LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế cao nhất thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đã khiến nhu cầu về vốn của các NHTM ngày càng lớn, để đầu tư phát triển. Trong điều kiện đó những năm qua ở nước ta vốn đầu tư của ngân sách hạn hẹp, vốn tự có của doanh nghiệp hạn chế, thị trường chứng khoán chưa phát triển nên nguồn vốn giành cho tăng trưởng chủ yếu là từ hệ thống ngân hàng nhất là các ngân hàng thương mại nhà nước. Nguồn vốn của các ngân hàn
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1287 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Sơn La, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g thương mại nhà nước chiếm tới 76% thị phần cung ứng vốn tín dụng của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Mặc dù vấn đề huy động vốn có ý nghĩa quan trọng, song trong năm qua toàn bộ hệ thống ngân hàng nói chung và chi nhánh chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển tỉnh Sơn La nói riêng chịu ảnh hưởng mạnh từ chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát của Chính phủ. Trong một môi trường với các điều kiện; thay đổi liên tục, cả hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn: thiếu hụt thanh khoản kéo dài; Các Ngân hàng thương mại luôn cạnh tranh gay gắt về lãi suất huy động, để thu hút nguồn tiền gửi tiết kiệm hiếm hoi, và nhu cầu vốn của khách hàng tăng cao buộc các NHTM phải đặc biệt chú trọng đến công tác huy động vốn và được quan tâm hàng đầu trong các chương trình nhiệm vụ công tác; nhằm đảm bảo thanh khoản và tăng trưởng nguồn vốn phục vụ cho đầu tư phát triển.
Nhận thức được vai trò to lớn của vốn đối với nền kinh tế nước nhà, tầm quan trọng của vốn đối với sự phát triển kinh tế của tỉnh. Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Sơn La đã có chủ trương, giải pháp tăng cường huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn dỗi, để có nguồn vốn đáp ứng nhu cầu tăng trưởng nền kinh tế, nâng dần tính ổn định và duy trì mức chi phí hợp lý, đáp ứng yêu cầu xin vay hợp lý của khách hàng. Những năm qua nguồn vốn huy động tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Sơn La luôn tăng, song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về vốn phục vụ khách hàng, bởi còn gặp phải một số hạn chế, khó khăn.
Đây là lý do khiến em chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Sơn La” làm đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Đề tài tuy không phải là mới song em thiết nghĩ thực trạng và giải pháp huy động vốn vẫn là vấn đề cần thiết và cấp bách trong bối cảnh phát triển vốn hiện nay.
Bài viết gồm 3 phần chính:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động huy động vốn của NHTM
Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Sơn La
Chương III: Giải pháp huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Sơn La.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo - Thạc sỹ Lương Hương Giang, cùng các Bác, cô chú, anh chị công tác tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Sơn La đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này!
Do chưa có kinh nghiệm thực tế nên bài viết của em còn nhiều thiếu sót rất mong được sự góp ý của các thầy cô, các Bác, cô chú, anh chị tại Chi nhánh để bài viết của em được hoàn chỉnh.
CHƯƠNG I:
HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1. Khái niệm
Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, là cầu nối giữa những tổ chức, cá nhân tạm thời thâm hụt chi tiêu tổ chức cá nhân có tiền nhàn rỗi thông qua hoạt động thu hút nguồn tiền nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư và tiến hành cấp tín dụng cho những đối tượng cần vay tiền. Với một mạng lưới rộng khắp, một quá trình hoạt động lâu dài, quy trình nghiệp vụ và công nghệ hiện đại cùng nhiều mối quan hệ truyền thống, các NHTM đã trở thành kênh huy động vốn có hiệu quả, một kênh tín dụng đáp ứng nhu cầu cho vay của mọi khách hàng, một trung gian thanh toán tiện lợi và nhanh chóng. Thông qua chức năng này, NHTM góp phần tạo lợi ích cho tất cả các chủ thể kinh tế tham gia vào lợi ích chung của nền kinh tế.
Có thể hiểu NHTM là một tổ chức tài chính cung cấp danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng nhất định so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Theo luật các tổ chức tín dụng 1997 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ghi: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Thành tựu của hệ thông Ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua là kết quả của nhiều nhân tố tác động. Cùng với quá trình cải cách kinh tế nói chung, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm cải cách trong lĩnh vực ngân hàng. Các chính sách tiền tệ - tín dụng của Nhà nước góp phần thúc đẩy sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Kinh tế thị trường đã thúc đẩy quá trình xâm nhập và phát triển của tư tưởng và tác phong kinh doanh mới trong Ngân hàng. Sự có mặt của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh đã góp phần tạo ra những động lực mới cho sự phát triển của hệ thống NHTM Việt Nam.
2. Các nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại
NHTM được xem là một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ, với chức năm là trung gian tín dụng. Các NHTM vừa là chủ thể đi vay nhưng cũng vừa thực hiện cho vay. Từ đó, nghiệp vụ hoạt động chủ yếu của NHTM là nghiệp vụ huy động vốn và nghiệp vụ sử dụng vốn. Thông qua hai nghiệp vụ này ngân hàng đã cung cấp các dịch vụ trung gian khác.
2.1. Nghiệp vụ huy động vốn
Đây là hoạt động đầu tiên và rất quan trọng của một ngân hàng. Để tạo nguồn vốn cho mình các ngân hàng thực hiện huy động vốn sau:
Vốn chủ sở hữu: nguồn này được hình thành từ đóng góp của các cổ đông và các quỹ của ngân hàng hình thành trong quá trình kinh doanh thể hiện dưới hình thức lợi nhuận không phân chia.
Hoạt động huy động tiền gửi: Là việc ngân hàng huy động nhận tiền gửi, tiền nhàn rỗi trong dân cư nhằm mục đích thanh toán, hưởng lãi của các cá nhân, hộ gia đình.
Hoạt động đi vay: Là hoạt động ngân hàng tạo ra nguồn vốn bằng cách vay các tổ chức tín dụng, vay trên thị trường tiền tệ, vay NHNN dưới hình thức tái chiết khấu, vay có bảo đảm…. mục đích tạo sự cân đối trong điều hành vốn của NHTM khi họ không tự cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ. Ngân hàng cũng có thể huy động bằng cách phát hành giấy tờ có giá. Ngân hàng sử dụng cách này để thu hút các khoản vốn có tính chất dài hạn với ngân hàng vào nền kinh tế. Ngoài ra, nghiệp vụ này còn giúp NHTM tăng cường tính ổn định của đồng vốn trong hoạt động kinh doanh của mình.
Hoạt động huy động vốn khác: NHTM có thể tạo vốn cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các doanh nghiệp, cá nhân hay tổ chức trong và ngoài nước.
Nghiệp vụ huy động vốn là một khâu quan trọng trong chu trình hoạt động kinh doanh của NHTM mà sẽ được đi sâu nghiên cứu trong Chương II, hoạt động huy động vốn ngày càng được mở rộng thì uy tín, vị thế của ngân hàng ngày càng được khẳng định và nâng cao. Việc mở rộng kênh huy động vốn là một trong những mục tiêu của ngân hàng song điều quan trọng là ngân hàng cần phải căn cứ vào mục tiêu, chiến lược phát triển kinh doanh của ngân hàng, chiến lược phát triển kinh tế của ngành, của vùng… để có đủ vốn và cơ cấu phù hợp với chi phí huy động hợp lý cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn
Hoạt động chính của NHTM là huy động vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàng trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan trọng đồng thời đây cũng là hoạt động trực tiếp đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Các nguồn vốn mà NHTM có được đều phải mất chi phí và do đó ngân hàng phải thực hiện nghiệp vụ sử dụng vốn một cách an toàn và hiệu quả, đảm bảo thu hồi vốn, đủ bù đắp chi phí và có lãi. Trong ngân hàng có các hoạt động sử dụng vốn sau:
Nghiệp vụ ngân quỹ: Với mục đích đảm bảo an toàn khả năng thanh toán thường xuyên của ngân hàng, nghiệp vụ ngân quỹ được thể hiện qua các khoản mục sau:
Tiền mặt tại quỹ: Bao gồm tiền giấy, tiền kim loại có tại kho ngân hàng. Nhu cầu dự trữ tiền mặt cao hay thấp là tùy thuộc quy mô hoạt động, nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng và tính chất thời vụ trong năm.
Tiền gửi tại ngân hàng khác: Các ngân hàng có thể mở tài khoản lẫn nhau để đổi lấy những dịch vụ khác nhau như: trung gian thanh toán cho khách hàng, giao dịch ngoại tệ, mua bán chứng khoán…
Tiền gửi tại ngân hàng Trung ương: Bao gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy định của ngân hàng Trung ương và tiền gửi thanh toán. Mức tiền gửi dự trữ bắt buộc trong từng thời kỳ thường chiếm tỷ lệ từ 10 – 35% trên nguồn vốn huy động. Dự trữ bắt buộc vừa là một biện pháp để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, vừa là một trong những công cụ điều tiết cung cầu tiền tệ trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
Các bộ phận trên hình thành nên phần dự trữ của các NHTM. Mặc dù dự trữ của NHTM không tạo nên lợi nhuận nhưng nó đảm bảo khả năng thanh toán và các nghĩa vụ tài chính khác cho ngân hàng. Nó hạn chế nguy cơ rủi ro thanh khoản, góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng, tạo nên nền tảng vững chắc cho khả năng sinh lời của ngân hàng.
Chứng khoán: NHTM nắm giữ chứng khoán vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hóa tài sản. Ngân hàng giữ nhiều loại chứng khoán có thể là chứng khoán của chính phủ, của địa phương, chứng khoán của các ngân hàng khác, của công ty tài chính hay doanh nghiệp phát hành. Ngân hàng giữ chứng khoán vì chúng mang lại thu nhập cho ngân hàng và có thể bán được để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết. Trong đó chứng khoán ngắn hạn của chính phủ thường được xếp hàng đầu trong số các chứng khoán thanh khoản, được giữ như một tài sản đệm cho ngân quỹ: chúng sinh lời cao hơn ngân quỹ và khi cần có thể bán để chi trả như ngân quỹ. Chứng khoán chính phủ có thời gian đáo hạn dài, chứng khoán trung và dài hạn của các công ty có tỷ lệ sinh lời cao ngân hàng thường nắm giữ đến ngày đáo hạn để hưởng lợi. Ngân hàng cũng nắm chứng khoán công ty để thực hiện quyền tham dự, kiểm soát hoạt động công ty.
Nghiệp vụ tín dụng: Đây là nghiệp vụ cung ứng vốn của ngân hàng trực tiếp cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và tiêu dùng xã hội. Nghiệp vụ này sử dụng lượng vốn lớn nhất và tạo lợi nhuận nhiều nhất, khi thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng có thể kiểm soát trực tiếp và thường xuyên mục đích sử dụng tiền vay. Có nhiều hình thức phân loại tín dụng.
Theo thời gian: có tín dụng ngắn hạn, trung hạn, dài hạn
Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống tài trợ cho tài sản lưu động
Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn.
Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm tài trợ cho công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu.
Việc xác định thời hạn trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn. Tín dụng ngắn hạn tại các NHTM thường chiếm tỷ trọng cao hơn tín dụng trung và dài hạn.
Theo hình thức tài trợ: Tín dụng được chia thành
Chiết khấu thương phiếu: Là nghiệp vụ cho vay ngắn hạn trong đó ngân hàng mua những thương phiếu chưa đến hạn thanh toán với giá trị bằng giá trị thương phiếu trừ đi phần lợi tức chiết khấu và hoa hồng phí. Đến thời hạn thanh toán thương phiếu ngân hàng sẽ đòi người mắc nợ theo giá trị của thương phiếu.
Cho vay ứng trước: Là một hình thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó người đi vay được phép sử dụng một hạn mức tín dụng trong một thời gian nhất định. Để thực hiện nghiệp vụ này ngân hàng mở cho khách hàng một tài khoản, chuyển số tiền cho vay vào tài khoản để khách hàng sử dụng theo nhu cầu.
Cho vay thấu chi: Là hình thức đặc biệt của tín dụng ứng trước, thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, khách hàng có thể sử dụng một số tiền trong một thời hạn nhất định vượt quá số dư ngay trên tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng.
Để đa dạng hóa nghiệp vụ tín dụng và đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng ngân hàng còn có các hình thức cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho vay gián tiếp…
Theo tài sản đảm bảo: Có các loại tín dụng sau
Nghiệp vụ cho vay cầm cố: Ngân hàng có thể cho vay khi người đi vay có tài sản cầm cố tại ngân hàng dưới các hình thức như: tài sản là động sản, các chứng từ có giá (Sổ tiết kiệm,kỳ phiếu, trái phiếu, chứng khoán…), vàng, bạc.
