Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước

MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TPCP Trái phiếu Chính phủ KBNN Kho bạc Nhà nước NSNN Ngân sách Nhà nước NHNN Ngân hàng Nhà nước SGDCK Sở Giao dịch Chứng khoán XDTQ Xây dựng Tổ quốc DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: KẾT QUẢ PHÁT HÀNH TÍN PHIẾU QUA HỆ THỐNG KHO BẠC NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 1991 – 1995 Bảng 2.2: KẾT QUẢ ĐẤU THẦU TÍN PHIẾU KHO BẠC QUA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 6/1995 – 12/2009 Bảng 2.3: KẾT QUẢ ĐẤU THẦU TPCP

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1683 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUA SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN GIAI ĐOẠN 2000 – 2009 Bảng 2.4: KẾT QUẢ PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ THEO PHƯƠNG THỨC BẢO LÃNH GIAI ĐOẠN 2000 -2009 Bảng 2.5: KẾT QUẢ PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CÔNG TRÌNH GIAI ĐOẠN 1996 – 2007 Bảng 2.6: KẾT QUẢ PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ BẰNG NGOẠI TỆ GIAI ĐOẠN 2003 – 2009 Bảng 2.7: KẾT QUẢ PHÁT HÀNH CÔNG TRÁI XDTQ GIAI ĐOẠN 1999 - 2007 Bảng 2.8: TỶ LỆ DƯ NỢ TPCP SO VỚI GDP GIAI ĐOẠN 1991 - 2006 LỜI MỞ ĐẦU Chính sách huy động vốn là một bộ phận của chính sách tài chính quốc gia, gắn bó mật thiết với chính sách đầu tư phát triển kinh tế, chính sách tiền tệ tín dụng, đồng thời tác động trực tiếp đến các quan hệ phân phối thu nhập, tích lũy - tiêu dùng trên phạm vi toàn xã hội. Đây là chính sách được ưu tiền hàng đầu của các quốc gia đang phát triển. Trong những năm gần đây, để thực hiện chủ trương khai thác tối đa các nguồn vốn trong nền kinh tế cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển, Chính phủ đã rất chú trọng đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, trong đó có việc phát hành trái phiếu Chính phủ. Giai đoạn đầu chỉ có hình thức bán lẻ trái phiếu Chính phủ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Cùng sự phát triển của thị trường tài chính - tiền tệ các phương thức phát hành trái phiếu tiên tiến hơn đã được áp dụng, như bảo lãnh và đấu thầu trái phiếu… Tuy nhiên công tác huy động vốn vẫn phụ thuộc nhiều vào kế hoạch ngắn hạn của ngân sách nhà nước, chưa khai thác được hết tiềm lực trong dân. Điều này đã làm giảm hiệu quả của công cụ TPCP đối với hoạt động huy động vốn cho mục tiêu phát triển dài hạn của Chính phủ. Với mục tiêu thực hiện chiến lược từ nay đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển, nhu cầu chi tiêu hàng năm của Nhà nước rất lớn. Để huy động được nguồn vốn này chúng ta phải tập trung tháo gỡ mọi vướng mắc nhằm khơi dậy nguồn lực to lớn trong dân cư để phát triển đất nước, trong đó, việc phát triển nhanh và bền vững thị trường vốn, nhất là thị trường vốn dài hạn chính là điều kiện tiên quyết. Vì thế, việc nghiên cứu cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn nhằm tìm ra các giải pháp hiệu quả để thực hiện tốt công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian tới, tạo nguồn lực tài chính cần thiết để bảo đảm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế là một yêu cầu cấp thiết hơn bao giờ hết. Từ tình hình thực tế trên, em đã lựa chọn đề tài “Giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các từ viết tắt, Danh mục các tài liệu tham khảo, chuyên đề gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước Chương 1: Những vấn đề cơ bản về công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước Tổng quan về hệ thống Kho bạc Nhà nước Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chuẩn bị cho sự ra đời và hoạt động của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 28 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ cách mạng lâm thời quyết định thành lập ngành Tài chính của nước Việt Nam độc lập. Để có một cơ quan chuyên môn, đặc trách nghiên cứu và giải quyết các vấn đề tài chính – tiền tệ ngày 29 tháng 5 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 75/SL thành lập Nha ngân khố trực thuộc Bộ Tài chính. Với mục đích thực hiện chính sách động viên các nguồn lực tài chính trong nước, từng bước ổn định nghĩa vụ đóng góp của nhân dân, phấn đấu thăng bằng thu chi ngân sách; đồng thời đẩy mạnh tăng giá sản xuất, mở rộng giao lưu hàng hóa, tiếp tục củng cố và ổn định tiền tệ, ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, đồng thời giải thể Nha Ngân Khố và Nha Tín dụng sản xuất trực thuộc Bộ Tài chính. Để thực hiện các chủ trương và yêu cầu hiện tại, đồng thời nhằm cụ thể hóa chức năng và nhiệm vụ của cơ quan quản lý quỹ ngân sách nhà nước ngày 20 tháng 7 năm 1951, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định số 107/TTg (ngày nay gọi là Quyết định) thành lập Kho bạc Nhà nước đặt trong Ngân hàng Quốc gia Việt nam và thuộc quyền quản trị của Bộ Tài chính. Theo Nghị định Số 107/TTg, nhiệm vụ chủ yếu của Kho bạc Nhà nước là quản lý thu chi Quỹ ngân sách Nhà nước. Ngày 4 tháng 1 năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng đã ký Quyết định số 07/HÐBT tái thành lập hệ thống Kho bạc Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính với chức năng và nhiệm vụ chủ yếu là Quản lý quỹ ngân sách Nhà nước và các quỹ dự trữ tài chính Nhà nước; tổ chức huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển. Theo Quyết định Số 07/HÐBT, hệ thống Kho bạc Nhà nước được tổ chức thành 3 cấp: ở Trung ương có Cục Kho