đánh giá các tỉ số đãt tính toán được. Để đánh giá so sánh tình hình tài chính của doanh nghiệp cần so sánh các tỉ số của doanh nghiệp với tỉ số tham chiếu chung của toàn ngành hoặc so sánh với các doanh nghiệp có cùng qui mô hoặc lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Phương pháp nàythường được sử dụng cùng với các phương pháp phân tích tài chính khác. Khi phân tích nhà phân tích thường so sánh các chỉ tiêu theo thời gian, kì này so với kì trước để nhận biết được xu hướng thay đổi của tình hình tài chính doanh nghiệp, hoặc theo không gian so sánh doanh nghiệp với mức trung bình ngành để đánh giá vị thế của doanh nghiệp trong ngành.
Bên cạnh đó phương pháp phân tích tài chính Doupont cũng thường được sử dụng. với phương pháp này các nhà phân tích tách một tỉ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như tỉ suất thu nhập trên tài sản( ROA), thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu( ROE) thành tích của một chuỗi các tỉ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép nhà phân tích thấy được sự ảnh hưởng của các tỉ số đó với tỉ số tổng hợp. từ đó nhà phân tích sẽ nhận biết được nguyên nhân của những hiện tượng, diễn biến trong hoạt động của doanh nghiệp.
1.1.4 Nội dung phân tích tài chính khách hàng
1.1.4.1 Phân tích các tỉ lệ tài chính
Thông tin từ các bảng cân đối kế toán và báo cáo thu nhập của doanh nghiệp thường được bổ sung bằng việc phân tích các chỉ số tài chính, cán bộ tín dụng sẽ lựa chọn những thông tin từ những báo cáo tài chính mà khách hàng đã cung cấp để từ đó phân tích, tìm hiểu những vấn đề có ảnh hưởng quan trọng tới tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như khả năng kiểm soát chi phí của doanh nghiệp, mức độ hoạt động hiệu quả của doanh nghiệp trong việc tận dụng các nguồn lực để tạo ra doanh thu và các luồn tiền, khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng trang trải các chi phí tài chính, khả năng thanh toán nợ vay, tình hình biến động về khả năng sinh lời và thu nhập theo thời gian, qui mô nợ hay nợ so với vốn chủ của doanh nghiệp, và liệu trong tương lai doanh nghiệp có phải đối mặt với những khoản phải trả bất thường làm tăng nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp trong tương lai hay không.
Các chỉ tiêu tài chính thường được sử dụng để đo lường khả năng kiểm soát chi phí của doanh nghiệp bao gồm:
Tiền công và tiền lương / Doanh thu thuần
Chi phí quản lí và bán hàng/ Doanh thu thuần
Khấu hao/Doanh thu thuần
Chi phí trả lãi tiền vay/Doanh thu thuần
Giá vốn hàng bán/ Doanh thu thuần
Những chỉ tiêu này được sử dụng để xem xét những chi phí và tỉ lệ của chúng trên doanh thu thuần mà doanh nghiệp phải đã chi ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Những tỉ lệ chi phí này phản ảnh phần nào chất lượng cũng như năng lực quản lí của chủ doanh nghiệp, có thể so sánh những chỉ tiêu này với tỉ lệ trung bình toàn ngành để biết được vị thế cũng như năng lực của doanh nghiệp trên thị trường. Với một doanh nghiệp có chi phí cho quản lí bán hàng, giá vốn hàng bán cao hơn mức trung bình ngành trong nhiều năm thì có thể nói doanh nghiệp này khó có ưu thế cạnh tranh trong việc giảm chi phí sản xuất so với các đối thủ cạnh tranh khác. Chi phí trả lãi tiền vay cũng cho biết tình hình thực hiện nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp trong thời gian qua là bao nhiêu, và liệu doanh nghiệp có còn đủ năng lực nếu vay thêm vốn nữa không. Nếu doanh nghiệp có chi phí giảm qua từng năm với sự ổn định hoặc tăng trưởng của doanh thu chứng tỏ doanh nghiệp có thể thuyết phục được ngân hàng về triển vọng thu nhập trong tương lai. Thông qua những chi phí chi cho quản lí, bán hàng, trả lương cho công nhân viên có thể nắm được chính sách nhân sự, chính sách marketing của doanh nghiệp, và hiệu quả của những chính sách đó tới việc tăng doanh thu. Phương pháp tính khấu hao của cũng ảnh hưởng tới việc sử dụng tài sản cố định, phân bổ chi phí hợp lí, điều này cũng phản ánh một phần năng lực quản lí điều hành của đội ngũ quản lí doanh nghiệp.
Xem xét kết quả hoạt động của doanh nghiệp là một việc làm rất cần thiết đối với ngân hàng, doanh nghiệp đã sử dụng như thế nào trong việc tạo ra doanh thu, luồng tiền mặt và quá trình doanh thu được chuyển thành tiền mặt được tiến hành như thế nào. Các tỉ lệ thường được sử dụng là:
Vòng quay dự trữ
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Kì thu nợ trung bình
Vòng quay tiền
Các chỉ số hoạt động được dùng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp, vốn của doanh nghiệp được sử dụng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các chỉ số này để xem xét khả năng hoạt động của doanh nghiệp.
Vòng quay tiền được xác định bằng cách chia doanh thu trong năm cho tổng số tiền và các loại tài sản tương đương tiền bình quân trong năm, nó cho biết vòng quay của tiền trong năm.
Vòng quay dự trữ là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó được xác định bằng tỉ số giữa doanh thu trong năm và giá trị dự trữ bình quân. Dự trữ của doanh nghiệp thông thường có: nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm. Nhìn chung những doanh nghiệp có vòng quay dự trữ càng cao thì càng tốt cho ngân hàng và chủ nợ vì tỉ lệ này cho biết số lần trong năm doanh nghiệp đó chuyển hàng tồn kho thành hàng hóa. Tỉ lệ này càng thấp có thể cho thấy khách hàng ít chấp nhận sản phẩm của doanh nghiệp hoặc chính sách dự trữ và sản xuất của doanh nghiệp không còn hiệu quả. Tỉ lệ vòng quay dự trữ quá cao có thể phản ánh việc giá sản phẩm được xác định ở mức thấp hoặc dự trữ hàng không phù hợp, thiếu hàng bán, không thu hút được khách hàng.
Trong phân tích tài chính, kì thu tiền bình quân sử dụng để đánh giá khả năng thu tiền trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân một ngày. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp.
Kì thu tiền bình quân = Các khoản phải thu x360/ Doanh thu
Sự kéo dài của kì thu nợ bình quân cho thấy qui mô các khoản tín dụng quá hạn đã tăng lên và hiệu quả của chính sách thu tiền đã giảm, đặt ra câu hỏi: tại sao lại xảy ra tình trạng này và doanh nghiệp đã làm gì để đưa doanh số thu nợ tăng lên.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng của tổng tài sản và của riêng tài sản cố định nhà phân tích tài chính thường sử dụng 2 chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tổng tài sản và hiệu suất sử dụng tài sản cố định.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Doanh thu/ Tài sản cố định
Giá trị tài sản cố định sử dụng được lấy theo giá trị còn lại của tài sản cố định tính đến thời điểm lập báo cáo.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Doanh thu/ Tổng tài sản
Hai chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản khi đưa vào sản xuất kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng doanh thu.
Để tạo ra luồng tiền mặt để thực hiện nghĩa vụ nợ, doanh nghiệp phải bán được hàng hóa dịch vụ, để đánh giá được tình hình kinh doanh của doanh nghiệp thường căn cứ vào các chỉ tiêu như tỉ lệ tăng trưởng bán hàng, thị phần của doanh nghiệp trên thị trường, tỉ lệ lợi nhuận biên
Tỉ lệ lợi nhuận gộp biên
= (Doanh thu thuần – giá vốn hàng bán)/Doanh thu thuần
Lợi nhuận biên = Thu nhập sau thuế / Doanh thu thuần
Lợi nhuận gộp biên tính toán cả điều kiện thị trường, nhu cầu thị trường về sản phẩm của doanh nghiệp, mức độ cạnh tranh mà doanh nghiệp phải đối mặt, thị phần hay sức mạnh của doanh nghiệp trên thị trường. Lợi nhuận biên cho biết lợi nhuận từ mỗi đồng doanh thu sau khi trừ tất cả các chi phí bao gồm cả thuế, nó phản ánh mức độ hiệu quả của chính sách kiểm soát chi phí và mức độ cạnh tranh của chính sách định giá của doanh nghiệp.
Một nguyên tắc quan trọng khi ngân hàng ra quyết định cho vay đó là doanh nghiệp phải có cơ sở đảm bảo cho việc hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn, đầy đủ. Để đánh giá sự bảo vệ đối với ngân hàng nhà phân tích thường dùng các tỉ lệ như tỉ lệ hoàn trả lãi, tỉ lệ hoàn trả gốc và lãi, tỉ lệ hoàn trả các khoản cố định.
Tỉ lệ hoàn trả lãi = Thu nhập trước lãi và thuế/ Lãi phải trả
Tỉ lệ hoàn trả lãi và gốc = Thu nhập trước lãi và thuế / {( Phần trả lãi – Phần trả gốc/( 1 – Tỉ lệ thuế thu nhập )}
Tỉ lệ hoàn trả các khoản cố định
= Thu nhập trước lãi, thuế và tiền thuê/ (Phần trả lãi + Tiền thuê)
Trạng thái thanh toán của người vay biểu thị khả năng của họ trong việc tăng tiền mặt một cách kịp thời khi cần với chi phí hợp lí, bao gồm khả năng trả lãi tiền vay, các khoản nợ ngắn hạn đúng hạn. Các chỉ số thường được sử dụng là: tỉ lệ thanh toán hiện hành, tỉ lệ thanh toán nhanh, tỉ lệ dự trữ trên vốn lưu động ròng.
Tỉ số thanh toán hiện hành = Tài sản lưu động/ Nợ ngắn hạn
Tỉ số thanh toán nhanh
= ( Tài sản lưu động – Dự trữ)/ Nợ ngắn hạn
Tỉ số dự trữ trên vốn lưu động ròng = Dự trữ/ Vốn lưu động ròng
Trong đó:
Tài sản lưu động ròng = Tài sản lưu động – Tồn kho NVL và hàng hoá – Các khoản nợ ngắn hạn
Vốn lưu động ròng = Tài sản lưu động – Các khoản nợ ngắn hạn
Tài sản lưu động thường bao gồm tiền mặt và các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng, các khoản phải thu và dự trữ, còn nợ ngắn hạn bao gồm các khoản vay ngắn hạn từ ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả phải nộp khác… Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời gian nhất định thường là trong vòng 1 năm. Tỉ số thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khỏan nợ đó.