Nghiệp vụ cho vay thế chấp tài sản: Ngân hàng cho vay trên cơ sở người đi vay mang các giấy tờ sở hữu các loại tài sản là bất động sản để thế chấp vay vốn. Nghiệp vụ này cũng tương tự như nghiệp vụ cho vay cầm cố nhưng khác ở chỗ là trong suốt thời hạn cho vay tài sản thế chấp vẫn được người đi vay sử dụng, ngân hàng chỉ nắm giữ hồ sơ gốc.
Nghiệp vụ cho vay không cần tài sản đảm bảo (tín chấp): Có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay.
Ngoài ra còn có các hình thức phân loại tín dụng khác như: theo ngành kinh tế có tín dụng công, nông, lâm, ngư nghiệp; theo mục đích là sản xuất hay tiêu dùng…
Nghiệp vụ đầu tư: Bộ phận vốn được ngân hàng sử dụng phải có tính ổn định cao, chủ yếu là vốn tự có. Các hình thức đầu tư phổ biến như: liên doanh, đầu tư chứng khoán. Nghiệp vụ này còn góp phần nâng cao năng lực thanh toán của ngân hàng và bảo toàn được ngân quỹ.
Nghiệp vụ sử dụng vốn khác: Đối với ngân hàng mới thành lập phải dành một phần vốn cần thiết để đầu tư mua sắm tài sản cố định, phương tiện làm việc của ngân hàng. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng luôn phải quan tâm đổi mới công nghệ, cơ sở vật chất tương ứng với quy mô kinh doanh và nâng cao chất lượng phục vụ khách khàng, hội nhập với tiến trình phát triển của thế giới. Đồng thời ngân hàng tổ chức các lớp đào tạo, khen thưởng nhằm nâng cao trình độ kỹ năng nghề nghiệp và khuyến khích tinh thần làm việc của cán bộ nhân viên.
2.3. Các nghiệp vụ trung gian
Nghiệp vụ trung gian chủ yếu và thường xuyên của ngân hàng là trung gian thanh toán. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần.
Nền kinh tế ngày càng phát triển, các dịch vụ của ngân hàng cũng phát triển theo để đáp ứng nhu cầu càng phong phú đa dạng của khách hàng. Qua việc thực hiện các dịch vụ trung gian: tư vấn, môi giới, ủy thác, bao thanh toán, đại lý bảo hiểm, mua bán ngoại tệ ngân hàng được hưởng thu nhập từ phí hoặc hoa hồng. Các dịch vụ tiện ích như cho thuê két sắt, bảo quản vật có giá, đổi tiền cũng góp phần tăng thu nhập từ phí dịch vụ cho ngân hàng.
Các hoạt động trung gian phản ánh mức độ phát triển của ngân hàng. Việc đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ cung ứng sẽ làm tăng thu nhập cho ngân hàng, tăng uy tín và khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Thực hiện tốt các hoạt động này, ngân hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn, điều đó cũng tạo điều kiện phát triển hoạt động huy động vốn và cho vay của ngân hàng. Đồng thời với các hoạt động trung gian này, NHTM góp phần làm tăng khả năng chu chuyển của đồng vốn, giảm lượng tiền mặt trong lưu thông do đó tiết kiệm được chi phí lưu thông trong xã hội.
II. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
Nguồn vốn của NHTM là tất cả các nguồn tài chính mà NHTM có quyền sử dụng để tổ chức và thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình.
1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu: là vốn thuộc sở hữu của các chủ ngân hàng. Tuy chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn nhưng có vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh, nó là căn cứ để tính toán các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng, là nguồn có thể sử dụng lâu dài hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng bao gồm:
Nguồn vốn hình thành ban đầu (vốn tự có ban đầu)
Vốn này được hình thành khi ngân hàng mới bắt đầu hoạt động. Số lượng vốn này tùy theo năng lực tài chính và tính chất sở hữu. Nếu là ngân hàng tư nhân thì đó là vốn do cá nhân tự bỏ ra; nếu là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước thì do ngân sách nhà nước cấp; nếu là ngân hàng cổ phần thì do cổ đông đóng góp thông qua mua các cổ phần (hoặc cổ phiếu); nếu là ngân hàng liên doanh thì do các bên tham gia liên doanh góp vốn…
Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể.
Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ ngân hàng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Thường những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận có thể cao hơn so với vốn của chủ hình thành ban đầu.
Vốn của chủ còn được bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm hoặc được cấp thêm… để mở rộng quy mô hoạt động hoặc để đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn của chủ do NHNN quy định.
Ngân hàng có thể gia tăng vốn của chủ từ các quỹ: Ngân hàng thường lập nhiều quỹ, mỗi quỹ có mục đích riêng.
Quỹ dự phòng tổn thất: quỹ này được trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra.
Quỹ bảo toàn vốn: nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát.
Quỹ thặng dư: là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới.
Ngoài ra ngân hàng thường trích lập các quỹ từ lợi nhuận sau thuế như quỹ khen thưởng, quỹ đào tạo, quỹ phúc lợi, quỹ nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới…
Vốn bổ sung bằng phát hành giấy nợ có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu. Một số ngân hàng coi cổ phần ưu đãi có thời hạn, các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần là một bộ phận của vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Do nguồn này có thể sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
Vốn chủ sở hữu có vai trò quan trọng trong hoạt động của NHTM. Nó không những tạo cảm giác an tâm cho người gửi tiền mà còn tạo lập tư cách pháp nhân và duy trì hoạt động ngân hàng. Bởi nếu quy mô vốn của chủ lớn, người gửi tiền và người cho vay sẽ cảm thấy an tâm hơn về ngân hàng (với các điều kiện khác là như nhau). Mặt khác để hoạt động, điều kiện đầu tiên là ngân hàng phải có được số vốn tối thiểu ban đầu (vốn pháp định). Số vốn này trước hết để mua sắm hoặc thuê trang thiết bị, nhà cửa cần thiết cho quá trình kinh doanh, phần còn lại tham gia vào quá trình kinh doanh của ngân hàng như cho vay, mua bán chứng khoán…Cũng thông qua vốn của chủ, chúng ta có thể tính được các tỷ lệ quy mô nguồn tiền gửi trên vốn của chủ, hệ số COOK, ROE, quy mô cho vay tối đa đối với một hoặc một nhóm khách hàng…
1.2. Vốn nợ
Là nguồn chủ yếu trong hoạt động của ngân hàng bao gồm tiền gửi, tiền vay và các nguồn vốn khác.
2. Huy động vốn của ngân hàng thương mại
Huy động vốn là nghiệp vụ cơ bản của NHTM nhằm thu hút vốn từ bên ngoài phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Thông qua nghiệp vụ này sẽ hình thành nên nguồn vốn kinh doanh cho ngân hàng.
Ngoài lợi nhuận giữ lại ngân hàng thường huy động những nguồn vốn sau.
2.1. Phát hành cổ phiếu
Để huy động vốn các NHTM cổ phần có thể phát hành cổ phiếu nhằm mở rộng quy mô hoạt động hoặc để đổi mới trang thiệt bị hay để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn của chủ do NHNN quy định. Tuy nhiên việc huy động vốn bằng cách này không phải là việc làm thường xuyên và dễ dàng đối với các ngân hàng. Việc phát hành cổ phiếu với số lượng và mệnh giá như thế nào cần phải được xem xét kỹ lưỡng bởi hội đồng quản trị và phải được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thông qua. Thông thường thì những cổ phiếu của những ngân hàng cổ phần lớn có uy tín được ưa chuộng hơn là cổ phiếu của những ngân hàng cổ phần vốn nhỏ và không nổi tiếng.
2.2. Huy động tiền gửi
Là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn và có vai trò chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của NHTM bao gồm:
Tiền gửi không kỳ hạn
Là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào. Khách hàng có thể yêu cầu ngân hàng trích tiền trên tài khoản để chuyển trả cho người thụ hưởng, hoặc chuyển số tiền được hưởng vào tài khoản này. Đối với khoản tiền gửi này, mục đích chính của người gửi tiền là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các khoản thanh toán qua ngân hàng, do vậy nó còn được gọi là tiền gửi thanh toán. Tiền gửi không kỳ hạn có chi phí thấp, tuy nhiên ngoài chi phí trả lãi, còn có chi phí phát sinh trong hoạt động phục vụ thanh toán.
Để tăng nguồn tiền gửi không kỳ hạn ngân hàng phải đa dạng hóa và thực hiện tốt các dịch vụ trung gian, huy động nhiều khách hàng là các doanh nghiệp lớn sẽ làm cho mức dư tiền gửi bình quân tại ngân hàng luôn cao và ổn định, tạo điều kiện cho ngân hàng có thể sử dụng lượng tiền này để cho vay mà không làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng.
Tiền gửi có kỳ hạn
Là loại tiền gửi mà khách hàng được rút ra sau một thời gian nhất định theo kỳ hạn đã được thỏa thuận khi gửi tiền. Mục đích của người gửi tiền là lấy lãi cho nên ngân hàng có thể chủ động kế hoạch hóa việc sử dụng nguồn vốn vì chủ động được thời gian. Mức lãi suất cụ thể phụ thuộc vào thời gian gửi tiền và sự thỏa thuận giữa hai bên về những điều kiện đảm bảo an toàn trong quan hệ tín dụng. Để mở rộng khoản vốn này, ngoài biện pháp lãi suất ngân hàng có thể thực hiện một số biện pháp nhằm tạo nên tính lỏng cho loại tiền gửi có kỳ hạn như cho phép khách hàng rút trước hạn hoặc xổ số trúng thưởng...
Song đối với các khoản tiền gửi khách hàng rút ra trước hạn, ngân hàng thường áp dụng lãi suất của kỳ hạn ngắn hơn hoặc lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn. Khách hàng gửi tiền có kỳ hạn nhìn chung không được phát hành séc hoặc sử dụng dịch vụ ngân hàng từ tài khoản này. Ngân hàng được toàn quyền sử dụng lượng vốn này trong thời hạn khách hàng gửi tiền nên hiệu quả sử dụng nguồn vốn này là rất cao.Tuy nhiên chi phí huy động của loại vốn này lại khá đắt vì lãi suất huy động cao hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm
Là loại tiền gửi để dành của các tầng lớp dân cư, được gửi vào ngân hàng để được hưởng lãi, hình thức phổ biến của loại tiền gửi này là tiết kiệm có sổ. Là loại tiết kiệm người gửi tiền được ngân hàng cấp cho một sổ dùng để gửi tiền vào và rút tiền ra, đồng thời nó còn xác nhận số tiền đã gửi.
Ở Việt Nam hình thức gửi tiền tiết kiệm phổ biến là:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại mà khách hàng có thể gửi nhiều lần và rút ra bất cứ lúc nào, ngân hàng trả lãi theo số dư bình quân hàng tháng nhân với lãi suất, lãi được nhập gốc hàng tháng.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là loại tiền gửi được rút gốc và lãi sau một thời gian nhất định. Tuy nhiên nếu khách hàng có nhu cầu rút trước thời hạn có thể được đáp ứng nhưng phải chịu lãi suất thấp. Nếu đến hạn người gửi không có nhu cầu sử dụng thì ngân hàng tự động nhập lãi vào gốc và tiếp tục được hưởng lãi kỳ tiếp theo.
Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Thường là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn, người tham gia ngoài việc được ngân hàng trả lãi còn được ngân hàng cấp tín dụng nhằm mục đích bổ sung thêm vốn để mua sắm các phương tiện phục vụ nhu cầu tiêu dùng.
Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi phi giao dịch. Chúng có cùng tính chất là được hưởng lãi cao và chủ tài khoản không được phát hành séc. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích người dân thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn. Với hình thức tiền gửi này, người gửi tiền nhận được sổ tiết kiệm. Tuy sổ tiết kiệm này không được dùng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn ngân hàng.
Tiền gửi của các ngân hàng khác
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, NHTM này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, quy mô nguồn tiền này không lớn.
Đặc điểm chung của nguồn tiền gửi là phải được thanh toán khi khách hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn nhưng chưa đến hạn. Quy mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường nguồn này chiếm 65 -70% tổng nguồn vốn và được huy động thường xuyên. Là đối tượng phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi trả cho tiền gửi. Ở nhiều nước, ngân hàng phải mua bảo hiểm cho tiền gửi. Tiền gửi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn thường nhạy cảm với các biến động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiêu,…Việc huy động tiền gửi chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố như địa điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, phương thức huy động, các dịch vụ tiện ích của ngân hàng,…
2.3. Vốn vay
Các NHTM có thể vay vốn từ Ngân hàng Trung ương, các NHTM hoặc các trung gian tài chính khác và vay từ công chúng dưới các hình thức:
Vay Ngân hàng Trung ương
Bất kỳ NHTM nào khi được Ngân hàng Trung ương cấp giấy phép hoạt động đều được vay vốn tại Ngân hàng Trung ương trong trường hợp cần bổ sung vốn khả dụng. Nghiệp vụ vay vốn này được Ngân hàng Trung ương thực hiện dưới hình thức phổ biến là tái cấp vốn, bao gồm tái chiết khấu các loại giấy tờ có giá và cho vay cầm cố, thế chấp. Khoản vay này liên quan đến lượng tiền cung ứng của Ngân hàng Trung ương, đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Do đó, các Ngân hàng Trung ương điều hành việc vay mượn này một cách chặt chẽ, các NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định.