bạc Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính; ở tỉnh, thành phố (trực thuộc Trung ương) có Chi cục Kho bạc Nhà nước; ở huyện, quận và cấp tương đương có Chi nhánh Kho bạc Nhà nước. Để tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của hệ thống Kho bạc Nhà nước trong nền kinh tế, đồng thời tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho KBNN hoạt động, ngày 26 tháng 8 năm 2009, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 108/2009/QĐ-TTg quy định chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Kho bạc Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính. 1.1.1. Vị trí và chức năng của Kho bạc Nhà nước Kho bạc Nhà nước là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính quản lý nhà nước về quỹ ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước và các quỹ khác của Nhà nước được giao quản lý; quản lý ngân quỹ; tổng kế toán nhà nước; thực hiện việc huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển thông qua hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ theo quy định của pháp luật. Kho bạc Nhà nước có tư cách pháp nhân, con dấu có hình Quốc huy, được mở tài khoản tại ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại theo quy định của pháp luật, có trụ sở tại thành phố Hà Nội. 1.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Kho bạc Nhà nước 1. Trình Bộ trưởng Bộ Tài chính để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định: Các dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; dự thảo nghị định của Chính phủ; dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ về lĩnh vực quản lý của Kho bạc Nhà nước; Chiến lược, quy hoạch, chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hành động, đề án, dự án quan trọng về quản lý quỹ ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước và các quỹ khác của Nhà nước. 2.Trình Bộ trưởng Bộ Tài chính xem xét, quyết định: Dự thảo thông tư và các văn bản khác về lĩnh vực quản lý của Kho bạc Nhà nước. Kế hoạch hoạt động hàng năm của Kho bạc Nhà nước. 3. Ban hành văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, văn bản quy phạm nội bộ, văn bản cá biệt thuộc phạm vi quản lý của Kho bạc Nhà nước. 4.Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án thuộc lĩnh vực quản lý quỹ ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước và các quỹ khác của Nhà nước sau khi được cấp có thẩm quyền ban hành hoặc phê duyệt. 5. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về lĩnh vực quản lý của Kho bạc Nhà nước. 6. Quản lý quỹ ngân sách nhà nước, quỹ tài chính nhà nước và các quỹ khác được giao theo quy định của pháp luật: Tập trung và phản ánh đầy đủ, kịp thời các khoản thu ngân sách nhà nước; tổ chức thực hiện việc thu nộp vào quỹ ngân sách nhà nước các khoản tiền do các tổ chức và cá nhân nộp tại hệ thống Kho bạc Nhà nước; thực hiện hạch toán số thu ngân sách nhà nước cho các cấp ngân sách theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Kiểm soát, thanh toán, chi trả các khoản chi của ngân sách nhà nước và các nguồn vốn khác được giao theo quy định của pháp luật; Quản lý quỹ ngoại tệ tập trung của ngân sách nhà nước, định kỳ công bố tỷ giá hạch toán phục vụ cho việc hạch toán các khoản thu chi ngân sách nhà nước bằng ngoại tệ; Quản lý, kiểm soát và thực hiện nhập, xuất các quỹ tài chính nhà nước và các quỹ khác do Kho bạc Nhà nước quản lý; quản lý các khoản tạm thu, tạm giữ, tịch thu, ký cược, ký quỹ, thế chấp theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Quản lý tài sản quốc gia quý hiếm được giao theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; quản lý tiền, tài sản, các loại chứng chỉ có giá của Nhà nước và của các đơn vị, cá nhân gửi tại Kho bạc Nhà nước. 7. Được trích tài khoản của tổ chức, cá nhân mở tại Kho bạc Nhà nước để nộp ngân sách nhà nước hoặc áp dụng các biện pháp hành chính khác để thu cho ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật; từ chối thanh toán, chi trả các khoản chi không đúng, không đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. 8. Tổ chức hạch toán kế toán ngân sách nhà nước, các quỹ và tài sản của Nhà nước được giao quản lý, các khoản vay nợ, viện trợ, trả nợ của Chính phủ và chính quyền địa phương theo quy định của pháp luật; báo cáo tình hình thực hiện thu, chi ngân sách nhà nước cho cơ quan tài chính cùng cấp và cơ quan nhà nước liên quan theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính. 9. Tổ chức thực hiện công tác thống kê kho bạc nhà nước và chế độ báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật. 10. Tổ chức quản lý, điều hành ngân quỹ kho bạc nhà nước tập trung, thống nhất trong toàn hệ thống: - Mở tài khoản, kiểm soát tài khoản tiền gửi và thực hiện thanh toán bằng tiền mặt, chuyển khoản đối với tổ chức, cá nhân có quan hệ giao dịch với Kho bạc Nhà nước; - Mở tài khoản tiền gửi hoặc tài khoản thanh toán tại ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại để thực hiện các nghiệp vụ thu, chi, thanh toán của Kho bạc Nhà nước theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính; - Được sử dụng ngân quỹ kho bạc nhà nước để tạm ứng cho ngân sách nhà nước theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính; - Xây dựng và phát triển hệ thống các công cụ, nghiệp vụ quản lý hiện đại theo nguyên tắc đảm bảo an toàn và hiệu quả ngân quỹ kho bạc nhà nước. 11. Tổ chức huy động vốn cho ngân sách nhà nước và đầu tư phát triển thông qua việc phát hành trái phiếu Chính phủ. 12. Tổ chức quản trị và vận hành hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc. 13.Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với hành vi vi phạm pháp luật trong phạm vi quản lý nhà nước của Kho bạc Nhà nước; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng tài sản, kinh phí được giao theo quy định của pháp luật. 14. Hiện đại hoá hoạt động Kho bạc Nhà nước: - Xây dựng cơ chế, chính sách và quy trình nghiệp vụ phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn của Việt Nam; - Tổ chức quản lý, ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại hoá cơ sở vật chất của hệ thống Kho bạc Nhà nước. 15. Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế thuộc lĩnh vực Kho bạc Nhà nước theo phân công, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính và quy định của pháp luật. 16. Thực hiện công tác tổ chức và cán bộ: - Xây dựng tổ chức bộ máy và phát triển nguồn nhân lực bảo đảm yêu cầu cải cách về cơ chế, chính sách và hiện đại hoá công nghệ quản lý; - Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế; thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ, thi đua khen thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của Kho bạc Nhà nước theo phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính và quy định của pháp luật. 17. Quản lý kinh phí do ngân sách nhà nước cấp và tài sản được giao theo quy định của pháp luật; được sử dụng các khoản thu phát sinh trong hoạt động nghiệp vụ theo chế độ quản lý tài chính của Nhà nước. 18. Thực hiện cải cách hành chính theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính được Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt. 19. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Bộ trưởng Bộ Tài chính giao và theo quy định của pháp luật. 1.1.3. Cơ cấu tổ chức Kho bạc Nhà nước được tổ chức thành hệ thống dọc từ Trung ương đến địa phương theo đơn vị hành chính, bảo đảm nguyên tắc tập trung, thống nhất. 1.1.3.1. Cơ quan Kho bạc ở Trung ương KBNN Trung ương trực thuộc bộ Tài chính. KBNN có Tổng giám đốc và các Phó Tổng giám đốc. Tổng giám đốc do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Các Phó Tổng giám đốc, Vụ trưởng do Bộ trưởng Bộ Tài chính bổ nhiệm và miễn nhiệm. Các Phó Vụ trưởng và trưởng, phó phòng ban do Tổng giám đốc KBNN bổ nhiệm và miễn nhiệm. Bộ máy KBNN Trung ương gốm có - Vụ Tổng hợp - Pháp chế; - Vụ Kiểm soát chi ngân sách nhà nước; - Vụ Huy động vốn; - Vụ Kế toán nhà nước; - Vụ Kho quỹ; - Vụ Hợp tác quốc tế; - Vụ Tổ chức cán bộ; - Vụ Tài vụ - Quản trị; - Văn phòng; - Thanh tra; - Sở Giao dịch Kho bạc Nhà nước; - Cục Công nghệ thông tin; - Trường Nghiệp vụ Kho bạc; - Tạp chí Quản lý Ngân quỹ Quốc gia. 1.1.3.2. Cơ quan Kho bạc ở địa phương - Kho bạc Nhà nước ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh) trực thuộc Kho bạc Nhà nước; - Kho bạc Nhà nước ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Kho bạc Nhà nước cấp huyện) trực thuộc Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh. Kho bạc Nhà nước được tổ chức điểm giao dịch tại các địa bàn có khối lượng giao dịch lớn theo quy định của Bộ Tài chính. 1.2. Hoạt động huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước 1.2.1. Các công cụ huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước 1.2.1.1. Đặc điểm của các công cụ huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước Kho bạc Nhà nước huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển thông qua việc phát hành các loại trái phiếu Chính phủ. Đây là các loại chứng khoán nợ, có thời hạn, có mệnh giá, có lãi, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ với người sở hữu trái phiếu, tín phiếu. Trái phiếu Chính phủ có 11 đặc điểm sau đây: Trái phiếu Chính phủ được phát hành dưới dạng chứng chỉ tiền gửi hoặc bút toán ghi sổ, có ghi tên hoặc không ghi tên. Trái phiếu Chính phủ được phát hành nhằm phục vụ cho những mục tiêu cụ thể của Chính phủ. Ví dụ như: Trái phiếu đầu tư được phát hành để huy động vốn cho đầu tư theo chính sách của Nhà nước; tín phiếu Kho bạc được phát hành để huy động vốn nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời của Ngân sách Nhà nước; Đầu tư xây dựng những công trình quan trọng quốc gia và các công trình thiết yếu khác phục vụ sản xuất, đời sống, tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đất nước theo quy định của Pháp lệnh phát hành công trái xây dựng tổ quốc… Mệnh giá: là giá trị ghi trên trái phiếu mà Chính phủ cam kết trả cho người sở hữu trái phiếu vào ngày đáo hạn. Mệnh giá của trái phiếu phát hành và thanh toán bằng đồng Việt Nam được quy định hiện nay tối thiểu là 100.000 đồng. Mệnh giác cụ thể do Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định. Mệnh giá của trái phiếu phát hành và thanh toán bằng ngoại tệ được quy định cụ thể. Ngày đáo hạn: là ngày mà trái phiếu đến hạn và được Chính phủ thanh toán cho người chủ sở hữu trái phiếu thông qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Lãi suất: trên trái phiếu có lãi suất mà Chính phủ cam kết sẽ thanh toán cho chủ sở hữu trái phiếu vào một ngày xác định hoặc là định kỳ. Thông qua lãi suất, nhà đầu tư có thể xác định được khoản lợi tức từ việc mua trái phiếu. Trái phiếu được phát hành với một tỷ lệ lãi suất danh nghĩa được xác định bởi các điều kiện thị trường tại thời điểm chào bán trái phiếu. Lãi suất thường được công bố theo tỷ lệ phần trăm so với mệnh giá trái