Để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi đến hạn nhà phân tích còn quan tâm tới chỉ tiêu vốn lưu động ròng, hay vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này là một yếu tố quan trọng và cần thiết cho việc đánh giá điều kiện cân bằng tài chính trong một doanh nghiệp. Nó được xác định là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động và tổng nợ ngắn hạn, hoặc là phần chênh lệch giữa vốn thường xuyên ổn định với tài sản cố định ròng. Khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán, mở rộng qui mô sản xuất và khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh phụ thuộc phần lớn vào vốn lưu động ròng. Do vậy sự phát triển của doanh nghiệp có thể được thể hiện ở sự tăng trưởng của vốn lưu động ròng.
Tỉ số khả năng thanh toán nhanh là tỉ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản._. quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển thành tiền bao gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ là những tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu đem bán. Do vậy tỉ số khả năng thanh toán nhanh thể hiện khả năng hoàn trả các khoản nợ không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ, hàng tồn kho. Tỉ số dự trữ trên vốn lưu động ròng cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần trăm vốn lưu động ròng. Điều nay có liên quan tới cơ cấu vốn, cơ cấu tài trợ cũng như cơ cấu tài sản lưu động của doanh nghiệp.
Nếu như các chỉ số trên phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng biệt trong doanh nghiệp thì tỉ số về khả năng sinh lãi phản ánh tổng hợp hiệu quả hoạt động của toàn doanh nghiệp, từ hoạt động sản xuất kinh doanh tới hiệu quả quản lí. Các tỉ số thường được sử dụng như: doanh lợi tiêu thụ sản phẩm, tỉ số thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu, hoặc trên tổng tài sản. Thu nhập mà nhà phân tích thường sử dụng đó là thu nhập trước thuế hoặc thu nhập sau thuế, đó chính là lượng thu nhập của chủ doanh nghiệp sau khi trừ đi các chi phí.
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = Thu nhập sau thuế/ Doanh thu
Tỉ số thu nhập sau thuế trên tổng tài sản
ROA = Thu nhập sau thuế / Tổng tài sản
Tỉ số thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu
ROE = Thu nhập sau thuế / Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu doanh lợi tiêu thụ sản phẩm phản ánh số lợi nhuận sau thuế thu được trên mỗi đồng doanh thu, còn chỉ tiêu ROE, ROA phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu hoặc tổng vốn đầu tư, ROE được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư, tăng doanh lợi vốn chủ sở hữu là mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lí tài chính của doanh nghiệp. Còn với ROA tùy vào tình hình của từng doanh nghiệp mà có thể sử dụng nhu nhập sau thuế hay thu nhập trước thuế để phân tích đánh giá.
Bất cứ một tổ chức tín dụng nào khi ra quyết định cho vay cũng quan tâm tới vấn đề hiện nay khách hàng của mình có qui mô nợ như thế nào, do vậy khái niệm đòn bẩy tài chính được sử dụng để đánh giá phân tích trạng thái tín dụng và mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp. Các chỉ số về khả năng cân đối vốn được dùng để đo lường phần vốn của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ, và nó có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ các chủ nợ sẽ nhìn vào tỉ số này để xem xét mức độ tin cậy và sự an toàn cho các khoản nợ. Nếu doanh nghiệp chỉ có tỉ lệ vốn chủ rất ít so với tổng vốn đầu tư thì rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh chủ yếu so các chủ nợ phải gánh chịu, mặt khác khi mở rộng qui mô vốn bằng cách đi vay thì các chủ sở hữu doanh nghiệp vẫn giữ vững quyền kiểm soát điều hành. Ngoài ra nếu doanh nghiệp tạo được lợi nhuận từ các khỏan tiền vay thì lợi nhuận của doanh nghiệp cũng tăng lên một cách đáng kể. Một số chỉ tiêu thường sử dụng khi xem xét vấn đề này bao gồm: hệ số nợ, tỉ số đòn bẩy, tỉ số nợ trên doanh thu.
Hệ số nợ = Tổng nợ phải trả/ Tổng tài sản
Tỉ số đòn bẩy = Nợ dài hạn / Tổng nợ dài hạn và vốn chủ
Tỉ số nợ trên doanh thu = Tổng nợ phải trả / Doanh thu thuần
Qui mô nợ của doanh nghiệp có quan hệ với doanh thu vì doanh thu tạo ra cuối cùng là để phục vụ cho việc trả nợ, nếu các khoản phải trả tương xứng với doanh thu thì nhà quản trị phải tìm kiếm những khỏan nợ có chi phí thấp hơn, hoặc hạn chế chi phí nhằm tăng doanh thu cho doanh nghiệp.
Một yếu tổ khác có ảnh hưởng tới tình hình thu nhập của doanh nghiệp đó là các khỏan phải trả bất thường, nó không xuất hiện thường xuyên trong bảng cân đối kế toán nhưng nó có thể chuyển thành các quyền đòi hỏi thực sự về tài sản của doanh nghiệp, làm giảm các quĩ hiện hành giành cho trả nợ. Một số khoản phải trả bất thường như: chi phí cho những vụ kiện cáo, tranh chấp, những khoản lương hưu phải trả cho người lao động trong tương lai, thuế chưa nộp, những chi phí liên quan tới môi trường… thông thường những khỏan trả bất thường này không nằm trong chi phí dự kiến của doanh nghiệp nhưng vì một lí do nào đó như sự thay đổi của những qui định về môi trường, việc tăng thuế của chính phủ hoặc so tranh chấp thương mại. bản quyền... Việc dự báo đánh giá ảnh hưởng của những khoản chi này tới thu nhập doanh nghiệp sẽ cung cấp thêm cơ sở cho hoạt động phân tích tài chính.
Những tỉ số tài chính được sử dụng trên đây sẽ cho thấy một bức tranh khái quát về tình hình tài chính của doanh nghiệp, ngoài những tỉ số trên các nhà phân tích còn đặc biệt quan tâm tới một số những chỉ tiêu khác có liên quan tới chủ sở hữu và giá trị thị trường như:
Tỉ lệ hoàn vốn cổ phần = Thu nhập sau thuế/ Vốn cổ phần
Thu nhập cổ phiếu = Thu nhập sau thuế/ Số lượng cổ phiếu thường
Tỉ lệ trả cổ tức = Lãi cổ phiếu/ Thu nhập cổ phiếu
Tỉ lệ giá/ Lợi nhuận = Giá cổ phiếu/ Thu nhập cổ phiếu
Khi sử dụng phương pháp phân tích tài chính Dupont nhằm đánh giá tác động tương hỗ giữa các tỉ số tài chính, nhà phân tích có thể thực hiện việc tách ROE như sau:
ROE = TNST/VCSH = TNST/ TS x TS/ VCSH = ROA x EM
( Trong đó EM là số nhân vốn)
ROE phản ánh mức sinh lợi của một đồng vốn chủ sở hữu – Mức tăng giá trị tài sản cho các chủ sở hữu, còn ROA phản ánh mức sinh lợi toàn bộ danh mục tài sản của doanh nghiệp – khả năng quản lí tài sản của nhà quản lí. EM là hệ số nhân vốn chủ sở hữu, nó phản ánh mức độ huy động vốn từ bên ngoài của doanh nghiệp. Nếu EM tăng điều đó chứng tỏ doanh nghiệp tăng vốn huy động từ bên ngoài.
Tách ROA
ROA = TNST/ TS = TNST/ DT x DT/ TS = PM x AU
PM: doanh lợi tiêu thụ phản ánh tỉ trọng lợi nhuận sau thuế trong doanh thu của doanh nghiệp, khi PM tăng điều dó thể hiện doanh nghiệp quản lí điều hành có hiệu quả.
AU: hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Như vậy qua hai lần phân tích ROE có thể biến đổi như sau:
ROE = PM x AU x EM
Công thức trên có thể cho chúng ta thấy các yếu tố cơ bản tác động tới ROE của doanh nghiệp, đó là khả năng tăng doanh thu, công tác quản lí chi phí, quản lí tài sản và đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp.
Tách PM và AU
PM = TNST/ DT
TNST = Doanh thu – Chi phí – Thuế thu nhập doanh nghiệp
Doanh thu = Doanh thu từ hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính, hoạt động bất thường
Tài sản = Tài sản cố định + Tài sản lưu động
Các thành phần trên lại được phân tách chi tiết hơn tùy vào mục đích yêu cầu của nhà phân tích tài chính, với trình tự tách như trên có thể xác định những nguyên nhân là tăng giảm ROE một cách chi tiết cụ thể.
Ngoài ra các nhà phân tích tài chính còn sử dụng những chỉ tiêu tài chính trung gian, kết hợp những đánh giá về trạng thái tĩnh với những đánh giá về trạng thái động để đưa ra bức tranh tòan cảnh về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu như trạng thái tĩnh thể hiện qua bảng cân đối kế toán thì trạng thái động được phản ánh qua bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn (bảng tài trợ) qua các kết quả kinh doanh. Thông qua các báo cáo tài chính này, các nhà phân tích có thể đánh giá sự thay đổi về vốn lưu động ròng, về nhu cầu vốn lưu động, từ đó có thể đánh giá những thay đổi về ngân quĩ của doanh nghiệp. Như vậy giữa những báo cáo tài chính có mối liên hệ rất chặt chẽ. Những thay đổi trên bảng cân đối kế toán được lập đầu kì và cuối kì cùng với khả năng tự tài trợ đước tính từ báo cáo kết quả kinh doanh, được thể hiện trên bảng tài trợ và liên quan mật thiết tới ngân quĩ của doanh nghiệp.
Khi phân tích trạng thái động, trong một số trường hợp nhất định nhà phân tích còn chú trọng tới các chỉ tiêu trung gian nhằm đánh giá chi tiết hơn tình hình tài chính và dự báo những điểm mạnh điểm yếu của doanh nghiệp. Những chỉ tiêu này là cơ sở xác lập nhiều hệ số rất có ý nghĩa về hoạt động, cơ cấu vốn,… của doanh nghiệp.