Vay các tổ chức tín dụng khác
Qua thị trường liên ngân hàng nhằm mục đích đảm bảo nhu cầu vốn khả dụng trong thời gian ngắn, các ngân hàng có thể khai thác các khoản vốn nhàn rỗi từ các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác. Hoạt động vay mượn này nhằm mục đích điều hòa nhu cầu vốn khả dụng và đảm bảo nguồn vốn lưu chuyển thông suốt liên tục trong hệ thống ngân hàng.
Phát hành các chứng từ có giá (Chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu)
Ngân hàng chủ động phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng để huy động vốn nhằm thực hiện các dự án đầu tư đã định. Việc huy động vốn dưới hình thức phát hành chứng từ có giá được thực hiện theo hai phương thức: phát hành theo mệnh giá (trả lãi sau, người mua trả tiền theo mệnh giá được ghi trên bề mặt chứng từ); phát hành bằng hình thức chiết khấu (trả lãi trước, người mua sẽ trả một số tiền bằng mệnh giá trừ đi khoản lãi mà họ được hưởng). Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo, những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao hơn sẽ vay mượn được nhiều hơn. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng.
2.4. Các nguồn vốn khác
Khi ngân hàng có những mối quan hệ quốc tế rộng lớn còn có thể tranh thủ các khoản vốn tín dụng hoặc tiếp nhận từ các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. Bao gồm các nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán và các nguồn vốn khác…
III. Vai trò vốn của ngân hàng thương mại
1. Đối với nền kinh tế
Ngân hàng là một trung gian tài chính và thông qua hoạt động của mình, ngân hàng đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn. Bằng phương thức huy động các nguồn vốn nhỏ lẻ nhàn rỗi hoặc tạm thời nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư để đáp ứng các yêu cầu về sử dụng vốn của các chủ thể có dự án hoặc kế hoạch sử dụng vốn hiệu quả. Sự kết hợp các nghiệp vụ huy động vốn, sử dụng vốn với các dịch vụ trung gian, ngân hàng đã tập hợp và phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế một cách hiệu quả, đồng thời giảm thiểu chi phí vốn cho nền kinh tế. Bởi sự ra đời của ngân hàng đã giảm thiểu chi phí một cách đáng kể, khi ta tưởng tượng không có NHTM nói riêng và các trung gian tài chính nói chung: người cho vay sẽ phải tìm gặp người đi vay có nhu cầu vay vốn phù hợp với vốn liếng của mình, sau đó phải thẩm định dự án của người đi vay. Không những thế thông qua kỹ năng hoạt động của ngân hàng cũng đã hạn chế được các vấn đề của thị trường như thông tin không cân xứng: sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức…
Hoạt động huy động vốn của NHTM đã đem lại thu nhập cho những người gửi tiền và làm đa dạng hóa thêm danh mục đầu tư của những người có tiền. Gửi tiền vào ngân hàng được đánh giá là một trong những sự lựa chọn an toàn và có tính sinh lời thông qua việc nắm giữ các trái phiếu, kỳ phiếu hay sổ tiết kiệm tiền gửi của ngân hàng. Ngày nay khi thị trường tài chính phát triển đã làm tăng tính lỏng của các công cụ huy động vốn của ngân hàng. Ngoài việc hưởng lãi từ các chứng chỉ tiền gửi. kỳ phiếu, trái phiếu, sổ tiết kiệm, khách hàng có thể hưởng chênh lệch giá từ việc mua bán chúng, mang đi chiết khấu... khi cần tiền, chúng có thể là tài sản thế chấp khi đi vay nếu ngân hàng chấp nhận.
Mặt khác, thông qua hoạt động huy động vốn của NHTM cũng góp phần hình thành nên tỷ suất lợi nhuận tối thiểu của các doanh nghiệp. Nó buộc các doanh nghiệp phải hoạt động với tỷ suất lợi nhuận lớn hơn so với lãi suất huy động của các ngân hàng; là cơ sở tham chiếu để cá nhân, tổ chức lựa chọn nên tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh hay gửi tiền vào ngân hàng.
Sự phát triển của ngân hàng về quy mô, uy tín, công nghệ, mạng lưới chi nhánh… được coi là tấm gương phản ánh sự phát triển kinh tế của một nước. Một nền kinh tế phát triển là ở đó ngành dịch vụ phát triển và một trong những lĩnh vực dịch vụ đi đầu đó là dịch vụ ngân hàng. Huy động vốn là một trong các hoạt động thu hút khách hàng đến với ngân hàng, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp xúc, sử dụng các dịch vụ tiện ích của ngân hàng. Điều này không những làm tăng nguồn vốn huy động của ngân hàng mà còn góp phần hình thành nên thói quen, phong cách giao dịch, sử dụng các phương tiện giao dịch, thanh toán hiện đại, nhanh chóng, tiện lợi thông qua các dịch vụ, nghiệp vụ ngân hàng hiện đại.
2. Đối với ngân hàng thương mại
Hoạt động huy động vốn là cơ sở để ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Nguồn vốn của NHTM bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn huy động. Ngân hàng là một trung gian tài chính đi vay để thực hiện kinh doanh thu lợi nhuận. Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng giúp ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Quy._. mô, cơ cấu vốn huy động sẽ trực tiếp quyết định đến quy mô và cơ cấu tín dụng của NHTM. Các ngân hàng không thể cho vay dài hạn với quy mô lớn trong khi vốn huy động nhỏ và thời hạn ngắn.
Thông qua hoạt động huy động vốn cũng thể hiện uy tín, quy mô, sức cạnh tranh của NHTM trên thị trường. Bởi vốn huy động trên tổng nguồn vốn là một trong những chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Một ngân hàng có nguồn vốn ngày càng gia tăng (đặc biệt là vốn dài hạn) khẳng định uy tín và sức cạnh tranh của mình. Khách hàng có tin tưởng mới gửi tiền vào ngân hàng và nguồn vốn gia tăng thể hiện ngân hàng đó có vị thế trên thị trường. Và điều này cũng sẽ tạo điều kiện tốt cho ngân hàng trong các lĩnh vực khác như nghiệp vụ cho vay, phát triển các sản phẩm mới,…
Huy động vốn giúp tăng cường mở rộng mối quan hệ giữa ngân hàng với ngân hàng và với các tổ chức tài chính khác trong nền kinh tế. Sự liên kết, điều hòa vay mượn các nguồn vốn lẫn nhau sẽ làm gia tăng vòng quay của đồng tiền, tăng hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Các ngân hàng dư thừa vốn tạm thời sẽ có cơ hội cho các ngân hàng thiếu vốn tạm thời vay để lấy lãi. Không những thế nhận thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ huy động vốn trong hoạt động kinh doanh của mình các ngân hàng có thể liên kết, thỏa thuận với nhau mức lãi suất trần, sàn các phương thức huy động để tránh xảy ra các cuộc chạy đua về lãi suất, các cuộc cạnh tranh gây thiệt hại về kinh tế lẫn nhau.
Tóm lại, hoạt động huy động vốn là cơ sở, tiền đề nó tạo ra nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của NHTM. Nó tác động không chỉ cho vay, đầu tư và các nghiệp vụ kinh doanh khác của NHTM mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế quốc dân. Nguồn vốn huy động của NHTM gia tăng thể hiện sự tích lũy tập trung vốn đạt hiệu quả cao tạo điều kiện để phát triển kinh tế đất nước. Nhưng điều này sẽ hạn chế việc phát triển các cơ sở sản xuất, kinh doanh của tư nhân. Lãi suất gia tăng sẽ thúc đẩy nguồn vốn huy động gia tăng nhưng sẽ hạn chế đầu tư dân cư. Như vậy có thể nói huy động vốn phù hợp với mục tiêu kinh doanh của ngân hàng và đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế thực sự là một vấn đề quan trọng không chỉ đối với các nhà ngân hàng mà còn đối với các nhà hoạch định chính sách phát triển kinh tế của quốc gia.
2.1. Các nhân tố từ phía ngân hàng
Uy tín, quy mô ngân hàng
Tạo được sự tin tưởng của khách hàng là một yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một ngân hàng phải trải qua quá trình hoạt động lâu dài để xây dựng được hình ảnh quen thuộc và uy tín trong mắt khách hàng. Uy tín và các chính sách huy động thích hợp sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến giao dịch. Khách hàng thường lựa chọn gửi tiền vào những ngân hàng có truyền thống lâu đời với chất lượng dịch vụ đã được khẳng định qua nhiều năm. Mức độ thâm niên và uy tín của ngân hàng còn tạo điều kiện cho các khách hàng của mình có thể giao dịch rộng rãi với các đối tác, vì đối tác hoàn toàn tin tưởng uy tín của ngân hàng đặc biệt trong nghiệp vụ bảo lãnh hay thanh toán quốc tế…Uy tín ngân hàng được thể hiện bởi tổng hợp rất nhiều yếu tố: hiệu quả hoạt động kinh doanh, năng lực tài chính, lượng vốn chủ sở hữu lớn, tỷ lệ an toàn vốn đạt tiêu chuẩn, đảm bảo khả năng thanh khoản, đáp ứng nhu cầu thanh toán chi trả bất cứ khi nào khách hàng gửi tiền yêu cầu. Nâng cao uy tín đồng thời với việc tăng cường quan hệ khách hàng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, không chỉ tiếp cận thị trường trong nước mà các ngân hàng phải nâng cao uy tín trên cả thị trường quốc tế và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
Các dịch vụ ngân hàng
Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở nên quyết liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục dịch vụ, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người gửi tiền. Các hình thức huy động mới kèm theo các dịch vụ ưu đãi, khuyến mại tăng hàm lượng công nghệ hiện đại trong sản phẩm dịch vụ đang là hướng phát triển của các NHTM nhằm tích cực thu hút đông đảo khách hàng. Sản phẩn dịch vụ của ngân hàng cung ứng càng đa dạng sẽ càng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, do vậy sẽ thu hút được vốn từ dân cư, các doanh nghiệp, tổ chức xã hội. Ngân hàng cần có những chính sách phù hợp để đa dạng hóa các dịch vụ đi đôi với nâng cao chất lượng của các hoạt động này nhằm mục đích thu hút ngày càng nhiều các nguồn vốn vào trong ngân hàng. Ngày nay nhờ sự tiến bộ của công nghệ thông tin đã xuất hiện nhiều sản phẩm dịch vụ mới liên quan đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng như dịch vụ ngân hàng tại nhà (Home banking), dịch vụ BSMS , máy rút tiền tự động ATM, POS, thẻ tín dụng…Với những sản phẩm dịch vụ mới tỷ lệ gửi tiền và thanh toán qua ngân hàng ngày càng tăng.
Đội ngũ cán bộ ngân hàng
Trình độ, năng lực cán bộ luôn ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM. Họ chính là những người hoạch định chính sách phát triển kinh doanh của ngân hàng: huy động và sử dụng vốn một cách hợp lý với mục tiêu an toàn và sinh lời. Đồng thời họ cũng là những người trực tiếp gặp gỡ, giao dịch với khách hàng. Các cán bộ, nhân viên ngân hàng cần nâng cao trình độ nghiệp vụ, phong cách, thái độ phục vụ văn minh lịch sự tạo nên văn hóa riêng của ngân hàng.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường với mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng gia tăng. Cán bộ ngân hàng không những thực thi nghiệp vụ nhanh chóng, chính xác, linh hoạt mà còn phải còn phải có kiến thức sâu rộng có thể tư vấn cho khách hàng trong các lĩnh vực kinh doanh: mua bán ngoại tệ, kinh doanh chứng khoán,…Các ngân hàng không những cần phải nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên của mình mà còn phải xây dựng mối quan hệ, kết hợp các phòng ban, các chính sách khuyến khích… tạo nên động lực lao động, khơi dậy trí sáng tạo, niềm tự hào phát huy tốt nhất nội lực của ngân hàng nhằm xây dựng hình ảnh tốt trong tâm trí khách hàng.
Công nghệ ngân hàng
Ngày nay cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật thì công nghệ hiện đại luôn là sự lựa chọn và cũng là mục tiêu phát triển của các NHTM. Công nghệ góp phần đưa dịch vụ ngân hàng tới khách hàng nhanh chóng, chính xác, thuận tiện, hiệu quả, tiết kiệm chi phí. Việc thay thế lực lượng lao động thủ công bằng hệ thống máy tính hiện đại, nối mạng điện tử đã rút ngắn thời gian và chi phí cho các giao dịch chuyển tiền, thanh toán bù trừ chỉ còn vài giây đồng thời tăng tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế. Với sự trợ giúp của công nghệ các loại hình dịch vụ mới đã ra đời như dịch vụ qua Internet, thẻ ATM, thanh toán lương tự động, chuyển tiền, chi trả kiều hối Westem Union, Home – banking,…giúp cho công tác huy động vốn ngày càng đạt hiệu quả cao. Việc áp dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật giúp cho các ngân hàng nâng cao sức cạnh tranh và ngày càng đáp ứng nhu cầu của hội nhập quốc tế.