phiếu. Lãi suất có thể được trả định kỳ hoặc trả một lần khi đến hạn. Tính rủi ro: rủi ro của trái phiếu Chính phủ gần như bằng không vì trái phiếu Chính phủ được đảm bảo bằng uy tín của Chính phủ và được thanh toán bằng NSNN. Trong trường hợp NSNN không đảm bảo được nguồn để thanh toán gốc, lãi trái phiếu khi đến hạn thị Chính phủ có thể phát hành nợ mới để đảo nợ cũ. Mặc dù được coi là độ an toàn cao nhất trong các loại chứng khoán nợ nhưng trái phiếu của chính phủ vẫn tiềm ẩn những rủi ro như rủi ro về biến động lãi suất, tỷ giá, rủi ro về khả năng thanh toán bằng tiền mặt. Tính thanh khoản: Tính thanh khoản là khả năng chuyển trái phiếu thành tiền mặt. Trong các loại trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Kho bạc có tính thanh khoản cao nhất bới kì hạn ngắn. Trái phiếu kho bạc có kỳ hạn dài hơn nhưng được tham gia thị trường tiền tệ với tư cách là công cụ vay chiết khấu, cầm cố, mua bán ngắn hạn nên trái phiếu kho bạc cũng có tính thanh khoản cao. Giá mua: giá mua trái phiếu là khoản tiền thực tế mà người ta bỏ ra để có được quyền sở hữu trái phiếu. Giá mua có thể bằng mệnh giá; giá mua cũng có thể cáo hơn mệnh giá tức là giá gia tăng; hoặc giá mua cũng có thể là giá chiết khấu, tức là thấp hơn mệnh giá. Kỳ hạn: kỳ hạn của trái phiếu Chính phủ có thể được chia thành ba loại: ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Trái phiếu ngắn hạn thường có kỳ hạn dưới 1 năm, trái phiếu trung hạn có kỳ hạn từ 1 năm đến 10 năm, trái phiếu dài hạn có kỳ hạn từ 10 năm trở lên. Kỳ hạn trái phiếu được ghi rõ trên tờ trái phiếu. Kỳ hạn trái phiếu cho biết khoảng thời gian mà người nắm giữ trái phiếu nhận được lãi đình kỳ hoặc là thời gian mà Chính phủ phải thanh toán cho người nắm giữ trái phiếu tiền gốc theo mệnh giá trái phiếu. Trái phiếu Chính phủ được phát hành và thanh toán bằng đồng Việt Nam. Đối với Trái phiếu ngoại tệ thì được phát hành và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi, đồng tiền sử dụng để thanh toán là cùng loại với đồng tiền khi phát hành. Đối tượng mua trái phiếu là các tổ chức, cá nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, các tổ chức, cá nhân người nước ngoài làm việc và sinh sống hợp pháp tại Việt Nam. Đối với các tổ chức của Việt Nam không được dùng nguồn kinh phí do NSNN cấp để mua trái phiếu. 1.2.1.2. Phân loại các công cụ huy động vốn qua hệ thống Kho bạc Nhà nước Huy động vốn qua hệ thống Kho bạc Nhà nước là một hoạt động quan trọng của nền kinh tế. Hoạt động này được thực hiện bằng các công cụ huy động vốn. Tùy theo mục đích phát hành hay yêu cầu quản lý, ta có thể phân loại công cụ huy động vốn theo các tiêu thức sau: Phân loại theo hình thức phát hành Theo hình thức phát hành, trái phiếu Chính phủ được chia thành trái phiếu ghi danh và trái phiếu vô danh: Trái phiếu ghi danh là loại trái phiếu ghi rõ họ tên và địa chỉ người chủ sở hữu trái phiếu trên bề mặt trái phiếu và trong sổ theo dõi của KBNN. Đặc điểm của trái phiếu ghi danh là khó chuyển nhượng, trường hợp bị mất có thể xin cấp lại. Trái phiếu vô danh là loại trái phiếu không ghi tên chủ sở hữu trên bề mặt trái phiếu hoặc trong sổ theo dõi của KBNN. Đặc điểm của loại trái phiếu này là dễ chuyển nhượng, bất kỳ người nào năm giữ trái phiếu trong tay đều có quyển hưởng lãi và quyền được thanh toán trái phiếu. Chủ sở hữu trái phiếu có thể nắm giữ trái phiếu đến ngày đáo hạn hoặc có thể bán nó trên thị trường thứ cấp trước ngày đáo hạn. Phân loại theo mục đích phát hành Theo mục đích phát hành thì trái phiếu Chính phủ được chia thành các loại sau: Tín phiếu Kho bạc: Tín phiếu Kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn dưới 1 năm do Kho bạc Nhà nước phát hành nhằm phát triển thị trường tiền tệ và huy động vốn để bù đắp thiếu hụt tạm thời của NSNN trong năm tài chính. Tín phiếu Kho bạc được phát hành theo phương thức đấu thầu. Bộ Tài chính có thể uỷ thác cho Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng thương mại Nhà nước phát hành, thanh toán tín phiếu Kho bạc. Các tổ chức nhận uỷ thác này sẽ được hưởng một khoản phí theo quy định của Bộ Tài chính. Tín phiếu Kho bạc được mua bán trên thị trường tiền tệ và được chiết khấu tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước. Trái phiếu Kho bạc: trái phiếu Kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ 1 năm trở lên, do KBNN phát hành để huy động vốn bù đắp thiếu hụt NSNN theo dự toán NSNN hàng năm đã được Quốc hội quyết định. Trái phiếu Kho bạc được phát hành theo các phương thức như: bán lẻ qua hệ thống Kho bạc, đấu thầu qua thị trường giao dịch chứng khoán, bảo lãnh phát hành và đại lý phát hành. Lãi suất trái phiếu Kho bạc do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định trên cơ sở tình hình thực tế của thị trường tài chính thời điểm phát hành. Trường hợp đấu thầu thì lãi suất hình thành theo kết quả đấu thầu. Việc thanh toán lãi, gốc cho trái phiếu và phí cho tổ chức phát hành được Ngân hàng Nhà nước đảm bảo. Trái phiếu công trình trung ương: là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ 1 năm trở lên do Kho bạc Nhà nước phát hành, nhằm huy động vốn theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, cho các dự án thuộc nguồn vốn đầu tư của ngân sách trung ương, đã ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm. Phân loại theo thời hạn phát hành Thời hạn trái phiếu có liên quan chặt chẽ đến việc sử dụng nguồn vốn vay. Bộ Tài chính căn cứ vào mục