Lãi gộp = Doanh thu – Giá vốn hàng bán
Thu nhập trước khấu hao và lãi
= Lãi gộp – Chi phí quản lí, bán hàng
Thu nhập trước thuế và lãi
= Thu nhập trước khấu hao và lãi – Khấu hao
Thu nhập trước thuế = Thu nhập trước thuế và lãi – Lãi vay
Thu nhập sau thuế = Thu nhập trước thuế - thuế thu nhập DN
Trên cơ sở đó nhà phân tích có thể xác định mức tăng tuyệt đối và tương đối của các chỉ tiêu qua các thời kì để nhận biết tình hình hoạt động của doanh nghiệp. đồng thời nhà phân tích cũng cần so sánh chúng với các chỉ tiêu cùng loại của các doanh nghiệp cùng ngành để đánh giá vị thế của doanh nghiệp.
1.1.4.2 Phân tích báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp
Trong phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn người ta thường xem xét sự thay đổi của nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một giai đoạn theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân đối kế toán. Một trong những công cụ hữu hiệu của nhà quản lí tài chính đó là bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn (bảng tài trợ). Nó giúp nhà quản lí xác định rõ các nguồn cung ứng vốn và việc sử dụng nguồn vốn đó, đối với cán bộ ngân hàng nó cung cấp những thông tin quan trọng về sự thay đổi tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Để lập được bảng này trước hết phải liệt kê sự thay đổi cả các khoản mục trên bảng cân đối kế toán từ đầu kì tới cuối kì, mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột, sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc:
Nếu các khoản mục bên tài sản tăng hoặc các khoản mục bên nguồn vốn giảm thì điều đó thể hiện việc sử dụng vốn
Nếu các khoản mục bên tài sản giảm hoặc các khoản mục bên nguồn vốn tăng thì điều đó thể hiện việc tạo nguồn vốn
Việc thiết lập bảng tài trợ là cơ sở chỉ ra những trọng điểm đầu tư vốn và những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để đầu tư. Ngoài việc phân tích việc sử dụng vốn và nguồn vốn, người ta còn phân tích tài chính theo luồng tiền để xác định sự tăng giảm tiền và nguyên nhân tăng giảm. Trên cơ sở đó doanh nghiệp sẽ có những biện pháp quản lí ngân quĩ tốt hơn.1.1.4.3 Dự báo về bảng cân đối kế toán và báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn
Việc xem xét các số liệu tài chính trong quá khứ về tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn là quan trọng nhưng chúng ta cũng cần quan tâm tới việc dự báo tình hình nguồn vốn, sử dụng vốn của và điều kiện tài chính của người xin vay trong tương lai. Ngân hàng thường yêu cầu khách hàng chuẩn bị các số liệu dự tính và sau đó cán bộ phân tích tài chính trong ngân hàng sẽ chuẩn bị tài liệu dự tính của riêng ngân hàng, và họ sẽ sử dụng hai nguồn thông tin này để so sánh. Thông thường những dự báo của chủ doanh nghiệp thường lạc quan và đánh giá chủ quan hơn so với ngân hàng, còn nhìn từ phía ngân hàng, cán bộ tín dụng cần xác định một cách chính xác bằng cách nào khách hàng sẽ có được khoản vốn dự định vay thêm và ước tính hậu quả xấu nhất có thể xảy đến với ngân hàng.
Thông thường cán bộ phân tích tín dụng sẽ lập nên bảng cân đối kế toán dự định và dự báo về tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Việc dự tính chi phí doanh thu lợi nhuận giúp ngân hàng xác định được mức cấp tín dụng tối ưu cho khách hàng. Hạn chế tình trạng tài trợ vốn dư thừa cho doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả cho vay, ảnh hưởng tới khả năng trả thu nợ của ngân hàng. Đồng thời nó cũng giúp ngân hàng tư vấn cho khách hàng khi vay vốn sử dụng cho mục đích gì thì nên dùng loại sản phẩm tương ứng, đảm bảo chi phí tối ưu và cân đối nguồn vốn cho doanh nghiệp.
1.2 Chất lượng phân tích tài chính khách hàng của NHTM
1.2.1 Quan điểm về chất lượng phân tích tài chính khách hàng
“Chất lượng” là một khái niệm trừu tượng, nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố chủ quan và khách quan của người đánh giá chất lượng. Theo Từ điển thuật ngữ kinh tế học (Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa Hà Nội – 2001) thì “chất lượng là toàn bộ các đặc tính của một hàng hóa hay dịch vụ đáp ứng được yêu cầu của người mua. Vật liệu, kiểu dáng và kĩ thuật chế biến… là những đặc điểm quan trọng của chất lượng, ảnh hưởng tới việc người tiêu dùng mua sản phẩm đó”.
Như vậy chúng ta có thể hiểu chất lượng phân tích tài chính khách hàng trong ngân hàng thương mại là khả năng đáp ứng yêu cầu tìm hiểu của ngân hàng về tình hình tài chính của khách hàng cũng như việc đánh giá rủi ro, mức độ và hiệu quả hoạt động của khách hàng đó thông qua quá trình phân tích tài chính khách hàng doanh nghiệp, nhằm đảm bảo sự tồn tài và phát triển của hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
Chất lượng phân tích tài chính khách hàng là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài tới tình hình quan hệ của khách hàng và ngân hàng, nếu chất lượng phân tích tài chính tốt sẽ tạo điều kiện tốt cho doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt có cơ hội được tài trợ vốn, đối với ngân hàng khi phân tích tài chính hiệu quả sẽ đưa tới những quyết định tín dụng đúng đắn, giảm rủi ro cho ngân hàng, giúp ngân hàng tiếp tục tồn tại và phát triển.
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng phân tích tài chính khách hàng
Chất lượng phân tích tài chính chủ yếu được thể hiện qua các nhóm chỉ tiêu sau:
Thời gian phân tích: thời gian phân tích tài chính của doanh nghiệp là một phần trong thời gian thẩm định hồ sơ tín dụng của khách hàng, do đó thời gian phân tích ngắn hay dài ảnh hưởng trực tiếp tới thời gian phân tích tín dụng. Đây là một chỉ tiêu đo lường chất lượng dễ thấy nhất, thường thì cả ngân hàng và khách hàng đều muốn rút ngắn thời gian phân tích tín dụng, trong đó có thời gian phân tích tài chính, tuy nhiên tùy vào tình hình cụ thể của từng đối tượng khách hàng mà thời gian phân tích sẽ khác nhau. Nếu thời gian phân tích tài chính quá ngắn có thể rút ngắn thời gian phân tích tín dụng, tạo điều kiện cho khách hàng có khả năng tiếp cận vốn nhanh hơn, nhưng nó có thể gây rủi ro cho ngân hàng vì thời gian ngắn sẽ gây sức ép lên cán bộ tín dụng, làm cho hoạt động phân tích khó tránh khỏi những sai sót, thiếu hụt, nhầm lẫn đáng tiếc. Tuy nhiên nếu thời gian phân tích quá dài sẽ làm ảnh hưởng tới việc cấp tín dụng cho khách hàng, từ đó có thể gây ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng hoặc làm mất đi cơ hội đầu tư của họ. Từ đó có thể dẫn tới tình trạng mất khách hàng, khách hàng bỏ đi tìm đối tác khác, và làm ảnh hưởng tới uy tín hoạt động của ngân hàng. Vì vậy tùy vào tình hình cụ thể của bộ hồ sơ vay mà những cán bộ chuyên trách bố trí thời gian phân tích tài chính cho phù hợp với thời gian phân tích tín dụng và nhu cầu vốn của khách hàng.
Chi phí phân tích: chi phí phân tích tài chính khách hàng bao gồm những khoản như chi cho cán bộ tín dụng xuống cơ sở, chi phí tìm kiếm nguồn thông tin bổ sung từ những nguồn khác, chi phí xét duyệt, chi phí kiểm soát, chi phí giấy tờ hợp đồng, công chứng, đăng kí giao dịch đảm bảo… mỗi ngân hàng đều có qui định riêng về chi phí phân tích cho từng nhân viên, và những chi phí này thường được chi dưới dạng công tác phí. Một công tác phí đảm bảo chất lượng phân tích tín dụng nói riêng cũng như phân tích tài chính nói riêng là khi nó đáp ứng đầy đủ những nhu cầu trên mà vẫn phù hợp với điều kiện của ngân hàng.
Số lượng và chất lượng nguồn thông tin được sử dụng trong phân tích tài chính: trong phân tích tài chính khách hàng, cán bộ tín dụng cần sử dụng cả những thông tin nội bộ và thông tin ngoài doanh nghiệp. Số lượng nguồn thông tin càng phong phú và chất lượng nguồn thông tin đáng tin cậy bao nhiêu thì kết quả phân tích tài chính càng chính xác bấy nhiêu. Từ đó chất lượng của việc phân tích cũng được đảm bảo chính xác khách quan. Chất lượng nguồn thông tin là một nhân tố quan trọng bậc nhất ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Phải có thông tin chính xác thì mới có những phân tích đánh giá chính xác, nếu thông tin sai lệch sẽ làm cho kết quả phân tích không phản ánh đúng thực trạng. Món vay dựa trên kết quả không chính xác sẽ có nguy cơ cao bị chuyển thành nợ quá hạn, nợ xấu, làm giảm chất lượng tín dụng, ảnh hưởng tới hoạt động chung của ngân hàng.
Số lần cán bộ tín dụng xuống cơ sở: việc làm này được tiến hành thường xuyên và liên tục kể từ khi thẩm định tín dụng khách hàng cho tới khi khoản vay được chấp nhận, giải ngân và kéo dài cho tới khi khách hàng trả đủ nợ gốc và lãi. Trước khi cho vay, cán bộ tín dụng xuống cơ sở để thu thập thông tin thông qua phỏng vấn khách hàng, và kiểm tra tình hình thực tế của người vay. Trong khi vay, cán bộ tín dụng xuống cơ sở để kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay ngân hàng có đúng mục đích, có hiệu qủa hay không, sau khi giải ngân cán bộ tín dụng xuống cơ sở để kiểm tra tình hình rút vốn vay, sử dụng vốn có đúng mục đích đã đề đạt từ đó phát hiện ra những sai trái, tìm hướng giải quyết nhanh chóng. Việc xuống cơ sở giúp cán bộ tín dụng có cái nhìn chính xác hơn về những số liệu mà khách hàng cung cấp. Những thẩm định của nhân viên tín dụng trong quá trình đi thực tế cũng giúp ngân hàng loại bỏ bớt nhứng khách hàng có nhu cầu vay nhưng không đủ khả năng trả nợ.