Hoạt động Marketing ngân hàng
Marketing góp phần to lớn trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ tạo uy tín hình ảnh và tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Các ngân hàng phải vận dụng đồng bộ chính sách Marketing hỗn hợp: chính sách sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến hỗn hợp. Phải nghiên cứu thị trường để đưa ra chính sách Marketing phù hợp trong từng giai đoạn phát triển của ngân hàng. Chính sách sản phẩm cần phải tạo được tính độc đáo, khác biệt của sản phẩm dịch vụ đồng thời khách hàng dễ nhận biết được lợi ích của sự khác biệt đó. Với chính sách giá cả thì chính sách lãi suất chính là giá cả của sản phẩm, cần phải xây dựng một chính sách lãi suất hợp lý, linh hoạt hấp dẫn phù hợp với từng nhóm khách hàng. Kết hợp với mạng lưới phân phối rộng khắp gồm các chi nhánh, điểm giao dịch khang trang, công nghệ hiện đại, phong cách phục vụ văn minh lịch sự sẽ thu hút khách hàng lựa chọn sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Các biện pháp xúc tiến hỗn hợp: quảng cáo, tiếp thị, phát tờ rơi, băng rôn, áp phích… sẽ làm cho khách hàng biết đến, hiểu hơn về dịch vụ của ngân hàng, thuyết phục họ sử dụng sản phẩm dịch vụ và duy trì mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng.
Chính sách lãi suất
Lãi suất chi trả càng cao càng có thể huy động được nguồn vốn lớn song lại làm gia tăng chi phí cho ngân hàng. Một chính sách lãi suất thấp sẽ hạn chế khách hàng gửi tiền vào ngân hàng gây khó khăn cho hoạt động tín dụng và đầu tư của ngân hàng. Vì vậy hoạch định được một chính sách lãi suất linh hoạt, hợp lý là vấn đề luôn được đặt ra đối với các NHTM. Lãi suất huy động phù thuộc vào lãi suất cho vay, mặt bằng lãi suất trên thị trường, mức lãi suất cơ bản do NHNN quy định, thời hạn khác nhau lãi suất phải khác nhau; mức độ rủi ro khác nhau lãi suất phải khác nhau; các đối tượng khác nhau lãi suất phải khác nhau…Do đó để gia tăng nguồn vốn các ngân hàng thường áp dụng chính sách đa dạng hóa lãi suất, các nhóm lãi suất sẽ phân biệt theo từng loại tiền, kỳ hạn, từng nhóm khách hàng, mục đích gửi tiền, theo quy mô… nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Mỗi khách hàng khác nhau có nhu cầu khác nhau khi giao dịch với khách hàng, các doanh nghiệp thường có nhu cầu thanh toán và vay vốn qua ngân hàng; với các cá nhân tùy theo độ tuổi, nghề nghiệp… mà họ có nhu cầu gửi tiền, vay tiền hay sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Một chính sách lãi suất phù hợp cùng với các hình thức khuyến mại như quay số trúng thưởng, quà tặng… sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến giao dịch với ngân hàng: gửi tiền, vay tiền, thanh toán góp phần gia tăng nguồn vốn của ngân hàng.
Mạng lưới, địa điểm hoạt động
Ngân hàng là một trong những loại hình kinh doanh mà địa điểm có vai trò quan trọng. Đây là nơi đưa sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng. Một ngân hàng có trụ sở, chi nhánh ở nơi đông dân cư, trung tâm kinh tế phát triển…sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến gửi tiền và vay tiền sẽ thúc đẩy hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trụ sở bề thế, tiện nghi hiện đại cùng với mạng lưới chi nhánh rộng khắp sẽ là một ưu thế cạnh tranh so với các ngân hàng khác. Kênh phân phối rộng sẽ tăng cường khả năng giao dịch, tiếp xúc giữa ngân hàng với các khách hàng. Ngân hàng sẽ có cơ hội huy động được mọi nguồn vốn kể cả nguồn vốn nhỏ lẻ, phân tán trong mọi tầng lớp dân cư để nhằm đáp ứng mọi nhu cầu vay vốn, đầu tư giữa các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế.
Trong điều kiện hiện nay ngân hàng cần kết hợp các kênh phân phối truyền thống gồm chi nhánh, đại lý, quầy, quỹ tiết kiệm với các dịch vụ ngân hàng hiện đại như Phone - banking, Home - banking, Internet - banking, POS, ATM… để mở rộng giao dịch kinh doanh, gia tăng mạng lưới hoạt động, quảng bá hình ảnh thương hiệu ngân hàng tạo nên uy tín và niềm tin cho khách đến gửi tiền, giao dịch với ngân hàng…
Chính sách tín dụng
Ngân hàng huy động vốn để cho vay và đầu tư vì vậy ngân hàng muốn có hiệu quả trong huy động vốn thì phải dựa trên chính sách tín dụng thích hợp được hoạch định một cách cụ thể rõ ràng. Hoạt động huy động và sử dụng vốn muốn đạt mục tiêu hiệu quả và an toàn thì phải dựa trên cung cầu về vốn và các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội khác. Ngân hàng có các hình thức huy động bằng cách phát hành kỳ phiếu, trái phiếu với lãi suất hấp dẫn, huy động tiền gửi với nhiều thời hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng…12 tháng và trên 12 tháng để đáp ứng nhu cầu tín dụng của ngân hàng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, cả nội tệ lẫn ngoại tệ. Từ đó đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng về thời hạn gửi tiền, về những lợi ích mà khách hàng nhận được nhằm thu hút khách hàng gửi tiền vào ngân hàng mình, tăng khả năng huy động vốn cho ngân hàng. Bên cạnh đó, nếu hình thức cho vay của ngân hàng càng mở rộng sẽ buộc các ngân hàng phải tìm kiếm nguồn vốn cho chính mình, huy động thế nào cho phù hợp đáp ứng các nhu cầu vốn của xã hội. Mục tiêu tăng trưởng nguồn vốn và tín dụng phải được tiến hành song song với nhau, tránh tình trạng thiếu vốn, mất cân đối nguồn vốn.
Ngoài ra còn các nhân tố chủ quan từ phía ngân hàng khác như: tính chất sở hữu của ngân hàng, bộ máy tổ chức các phòng ban, chiến lược kinh doanh của ngân hàng… đều tác động đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
2.2. Các nhân tố bên ngoài ngân hàng
Các nhân tố từ phía khách hàng
Các yếu tố thuộc về tâm lý, thói quen, phong tục của người dân tác động rất lớn đến hiệu quả công tác huy động vốn của ngân hàng. Các tiêu trí về độ tuổi, giới tính, học vấn, thu nhập, môi trường làm việc liên quan đến việc lựa chọn sử dụng các hình thức dịch vụ ngân hàng. Nếu phân loại theo độ tuổi khách hàng gửi tiền tiết kiệm thì khách hàng từ độ tuổi từ 18 đến 28 thường chiếm tỷ trọng thấp. Thông thường các khách hàng trẻ tuổi có tâm lý thích khám phá mới lạ nên các dịch vụ có ứng dụng khoa học công nghệ như Internet, mạng di động thu hút khách hàng trẻ hơn. Khi có học vấn cao sẽ dễ dàng tiếp cận và sử dụng các kênh dịch vụ điện tử. Môi trường làm việc có đầy đủ điều kiện thực hiện các giao dịch là tiền đề để thúc đẩy khách hàng lựa chọn các giao dịch thích hợp với công việc tại công sở, văn phòng. Thời vụ chi tiêu, thu nhập cũng ảnh hưởng đến lượng tiền gửi tại ngân hàng. Vào cuối năm mọi người thường rút tiền để tiêu dùng hơn các thời điểm khác trong năm; thu nhập của người dân cao sẽ tạo điều kiện để các ngân hàng gia tăng lượng tiền gửi hơn là những khu vực dân cư có thu nhập thấp.
Đối với các tổ chức kinh tế, thời vụ sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng đến quy mô tiền gửi tại các ngân hàng, do nhu cầu gửi tiền. rút tiền biến động. Thông thường thời điểm cuối năm là thời gian các doanh nghiệp cần rút tiền nhiều để thanh toán, chi trả hàng hóa, dịch vụ, giải ngân cho các dự án đầu tư.
Trong chiến lược khách hàng, các NHTM cần phát huy tối đa khả năng tiếp cận khách hàng trên cơ sở thu thập những thông tin phản hồi để có những điều chỉnh kịp thời đối với sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao chất lượng dịch vụ.
Các nhân tố từ phía nền kinh tế
Chính sách quản lý kinh tế vĩ mô
Chính sách phát triển kinh tế xã hội cùng với các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của NHTM. Công cuộc CNH – HĐH của đất nước cần rất nhiều nguồn vốn đầu tư đã và đang tạo ra áp lực lên hoạt động huy động vốn của NHTM. Chính sách mở cửa của nhà nước với Luật đầu tư nước ngoài, các hiệp định thương mại giữa VN và các quốc gia trên thế giới thu hút vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiện cho huy động vốn bằng ngoại tệ ở trong nước. Xu hướng toàn cầu hóa nền tài chính quốc tế cùng với sự gia tăng các ngân hàng trong và ngoài nước, các tổ chức tài chính phi ngân hàng như Bưu điện, Bảo hiểm, Công ty Tài chính… tạo ra một sức ép cạnh tranh tới hoạt động kinh doanh đặc biệt là huy động vốn của các NHTM.
Công cụ chính sách tiền tệ hiện nay NHNN quy định mức lãi suất cơ bản – mức lãi suất có tính chất dự báo, định hướng cung cầu về vốn để cho các NHTM làm cơ sở để xác định các mức lãi suất của mình. NHNN sử dụng hợp lý các công cụ khác của chính sách tiền tệ như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ giá hối đoái… nhằm điều tiết lượng tiền cung ứng, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các tổ chức tín dụng.
Chính sách kinh tế của Nhà nước nhằm ưu tiên hay hạn chế sự phát triển một ngành hay một lĩnh vực nào đó để đảm bảo sự cân đối trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, trong đó tác động trực tiếp đến khả năng thu hút vốn của ngân hàng từ nền kinh tế.
Môi trường pháp lý
Hoạt động huy động vốn là một trong các hoạt động ngân hàng chịu sự điều tiết khắt khe của các quy định pháp luật như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu sẽ giới hạn quy mô vốn huy động mỗi NHTM trên cơ sở căn cứ vào vốn chủ sở hữu. Theo khuyến cáo của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng và cũng theo quy định hiện hành của NHNN Việt Nam, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (tỷ lệ giữa vốn chủ sở hữu và tài sản có – kể cả các cam kết ngoại bảng, đã được điều chỉnh theo rủi ro) nên bằng 8% để đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng. Bên cạnh đó, nghiệp vụ huy động vốn chịu tác động trực tiếp của các luật như: Luật các tổ chức tín dụng, Luật Ngân hàng Nhà nước, Bộ Luật dân sự… bao gồm các quy định về tỷ lệ huy động vốn so với vốn tự có, quy định việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, các quy định cụ thể trong từng thời kỳ về lãi suất, dự trữ, hạn mức… tác động đến quy mô, cơ cấu nguồn vốn.
Môi trường pháp lý đồng bộ, hoàn thiện sẽ đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động năng động, tự chủ, lành mạnh, an toàn, hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống NHTM huy động được tối đa các nguồn vốn trong và ngoài nước.
Môi trường kinh tế
Huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng chịu tác động trực tiếp của một số chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, mức thu nhập của người dân, tình trạng thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát…Trong điều kiện nền kinh tế phát triển hưng thịnh, thu nhập dân cư cao và ổn định thì nguồn tiền vào các ngân hàng cũng ổn định, số vốn huy động được dồi dào, cơ hội đầu tư cũng nhiều hơn. Nếu nền kinh tế đang suy thoái thì khả năng khai thác vốn bị hạn chế, đồng thời ngân hàng cũng khó khăn trong việc cấp tín dụng và đầu tư.
Mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau và với các tổ chức tài chính phi ngân hàng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến không chỉ hoạt động huy động vốn mà bao gồm tất cả hoạt động của NHTM. Nhìn chung cạnh tranh càng gay gắt thì càng bất lợi cho các ngân hàng, ít nhất là ở việc gia tăng chi phí và sự thu hẹp giá cả đầu ra. Cạnh tranh tạo ra cơ hội và thách thức cho mỗi ngân hàng, có thể sẽ mở rộng được thị phần cả đầu ra và đầu vào của mình, ngược lại sẽ bị thu hẹp quy mô hoạt động và có thể dẫn tới phá sản.