đích và đối tượng sử dụng vốn để quyết định thời hạn trái phiếu cho từng đợt phát hành. Thông thường trái phiếu Chính phủ được phân thành 3 loại: Trái phiếu ngắn hạn: (thường được gọi là tín phiếu) là loại trái phiếu có thời hạn dưới 1 năm. Loại trái phiếu này thường được phát hành theo phương thức đấu thầu. Trái phiếu trung hạn: thường có thời hạn từ 1 năm đến 10 năm Trái phiếu dài hạn: có thời hạn từ 10 năm trở lên Cả hai loại trái phiếu trung và dài hạn được sử đụng để đáp ứng nhu cầu chi đầu tư phát triển theo kế hoạch đầu tư của Nhà nước. 1.2.1.3. Lãi suất của các công cụ huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước Lãi suất của trái phiếu Chỉnh phủ là yếu tố quan trọng nhất thể hiện chính sách huy động vốn của Nhà nước. Đồng thời lãi suất là yếu tố thể hiện mối quan hệ lợi ích giữa người cho vay và người đi vay; lãi suất có ảnh hưởng đến khả năng huy động và sử dụng vốn vay của Nhà nước. Căn cứ để xác định lãi suất trái phiếu Chính phủ Lãi suất cơ bản: được xác định trên cơ sở tham gia lãi suất trái phiếu kho bạc của các nước kinh tế phát triển và lãi suất của thị trường liên ngân hàng. Tỷ lệ lạm phát và chỉ số giá cả theo từng thời kỳ do Tổng cục thống kê công bố. Dựa vào các chỉ số này để tính bù vào phần lãi suất cơ bản với mục đích đảm bảo quyền lợi của người cho vay, tạo điều kiện thuận lợi trong huy động vốn của Nhà nước. Căn cứ vào thời hạn của trái phiếu: thông thường trái phiếu có thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao so với trái phiếu có thời hạn ngắn. Dựa vào căn cứ này sẽ giúp tránh được rủi ro với khoản cho vay. Mặt khác, tạo điều kiện để Nhà nước sử dụng các khoản nợ cho đầu tư phát triển với các dự án cho vay có thời gian thu hồi vốn dài. Căn cứ vào nhu cầu huy động vốn của Nhà nước: thông thường nhu cầu huy động vốn có tính cấp bách và khối lượng lớn thì lãi suất phải cao. Các loại lãi suất trái phiếu Chính phủ Lãi suất cố định áp dụng cho cả kỳ hạn phát hành: là loại lãi suất được xác định theo một tỷ lệ phần trăm theo mệnh giá. Lãi suất thay đổi: Lãi suất thay đổi theo sự thay đổi của lãi suất tham chiếu. Lãi suất bằng không: lãi suất không được quy định trên tờ trái phiếu. Người mua trái phiếu không nhận được lãi từ tờ trái phiếu nhưng đổi lại người mua sẽ được mua tờ trái phiếu đó với giá thấp hơn mệnh giá và được hoàn trả bằng mệnh giá khi trái phiếu đó đáo hạn. 1.2.2. Các phương thức huy động vốn 1.2.2.1. Bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước Bán lẻ qua hệ thống KBNN là phương thức KBNN trực tiếp thực hiện việc bán trái phiếu cho các tổ chức, cá nhân mua trái phiếu, tổ chức thanh toán tiền gốc, lãi trái phiếu và thực hiện lưu giữ, bảo quản trái phiếu khi chủ sở hữu có nhu cầu. Trái phiếu Chính phủ phát hành theo phương thức này thường là trái phiếu Kho bạc; trái phiếu công trình Trung ương; trái phiếu ngoại tệ và công trái xây dựng tổ quốc. Căn cứ vào kế hoạch huy động vốn hàng năm, nhu cầu sử dụng vốn của NSNN và tiến độ triển khai các dự an, công trình; Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định nội dung cụ thể của từng đợt phát hành. Hình thức trái phiếu có thể là chứng chỉ hoặc ghi sổ, có ghi danh hoặc không ghi danh. Lãi suất từng đợt phát hành do Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định. Tuy nhiên phương thức phát hành này đã tạm dừng từ cuối năm 2006 để chuyển sang đấu thầu và bảo lãnh. 1.2.2.2. Đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Căn cứ vào nhiệm vụ huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển, Bộ Tài chính quyết định khối lượng trái phiếu Chính phủ phát hành hàng năm. Kho bạc Nhà nước sẽ chủ động quyết định khối lượng và thời điểm phát hành từng đợt cho phù hợp với tình hình hiện tại. Phương thức phát hành này chủ yếu áp dụng với hai loại trái phiếu Chính phủ là tín phiếu Kho bạc và trái phiếu ngoại tệ. Hình thức phát hành là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ; có danh hoặc không ghi danh. Mọi thông tin đấu thầu của đơn vị đặt thầu và các thông tin có liên quan đến lãi suất tổ chức đấu thầu được giữ tuyệt đối bí mật. Đối tượng tham gia đấu thầu có thể là các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm, các công ty chứng khoán, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Việc đấu thầu có thể được thực hiện theo một trong hai hình thức là đấu thầu cạnh tranh lãi suất hoặc có sự kết hợp giữa đấu thầu cạnh tranh lãi suất với đấu thầu không cạnh tranh lãi suất. Đấu thầu cạnh tranh lãi suất là việc các thành viên tham gia đấu thầu đưa ra các mức lãi suất thầu của mình để Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lựa chọn lãi suất trúng thầu. Đấu thầu không cạnh tranh lãi suất là việc các tổ chức tham gia đấu thầu không đưa ra mức lãi suất dự thầu mà đăng kí mua trái phiếu theo mức lãi suất trúng thầu được xác định theo kết quả của đấu thầu cạnh trang lãi suất. Nếu có sự kết hợp giữa đấu thầu cạnh tranh lãi suất và đấu thầu không cạnh tranh lãi suất thì khối lượng trái phiếu Chính phủ không vượt quá 30% tổng khối lượng trái phiếu thông báo phát hành của đợt đấu thầu đó. Trái phiếu Chính phủ đấu thầu được bán theo hai hình thức là ngang mệnh giá và chiết khấu. Bán trái phiếu Chính phủ theo hình thức ngang mệnh giá là việc tổ chức phát hành thực hiện bán trái phiếu bằng mệnh giá của trái phiếu. Tiền lãi được thanh toán định kỳ, hoặc một lần cùng với tiền gốc khi đến hạn. Bán trái phiếu Chính phủ theo hình thức