Tính khoa học và hợp lí của qui trình phân tích: qui trình phân tích được sắp xếp khoa học và hợp lí sẽ ảnh hưởng tích cực tới thời gian phân tích và chi phí phân tích. Hơn thế nữa khi đã có một qui trình phân tích khoa học hợp lí cán bộ tín dụng sẽ tiến hành phân tích, đánh giá một cách chính xác thực trạng tình hình tài chính của khách hàng. Tạo tâm lí thoải mái cho cán bộ tín dụng khi thực hiện quá trình phân tích, giảm bớt những công việc chồng chéo không cần thiết, tập trung vào giải quyết tìm hiểu những vấn đề cốt lõi cần quan tâm. Khi đã có một qui trình phân tích thống nhất thì kết quả phân tích sẽ giảm được ảnh hưởng từ những nhân tố chủ quan của người phân tích, tạo nên tính thống nhất cho mục tiêu phân tích tài chính của các cán bộ tín dụng. Một qui trình cho vay khoa học cần đảm bảo được tính thống nhất và liên tục giữa các bộ phận. Trong khi cho vay, tức là quá trình giải ngân và kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng, có thể sử dụng một số chỉ tiêu sau đây để đánh giá chất lượng hoạt động phân tích tài chính.
Số vụ việc được phát hiện sử dụng vốn sai mục đích: chỉ tiêu này phản ánh tính chính xác của kết quả phân tích tài chính trước khi cho vay. Trong giai đoạn này cán bộ tín dụng phải thường xuyên xuống cơ sở, để kiểm tra việc sử dụng vốn của khách hàng. Với những khách hàng có hành vi sử dụng vốn sai mục đích cán bộ tín dụng cần có những điều chỉnh cần thiết, đảm bảo an toàn cho khoản vay cũng như an toàn cho ngân hàng. Số vụ việc phát hiện sử dụng vốn sai mục đích thể hiện chất lượng của kết quả phân tích tài chính của cán bộ tín dụng. Nếu cán bộ tín dụng liên tục để xảy ra tình trạng khách hàng sử dụng vốn sai mục địch thì chất lượng phân tích của cán bộ này cần phải xem xét điều chỉnh. Do đó đây là một chỉ tiêu giúp khẳng định chất lượng phân tích tài chính của ngân hàng.
Tiến trình giải ngân vốn: kết quả của quá trình phân tích dự án, phân tích tình hình tài chính, và phân tích nhu cầu vốn vay của khách hàng đó là việc giải ngân vốn. Tiến trình giải ngân vốn cần phù hợp với tiến trình nhu cầu vốn của khách hàng, thể hiện kết quả phân tích chính xác hợp lí, cẩn trọng, đem lại hiệu quả cho cả khách hàng và ngân hàng.
Doanh số cho vay: đây là chỉ tiêu quan trọng bậc nhất trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại, đa phần các ngân hàng đều muốn đạt doanh số cho vay ở mức cao, nhưng yếu tố chất lượng của doanh số cho vay lại quan trọng hơn. Bởi nó quyết định tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Độ lớn của doanh số cho vay phải phù hợp với khả năng huy động vốn của ngân hàng, đảm bảo tỉ lệ an toàn khi cho vay, đem lại lợi ích cho cả ngân hàng và doanh nghiệp đi vay.
Doanh số thu nợ: chỉ tiêu này phản ánh kết quả hoạt động của ngân hàng cũng như khách hàng. Nếu doanh nghiệp khách hàng làm ăn hiệu quả trên cơ sở nguồn vốn đi vay ngân hàng thì khách hàng sẽ có khả năng trả nợ. Khoản tín dụng của ngân hàng được đảm bảo thanh toán, như vậy việc phân tích tín dụng cũng như phân tích tài chính nói riêng của ngân hàng có chất lượng tốt, ngân hàng đánh giá đúng năng lực hoạt động, hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng. Kết quả này phản ánh chất lượng phân tích đánh giá khách hàng của cán bộ tín dụng trong cả một thời kì từ trước khi cho vay cho tới khi giải ngân, thu hồi nợ.
Tỉ lệ nợ quá hạn/Tổng dư nợ: tỉ lệ này ở mọi ngân hàng đều tồn tại ở một mức nào đó, tuy nhiên mức cao hay thấp là còn tùy thuộc vào chất lượng phân tích tài chính khách hàng. Tỉ lệ này phản ánh khả năng thanh toán của khách hàng, và nó ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Nếu tỉ lệ này quá cao sẽ gây ảnh hưởng xấu tới khả năng thanh toán của ngân hàng, có thể dẫn tới phá sản cho ngân hàng. Hiện nay các ngân hàng thương mại có xu hướng quản lí tình trạng này bằng một tỉ lệ có thể chấp nhận được.
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng phân tích tài chính khách hàng
1.2.3.1 Nhân tố chủ quan
Những nhân tố chủ quan tác động tới chất lượng phân tích tài chính khách hàng đó là quan điểm của bản thân ban lãnh đạo ngân hàng, trình độ đội ngũ cán bộ tín dụng, công nghệ, trang thiết bị, hệ thống thông tin, nguồn thông tin mà ngân hàng có thể khai thác, và sự phối hợp giữa các cán bộ, bộ phận trong ngân hàng.
Nhân tố chính quyết định tới chất lượng phân tích tín dụng nói riêng và chất lượng phân tích nói riêng đó chính là quan điểm của lãnh đạo ngân hàng. Đây là những người hoạch định chính sách hoạt động, phát triển lâu dài của ngân hàng, tất cả những tiêu chí đánh giá chât lượng phân tích tài chính đều xuất phát từ chính sách, qui định, yêu cầu và đánh giá của lãnh đạo ngân hàng. Việc ra quyết định tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào kết quả phân tích tín dụng của cán bộ tín dụng, song song với đó cần có chính sách quan tâm tới chất lượng phân tích tài chính khách hàng bởi đây là cơ sở đưa tới những quyết định đúng đắn, kịp thời. Để nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng, nhà quản trị có thể sử dụng những chính sách như: động viên khen thưởng những cán bộ tín dụng có kết quả làm việc tốt, thiết lập những qui trình phân tích tín dụng khoa học, hợp lí, trang bị hệ thống công nghệ thông tin tiên tiến… nếu việc cho vay không phụ thuộc nhiều vào kết quả phân tích tín dụng thì chất lượng phân tích sẽ không được quan tâm đầu tư, cải tiến.
Trình độ của cán bộ phân tích cũng là một nhân tố có tính quyết định tới chất lượng phân tích tài chính khách hàng. Để có chất lượng phân tích tốt cần những cán bộ am hiểu chuyên môn, phải biết đọc và hiểu các báo cáo tài chính, có vốn hiểu biết xã hội nhất định, khi tiến hành phân tích một khách hàng cụ thể nào đó thì cần phải hiểu biết cụ thể và chi tiết về ngành nghề kinh doanh, tập quán kinh doanh, phương pháp hạch toán kế toán của khách hàng. Hơn thế nữa cán bộ phân tích tín dụng cũng cần có sự nhanh nhạy và khéo léo trong nghề nghiệp khi xử lí những tình huống tiếp xúc trực tiếp với khách hàng để khai thác thông tin chính xác, đầy đủ.
Một nhân tố hỗ trợ tích cực cho hoạt động phân tích tài chính đó là hệ thống công nghệ thông tin trong ngân hàng. Trong thời đại phát triển như ngày nay thì công nghệ thông tin giúp ích rất nhiều cho mọi hoạt động đặc biệt là hoạt động phân tích tài chính, đó cũng là yếu tố góp phần tạo khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng. Nếu ngân hàng có một hệ thống công nghệ thông tin tốt thì sẽ thúc đẩy nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động phân tích tài chính, giảm thời gian phân tích, nhân viên phân tích có thể sử dụng cơ sở dữ liệu của ngân hàng để tham chiếu một số chỉ tiêu trung bình ngành, với những doanh nghiệp có qui mô tương tự từ đó giúp có kết quả tính toán, nhận xét chính xác hơn. Hệ thống thông tin là rất quan trọng trong hoạt động phân tích, nó không chỉ mang lại nhiều thông tin từ nhiều nguồn, mà còn giúp ngân hàng lưu trữ những thông tin cần thiết về khách hàng, và nhiều loại thông tin khác có liên quan, cung cấp những chương trình xử lí với thời gian nhanh chóng, giảm áp lực và sự phức tạp nếu phải xử lí các số liệu tài chính theo những cách thông thường.
Chất lượng nguồn thông tin mà ngân hàng có thể khai thác có ảnh hưởng tới kết quả phân tích tài chính. Nếu thông tin không chính xác thì không thể cho ra những kết quả phân tích chính xác và từ đó gây nên những rủi ro tiềm ẩn cho ngân hàng. Chất lượng nguồn thông tin có chính xác cập nhật hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tính trung thực của nguồn cung cấp thông tin, đó là khách hàng, là các báo đài, hệ thống thông tin đại chúng, khả năng tìm kiếm thông tin của chính cán bộ ngân hàng…
Hoạt động tín dụng của ngân hàng là kết quả của sự phối hợp giữa nhiều bộ phận trong ngân hàng. Phân tích tài chính khách hàng cũng vậy chất lượng của nó cũng phụ thuộc vào sự phối kết hợp giữa các cán bộ tín dụng. Nếu ngân hàng hoạt động trên cơ sở chuyên môn hóa cao thì chất lượng phân tích có thể đạt kết quả tốt do mỗi một cán bộ chuyên trách một nghiệp vụ, có nhiều kinh nghiệm trong khi xử lí công việc, điều này giúp nâng cao chất lượng phân tích khách hàng.
1.2.3.2 Nhân tố khách quan
Để đạt được chất lượng tốt trong phân tích tài chính khách hàng, không chỉ phụ thuộc vào những nhân tố bên trong ngân hàng, mà nó cũng còn phụ thuộc vào sự hợp tác của khách hàng đối với ngân hàng. Đối tượng của phân tích tài chính là những báo cáo tài chính của khách hàng do chính khách hàng cung cấp, nên muốn làm sáng tỏ tình hình tài chính của khách hàng thì nhất thiết phải có sự cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác từ phía khách hàng.
Tính trung thực của bộ hồ sơ vay vốn là nhân tố quyết định tới kết quả của hoạt động phân tích tín dụng, ngay từ đầu nếu khách hàng có thiện chí cung cấp đầy đủ thông tin chính xác và đầy đủ cho cán bộ tín dụng, sẽ giúp cho quá trình phân tích diễn ra nhanh chóng thuận lợi hơn. Nó không những giảm thiểu, rút ngắn thời gian, chi phí mà còn giúp khách hàng tạo niềm tin với ngân hàng, từ đó giúp khách hàng được khoản tài trợ nhanh nhất có thể.