Sự phát triển của thị trường tài chính đặc biệt là Thị trường chứng khoán cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của NHTM. Thị trường chứng khoán phát triển sẽ là một kênh huy động vốn rất cạnh tranh đối với NHTM do những ưu điểm của việc đầu tư trực tiếp, khả năng mua đi bán lại tương đối dễ dàng các chứng khoán và nhiều tiện ích khác của Thị trường chứng khoán. Nhưng nhờ có Thị trường chứng khoán, ngân hàng thực hiện các đợt phát hành giấy nhận nợ một cách nhanh chóng, tiết kiệm và chuyên nghiệp hơn; kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng cũng trở nên có tính thanh khoản cao hơn. Do vậy, việc huy động vốn của NHTM bằng việc phát hành các giấy nhận nợ trở nên hiệu quả hơn. Ngoài ra, sự am hiểu về lĩnh vực chứng khoán cộng với những điều kiện sẵn có, NHTM có thể kinh doanh chứng khoán và cung cấp cho các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán hàng loạt các dịch vụ liên quan như: môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán…Đây là những dịch vụ đem lại lợi nhuận cho khách hàng đồng thời ngân hàng cũng thu được phí dịch vụ.
Văn hóa – xã hội
Các yếu tố kinh tế, chính trị, pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến mọi hoạt động kinh doanh của NHTM song chúng ta không thể không kể đến các yếu tố văn hóa – xã hội. Thói quen, phong tục, tập quán, những dư luận xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng… là các nhân tố tác động hàng ngày đến hoạt động kinh doanh của NHTM. Một ngân hàng nếu chỉ gặp khó khăn nhỏ trong bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào như đối tác kinh doanh của ngân hàng bị kiện, thua lỗ, phá sản hay có dư luận không tốt về bất kỳ thành viên nào của hội đồng quản trị Sự phá sản của các ngân hàng là điều không thể tránh khỏi nếu mọi người dân đều mất niềm tin vào ngân hàng và thực tế trên thế giới đã có những hiện tượng trên xảy ra. Với sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng, những vấn đề quan tâm của người dân nhanh chóng được cập nhật – đây được coi là những giám sát viên của nền kinh tế nói chung và ngân hàng nói riêng. Vì vậy tất cả những hoạt động của Đảng, Chính phủ, các cơ quan, ban, ngành và của từng ngân hàng… đều được phản ánh trung thực, đầy đủ trên mạng, báo chí, đài, ti vi… nhằm chuyển những thông tin mới nhất, nhanh chóng, kịp thời đến đông đảo quần chúng. Một ngân hàng có uy tín, dư luận xã hội tốt, năng lực tài chính vững mạnh sẽ dễ dàng triển khai các nghiệp vụ huy động vốn hơn các ngân hàng có uy tín và năng lực tài chính kém hơn.
Mặt khác những thói quen trong tiêu dùng: thanh toán bằng thẻ hay bằng tiền mặt; cất trữ tiền tại nhà, gửi vào ngân hàng hay đầu tư chứng khoán đều ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM. Một đất nước có thanh toán và cất trữ bằng tiền mặt không chỉ ở các bộ phận dân cư mà thậm chí cả một số các tổ chức kinh tế - xã hội (vì nhiều lý do khác nhau như: tính bí mật, hoạt động kinh tế ngầm, trốn thuế, sự nghèo nàn của các dịch vụ ngân hàng) đã làm hạn chế khả năng huy động vốn của các NHTM. Dân cư nắm trong tay một lượng vốn lớn và nếu tạo lập được cho họ thói quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng, cũng như thỏa mãn được yếu tố tâm lý, tập quán của họ các NHTM sẽ huy động được nguồn vốn đầy tiềm năng này.
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN SƠN LA
I. Sơ lược về chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Sơn La
1. Quá trình hình thành, phát triển của chi nhánh NHĐT và PT tỉnh Sơn La
1.1. Giới thiệu về đơn vị:
Ngày 26/4/1957, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 177/TTg thành lập Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam, tiền thân của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Một Ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Là một Chi nhánh của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Sơn La được thành lập năm 1957 với tên gọi Phòng cấp phát vốn thuộc Ty tài Chính Sơn La. Năm 1976 tách ra thành chi hàng kiến thiết tỉnh Sơn La. Năm 1988 đổi tên thành Ngân hàng đầu tư và xây dựng tỉnh Sơn La. Năm 1990 được thành lập lại theo Quyết định số 105/NH-QĐ ngày 26/11/1990 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với tên gọi Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Sơn La.
1.2. Lịch sử hình thành Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Sơn La.
Kể từ ngày thành lập đến nay Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Sơn La đã thực hiện tốt vai trò quản lý, cấp phát vốn ngân sách cho các công trình xây dựng cơ bản thời kỳ 1994 trở về trước. Từ năm 1995 lại đây, chi nhánh từng bước chuyển sang kinh doanh đa năng tổng hợp về tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Chi nhánh đã bám sát các Nghị quyết, chính sách của đảng và nhà nước, phương hướng nhiệm vụ của ngành và tỉnh, luôn đổi mới để thích ứng với kinh tế thị trường, cùng với các tổ chức tín dụng trên địa bàn nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản và đầu tư phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Về công tác huy động nguồn vốn, chi nhánh đã tích cực huy động vốn tạm thời nhàn rỗi của các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư trên địa bàn với nhiều hình thức đa dạng, phong phú và đi vay vốn trung ương để đầu tư phát triển kinh tế XH của tỉnh.
Trong việc phát triển các dịch vụ: Chi nhánh đã tích cực và chủ động đưa ra thị trượng các sản phẩm tốt nhất, đa dạng và phóng phú để đáp ứng nhu cầu sử dụng của khách hàng.
Hiện nay Chi nhánh là Ngân hàng duy nhất trên địa bàn thực hiện giao dịch một cửa và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001-2000.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Sơn La là một đơn vị thành viên của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt nam kinh doanh trực tiếp, được quản lý, sử dụng vốn tài sản, các nguồn lực của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt nam và các nguồn lực huy động, tiếp nhận và đi vay theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam để thực hiện nhiệm vụ được giao.
Với tư cách là một thành viên thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, sự hình thành và phát triển cũng như chức năng, nhiệm vụ của chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Sơn La không tách rời khỏi sự đi lên và phát triển chung của toàn ngành.
2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Sơn La
2.1. Mô hình tổ chức của Chi nhánh
Ban Giám đốc
Khối Quan hệ khách hàng
Khối QLRR
Khối tác nghiệp
Khối quản lý nội bộ
Phòng QHKH
Khối trực thuộc
Phòng QLRR
Phòng Quản lý tín dụng
Phòng DVKH
Tổ Tiền tệ - Kho quỹ
Phòng Tài chính - KT
Phòng TC-HC
Phòng KHTH-Điện toán
P. Giao dịch Mộc Châu
Phòng giao dịch Mường La
Được chia làm: 7 Phòng nghiệp vụ, 2 Phòng giao dịch và 1 tổ nghiệp vụ.
- Phòng Quan hệ khách hàng.
- Phòng Quản lý rủi ro.
- Phòng Quản trị tín dụng.
- Phòng Dịch vụ khách hàng.
- Phòng Kế hoạch - Tổng hợp.
- Phòng Tài chính - Kế toán.
- Phòng Tổ chức Hành chính.
- Phòng Giao dịch Mộc Châu.
- Phòng giao dịch Mường La.
- Tổ Quản lý và dịch vụ kho quỹ.
Các khối của chi nhánh được tổ chức sắp xếp, có sự phân định rõ các chức năng nhiệm vụ của từng khối, phòng, tổ. Từ đó thực hiện chuyên môn hoá sâu trong từng lĩnh vực hoạt động của chi nhánh.
2.2. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban
Chức năng chung của các Phòng
1. Đầu mối đề xuất, tham mưu, giúp việc Giám đốc chi nhánh xây dựng kế hoạch, chương trình công tác, các biện pháp, giải pháp triển khai nhiệm vụ thuộc chức năng nhiệm vụ được phân giao, các văn bản hướng dẫn, pháp chế thuộc lĩnh vực nghiệp vụ được giao.
2. Chủ động tổ chức triển khai nhiệm vụ được giao; trực tiếp thực hiện, xử lý, tác nghiệp các nghiệp vụ thuộc lĩnh vực được giao, theo đúng quy chế, thẩm quyền, quy trình nghiệp vụ, góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ kinh doanh của toàn Chi nhánh.
Chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính tuân thủ đúng đắn chính xác, trung thực đảm bảo an toàn, hiệu quả trong phạm vi nghiệp vụ của Phòng được giao, góp phần đảm bảo an toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn Chi nhánh.
3. Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị khác trong Chi nhánh theo quy trình nghiệp vụ; chịu trách nhiệm về những ý kiến tham gia theo chức năng, nhiệm vụ của Phòng về nghiệp vụ và các vấn đề chung của Chi nhánh.
4. Tổ chức lưu trữ hồ sơ, quản lý thông tin (thu thập, xử lý, lưu trữ, phân tích, bảo mật, cung cấp…)
5. Thường xuyên cải tiến phương pháp làm việc, đào tạo, rèn luyện cán bộ về phong cách giao dịch, kỹ năng nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, đáp ứng yêu cầu phát triển.
6. Xây dựng tập thể đoàn kết vững mạnh, tuân thủ nội quy lao động. thực hiện tốt công tác đào tạo cán bộ của phòng để góp phần phát triển nguồn lực nhân lực của Chi nhánh.
Nhiệm vụ cụ thể của các Phòng nghiệp vụ
1. Nhiệm vụ chính của phòng quan hệ khách hàng:
* Công tác tiếp thị và phát triển quan hệ khách hàng:
- Tham mưu, đề xuất chính sách, kế hoạch phát triển quan hệ khách hàng
- Trực tiếp tiếp thị và bán sản phẩm (sản phẩm bán buôn, bán lẻ, tài trợ thương mại, dịch vụ...):
- Chịu trách nhiệm thiết lập, duy trì và phát triển quan hệ hợp tác với khách hàng và bán sản phẩm của ngân hàng:
* Công tác tín dụng:
- Trực tiếp đề xuất hạn mức, giới hạn tín dụng và đề xuất tín dụng:
- Theo dõi, quản lý tình hình hoạt động của khách hàng. Kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn vay, tài sản đảm bảo nợ vay. Đôn đốc khách hàng trả nợ gốc, lãi đúng hạn.
- Phân loại, rà soát phát hiện rủi ro. Lập báo cáo phân tích, đề xuất các biện pháp phòng ngừa, xử lý rủi ro. Thực hiện xếp hạng tín dụng nội bộ cho khách hàng theo quy định và tham gia ý kiến về việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng.
- Tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ đề nghị miễn, giảm lãi, đề xuất miễn, giảm lãi và chuyển Phòng Quản lý rủi ro xử lý tiếp theo quy định.
- Tuân thủ các giới hạn hạn mức tín dụng của ngân hàng đối với khách hàng. Theo dõi việc sử dụng hạn mức của khách hàng.
* Công tác tài trợ dự án
- Trực tiếp thẩm định các chỉ tiêu tài chính, kinh tế, kỹ thuật, hiệu quả dự án của khách hàng. Chịu trách nhiệm lập báo cáo đề xuất tài trợ dự án trình Lãnh đạo, chuyển Phòng Quản lý rủi ro trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Chịu trách nhiệm phát triển nghiệp vụ tài trợ dự án. Tìm kiếm dự án tốt của các khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng. Tư vấn, giới thiệu cho khách hàng lựa chọn sản phẩm, phương thức tài trợ, phương án thu xếp tài chính và các điều kiện cần đáp ứng.
2. Nhiệm vụ chính của Phòng Quản lý rủi ro:
* . Công tác quản lý tín dụng
- Tham mưu đề xuất chính sách, biện pháp phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng:
- Quản lý, giám sát, phân tích, đánh giá rủi ro tiềm ẩn đối với danh mục tín dụng của chi nhánh; duy trì và áp dụng hệ thống đánh giá, xếp hạng tín dụng vào việc quản lý danh mục.
- Đầu mối nghiên cứu, đề xuất trình lãnh đạo phê duyệt hạn mức, điều chỉnh hạn mức, cơ cấu, giới hạn tín dụng cho từng ngành, từng nhóm và từng khách hàng phù hợp với chỉ đạo của BIDV và tình hình thực tế tại Chi nhánh. Kiểm tra việc thực hiện giới hạn tín dụng của các Phòng liên quan và đề xuất xử lý nếu có vi phạm.
- Đầu mối đề xuất trình Giám đốc kế hoạch giảm nợ xấu của Chi nhánh, của khách hàng và phương án cơ cấu lại các khoản nợ vay của khách hàng theo quy định.
- Giám sát việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro; tổng hợp kết quả phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro gửi Phòng tài chính kế toán để lập cân đối kế toán theo quy định…
- Đầu mối phối hợp với các bộ phận liên quan thực hiện đánh giá tài sản đảm bảo theo đúng quy định của BIDV.