chiết khấu là việc tổ chức phát hành thực hiện bán trái phiếu thấp hơn mệnh giá và thanh toán bằng mệnh giá của trái phiếu khi đến hạn. 1.2.2.3. Đấu thầu trái phiếu Chính phủ qua Sở Giao dịch Chứng khoán Đấu thầu trái phiếu Chính phủ qua Sở Giao dịch Chứng khoán là phương thức huy động mới được thực hiện từ khi Thị trường chứng khoán thành lập năm 2000. Căn cứ vào kế hoạch huy động vốn hàng năm của Ngân sách Nhà nước, KBNN sẽ xây dựng kế hoạch đấu thầu trái phiếu hàng tháng, hàng quý. Trái phiếu được phát hành theo phương thức này được niêm yết và giao dịch tại SGDCK. Các loại trái phiếu Chính phủ được đấu thầu trên thị trường chứng khoán là các loại trái phiếu có kì hạn ngắn dưới 1 năm như: trái phiếu Kho bạc, trái phiếu công trình trung ương, trái phiếu đầu tư, trái phiếu chính quyền địa phương. Trái phiếu được phát hành theo hình thức bút toán ghi sổ hoặc chứng chỉ có ghi danh hoặc không ghi danh. Đối tượng tham gia đấu thầu cũng giống các đối tượng tham gia của phương thức đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước. Lãi suất trái phiếu phát hành được xác định trên cơ sở kết quả của từng phiên đấu thầu. Tuỳ từng điều kiện cụ thể, Bộ trưởng Bộ Tài chính có thể quy định hoặc không quy định mức lãi suất trần để tổ chức đấu thầu. Lãi suất trái phiếu có thể được áp dụng cố định cho cả kỳ hạn trái phiếu hoặc thả nổi hàng năm theo sự biến động của lãi suất thị trường tài chính,tiền tệ. Trường hợp áp dụng lãi suất thả nổi, căn cứ ý kiến thoả thuận của Bộ Tài chính, Chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh. Tổng giám đốc KBNN công bố mức lãi suất tham chiếu trước khi đấu thầu. Lãi suất chính thức sẽ được công bố trước theo từng thời gian hoặc vào các thời điểm thanh toán lãi trái phiếu trên cơ sở lãi suất tham chiếu tại thời điểm công bố. Đấu thầu trái phiếu Chính phủ qua thị trường chứng khoán tập trung được thực hiện theo hai hình thức: đấu thầu cạnh tranh lãi suất hoặc kết hợp giữa đấu thầu cạnh tranh lãi suất với đấu thầu không cạnh tranh lãi suất. Trái phiếu Chính phủ đấu thầu qua SGDCK được bán theo các hình thức: Bán chiết khấu (giống phương thức đấu thầu qua NHNN) Bán ngang mệnh giá: giá bán trái phiếu trong trường hợp này bằng 100% mệnh giá Bán cao hơn mệnh giá hoặc thấp hơn mệnh giá: là việc tổ chức phát hành ấn định trước mức lãi suất thanh toán định kỳ và thông qua kết quả đấu thầu để xác định giá bán trái phiếu cao hơn hoặc thấp hơn mệnh giá 1.2.2.4. Bảo lãnh phát hành Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi phát hành trái phiếu ra thị trường chứng khoán, phân phối trái phiếu cho các nhà đầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu còn lại chưa phân phối hết. Trái phiếu Chính phủ được phát hành theo phương thức bảo lãnh bao gồm: trái phiếu Kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương, trái phiếu đầu tư và trái phiếu chính quyền địa phương. Các tổ chức muốn được công nhận là thành viên tham gia bảo lãnh phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện: Là các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư, công ty tài chính, các ngân hàng và các định chế tài chính khác được Bộ Tài chính chấp thuận để trở thành thành viên tham gia bảo lãnh. Có tư cách pháp nhân và được thành lập hoặc hoạt động hợp pháp theo pháp luật hiện hành của Việt Nam. Có vốn pháp định tối thiểu là 22 tỷ đồng Việt Nam. Hoạt động kinh doanh năm trước năm xin công nhận thành viên bảo lãnh, đại lý phát hành phải có lãi. Có tài khoản tiền đồng Việt Nam mở tại Ngân hàng. 1.2.3. Sự cần thiết của công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước. 1.2.3.1. Huy động vốn góp phần đáp ứng nhu cầu về vốn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng ta đã đề ra chiến lược xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại định hướng xã hội chủ nghĩa, để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được chiến lược của Đảng, công tác huy động vốn trở nên rất quan trọng bởi vì chỉ thông qua công tác huy động vốn mới có thể tạo ra một nguồn vốn to lớn phục vụ nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Thông qua công tác huy động vốn sẽ đảm bảo huy động được mọi nguồn vốn nhản rỗi tro._.ng xã hội phục vụ mục tiêu phát triển, tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế. Bằng các phương pháp và công cụ huy động vốn khác nhau, Nhà nước đã huy động được các khoản tiền nhàn rỗi trong dân. Các khoản huy động được chủ yếu được phân phối cho các dự án phát triển cơ sở sản xuất, phát triển cơ sở hạ tầng nhằm phục vụ cho toàn xã hội. Công tác huy động vốn thực hiện chức năng tập trung và phân phối lại các nguồn lực tài chính trong xã hội, góp phần tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Các nguồn lực tài chính của xã hội nằm trong dân, các tổ chức, doanh nghiệp… tạm thời nhàn rỗi, không được sử dụng. Trong khi đó lại có một bộ phận xã hội tiến hành sản xuất kinh doanh nhưng lại không có đủ vốn, hoặc Nhà nước có nhu cầu nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng nhưng Ngân sách Nhà nước không đáp ứng đủ…Có thể thấy công tác huy động vốn đã trở thành cầu nối để cung cầu về vốn gặp nhau. Chi phí huy động vốn được giảm, tập trung vốn cho quá trình sản xuất, kinh doanh. 