Thông thường các doanh nghiệp đều có chính sách bảo mật thông tin, nhưng để phân tích tài chính thì ngân hàng lại cần có những thông tin trung thực của doanh nghiệp để có thể đánh giá đúng thực trạng của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có xu hướng bảo mật thông tin cao thì sẽ gây khó khăn cho cán bộ ngân hàng trong quá trình cung cấp, tìm kiếm thông tin, từ đó gây nên khó khăn cho hoạt động phân tích tài chính. Với những doanh nghiệp có chính sách bảo mật thông tin cao thì việc tìm kiếm thông tin chính xác về doanh nghiệp từ những nguồn bên ngoài doanh nghiệp cũng sẽ rất hạn chế và khó khăn.
Những nhân tố khách quan khác cũng góp phần ảnh hưởng tới kết quả phân tích tài chính như: những nguyên nhân do môi trường pháp lí, qui định của các bộ ban ngành có liên quan tới ngân hàng, và cả khách hàng. Hệ thống chuẩn mực kế toán, các chỉ tiêu tài chính trong các báo cáo tài chính… hay môi trường kinh tế xã hội nói chung, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng, tính chất đơn giản hay phức tạp của ngành lĩnh vực mà khách hàng đang sản xuất kinh doanh, sự biến động chung của nền kinh tế, chu kì kinh tế, tình hình xã hội bất ổn hay ổn định, sự ổn định hay biến động của những thị trường khác có liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp và của cả ngân hàng như thị trường nguyên liệu đầu vào, thị trường lao động, thị trường chứng khoán…Tất cả những nhân tố đó đều góp phần ảnh hưởng tới chất lượng phân tích tài chính, gián tiếp hoặc trực tiếp ảnh hưởng tới việc khai thác xử lí thông tin, tới quan điểm nhận thức của những người có liên quan tới quá trình phân tích tài chính… từ đó nó ảnh hưởng tới chất lượng phân tích.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP TẠI CHI NHÁNH
HÀ NỘI NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU
2.1 Khái quát về ngân hàng thương mại Á Châu
2.1.1 Quá trình ra đời và phát triển
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu được thành lập theo giấy phép số 0032/NHGP do Ngân hàng nhà nước cấp ngày 24/04/1993, giấy phép số 533/GP-UB do UBND TP Hồ Chí Minh cấp ngày 13/5/1993. Ngày 04/06/1993 ACB chính thức đi vào hoạt động, hội sở chính tại 442 Nguyễn Thị Minh Khai – Quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay vốn điều lệ của ACB đạt 1100,047 tỉ đồng tính đến thời điểm 14/02/2006.
Mạng lưới kênh phân phối của ACB bao gồm 80 chi nhánh, phòng giao dịch trên toàn quốc. Tại TP Hồ Chí Minh có 26 chi nhánh và 19 phòng giao dịch. Tại khu vực phía bắc: có tất cả 6 chi nhánh, 19 phòng giao dịch tại Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Bắc Ninh, Quảng Ninh. Khu vực miền trung có 6 chi nhánh và 2 phòng giao dịch ở Đà Nẵng, Đăklăk, Khánh Hòa, Hội An và Huế. Có 4 chi nhánh ở khu vực miền Tây Nam Bộ: Long An, Cần Thơ, An Giang, Cà Mau. Miền Đông Nam Bộ có 3 chi nhánh và 3 phòng giao dịch ở các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Vũng Tàu. Hiện nay ngân hàng có trên 5584 đại lý chấp nhận thanh toán thẻ của trung tâm thẻ ACB, 360 đại lý chi trả của trung tâm chuyển tiền nhanh ACB-Western Union.
Hệ thống ACB có 2 công ty trực thuộc đó là: Công ty chứng khoán ACBS và công ty quản lý và khai thác tài sản Ngân hàng Á Châu ACBA. Có 2 công ty liên kết: công ty cổ phần dịch vụ bảo vệ ngân hàng Á Châu ACBD, công ty cổ phần địa ốc ACB (ACBR). Ngoài ra ACB còn liên doanh thành lập công ty cổ phần Sài Gòn kim hoàn ACB-SJC.
Chi nhánh Hà Nội của ngân hàng TMCP Á Châu được chính thức khai trương ngày 14/12/1993 tại địa chỉ 84-86 Bà Triệu. Hiện nay chi nhánh thực hiện tương đối đầy đủ các nghiệp vụ của ngân hàng.
Tính đến ngày 30/9/2006 ACB có tổng số 2.722 nhân viên nghiệp vụ. Cán bộ nhân viên có trình độ đại học và trên đại học chiếm 93%, thường xuyên được đào tạo nghiệp vụ tại trung tâm đào tạo riêng của ngân hàng. Hai năm 1998, 1999 ACB được công ty tài chính quốc tế IFC tài trợ một chương trình hỗ trợ kĩ thuật chuyên về đào tạo nghiệp vụ cho nhân viên, do ngân hàng Far East Bank and Trust Company của Philippin thực hiện. Trong 2 năm 2002, 2003 các cấp điều hành đã tham gia khoá học về quản trị ngân hàng của trung tâm đào tạo ngân hàng (Bank Training Center). Qui trình nghiệp vụ của ngân hàng được chuẩn hóa theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000.
ACB bắt đầu trực tuyến hóa các giao dịch của ngân hàng từ tháng 10/2001 thông qua hệ quản trị nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ TCBS, có cơ sở dữ liệu tập trung và xử lí giao dịch theo thời gian thực. ACB còn là thành viên của hiệp hội viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn thế giới, đảm bảo phục vụ khách hàng trên toàn thế giới trong suốt 24 giờ mỗi ngày. ACB sử dụng dịch vụ tài chính Reuteurs gồm Reuteurs Monitor cung cấp mọi thông tin tài chính và Reu._. nhưng việc khách hàng chậm trả lãi và gốc đã phản ánh chất lượng thẩm định tín dụng khách hàng còn những hạn chế cần khắc phục.
Thực tế cho thấy loại mặt hàng mà doanh nghiệp kinh doanh là những mặt hàng tuy có nhu cầu lớn nhưng đồng thời thị trường hiện nay cũng đang có rất nhiều nhà cung cấp nhưng công ty PS, với giá cả cạnh tranh, chất lượng hậu mãi tốt. Do vậy khả năng mở rộng tăng doanh thu lên gấp đôi năm 2006 của công ty là khó có thể đạt được. Cũng do nguyên nhân phải cạnh tranh giành giật khách hàng mà công ty đã phải thay đổi chính sách bán hàng trả chậm, số ngày trả chậm tăng lên, có khi còn cho phép khách hàng thanh toán sau ngày trả chậm mà vẫn không bị phạt. Chính vì lí do đó mà luồng tiền về của khách hàng không đúng như dự tính của nhân viên tín dụng ban đầu, làm ảnh hưởng tới việc thu nợ.
Một nguyên nhân nữa là do kiến thức của nhân viên tín dụng về đặc điểm kinh doanh của khách hàng là không nhiều. Nguồn thông tin mà nhân viên tham khảo được cũng không sát thực với hiện trạng của khách hàng, do đó những đánh giá dự tính của nhân viên tín dụng cũng không theo sát được với tình hình diễn biến của thị trường. Thực tế cho thấy giá cả của những mặt hàng điện tử, linh kiện vi tính có giá giảm rất nhanh do tốc độ phát triển, những sản phẩm mới liên tục ra mắt làm cho sản phẩm cũ giảm giá nhanh trong thời gian ngắn. Cán bộ tín dụng đã không lường trước được điều này, nên không chú ý tới rủi ro khi khách hàng dự trữ hàng tồn kho quá nhiều. Số hàng tồn kho này bị giảm giá trị từ 30 - 50% chỉ trong thời gian vài ba tháng, đồng thời lại rất khó bán.
2.3 Đánh giá về chất lượng phân tích tài chính khách hàng
2.3.1 Kết quả đạt được
Trong hơn 13 năm hoạt động, ACB Hà Nội đã có những bước phát triển to lớn, tạo được uy tín và lòng tin của khách hàng trên địa bàn phía Bắc. Thực tế cho thấy hoạt động tín dụng của ACB Hà Nội phát triển liên tục đặc biệt là trong những năm gần đây. Tổng dư nợ tín dụng năm 2003 tăng 44% so với năm 2002, năm 2004 tăng 25% so với năm 2003, năm 2005 tăng 42% so với năm 2004.
Bảng 10: TỔNG DƯ NỢ TÍN DỤNG CỦA ACB HÀ NỘI
Đơn vị: triệu đồng
2002
2003
2004
2005
Tổng dư nợ tín dụng
370,800
537,400
683,400
956,500
Cho vay theo thành phần kinh tế
Doanh nghiệp NN
322,440
60.0%
434,205
63.5%
564,335
59.0%
Công ty CP, TNHH, DNTN
118,228
22.0%
141,435
20.7%
181,735
19.0%
Công ty 100% vốn NN
21,496
4.0%
26,940
3.9%
19,130
2.0%
Các đối tượng khác
75,236
14.0%
80,820
11.8%
191,300
20.0%
( Nguồn: Báo cáo nội bộ của ACB Hà Nội) Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy dư nợ tín dụng tăng liên tục trong 4 năm qua, đặc biệt là năm 2005. Để tăng trưởng bền vững và liên tục ACB Hà Nội luôn họat động theo phương châm chung của ACB, tập trung thực hiện tốt những giải pháp có liên quan tới việc hoạch định chiến lược, công nghệ thông tin, nhân lực, quản lí rủi ro, thị phần, sự tuân thủ và niềm tin của khách hàng cũng như của toàn xã hội. Vì lí do đó mà nhiều khách hàng đã duy trì quan hệ rất lâu năm với ngân hàng từ khi mới thành lập tới bây giờ.
Xem xét về thành phần khách hàng của ACB chúng ta có thể thấy 60% dư nợ tín dụng của ngân hàng tập trung vào khách hàng doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước vay vốn tại ACB đều là những doanh nghiệp lớn, có uy tín, tập trung ở lĩnh vực xăng dầu, điện lực hay hàng không…Những doanh nghiệp lớn thường vay với số lượng lớn và đảm bảo bằng tín chấp( uy tín của doanh nghiệp). Bên cạnh đó cùng sự phát triển của các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân và các công ty liên doanh với nước ngoài khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập cùng WTO, thì đối tượng khách hàng của ACB cũng ngày một mở rộng. Tuy chỉ mới chiếm hơn 1/5 tổng dư nợ tín dụng của ACB Hà Nội nhưng loại hình doanh nghiệp này đang là đối tượng khách hàng tiềm năng mà ngân hàng đang hướng tới.