- Thu thập, quản lý thông tin về tín dụng, thực hiện các báo cáo về công tác tín dụng và chất lượng tín dụng của chi nhánh; lập báo cáo phân tích thực trạng tài sản đảm bảo nợ vay của chi nhánh.
*. Công tác quản lý rủi ro tín dụng
- Tham mưu, đề xuất xây dựng các quy định, biện pháp quản lý rủi ro tín dụng
- Trình lãnh đạo cấp tín dụng, bảo lãnh cho khách hàng
- Phối hợp, hỗ trợ Phòng Quan hệ khách hàng để phát hiện, xử lý các khoản nợ có vấn đề.
- Chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc thiết lập, vận hành, thực hiện và kiểm tra, giám sát hệ thống quản lý rủi ro của Chi nhánh. Chịu trách nhiệm về an toàn, chất lượng, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng theo phạm vi nhiệm vụ được giao. Đảm bảo mọi khoản tín dụng được cấp ra tuân thủ đúng quy định về quản lý rủi ro và trong mức chấp nhận rủi ro của BIDV .
*. Công tác quản lý rủi ro tác nghiệp
- Hướng dẫn, hỗ trợ các phòng nghiệp vụ trong Chi nhánh tự kiểm tra và phối hợp thực hiện việc đánh giá, rà soát, phát hiện rủi ro tác nghiệp ở các phòng, các sản phẩm hiện có hoặc tiềm ẩn.
- Áp dụng hệ thống quản lý, đo lường rủi ro để đo lường và đánh giá các rủi ro tác nghiệp xảy ra tại chi nhánh v._.g phải luôn đảm bảo khả năng thanh khoản của mình.
Để thu hút khách hàng gửi tiền, chi nhánh phải có những chính sách đối với khách hàng thích hợp. Biện pháp này hiện nay, chi nhánh cũng đang thực hiện, tuy nhiên để thực hiện tốt hơn nữa, chi nhánh cần có thêm nhiều nghệ thuật thu hút khách hàng. Ví dụ như: nghệ thuật giao dịch, tạo dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng, nghệ thuật cung cấp thông tin và các dịch vụ phụ trợ, xây dựng hình ảnh cán bộ công nhân viên ngày càng hoàn thiện hơn.
Trước hết, ngân hàng cần xây dựng mối quan hệ thân thiết với khách hàng. Tâm lí của khách hàng Việt nam từ trước đến nay thường chỉ quen sử dụng sản phẩm của các ngân hàng quen thuộc hoặc khi đã có những hiểu biết nhất định về ngân hàng thì họ có ý định thiết lập mối quan hệ lâu dài. Do đó, ngân hàng cần phải duy trì mối quan hệ với những khách hàng truyền thống và với khách hàng mới thì tạo dựng ngay từ đầu.
Bên cạnh nghệ thuật xây dựng mối quan hệ thân thiết với khách hàng thì nghệ thuật giao dịch phải chú trọng theo. Cán bộ, nhân viên ngân hàng phải tìm hiểu tâm lí, nhu cầu của khách hàng để đưa ra cách ngoại giao hợp lí, khéo léo. Chẳng hạn như việc tặng quà cho khách hàng có số dư tiền gửi lớn nên làm thường xuyên chứ không chỉ diễn ra trong năm, quý hay với mức lãi suất ưu đãi hay tặng quà thường xuyên vào các dịp lễ, tết... Ngoài ra có thể thực hiện nhiều chính sách khác đối với khách hàng, như có thể tư vấn cho khách , ưu đãi phí thanh toán...Nghệ thuật giao dịch tốt thu hút khách hàng đến với ngân hàng nhiều hơn.
Để có nghệ thuật giao dịch thì việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công nhân viên của ngân hàng là điều không thể thiếu. Mỗi một nhân viên, cán bộ là hình ảnh, bộ mặt của ngân hàng. Do đó các nhân viên luôn phải có thái độ phục vụ tốt nhất, đó là văn minh, lịch sự, tôn trọng với khách hàng, có tính kiên trì cao, giải thích cho khách hàng khi gặp vướng mắc,…..Do vậy, chi nhánh cần luôn quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực - nâng cao trình độ chuyên môn , tác phong giao tiếp của nhân viên ngân hàng. Dù khoa học công nghệ phát triển đến đâu nhưng con người vẫn chế ngự nó, do vậy con người vẫn là yếu tố cơ bản quyết định đến mọi hoạt động nói chung và mở rộng nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng nói riêng.
1.3. Chính sách mở rộng mạng lưới hoạt động:
Để mở rộng hoạt động huy động vốn, thu hút thêm nhiều khách hàng gửi tiền tại ngân hàng, chi nhánh cần mở rộng thêm mạng lưới hoạt động của mình. Như mở rộng thêm các phòng giao dịch ở các Huyện Mộc Châu, Mai Sơn, Mường La, Thuận Châu….
Ngày nay, trình độ dân trí tăng lên, đời sống kinh tế của người dân cũng khá lên, họ có nhiều số tiền nhàn rỗi hơn, và để muốn có thêm thu nhập thì họ sẽ gửi tiền vào ngân hàng. Do nhu cầu của người dân ngày càng cao, vì thế ngân hàng nào có nhiều mạng lưới giao dịch khang trang, hiện đại và gần vị trí giao thông thuận lợi sẽ có cơ hội thu hút khách đến nhiều hơn. Vì vậy, việc mở rộng mạng lưới hoạt động và trang thiết bị làm việc là hết sức cần thiết đối với ngân hàng.
1.4. Thực hiện chính sách khách hàng hợp lý
Khách hàng chính là những chủ thể giao dịch với ngân hàng. Họ có nhu cầu và sử dụng sản phẩm của ngân hàng ở những mức độ khác nhau: có thể là gửi tiền, vay tiền hay sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Vì vậy việc nghiên cứu thị trường, nắm bắt kịp thời nhu cầu của khách hàng đề ra được chính sách khách hàng hợp lý, để từ đó hoạch định chính sách kinh doanh đối với từng đối tượng khách hàng là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của ngân hàng.
Trong thời gian tới Chi nhánh cần phải chú trọng hoạch định và thực hiện một chính sách khách hàng hợp lý nhằm thu hút những nguồn vốn dồi dào từ mọi tầng lớp dân cư cũng như của các tổ chức. Chi nhánh cần phát huy lợi thế của mình tập trung khai thác nguồn tiền gửi có tính chất ổn định, lâu dài, tăng tỷ trọng nguồn vốn trung dài hạn. Phát triển các loại hình khách hàng, chú trọng đến việc mở rộng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, duy trì khách hàng cũ, tìm kiếm khách hàng mới nhằm giảm thiểu sự phù thuộc vào số ít khách hàng.
Phân loại khách hàng để có chính sách khách hàng phù hợp theo tiêu chí khách hàng là tổ chức và cá nhân, trong đó cần xây dựng các chỉ tiêu về tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh (doanh thu, lợi nhuận); mức độ sử dụng dịch vụ (khách hàng thường xuyên, không thường xuyên); mục đích sử dụng dịch vụ (đi vay, gửi tiền, thanh toán), theo khu vực địa lý (nông thôn, thành thị...), đã sử dụng sản phẩm dịch vụ nào của ngân hàng, chưa sử dụng các sản phẩm nào...Từ đó điều chỉnh chính sách cho phù hợp đối với từng nhóm, từng khách hàng, có kế hoạch và biện pháp vận động khách hàng gửi tiền tại Chi nhánh. Để làm được điều đó, cần định kỳ đánh giá thực trạng khách hàng thông qua việc phân tích báo cáo về tình hình hoạt động tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng mình và tại các ngân hàng khác. Qua đó sẽ xác định được thực trạng về từng khách hàng, cơ chế chính sách mà ngân hàng đang thực hiện đối với từng khách hàng, đồng thời đánh giá mức độ cạnh tranh của các ngân hàng khác. Bên cạnh đó, Chi nhánh cần tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục trong hoạt động cho vay, thanh toán, có chính sách ưu đãi về lãi suất, giá cả dịch vụ đối với những khách hàng có số dư tiền gửi lớn, ổn định hoặc các doanh nghiệp sử dụng nhiều dịch vụ của ngân hàng, khách hàng có quan hệ lâu dài và có tín nhiệm đối với Chi nhánh. Đối với các khách hàng mới, cần phải tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, tiếp xúc, định hướng, thu hút họ sử dụng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng.
Đối với khách hàng là dân cư có nhiều yếu tố như độ tuổi, thu nhập, nghề nghiệp, lãi suất...đều ảnh hưởng đến việc sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Cán bộ Chi nhánh khi giao dịch phải giúp đỡ, tư vấn, góp ý, giải thích để họ thấy được những lợi ích và sự an toàn khi gửi tiền vào ngân hàng về trước mắt cũng như lâu dài. Chi nhánh cần phải đa dạng hoá hình thức huy động, mở rộng các địa điểm giao dịch, có chính sách lãi suất hấp dẫn, rút ngắn thời gian, thủ tục giao dịch, hoàn thiện phong cách giao dịch, đồng thời khuyến khích mở tài khoản cá nhân để dân chúng gửi tiền và chi tiêu qua ngân hàng, giữ bí mật tuyết đối số dư trên tài khoản và những chi tiêu của chủ tài khoản.
a. Khen thưởng huy động vốn trung dài hạn :
Toàn hệ thống tập trung nguồn lực tích cực huy động vốn trong đó chú trọng huy động vốn trung dài hạn để cơ cấu có hiệu quả kỳ hạn nguồn vốn, giảm thiểu rủi ro chênh lệch kỳ hạn giữa nguồn vốn, sử dụng vốn, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín dụng trung dài hạn theo mục tiêu đạt tỷ trọng 42% tổng dư nợ.
Theo đó, để tạo động lực khuyến khích chi nhánh huy động vốn trung dài hạn, Hội sở chính thực hiện cơ chế thưởng huy động vốn đối với các đơn vị có kết quả tăng trưởng huy động vốn trung dài hạn đạt kết quả cao như sau:
Mức thưởng
=
{Dư Huy động vốn TDH bình quân trong quý
-
Dư huy động vốn TDH bình quân quý liền trước}
*
0,03%
Đối với các khoản huy động trung dài hạn mà khách hàng thực hiện rút trước hạn với thời gian thực gửi < 12 tháng, Chi nhánh sẽ thực hiện truy thu số tiền thưởng tương ứng bằng cách trừ lùi vào tiền thưởng kỳ kế tiếp.
Trong đó, dư huy động vốn trung dài hạn bình quân trong quý là số dư bình quân các ngày trong quý của tiền gửi và phát hành giấy tờ có giá trung dài hạn của khách hàng cá nhân, tổ chức kinh tế và định chế tài chính. Cụ thể là số dư trên các tài khoản 210202002, 210302002, 210403007, 210403009, 210403802, 210502002, 2302.
b. Khen thưởng huy động vốn không kỳ hạn:
Chi nhánh điều chỉnh cơ chế cấp bù đối với tiền gửi không kỳ hạn ổn định trong thời gian tới như sau: Chi nhánh dừng việc cấp bù đối với tiền gửi không kỳ hạn:
Hội sở chính điều chỉnh cơ chế cấp bù đối với tiền gửi không kỳ hạn ổn định trong thời gian tới như sau: Hội sở chính dừng việc cấp bù đối với tiền gửi không kỳ hạn ổn định thong qua chương trình FTP. Thay vào đó, Hội sở chính thực hiện khen thưởng đối với huy động vốn không kỳ hạn ổn định (trước mắt chỉ thực hiện với tiền VND), cụ thể, số tiền khen thưởng hàng quý như sau:
Mức thưởng
=
{Dư huy động vốn KKH bình quân trong quý
-
Dư huy động vốn KKH bình quân quý liền trước}
*
0,03%
Trong đó, dư huy động vốn bình quân trong quý là số dư bình quân các ngày trong quý của tiền gửi không kỳ hạn của Kho bạc nhà nước và khách hàng cá nhân, tổ chức kinh tế và định chế tài chính. Cụ thể là số dư trên các tài khoản: 2101, 210201, 210301, 210401, 210402, 210501.
1.5. Tăng cường hoạt động Marketing, công tác phát triển quảng bá sản phẩm.
Thời gian qua, các hoạt động thông tin, tuyên truyền, quảng cáo về Chi nhánh đã được thực hiện nhưng vẫn đang ở mức độ đơn giản, chưa thường xuyên. Thời gian tới, Chi nhánh cần có nhiều chương trình giới thiệu tuyên truyền cho khách hàng hiểu rõ hơn nữa về các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, xác định mỗi nhân viên ngân hàng là một tuyên truyền viên tích cực vận động khách hàng tiếp cận với các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, giúp họ thấy được tiện ích trong sản phẩm dịch vụ của ngân hàng mình. Việc chú trọng hoạt động quảng cáo tuyền truyền, tiếp thị nhất là quảng cáo các dịch vụ mới, các tiện ích ưu việt so với các ngân hàng khác, qua đó nâng cao uy tín, chất lượng của ngân hàng trong con mắt khách hàng. Mở rộng phạm vi quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài báo, vô tuyến, trên mọi miền đất nước. Các hình thức quảng cáo trực tiếp bằng các tờ rơi, các quyển cẩm nang sử dụng dịch vụ ngân hàng, băng rôn, áp phích tại trụ sở, các điểm giao dịch hay nơi công cộng tập trung đông người như các siêu thị, khách sạn, sân bay. Bên cạnh đó, việc tài trợ cho các hoạt động văn hoá, thể thao cũng là cách quảng bá thương hiệu ngân hàng để khách hàng biết đến nhiều hơn.