Bảng 11: DƯ NỢ PHÒNG KHDN – ACB HÀ NỘI
Đơn vị: triệu đồng
DƯ NỢ
STT
Thành phần kinh tế
2006
2005
2004
I
Các khoản nợ trong hạn
883158
99.81%
257052
99.99%
146063
99.84%
II
Các khoản nợ quá hạn
1714
0.19%
28
0.01%
241
0.16%
III
Tổng cộng
884872
257081
146304
(Nguồn: Báo cáo nội bộ của ACB- HN)
Nhìn chung tình hình nợ quá hạn của chi nhánh Hà Nội đối với khách hàng doanh nghiệp là rất thấp, ngân hàng thường duy trì tỉ lệ nợ quá hạn dưới 0.2% so với tổng dư nợ. Chủ yếu nợ quá hạn của ngân hàng tập trung ở đối tượng khách hàng cá nhân, cho vay tín chấp hoặc cho vay trả chậm.
Như vậy tình hình hoạt động của ACB Hà Nội là tương đối khả quan, đạt được kết quả như vậy có sự đóng góp của nhiều yếu tố, song yếu tố quan trọng nhất đó là chất lượng phân tích tài chính khách hàng trong quá trình thực hiện thẩm định tín dụng của ngân hàng.
Đánh giá chất lượng phân tích tài chính khách hàng tại ACB Hà Nội theo những chỉ tiêu đã trình bày ở chương I chúng ta có thể thấy:
Thời gian trung bình tiến hàng phân tích được ngân hàng qui định cụ thể: Vay mua ôtô là 3 ngày, vay ngắn hạn, cấp hạn mức tín dụng từ 5 đến 7 ngày, vay trung và dài hạn là từ 7 đến 10 ngày. Chi phí phân tích được ngân hàng cấp cho cán bộ tín dụng dưới dạng công tác phí khoảng 300.000 đồng/tháng. Nó bao gồm chi phí hướng dẫn hồ sơ vay, chi phí phân tích, chi phí xét duyệt, chi phí giấy tờ hợp đồng, công chứng, đăng kí giao dịch đảm bảo…Ngoài ra còn có thêm trợ cấp tiền điện thoại cho nhân viên tín dụng từ 150-200.000đồng/ tháng tùy theo thâm niên và số lượng công việc được giao.
Về nguồn thông tin và số lượng thông tin mà cán bộ tín dụng sử dụng chủ yếu là từ phỏng vấn trực tiếp khách hàng, thông tin được kiểm chứng lại thông qua việc kiểm tra giấy tờ, chứng từ có liên quan, nguồn thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, thông tin từ những đối tác làm ăn của khách hàng, thông tin từ báo chí…Có thể thấy nguồn thông tin được sử dụng là khá phong phú, đa dạng, có độ tin cậy cao tuy nhiên khó khăn chính của ngân hàng là hiện nay ngân hàng chưa có nguồn thông tin cung cấp chuyên nghiệp như nguồn từ trung tâm ICI hay Tổng cục thống kê còn rất hạn chế.
Số lần cán bộ tín dụng xuống cơ sở khi tiến hàng phân tích tín dụng phụ thuộc vào độ phức tạp của hồ sơ và qui mô vay vốn của doanh nghiệp. Thông thường, có 1 buổi kiểm tra định tính, từ 2 đến 3 buổi kiểm tra định lượng hoặc có thể nhiều hơn tùy vào độ phức tạp của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Có 1-2 buổi kiểm tra kho, 1-2 buổi kiểm tra tài sản đảm bảo. Như vậy có thể thấy số lần cán bộ tín dụng xuống cơ sở là khá thường xuyên so với khoảng thời gian phân tích là 10 ngày.
Hiện nay qui trình phân tích tài chính khách hàng của ngân hàng là khá chặt chẽ, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải tuân thủ nghiêm ngặt từng bước cụ thể của qui trình, phải có kinh nghiệm xử lí để có thể đáp ứng được yêu cầu của lãnh đạo ngân hàng, và điều này tạo ra sức ép không nhỏ lên cán bộ tín dụng. Hệ thống chỉ tiêu tài chính mà các cán bộ tín dụng sử dụng hiện nay chủ yếu tập trung vào những chỉ số nổi bật, việc lựa chọn những chỉ số này tùy thuộc vào tình hình tài chính, loại hình hoạt động sản xuất hay kinh doanh, mục đích của bộ hồ sơ vay vốn mà cán bộ tín dụng sẽ lựa chọn những chỉ tiêu hợp lí.
Thường trước khi cho vay cán bộ tín dụng nếu phát hiện thấy mục đích sử dụng vốn thực tế của doanh nghiệp là khác với mục đích mà doanh nghiệp đề nghị khi vay vốn thì họ sẽ tư vấn cho doanh nghiệp vay vốn đúng mục đích, tỉ lệ này là 13%. Còn trong khi cho vay tỉ lệ phát hiện sử dụng vốn sai mục đích là 0%, như vậy có thể thấy chất lượng phân tích tài chính khách hàng ở ACB là tương đối tốt, song vẫn còn tồn tại những hạn chế, nhược điểm cần sửa đổi và hoàn thiện hơn.
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân:
Nhìn chung thời gian phân tích được qui định cho từng loại hồ sơ tín dụng như trên là tương đối hợp lí nhưng do sức ép thiếu nhân viên và tùy vào độ phức tạp của hồ sơ mà thời gian này thường bị kéo dài hơn so với qui định. ACB chủ yếu phát triển rất mạnh ở thị trường phía nam, nhưng ở thị trường phía bắc hiện nay số chi nhánh, phòng giao dịch của ACB còn tương đối ít, số lượng nhân viên tương đối ít, nhu cầu khách hàng lại đông. Do vậy tình trạng thời gian thẩm định bị kéo dài là khó tránh nổi, đồng thời nhân viên phải đảm nhận nhiều vị trí công việc, tính chuyên môn hóa không cao.
Về phía ngân hàng, hiện chưa có bộ phận chuyên lưu trữ thông tin, ngân hàng chưa tự tổng hợp được số liệu trung bình ngành (đây là một việc làm vô cùng khó khăn) do đó những chỉ tiêu tài chính của ngân hàng còn mang nhiều tính chủ quan. Trong khi đó việc tìm kiếm thông tin từ những cơ quan chuyên cung cấp thông tin như CIC (Trung tâm thông tin tín dụng-Ngân hàng nhà nước), Tổng cục thống kê… là rất hạn chế, hoặc thông tin thu thập được khó sử dụng. Nguyên nhân của tình trạng này không phải là khó khăn của riêng ACB mà là khó khăn của toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hiện nay chúng ta chưa có những cơ quan chuyên làm nhiệm vụ cung cấp thông tin khách hàng cho các tổ chức tín dụng. Nếu mỗi ngân hàng tự tiến hành thu thập, phân tích thông tin khách hàng thì rất tốn kém và khó đạt được kết quả chính xác, đầy đủ.
Kiểu phân tích truyền thống của ngân hàng hiện nay tuy có phản ánh được tình hình tài chính của doanh nghiệp nhưng tồn tại những nhược điểm như: kết quả phân tích phụ thuộc vào nguồn thông tin mà khách hàng cung cấp, các chỉ tiêu tài chính mới chỉ được xem xét ở dạng đơn, chưa được bóc tách để phân tích vào tác động của từng yếu tố. Do vậy có thể khi phân tích những chỉ tiêu riêng lẻ sẽ cho ra những kết quả khác nhau. Việc so sánh giữa 1 doanh nghiệp với một số doanh nghiệp cùng ngành hiện nay nhìn chung còn chưa thực sự chính xác, bởi các doanh nghiệp thường không có cùng qui mô, ngành nghề lĩnh vực hoạt động, khả năng quản lí của mỗi doanh nghiệp lại khác nhau, nên việc so sánh này là không hề đơn giản.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG TẠI NHTMCP Á CHÂU
CHI NHÁNH HÀ NỘI
3.1 Định hướng phát triển của ngân hàng
Cùng với sự công nhận của xã hội và những thành tựu đã đạt được ACB luôn phát triển theo phương châm: “Luôn hướng tới sự hoàn hảo để phục vụ khách hàng”. Nối tiếp những thành công đã đạt được, ACB đã để ra phương hướng cho hoạt động những năm tiếp theo bao gồm nội dung chính: Hòan thiện việc phân tích khách hàng, tập trung tăng trưởng và phát triển nhóm khách hàng mục tiêu gồm khách hàng cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Mở rộng thị phần huy động vốn bằng chính sách lãi suất linh hoạt và thêm nhiều gói sản phẩm mới.
Tăng trưởng tín dụng trên cơ sở thận trọng, quản lí tập trung, xây dựng hệ thống chỉ tiêu cấp xét rõ ràng, chuẩn hoá sản phẩm, cải tiến qui trình thủ tục.
Phấn đấu nâng tỉ lệ doanh thu từ dịch vụ lên mức hơn 27%.
Phát triển kênh phân phối, mở rộng chi nhánh và phòng giao dịch, trang bị thêm hệ thống máy ATM, xây dựng hệ thống máy bán hàng chủ động.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nội bộ, tiếp tục thu hút nhân lực mới và nhân lực bên ngoài. Sử dụng hiệu quả các chương trình đào tạo cho Standart Chartered Bank và IFC hỗ trợ.
Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại (PR) theo chiều sâu, xây dựng hình ảnh ACB là một ngân hàng vững mạnh, an toàn, năng động, có trách nhiệm với cổ đông, nhân viên, khách hàng và xã hội.
Với vai trò là chi nhánh miền Bắc, ACB Hà Nội cũng có những mục tiêu phát triển phù hợp với mục tiêu chung của toàn hệ thống. Để đạt được mục tiêu này ABC Hà Nội cần tiếp tục phát huy lợi thế, khắc phục những hạn chế còn tồn tại, góp phần nâng cao chất lượng phân tích tài chính, thẩm định tín dụng khách hàng, đảm bảo hoạt động tín dụng tăng trưởng ổn định và an toàn.
3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng
Thời gian thực tập tại ACB Hà Nội, tôi nhận thấy qui trình thẩm định tín dụng nói chung và qui trình phân tích tài chính khách hàng của ngân hàng là khá chặt chẽ, được các nhân viên tín dụng tuân thủ khá nghiêm ngặt, các báo cáo tài chính, cũng như những thông tin khác có liên quan của khách hàng được sử dụng triệt để. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã có, do sự cạnh trạnh mạnh mẽ của các ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài, với mục tiêu phát triển hoạt động tín dụng trên cơ sở thận trọng, đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng, chất lượng phân tích tài chính khách hàng cần nâng cao và hòan thiện hơn. Tôi xin đưa ra một vài giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng.
3.2.1. Hoàn thiện nội dung phân tích
Mặc dù nội dung phân tích của ACB Hà Nội là tương đối phong phú song cần chú trọng hơn nữa tới việc mở rộng những chỉ tiêu tài chính, nên áp dụng phương pháp phân tích Doupont, bóc tách chỉ tiêu ROE và ROA để thấy rõ hơn những nhân tố tác động tới kết quả hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Tách ROE
ROE = TNST/VCSH = TNST/ TS x TS/ VCSH = ROA x EM
( Trong đó EM là số nhân vốn)
ROE phản ánh mức sinh lợi của một đồng vốn chủ sở hữu – Mức tăng giá trị tài sản cho các chủ sở hữu, còn ROA phản ánh mức sinh lợi toàn bộ danh mục tài sản của doanh nghiệp – khả năng quản lí tài sản của nhà quản lí. EM là hệ số nhân vốn chủ sở hữu, nó phản ánh mức độ huy động vốn từ bên ngoài của doanh nghiệp. Nếu EM tăng điều đó chứng tỏ doanh nghiệp tăng vốn huy động từ bên ngoài. Với công ty PS chúng to có thể nhận thấy rằng hệ số nhân vốn của công ty đã và đang tăng nhanh, đặc biệt từ năm 2004, và nguyên nhân chính để ROE tăng là việc hệ số nhân vốn của doanh nghiệp mở rộng, còn tỉ suất sinh lời trên tổng tài sản của doanh nghiệp biến động không đáng kể.
Tách ROA
ROA = TNST/ TS = TNST/ DT x DT/ TS = PM x AU
PM: doanh lợi tiêu thụ phản ánh tỉ trọng lợi nhuận sau thuế trong doanh thu của doanh nghiệp, khi PM tăng điều dó thể hiện doanh nghiệp quản lí điều hành có hiệu quả.
AU: hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp
Như vậy: ROE = PM x AU x EM
Với công ty PS chúng ta có:
Bảng 12: SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP DOUPONT ĐỂ PHÂN TÍCH ROE, ROA CHO CÔNG TY PS
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Doanh lợi tiêu thụ
0.25%
0.21%
0.19%
0.12%
0.25%
0.21%
Hiệu suất sử dụng TSCĐ
4.76
5.08
4.04
3.79
3.99
3.82
Hệ số nhân vốn
1.15
1.38
2.18
4.43
5.37
6.78
ROE
1.35%
1.46%
1.65%
1.96%
5.44%
5.32%
ROA
1.17%
1.06%
0.76%
0.44%
1.01%
0.78%
Công thức trên có thể cho chúng ta thấy các yếu tố cơ bản tác động tới ROE của doanh nghiệp, đó là khả năng tăng doanh thu, công tác quản lí chi phí, quản lí tài sản và đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp.
Trong quá trình phân tích, cán bộ tín dụng nên quan tâm hơn nữa tới Báo cáo tài chính này. Khi phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ nên xem xét trong cả một hệ thống liên tục. Việc nghiên cứu Báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong một thời gian liên tục sẽ tạo ra cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về tình hình của doanh nghiệp để trả lời những câu hỏi sau:
Doanh nghiệp có khả năng trả nợ như thế nào
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có thường tạo ra đủ tiền để phát triển tình hình tài chính hay trả lãi cổ phần có thường tăng lên hay không.
Doanh nghiệp có khả năng tạo ra tiền từ hoạt động kinh doanh như thế nào.
Việc giải đáp những câu hỏi trên sẽ giúp cán bộ phân tích hiểu rõ hơn về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai.
Chú trọng phân tích dòng tiền vào ra trong mối liên hệ với các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, việc phản ánh này cho phép thể hiện rõ những nguyên nhân và tác động là ảnh hưởng tới việc tăng giảm vốn bằng tiền và các khoản mục tương đương tiền trong kì kinh doanh.
3.2.2 Nâng cao chất lượng nguồn thông tin
Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng phân tích tài chính. Với tình hình phát triển công nghệ thông tin hiện nay, ngân hàng nên thành lập một bộ phận có nhiệm vụ lưu trữ và xử lí thông tin, thu thập thông tin đa chiều, phong phú, cho phép tất cả các nhân viên ngân hàng có thể chia sẻ và khai thác thông tin một cách hiệu quả và dễ dàng.
Thông tin mà ngân hàng cần quan tâm tập trung vào khách hàng, ngành nghề kinh tế, tình hình kinh tế, xã hội, chính trị. Thông tin về khách hàng bao gồm tình hình sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính, vị thế trên thương trường cũng như quan hệ tín dụng của khách hàng với tất cả các tổ chức tín dụng. Nên phân loại khách hàng theo ngành nghề sản xuất kinh doanh. Thường xuyên cập nhật thông tin về khách hàng, sau mỗi chu kì sản xuất hoặc sau mỗi hợp đồng tín dụng được thực hiện. Nguồn thông tin này được các cán bộ trong ngân hàng chia sẻ sử dụng nhưng cũng cần đảm bảo an toàn bảo mật thông tin cho khách hàng.
Thông tin về ngành kinh tế nói chung sẽ cung cấp cho cán bộ tín dụng cái nhìn tổng quát về tình hình chung của toàn ngành. Có thể thu thập thông tin này từ rất nhiều nguồn như báo chí, truyền hình, internet…Từ đó ngân hàng có thể tự tạo lập nên những số liệu trung bình ngành làm chỉ tiêu tham khảo cho việc ra quyết định tín dụng. Tuy nhiên những thông tin này cũng phải thể hiện được xu hướng biến động chung của toàn ngành từ quá khứ tới hiện tại và xu thế phát triển trong tương lai.
Những thông tin về tổng quan tình hình kinh tế, chính trị, xã hội giúp cho nhân viên tín dụng mở rộng thêm hiểu biết về đời sống xã hội, tăng khả năng nhạy cảm nghề nghiệp. Nguồn thông tin này giúp cán bộ tín dụng có thể đánh giá xác định nguyên nhân của sự biến động trong sản xuất kinh doanh của khách hàng là do nguyên nhân khách quan hay chủ quan. Ngoài ra nó còn cho biết phần nào khả năng tạo ra lợi nhuận của những hợp đồng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng.
Với thực trạng của công ty PS, các nhân viên tín dụng đã gặp một số khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn thông tin về những doanh nghiệp có cũng qui mô, lĩnh vực hoạt động tương đồng. Do vậy không có thông tin để so sánh nhận xét tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng trong lĩnh vực kinh doanh linh kiện điện tử. Đồng thời khách hàng cũng tương đối bảo mật thông tin, thông tin trao cho ngân hàng là rất hạn chế và nhỏ giọt, thường nhân viên thẩm định yêu cầu cung cấp thông tin thì khách hàng không cung cấp ngay mà thường phải sau 1 ngày mới có thông tin.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực ở đây được hiểu là những cán bộ tín dụng của ngân hàng, người trực tiếp tạo nên chất lượng phân tích tài chính khách hàng. Để nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng, cần tiến hành đồng thời một số giải pháp như nâng cao trình độ cho cán bộ tín dụng, tăng số lượng cán bộ tín dụng, đổi mới cơ chế quản lí nhân sự trong ngân hàng.
Nâng cao chuyên môn nghiệp vụ: bằng cách thường xuyên củng cố đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ tín dụng. Liên tục củng cố, bổ sung những kiến thức mới đặc biệt là những thay đổi về chế độ kế toán, thông tin kinh tế… cho những cán bộ phân tích tài chính. Ngân hàng nên có chế độ khuyến khích cán bộ đi học sau đại học, nâng cao trình độ chuyên môn. Hiện nay đa số cán bộ của ngân hàng mới chỉ được đào tạo ở các trung tâm đào tạo của ACB ở trong nước. Trong bối cảnh phải mở cửa ngành ngân hàng, tôi nghĩ ACB nên có chính sách đưa nhân viên đi đào tạo ở nước ngoài, học tập tiếp thu ngành công nghệ ngân hàng tiên tiến ở các nước phát triển.
Ngoài việc liên tục nâng cao trình độ cho cán bộ, ngân hàng cũng nên thường xuyên lấy ý kiến góp ý của khách hàng, đây chính là nguồn thông tin quan trọng để ngân hàng có những điều chỉnh đáp ứng nhu cầu khách hàng một cách tốt nhất. Tổ chức giao lưu trao đổi kinh nghiệm, những nhân viên lâu năm hoặc lãnh đạo ngân hàng có thể chia sẻ kinh nghiệm nghề nghiệp của mình cho thế hệ nhân viên mới, giúp họ mau chóng làm quen với công việc và làm việc hiệu quả hơn. Hiện nay nguồn nhân lực trong ngân hàng đang còn thiếu rất nhiều, chính vì vậy ngân hàng nên có chính sách đào tạo thêm nhân viên để giảm áp lực công việc cho những cán bộ hiện nay. Sức ép của công việc quá lớn cũng có thể gây nên những sai sót không đáng xảy ra, và có thể làm giảm chất lượng công việc.
Một cơ chế quản lí theo hướng gần gũi, tạo môi trường làm việc thân thiện giúp các cán bộ tín dụng giảm áp lực công việc, giúp nhau nâng cao năng lực chuyên môn. Xây dựng một tập thể văn hoá, làm việc có trách nhiệm khiến nhân viên gắn bó với ngân hàng hơn. Thực hiện chuyên môn hóa công việc, tách rời nhiệm vụ phân tích với phát triển khách hàng nhằm giảm bớt khối lượng công việc cho nhân viên tín dụng đồng thời tạo điều kiện cho cán bộ phân tích chuyên tâm cho công việc phân tích. Đồng thời cần nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ tín dụng, tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát nhân viên phân tích trong từng giai đoạn trước và trong khi cho vay để đảm bảo qui trình phân tích được thực hiện triệt để, hạn chế những sai lầm mang tính chủ quan của nhân viên tín dụng. Cần có cơ chế phân cấp ủy quyền rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm của nhân viên trong từng khâu.