Tích cực nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu khách hàng, nghiên cứu từng phân đoạn thị trường để có thể đưa ra các chính sách khách hàng khác nhau, tập trung nguồn lực và những đoạn thị trường có khả năng đem lại hiệu quả cao. Tìm hiểu thói quen, sở thích, chu kỳ kinh doanh của khách hàng để đưa ra các sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu của khách hàng nhằm thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và tổ chức:
Đối với khách hàng định chế tài chính : Đẩy mạnh xây dựng giải pháp thực hiện thu hộ các khoản thu ngân sách nhà nước. Hội sở chính đã thành lập tổ công tác phối hợp với Tổng cục thuế, Tổng cục Hải quan và Kho bạc nhà nước xây dựng các giải pháp thực hiện thu hộ các khoản thu NSNN (Thuế, phí, lệ phí…) qua BIDV để gia tăng quy mô tiền gửi thanh toán của Kho bạc nhà nước tại BIDV.
Đối với khách hàng Tổ chức kinh tế : Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất đổi mới, điều chỉnh cơ chế các sản phẩm huy động vốn đặc thù cho các nhóm khách hàng riêng biệt như phát hành Giấy tờ có giá dài hạn cho khách hàng định chế tài chính, tổ chức kinh tế với các điều kiện hấp dẫn về lãi suất, điều kiện rút trước thời hạn và các tiện ích khác.
Đối với huy động vốn dân cư : chi nhánh tích cực sử dụng, khai thác tối đa các sản phẩm hiện có như tiết kiệm Ổ trứng vàng, tiết kiệm dự thưởng, giấy tờ có giá. Hội sở chính tích cực hoàn thành chương trình Tiết kiệm tích luỹ để triển khai trong tháng 5/2009. Ngoài ra, cần sớm triển khai các sản phẩm huy động dân cư mới tiết kiệm cho trẻ, các sản phẩm đặc thù đáp ứng nhu cầu của các khách hàng lớn.
Chi nhánh nên tổ chức hội nghị khách hàng hằng năm để nắm bắt tâm tư nguyện vọng của khách hàng, dùng sổ, hộp thư góp ý để tại quầy giao dịch, đồng thời thực hiện định kỳ hàng tháng gửi thư xin ý kiến góp ý, nhận xét tới từng khách hàng về tính tiện ích của sản phẩm dịch vụ, chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng cung cấp, nhu cầu của khách hàng về những sản phẩm dịch vụ mới mà Chi nhánh chưa có... để kịp thời chấn chỉnh những sai sót và có chương trình kế hoạch tạo ra những sản phẩm dịch vụ mới đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
Đối với các điểm huy động cũ có số dư tiền gửi lớn, ổn định và tiềm năng cần đầu tư công nghệ, con người để nâng cao chất lượng phục vụ và mở rộng quy mô, cải tạo cho khang trang, lịch sự hơn để tăng tính hấp dẫn và tạo niềm tin đối với người dân.
Chi nhánh cần kết hợp các kênh huy động truyền thống của ngân hàng là chi nhánh, phòng giao dịch,quầy tiết kiệm và các kênh hiện đại như giao dịch qua mạng điện thoại, qua mạng lưới máy rút tiền tự động (ATM) và các điểm bán hàng chấp nhận thanh toán thẻ (POS), mạng máy tính. Qua mạng Internet, các hình thức giao dịch đạt độ linh hoạt cao, hạ chi phí dễ dàng tiếp cận với khách hàng và phát triển công tác tiếp thị. Để đa dạng hóa kênh phân phối, tăng khả năng tiếp cận khách hàng, ngân hàng cần triển khai các hình thức thanh toán qua mạng di động dựa trên điều kiện số lượng người sử dụng điện thoại di động ở Việt Nam đang tăng nhanh, ưu điểm của hình thức này là giúp khách hàng chủ động, linh hoạt trong quá trình giao dịch, giải quyết nhu cầu thanh toán các giao dịch có giá trị nhỏ và phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của xã hội.
Chi nhánh nên thành lập phòng Marketing để có thể chuyên môn hóa trong các công tác về thị trường, khách hàng và xúc tiến các hoạt động kinh doanh...Trong đó nên tổ chức bộ phận nghiên cứu thị trường bởi đây là công việc quan trọng, quyết định sự đúng hướng, hiệu quả của các biện pháp trên. Bộ phận này sẽ nghiên cứu khách hàng và đối thủ cạnh tranh: họ sẽ tiến hành chia khách hàng ra thành các nhóm theo các tiêu chí khác nhau, tìm hiểu nhu cầu từng nhóm và lựa chọn các nhóm khách hàng mà Chi nhánh có khả năng phục vụ, bộ phận này còn nghiên cứu đối thủ cạnh tranh để có chiến lược kinh doanh hiệu quả.
2. Đa dạng hoá các hình thức hoạt động và nâng cao chất lượng dịch vụ
2.1. Hình thức hoạt động
Nhu cầu của người gửi tiền rất đa dạng. Chúng khác nhau về mục đích, kỳ hạn, phương thức gửi tiền; Cách thức lấy lãi, lấy gốc... Nắm bắt và thoả mãn được các nhu cầu của khách hàng là biện pháp hữu hiệu giúp ngân hàng thực hiện tốt hoạt động huy động vốn.
a. Huy động tiền gửi có kỳ hạn
Huy động tiền gửi có kỳ hạn cần phải định ra nhiều loại kỳ hạn dài 3 năm; 5 năm; 10 năm. Về nguyên tắc, loại kỳ hạn dài có lãi suất cao hơn kỳ hạn ngắn. Tuy nhiên, lãi suất kỳ hạn dài không thể quá cao vượt mức chịu đựng của nền kinh tế. Thông thường người gửi tiền có kỳ hạn dài thường lo âu là khi các ngân hàng phá sản họ sẽ không thu hồi được các khoản tiền gửi. Vì vậy, đối với những khoản tiền gửi dài hạn cần phát hành các trái phiếu dài hạn có thể chuyển nhượng một cách dễ dàng, trên thị trường các trái phiếu này có thể bán lại cho các cá nhân khác, cho các doanh nghiệp, cho các ngân hàng, cho bất cứ tổ chức, cơ quan nào có khả năng tài chính và họ muốn mua nó. Một vấn đề khác cần quan tâm hiện nay là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền dài hạn. Tất nhiên, trước hết là lãi suất dài hạn phải lớn hơn lãi suất ngắn hạn. Các khoản lãi phải được trả đúng hạn hoặc nhập vốn đúng theo ý muốn của người gửi tiền. Trong trường hợp có lạm phát mạnh về giá trị tiền gửi cần phải được đảm bảo. Những quy định trên cần phải được công bố cho mọi người được biết và phải được pháp luật bảo hộ.
b. Huy động tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm thường nhằm vào mục đích nhất định như mua nhà, mua xe máy, ôtô. Để huy động tiền gửi tiết kiệm theo loại này cần phải tạo ra một sự hấp dẫn, nhất là phải chú trọng đến yếu tố giá rẻ, thủ tục mua bán dễ dàng đơn giản, vị trí, chất lượng hấp dẫn của các loại hàng hoá mà người gửi tiền muốn đạt đến. Muốn đạt được điều đó Chi nhánh phải phối hợp với các tổ chức cung cấp như: tổ chức kinh doanh địa ốc, kinh doanh xe máy... Để đặt hàng rẻ hơn giá bán lẻ trên thị trường một vài điểm để kích thích người gửi tiền tiết kiệm. Chi nhánh cần phải thực hiện hộ khách hàng và thủ tục chuyển giao quyền sử dụng (mua bán) tạo ra sự thoải mái cho khách hàng...
c. Đa dạng hoá về đồng tiền huy động
Mỗi người luôn để tài sản của mình dưới dạng các tài sản sinh lời hoặc ít nhất là bảo toàn được giá trị. Sự ổn định về giá trị là căn cứ quan trọng để khách hàng lựa chọn nắm giữ một đồng tiền nào đó, đặc biệt là đối với những khách hàng có kế hoạch gửi tiền dài hạn. Mặt khác, những chi phí hoặc sự phức tạp khi thực hiện chuyển đổi một đồng tiền này sang một đồng tiền khác là những lý do khiến khách hàng muốn sử dụng ngay đồng tiền mình đang nắm giữ khi gửi ngân hàng. Sẵn sàng nhận các đồng tiền như VNĐ, USD, EUR, vàng và một số ngoại tệ mạnh khác ở tất cả các hình thức huy động vốn; Nhận gửi bằng đồng tiền này nhưng đảm bảo giá trị của nó theo những đồng tiền có uy tín cao hoặc vàng, bù đắp sự hao mòn do lạm phát đối với tiền gửi của khách hàng.
2.2. Nâng cao chất lượng dịch vụ
a. Đa dạng hóa loại hình dịch vụ
Khi có sự cạnh tranh trong nộ bộ hệ thống NHTM diễn ra, các ngân hàng muốn tồn tại và phát triển nhiều khi đã áp dụng những hình thức cạnh tranh rất mạo hiểu. Trong những năm vừa qua cạnh tranh giữa các NHTM bằng công cụ lãi suất diễn ra, hình thức này chỉ mang tính ngắn hạn khi chiến lược kinh doanh của các ngân hàng đặt ra là tìm kiếm thêm khách hàng và thân nhập vào thị trường mới, còn lâu dài áp dụng hình thức này không tốt đôi khi làm hoạt động kinh doanh của các ngân hàng kém hiệu quả. Để khắc phục tình trạng cạnh tranh qua lãi suất, hiệp hội ngân hàng đã can thiệp để đi đến thống nhất lãi suất huy đọng và cho vay giữa các NHTM.
Khi mức lãi suất huy động của các NHTM đang ngang bằng nhau, thì vốn đề cạnh tranh chủ yếu giữa các ngân hàng sẽ là chất lượng dịch vụ và cong nghệ ngân hàng.
Chi nhánh cần đa dạng hoá các hình thức dịch vụ, từng bước triển khai, nhân rộng việc mở tài khoản các nhân và sử dụng séc, tổ chức tốt các hình thức thanh toán qua ngân hàng. Cùng với những phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt khác, séc cá nhân sẽ giúp ngân hàng huy động thêm nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân vào ngân hàng.
Nghiên cứu cho khách hàng sản xuất kinh doanh sử dụng tài khoản vãng lai để huy động nguồn vốn nhàn rỗi vào ngân hàng.
Thực hiện dịch vụ chi trả lương cách cán bộ công nhân viên qua ngân hàng. Hiện tại 1 số doanh nghiệp nhờ ngân hàng trích tài khoản tiền gửi trả lương hộ cho cán bộ công nhân viên theo danh sách, công nhân viên có nhu cầu để dành một phần tiền lương sẽ gửi ngay tại ngân hàng, làm cho nguồn vốn tại ngân hàng tăng lên. Do vậy chi nhánh cần tiếp cận với các doanh nghiệp để thực hiện nghiệp vụ này, tạo thói quen sử dụng dịch vụ ngân hàng.
Đưa ra hình thức dịch vụ nhận và trả trên ngoài giờ của chi nhánh (ngoài giờ hành chính, các ngày lễ, ngày nghỉ) áp dụng công nghệ tiên tiến cho ngân hàng hoạt động 24/24/ giờ trên ngày để thu hút tiền gửi dân chúng bất cứ lúc nào trong ngày.
b. Tạo dựng hình ảnh riêng có của ngân hàng
Hình ảnh của ngân hàng là một tập hợp phức tạp các thái độ và sự hiểu biết từ phía khách hàng và khách hàng tiềm năng. Toàn bộ các thương hiệu, tên sản phẩm và các hợp đồng với các cá nhân và đơn vị của ngân hàng đều phải kết hợp với nhau để tạo nên một hình ảnh có lợi in sâu vào tâm trí khách hàng. Điều đó có thể tạo ra tâm lý tin tưởng, an toàn đối với khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng. Việc này giống như là một doanh nghiệp xây dựng “thương hiệu” riêng trên thị trường để khẳng định vị thế và uy tín của mình trước các đối thủ khác. Ngay cả khi ngân hàng có đủ khả năng đưa ra một chương trình huy động mới hoặc bắt trước thành công sản phẩm của đối thủ cạnh tranh thì cũng chỉ sau một khoảng thời gian tương đối ngắn, ngân hàng chắc chắn phải đối mặt với sự cạnh tranh của các sản phẩm tương tự. Chính áp lực sáng tạo này đòi hỏi ngân hàng phải tạo cho sản phẩm của mình những đặc điểm riêng có như: Tên sản phẩm, tính chất thương mại, khẩu hiệu và các phương thức phân biệt khác thường gặp ở những sản phẩm hàng hoá thông thường cũng có thể được áp dụng cho từng sản phẩm, hoặc toàn bộ sản phẩm của ngân hàng.