Rút ngắn thời gian xét duyệt
Hiện nay tại ngân hàng số lượng cán bộ phân tích còn thiếu rất nhiều, do vậy sức ép công việc lên mỗi một nhân viên là rất lớn, điều này gây ảnh hưởng tới thời gian xét duyệt của mỗi hồ sơ. Thêm vào đó là thâm niên công tác của nhân viên tín dụng cũng còn tương đối ngắn nên chưa thực sự có nhiều kinh nghiệm, lại chịu nhiều sức ép công việc nên đây là nguyên nhân lớn dẫn tới thời gian phân tích bị kéo dài. Do vậy cần giải quyết những khó khăn về nhân lực để có thể rút ngắn thời gian phân tích. Đối với những hồ sơ tín dụng trên 5 tỉ cần phải được quyết định bởi hội sở do vậy quá trình xét duyệt diễn ra ở 2 miền làm kéo dài thời gian phân tích, vì thế ngân hàng nên xem xét đổi mới việc phân cấp quyết định tạo thuận lợi cho việc rút ngắn thời gian xét duyệt.
3.2.5 Nâng cao hệ thống cơ sở trang thiết bị công nghệ thông tin
Với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, ngành ngân hàng lại là ngành hoạt động đòi hỏi nhiều thông tin từ nhiền nguồn. Do vậy công nghệ thông tin của ngân hàng là một yếu tố tạo lợi thế cạnh tranh cho ngân hàng. Hiện nay, hệ thông công nghệ thông tin của ACB được xem là hiện đại bậc nhất trong các ngân hàng thương mại cổ phẩn, song để cạnh tranh được với những ngân hàng nước ngoài và tiếp tục giữ vững vị thế cạnh tranh, ngân hàng cần liên tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin của mình. Nâng cấp mạng nội bộ theo tiêu chuẩn quốc tế cả về tốc độ, độ bảo mật, và cả những ứng dụng mở rộng hỗ trợ cho quá trình phân tích diễn ra nhanh chóng, chính xác và khách quan hơn nữa.
ACB Hà Nội là chi nhánh cấp 1 của ngân hàng, lại là chi nhánh lớn nhất miền Bắc, vì vậy mọi hoạt động của chi nhánh Hà Nội đều tuân theo mục tiêu chung của ngân hàng. Tuy nhiên do sự khác biệt hai miền Nam Bắc về văn hoá, phong tục tập quán, quan niệm cũng như phong thái làm việc, để chi nhánh Hà Nội có thể hoạt động hiệu quả hơn nữa ACB nên có chính sách thống nhất trong quản lí, thống nhất trong nội dung trình bày cũng như yêu cầu chung về nội dung phân tích tài chính khách hàng, nhưng cũng cần phù hợp với ACB Hà Nội. Ngân hàng Á Châu nên thường xuyên theo dõi mọi hoạt động của chi nhánh Hà Nội cũng như sự phát triển kinh tế của miền Bắc để có chính sách tín dụng hợp lí, tạo điều kiện cho họat động tín dụng của ACB Hà Nội tăng trưởng an toàn. Đồng thời chính sách lương thưởng cho nhân viên ở hai miền nên đồng đều nhau để động viên họ lao động hết mình, gắn bó với ngân hàng. Việc đào tạo chuyên môn cho nhân viên khu vực phía Bắc nói riêng và cho chi nhánh Hà Nội nói riêng, ngân hàng nên có chính sách quan tâm hơn, tạo điều kiện xây dựng cơ sở đào tạo phía Bắc có chất lượng và cơ sở vật chất tiến gần hơn với trung tâm đào tạo của phía Nam. Đối với những hợp đồng tín dụng qui mô lớn, đòi hỏi phải do Hội sở quyết định, ngân hàng nên tạo điều kiện để rút ngắn thời gian xét duyệt bằng cách trao quyền quyết định cho lãnh đạo cấp cao của ngân hàng ở phía Bắc hoặc đào tạo nâng cao, bổ sung nguồn cán bộ giàu kinh nghiệm cho chi nhánh phía Bắc.
3.3 Kiến nghị
3.3.1 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lí nhà nước đối với mọi hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng, cung ứng và điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền. Do đó để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động phân tích tài chính khách hàng của ACB Hà Nội nói riêng cũng như cho toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung, Ngân hàng Nhà nước nên có những thay đổi, bổ sung và hoàn thiện những vấn đề về hệ thống văn bản pháp luật. Hiện nay những qui định của ngành ngân hàng đã thể hiện nhiều thiếu sót, không phù hợp với sự phát triển của ngành ngân hàng, thay đổi và hoàn thiện những văn bản qui định sẽ giúp các ngân hàng của chúng ta bắt kịp được với sự phát triển của ngành ngân hàng trên thế giới và quan trọng hơn là giữ vững được thị phần và cạnh tranh tốt với những ngân hàng nước ngoài sẽ tham gia vào thị trường Việt Nam sau khi chúng ta ra nhập WTO
Ngân hàng Nhà nước cũng nên nới lỏng giám sát, hạn chế can thiệp quá sâu vào hoạt động của riêng từng ngân hàng, chỉ nên quản lí điều hành ở tầm vĩ mô. Tạo hành lang pháp lí thông thoáng cởi mở để các ngân hàng hoạt động tự do hơn. Một chính sách công bằng giữa ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng thương mại quốc doanh sẽ tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh cho tất cả các ngân hàng thương mại, tăng khả năng cạnh tranh của chính các ngân hàng ở thị trường trong nước. Tạo cơ chế mở để các ngân hàng nước ngòai được tham gia vào thị trường ngân hàng trong nước, đồng thời tạo cơ hội để các ngân hàng trong nước vươn ra thị trường nước ngoài. Hệ thống thông tin liên ngân hàng cũng góp phần nâng cao khả năng thanh toán bù trừ, mở rộng giao dịch liên ngân hàng. Hoàn thiện trung tâm thông tin CIC nhằm cung cấp thông tin cập nhật và đầy đủ về tình hình quan hệ tín dụng của khách hàng với các ngân hàng, giúp cán bộ tín dụng có nguồn thông tin tin cậy khi tìm hiểu khách hàng.
3.3.2 Kiến nghị với các Bộ ngành có liên quan khác
Do hoạt động tín dụng của ngân hàng không chỉ liên quan tới riêng hệ thống ngân hàng và khách hàng, mà nó còn liên quan tới rất nhiều bộ ngành, phụ thuộc vào nhiều văn bản pháp luật của các cơ quan ban ngành khác.
Cơ sở chủ yếu để tiến hành phân tích tài chính là các báo cáo tài chính doanh nghiệp. Nhưng việc xác minh tính chính xác của các báo cáo này là rất khó khăn, chủ yếu cán bộ tín dụng dựa vào báo cáo thuế, nhưng thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nước ta hiện nay thì cán bộ tín dụng vẫn phải đi tìm hiểu thêm tại cơ sở vì nhiều báo cáo thuế không phản ánh hết thực trạng hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp vẫn đang có song song hai hệ thống báo cáo tài chính một báo cáo thuế, một báo cáo nội bộ. Do vậy Bộ Tài chính cần hoàn thiện cơ chế chính sách, hệ thống chuẩn mực kế toán góp phần là trong sạch những báo cáo tài chính doanh nghiệp, giúp cán bộ tín dụng dễ dàng hơn trong việc tìm hiểu, xác minh tính chính xác của báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp, nâng cao chất lượng nguồn thông tin từ đó nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng cho ngân hàng.
Bên cạnh những thông tin của riêng doanh nghiệp, để kết quả phân tích tài chính đạt chất lượng tốt còn cần có những số liệu thống kê ngành mang tính tổng quan do Tổng cục thống kê tổng hợp, để cán bộ tín dụng có thể sử dụng chúng như một cơ sở tham chiếu đánh giá. Hiện nay những số liệu thống kê của Tổng cục thống kê khó có thể sử dụng và phân tích được, nên cơ sở tham chiếu cho các chỉ tiêu ngành mà cán bộ tín dụng muốn sử dụng đều do chính ngân hàng tổng hợp từ những khách hàng của ngân hàng, vì thế nó không bao quát hết được toàn bộ thực trạng của ngành. Trong thời gian tới, Tổng cục thống kê nên đổi mới, cải tiến, nâng cao chất lượng thông tin để giúp các ngân hàng nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng.
Thực trạng công nghệ thông tin của ngành ngân hàng hiện nay là tương đối khó khăn, những phần mềm sử dụng trong ngân hàng đều do các ngân hàng tự trang bị bằng cách mua từ nước ngoài. Còn sự giúp đỡ của ngành công nghệ thông tin trong nước là rất hạn chế. Vì thế các cơ quan ban ngành có liên quan tới ngành công nghệ thông tin nên có chính sách trợ giúp ngân hàng để người dân dần làm quen với công nghệ ngân hàng hiện đại như e-banking, phone-banking…
Một vấn đề có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động tín dụng đó là việc định giá tài sản, thông thường khách hàng của ngân hàng thường sử dụng bất động sản làm tài sản thế chấp. Hiện nay việc định giá bất động sản nhìn chung còn nhiều bất cập, giá bất động sản mà nhà nước đưa ra chưa sát với giá trị thị trường của chúng, do vậy gây khó khăn cho việc định giá bất động sản của cán bộ tín dụng. Vì thế Bộ Nông nghiệp, Bộ Xây dựng cũng như các Bộ có liên quan cần hoàn chỉnh những văn bản có liên quan tới quyển sở hữu, sử dụng cũng như giá bất động sản để tạo thuận lợi cho các cán bộ thẩm định có cơ sở pháp lí ổn định và sát với thực tế khi thẩm định những bất động sản này.
Để nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng cần có những thay đổi của các yếu tố khách quan lẫn chủ quan từ phía ngân hàng, khách hàng và các cơ quan bộ ngành có liên quan. Tất cả cần tạo nên một khung pháp lí ổn định, chặt chẽ phù hợp với tình hình kinh tế xã hội, đồng thời yếu tố con người- nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất để cùng phối hợp nâng cao chất lượng hoạt động phân tích tài chính nói riêng cũng như chất lượng của hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu.
KẾT LUẬN
Qua quá trình thực tập tại Phòng khách hàng doanh nghiệp chi nhánh ACB Hà Nội, cùng với sự hướng dẫn nghiên cứu về chất lượng phân tích tài chính khách hàng của các thầy cô giáo, tôi đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp đề tài: Nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng tại chi nhánh Hà Nội Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trường Đại học Kinh tế Quốc dân, các anh chị nhân viên Ngân hàng Á Châu đã giúp tôi nghiên cứu tìm hiểu vấn đề một cách khoa học, chính xác và nghiêm túc.
Đề tài nghiên cứu của tôi không thể tránh khỏi những sai sót trong quá trình thực hiện, vì vậy kính mong các thầy cô giáo, các anh chị trong ngân hàng nhiệt tình giúp tôi sửa chữa để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29459.doc