Chi nhánh có thể lên kế hoạch phát hành một số đợt huy động tiền gửi riêng của mình ( trên cơ sở chỉ tiêu do cấp trên giao ) như phát hành chứng chỉ tiền gửi, tiết kiệm gửi góp, trái phiếu ngân hàng bằng đồng Việt nam và ngoại tệ với kỳ hạn dài và lãi suất hấp dẫn, nhằm đa dạng hoá sản phẩm và tăng cường nguồn vốn trung và dài hạn, đồng thời để khẳng định tên tuổi của chi nhánh.
IV. Kiến nghị
1. Đối với Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
NHĐT&PT Việt nam giữ vai trò là người chỉ đạo và đề ra những mục tiêu tổng thể cho chi nhánh hoạt động, nhưng NHĐT&PT Việt nam chỉ nên đưa ra những văn bản hướng dẫn ở tầm quản lý, sau đó thực hiện khoán kế hoạch để chi nhánh tự thực hiện những mục tiêu đó bằng khả năng và bằng cách riêng của chi nhánh. Như vậy sẽ khuyến khích tính sáng tạo và trách nhiệm của toàn chi nhánh.
Cần tiến hành nhanh việc đầu tư vào trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại trên toàn bộ hệ thống ngân hàng, tạo nên sự đồng bộ, thống nhất trong việc kết nối giữa các chi nhánh với nhau nhằm mục đích liên kết và chia sẻ thông tin.
Cần có biện pháp cụ thể để tránh tình trạng cạnh tranh trong nội bộ hệ thống, làm tăng chi phí nguồn vốn và ảnh hưởng không tốt tới uy tín của ngân hàng.
Cần nghiên cứu triển khai thêm các phương thức huy động vốn mới để áp dụng trên toàn hệ thống nhằm tăng nguồn vốn và tăng khả năng cạnh tranh cho các chi nhánh.
Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo về các đợt huy động vốn đến đông đảo quần chúng, đồng thời hỗ trợ kinh phí cho chi nhánh thực hiện tăng cường công tác này.
Phát động các đợt thi đua trong toàn hệ thống, có các hình thức khen thưởng đối với các cá nhân và tập thể đạt thành tích cao.
Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ viên chức tại các chi nhánh.
2. Đối với Ngân hàng Trung ương (NHTW)
Kinh tế thị trường ở nước ta còn ở mức độ thấp, trong điều kiện đó NHTW duy trì công cụ quản lý trực tiếp thông qua hạn mức tín dụng, nhằm khống chế tổng thi phương tiện thanh toán qua ngân hàng ngân hàng theo mục tiêu của chính sách tiền tệ và kiểm soát được dư nợ của các NHTM, nhưng công cụ này không nên quá cứng nhắc mà phải được điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường và chất lượng tín dụng của từng NHTM.
Theo dõi thường xuyên, liên tục diễn biến lãi suất huy động vốn và tỷ lệ lạm phát trên thị trường hàng hoá để điều chỉnh kịp thời sao cho lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực.
Tỷ lệ lạm phát và lãi suất huy động vốn danh nghĩa hơn tỷ lệ lạm phát. NHTW không nên can thiệp qua sâu vào lãi suất của các NHTM. Mục tiêu của các NHTM. Mục tiêu của các NHTM là lợi nhuận do đó tuỳ vào tình hình kinh doanh và khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường, bản thân các NHTM sẽ đưa ra được lãi suất huy động phù hợp, một mặt vẫn đạt được mục tiêu lợi nhuận của mình, một mặt vẫn khuyến khích thu hút tiền nhàn rỗi vào ngân hàng.
Việc đảm bảo an toàn cho tiền gửi của dân cũng cần được NHTW quan tâm, NHTW cần đẩy mạnh quỹ bảo hiểm tiền gửi, tạo điều kiện cho quỹ này hoạt động có hiệu quả, đây là yếu tố khiến cho người gửi tiền yên tâm hơn khi khi gửi tiền vào ngân hàng. NHTW cần có chính sách hỗ trợ cho các công ty bảo hiểm tiền gửi có thể hiểu được tình hình hoạt động của ngân hàng vì có biện pháp cứu trợ kịp thời khi ngân hàng gặp khó khăn trong kinh doanh. NHTW giám sát hoạt động đóng phí bảo hiểm của các NHTM và các tổ chức tín dụng có thực hiện nhiệm vụ nhận giữ tiền gửi. NHTW cần ban hành các thể lệ chiếu khấu thương phiếu cổ trái phiếu và các giấy tờ có giá khác, tạo cơ sở cho các NHTM đa dạng hoá nghiệp của mình.
3. Kiến nghị với Chính phủ
Chính phủ là cơ quan có vai trò điều hành mọi hoạt động kinh tế, do vậy Chính phủ có một vai trò chính yếu và quan trọng trong việc định hướng mọi hoạt động của quốc gia. Chính phủ là cơ quan thực hiện việc luật pháp hóa những chủ trương, chính sách và những biện pháp cần thiết trong từng giai đoạn, từng thời kỳ nhằm tạo điều kiện về môi trường kinh doanh phát triển kinh tế đất nước ngày càng thuận lợi và đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Để tạo điều kiện cho các hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng cần có sự quan tâm của Chính phủ trên các mặt sau.
Ổn định nền kinh tế vĩ mô bởi nền kinh tế ổn định và phát triển với tốc độ tăng trưởng cao sẽ tạo điều kiện cho người dân có việc làm thu nhập ổn định, tăng tích lũy và tiết kiệm nhờ đó khả năng thu hút vốn của các NHTM được nâng cao. Kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ là một trong những mục tiêu nhiệm vụ quan trọng để tạo lập môi trường kinh tế ổn định ở Việt Nam hiện nay. Nhà nước nên để thị trường hoạt động theo đúng quan hệ cung cầu, các yếu tố của thị trường tài chính tiền tệ như tỷ giá, lãi suất...cần được chỉ đạo theo nguyên tắc kinh tế thị trường. Nhà nước chỉ can tiệp ở mức độ nhất định để kiểm soát lạm phát. Duy trì tốc độ tăng trưởng đều đặn, kiểm soát tốt mọi tín hiệu thị trường, nền kinh tế ổn định, giá trị đồng nội tệ được giữ vững, nâng cao lòng tin của mọi thành phần kinh tế vào ngân hàng sẽ thu hút được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư phục vụ sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.
Xây dựng và từng bước sửa đổi hoàn thiện các khung pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư, đảm bảo sự bình đẳng và an toàn cho tất cả các NHTM, định chế tài chính hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam trong lĩnh vực tín dụng, dịch vụ ngân hàng, đầu tư và các nghiệp vụ tài chính khác. Đồng thời mở rộng những khuyến khích của Nhà nước sẽ tác động đến tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư, chuyển dần vốn nhàn rỗi trong tiêu dùng sang đầu từ hoặc gửi vào ngân hàng, tăng thêm sự tin tưởng của người dân đối với ngân hàng.
Thúc đẩy thị trường tài chính trong nước phát triển, điều này sẽ tạo điều kiện cho các NHTM đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, đặc biệt thị trường chứng khoán phát triển sẽ có nhiều thuận lợi cho việc huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán. Mặt khác, đây là nơi quy tụ và phân phối các nguồn vốn tiềm tàng trong dân chúng, trong các doanh nghiệp để biến các nguồn vốn ngắn hạn thành vốn trung dài hạn nhằm đầu từ phát triển sản xuất và cũng tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có thể chuyển chứng khoán của mình thành tiền mặt một cách dễ dàng nhanh chóng. Thông qua thị trường chứng khoán sẽ tạo ra các kênh làm cho mọi nguồn vốn trong xã hội chảy đến các nơi có nhu cầu đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả.
Chính phủ nên có quy định các cơ quan nhà nước khi mua bán, chi tiêu đều phải thanh toán qua ngân hàng nhằm phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta. Để tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước thanh toán qua hệ thống ngân hàng, Nhà nước cần cho phép và bắt buộc các cơ quan, đơn vị, tổ chức phải mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng. Hạn mức kinh phí của các cơ quan nhà nước sẽ được kho bạc nhà nước chuyển vào tài khoản của cơ quan theo định kỳ.
Đẩy mạnh cổ phẩn hóa các doanh nghiệp nhà nước nhằm tăng cường hoạt động kinh doanh tại các doanh nghiệp này góp phần tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn xã hội. Qua đó làm lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, cải thiện vấn đề tiết kiệm của khối doanh nghiệp, tăng tích lũy cho nền kinh tế.
KẾT LUẬN
Hoạt động huy động vốn luôn là một mảng nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà quản lý ngân hàng. Điều đó thể hiện vốn có một vai trò quyết định đối với các hoạt động của ngân hàng. Quy mô vốn quyết định quy mô của ngân hàng cũng như khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Có thể nói đề tài về nguồn vốn bao giờ cũng mang tính thời sự.
Chuyên đề đã hoàn thành các nhiệm vụ là:
Thứ nhất, đã khái quát được những kiến thức chung về nguồn vốn của NHTM.
Thứ hai, đã phân tích được thực trạng công tác huy động vốn tại Chi nhánh NHĐT&PT Sơn La một số năm vừa qua.
Thứ ba, nêu lên những mục tiêu, phương hướng công tác huy động vốn tại chi nhánh trong thời gian tới.
Và cuối cùng đã đưa ra một số đề xuất nhằm tăng khả năng huy động vốn tại chi nhánh.
Bên cạnh sự nỗ lực của bản thân để hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này, em còn nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của Cô giáo - Thạc sỹ Lương Hương Giang và tất cả các anh chị công tác tại Chi nhánh NHĐT&PT Sơn La. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn và chúc các thầy cô, các Bác, cô chú, anh chị mạnh khoẻ, công tác tốt.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình ngân hàng thương mại – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, NXB Thống kê.
Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong xu thế hội nhập – NXB lí luận chính trị.
Tạp chí Ngân hàng, tạp chí Thị trường Tài chính – Tiền tệ, Thời báo ngân hàng các số năm 2006, 2007, 2008.
Báo cáo thường niên năm 2006, 2007, 2008 của Chi nhánh NHĐT&PT Sơn La
TS. Phan Thị Thu Hà, TS. Nguyễn Thị Thu Thảo (2005), Ngân hàng thương mại – Quản trị và nghiệp vụ, NXB Thống kê, Hà Nội.
Dự thảo: Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch kinh doanh năm 2008, phương hướng nhiệm vụ năm 2009_Chi nhánh NHĐT&PT Sơn La
Công văn số 0698/CV_PTSPBL.2:V/v: Tăng cường Huy động vốn dân cư năm 2009_NHĐT&PT Việt Nam
Quyết định ban hành quy định về trình tự, thủ tục cấp tín dụng đối với doanh nghiệp và quy định cấp tín dụng bán lẻ (tháng 08/2008)
Công văn số: 2015/CV – ALCO3: V/v: Đẩy mạnh huy động vốn trong năm 2009.
Công văn số: 0418/BC – ALCO3: V/v: Báo cáo tổng kết kết quả huy động vốn và điều hành vốn năm 2009
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NHTM : Ngân hàng thương mại
CNH – HĐH : Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
NHNN : Ngân hàng nhà nước
BIDV : Bank for Investment and Development of Vietnam ( Ngân hàng đầu tư và phát triển Sơn la)
TCKT : Tổ chức kinh tế
NH : Ngắn hạn
TDH : Trung dài hạn
GTCG : Giấy tờ có giá
Tđtt : Tốc độ tăng trưởng
TG : Tiền gửi
HĐQT : Hội đồng quản trị
TSBĐ : Tài sản đảm bảo
Phân hệ CIF : thông tin khách hàng (Customer Tnformation)
Hình ảnh (SVS) : Hệ thống xác thực chữ ký (Signature Verification System)
CBCNV : Cán bộ công nhân viên
NHĐT&PT : Ngân hàng đầu tư và phát triển
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 1: Kết quả kinh doanh từ năm 2006 đến 2008
Bảng 2: Cơ cấu nguồn vốn theo thành phần kinh tế
Bảng 3: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo loại tiền
Bảng 4: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo kỳ hạn
Bảng 5: Cơ cấu trả lãi cho các nguồn huy động
Bảng 6: Chi phí huy động vốn theo loại tiền
Bảng 7: Chi phí huy động vốn theo kỳ hạn
Bảng 8: Lãi suất huy động bình quân của Chi nhánh năm 2006 – 2008
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21689.doc