1.2.3.2. Huy động vốn góp phần tăng cường vai trò của Nhà nước trong điều tiết kinh tế vĩ mô. Để thực hiện nhiệm vụ và chức năng của mình, Nhà nước luôn có nhu cầu chi tiêu rất lớn. Các khoản chi này được bù đắp bằng các nguồn thu mà Nhà nước tạo lập nên. Tuy nhiên, khi nền kinh tế đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ thì các nguốn thu cũng không thể bù đắp được các khoản chi. Vì thế trong nhiều năm NSNN của nước ta luôn trong tình trạng thâm hụt, gây ảnh hưởng lớn đền kinh tếm, chính trị và xã hội. Trước đây Nhà nước thường bù đắp thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành tiền hoặc đi vay nước ngoài. Việc phát hành tiền là nguyên nhân gây ra lạm phát còn việc đi vay nước ngoài sẽ ảnh hưởng đến tính tự chủ của nước ta. Nhận thức được vai trò của công tác huy động vốn đối với nền kinh tế đặc biệt là việc bù đắp thâm hụt ngân sách. Công tác huy động vốn đã được hoàn thiện nhằm khai thác và sử dụng mọi tiềm lực trong nền kinh tế. Nhà nước đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng để bù đắp thâm hụt ngân sách cũng như đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển. Từ đó đã tạo thế cho Chính phủ trong công tác xây dựng kế hoạch và điều hành ngân sách. Với nguồn vốn huy động được, Nhà nước đã đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, giao dục, y tế, phúc lợi xã hội cho người dân… Công tác huy động vốn góp phần kiểm soát tình trạng thâm hụt NSNN. Việc đảm bảo tiềm lực cho NSNN đã giúp Nhà nước thực hiện có hiệu quả vai trò của mình trong ổn định thị trường tiền tệ, khuyến khích đầu tư phát triển, từng bước tăng quy mô và tỷ trọng của nguốn vốn đầu tư từ ngân sách. Công tác huy động vốn đã giúp cho hoạt động điều hành NSNN được thuận lợi, tăng cường vị thế của Nhà nước với các tầng lớp xã hội. Đồng thời, việc huy động vốn trong nước đã góp phần giảm vay nước ngoài, từ đó tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế như hiện nay. 1.2.3.3. Huy động vốn góp phần ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát Ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát là một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong nền kinh tế thị trường ở bất cứ quốc gia nào. Để thực hiện nhiệm vụ này, Nhà nước phải sử dụng đồng bộ các giải pháp về tài chính và tiền tệ. Huy động vốn được coi là một trong những giải pháp quan trọng để ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát. Huy động vốn góp phần điều hoà khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Tuỳ theo tình hình thực tế của thị trường mà các công cụ huy động vốn sẽ được sử dụng để điều hoà lưu thông tiền tệ. Nếu như trong lưu thông đang dư thừa tiền tệ, có thể dẫn đến lạm phát cao, Nhà nước sẽ phát hành tín phiếu, trái phiếu hay công trái để rút bớt lượng tiền trong lưu thông. Nếu lượng tiền mặt trong lưu thông thiếu, việc thực hiện chiết khấu và tái chiết khấu sẽ đưa tiền mặt trở lại lưu thông. Công tác huy động vốn tác động đến việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ của Nhà nước, thúc đẩy sự phát triển của hệ thống ngân hàng, góp phần hình thành và phát triển thị trường tiền tệ. Một chính sách tiền tệ phù hợp và hiệu quả sẽ giúp ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát. 1.2.3.4. Huy động vốn góp phần thúc đẩy phát triển thị trường chứng khoán. Phát triển thị trường chứng khoán là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của một quốc gia trong nền kinh tế thị trường. Thị trường chứng khoán là cầu nối giúp người có vốn nhàn rỗi và người có nhu cầu về vốn có gặp nhau, góp phần huy động tối đa được các nguồn lực trong xã hội. Nói cách khác, thị trường chứng khoán là nơi tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế. Công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, thể hiện ở các mặt sau: Các công cụ huy động vốn như tín phiếu, trái phiếu, công trái sẽ là hàng hoá quan trọng trên thị trường chứng khoán. Kinh nghiệm ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển cho thấy trái phiếu Chính phủ đóng vai trò là hàng hoá chủ đạo cho thị trường trong giai đoạn đầu. Bước đầu tạo ra cơ chế giao lưu hàng hoá trên thị trường chứng khoán, thúc đẩy sự hình thành và phát triển các công ty chứng khoán, môi giới đầu tư, tạo thói quen đầu tư, kinh doanh các loại chứng khoán cho các tầng lớp dân cư. Thông qua việc sử dụng các công cụ lãi suất huy động vốn đối với trái phiếu Chính phủ, lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu… Nhà nước tăng cường chức năng định hướng phát triển và điều tiết thị trường tài chính. Thị trường tài chính lại có tác động quan trọng đến mọi hoạt động của nền kinh tế. Do đó, trên phạm vi vĩ mô toàn bộ nền kinh tế, các công cụ huy động vốn là một trong những công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua các văn bản pháp quy về công tác huy động vốn góp phần tạo cơ sở pháp lý ban đầu cho hoạt động của thị trường chứng khoán. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước. 1.3.1. Các nhân tố khách quan 1.3.1.1 Tốc độ phát triển kinh tế Trong một nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và ổn định, thu nhập và tiết kiệm trong nền kinh tế và các tầng lớp dân cư ngày càng tăng lên. Điều này sẽ khiến nhu cầu đầu tư vào TPCP cũng tăng lên. Và ngược lại, nếu nền kinh tế rơi vào suy thoái, thu nhập và tiết kiệm của toàn bộ nền kinh tế giảm thì cầu về TPCP cũng sẽ giảm. Cầu về trái phiếu là yếu tố quan trọng quyết định khả năng huy động vốn bằng phát hành TPCP trên thị trường sơ cấp. 1.3.1.2 Lạm phát và lãi suất tương lai dự tính Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước tác động rất lớn đến tình hình lạm phát và lãi suất. Hai phạm trù này liên quan chặt chẽ với nhau và ảnh hưởng đến cầu TPCP. Nếu lạm phát và lãi suất được dự đoán là sẽ tăng trong tương lai, cầu TPCP sẽ giảm. Nếu lạm phát và lãi suất được dự đoán là sẽ giảm, cầu TPCP sẽ có xu hướng tăng. 1.3.1.3 Khả năng sinh lời từ việc mua bán, chuyển nhượng trái phiếu Chính phủ Khi mua trái phiếu trên thị trường, các nhà đầu tư sẽ nhắm đến hai mục đích chủ yếu đó là: hưởng lãi từ trái phiếu khi đến hạn thanh toán và mua trái phiếu sau đó bán lại trên thị trường nhằm thu lợi từ hoạt động kinh doanh ấy. Thông thường mục đích thứ hai sẽ được các nhà đầu tư nhắm tới. Tuy nhiên, họ sẽ chỉ bán trái phiếu đã mua khi thu được lợi từ hoạt động này, tức là số tiền lợi nhuận thu được khi đầu tư vào các lĩnh vực khác lớn hớn lợi nhuận từ việc giữ trái phiếu. Trong một nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, có nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư tìm được những hoạt động đầu tư có tỷ suất sinh lời cao hơn là việc mua TPCP. Do đó, cầu trái phiếu Chính phủ sẽ giảm. Nếu như nền kinh tế suy thoái thì các nhà đầu tư sẽ tăng tỷ trọng đầu tư vào các công cụ ít rủi ro như TPCP. Khi đó cầu TPCP sẽ tăng. 1.3.1.4 Tính thanh khoản của trái phiếu Chính phủ Cầu trái phiếu Chính phủ tỷ lệ thuận với tính thanh khoản của trái phiếu. Tính thanh khoản của TPCP chịu ảnh hưởng lớn của quy trình và thủ tục mua, bán trái phiếu trên thị trường. Nếu các trình tự này đơn giản, nhanh chóng, chi phí thấp, các nhà đầu tư sẽ có điều kiện thuận lợi trong việc mua bán, chuyển nhượng trái phiếu. Điều này tạo cho TPCP tính thanh khoản cao, vì thế cầu trái phiếu cũng sẽ tăng. 1.3.1.5 Lợi tức và mức độ rủi ro của các công cụ đầu tư khác Nếu lợi tức của các công cụ đầu tư khác tăng lên hoặc rủi ro của chúng giảm xuống, các nhà đầu tư sẽ tăng tỷ lệ vốn đầu tư vào các công cụ này bởi vì sẽ mang lại lợi nhuận lớn hơn việc đầu tư vào trái phiếu Chính phủ. Do đó cầu TPCP sẽ giảm. Và ngược lại, khi lợi tức của các công cụ đầu tư khác giảm hoặc rủi ro khi đầu tư vào các công cụ đó tăng lên, các nhà đầu tư sẽ chuyển vốn đầu tư sang công cụ có độ an toàn cao hơn, đó là trái phiếu Chính phủ. 1.3.2. Các nhân tố chủ quan 1.3.2.1. Chính sách huy động vốn của Kho bạc Nhà nước Nếu như Kho bạc Nhà nước có chính sách huy động vốn hợp lý, chiến lược dài hạn chắc chắn công tác huy động vốn sẽ gặp nhiều thuận lợi. Một chính sách huy động vốn hoàn chỉnh sẽ được tính toán kĩ càng các cơ chế về lãi suất trái phiếu, phương thức phát hành, phương thức trả nợ, sự đa dạng của trái phiếu, những quy định cụ thể về việc chuyển nhượng trên thị trường trái phiếu để tăng tính thanh khoản cho TPCP. Tất cả những điều này dựa trên mục đích của đợt huy động vốn và thực trạng nền kinh tế trong nước, quốc tế cũng như tâm lý của nhà đầu tư. Khi nhà đầu tư cảm thấy việc nắm giữ TPCP sẽ mang lại một nguồn lợi tức lớn trong tương lai hay việc mua bán trái phiếu trên thị trường thứ cấp dễ dàng, chắc chắn TPCP sẽ là một hàng hóa hấp dẫn đối với họ. 1.3.2.2. Cơ sở vật chất kĩ thuật của hệ thống Kho bạc Nhà nước Cơ sở vật chất và điều kiện công nghệ kỹ thuật hiện đại được trang bị cho hệ thống Kho bạc Nhà nước cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến công tác huy động vốn. Công tác phát hành, quản lý cũng như thanh toán trái phiếu sẽ hiệu quả hơn rất nhiều nếu có sự hỗ trợ của tin học. Ngược lại, nếu như hệ thống Kho bạc Nhà nước không được trang bị đầy đủ các phương tiện làm việc như trên, đó sẽ là một khó khăn trong việc thực hiện huy động vốn. Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước Việt Nam 2.1 Quá trình phát triển của thị trường trái phiếu Trước khi hệ thống Kho bạc Nhà nước ra đời, trái phiếu Chính phủ được phát hành chủ yếu dưới hình thức công trái xây dựng Tổ quốc và do Ngân hàng Nhà nước đảm nhiệm. Việc phát hành không thường xuyên và kết quả còn hạn chế do đồng tiền chưa ổn định và nguồn tích lũy trong dân còn ở mức thấp. Sau khi hệ thống Kho bạc Nhà nước được thành lập, trái phiếu Chính phủ được tổ chức phát hành thường xuyên dưới nhiều hình thức và phương thức khác nhau, đã mở ra một trang sử mới của công tác huy động vốn để đáp ứng nhu cầu bù đắp bội chi ngân sách và tăng cường nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế. Quá trình phát triển của thị trường trái phiếu có thể được chia thành 3 giai đoạn chủ yếu sau: 2.2.1. Giai đoạn 1991 - 1994 Tín phiếu kho bạc lần đầu tiên được phát hành thí điểm tại thành phố Hải Phòng loại kì hạn 3 tháng, lãi suất 5%/tháng và do Kho bạc Nhà nước bán trực tiếp cho các tầng lớp dân cư. Kết quả phát hành rất khả quan: trong 6 tháng cuối năm 1991 đã thu được 204,4 tỷ đồng. Từ thành công bước đầu đó, Bộ Tài chính đã quyết định mở rộng địa bàn phát hành tín phiếu kho bạc ra các thành phố lớn: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và từ cuối năm 1992 phát hàng rộng khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước. Nguồn tín phiếu được sử dụng chủ yếu để cân đối ngân sách nhà nước. Có thể nói đây là giai đoạn thử nghiệm trong việc sử dụng công cụ trái phiếu Chính phủ để huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển. Hánh lang pháp lý cho công tác phát hành trái phiếu Chính phủ chưa đầy đủ, hiệu lực pháp lý chưa cao; các hình thức và phương thức phát hành còn sơ khai… Mặc dù vậy, những kết quả đạt được trong giai đoạn này đã khẳng định trái phiếu Chính phủ là một kênh huy động vốn hết sức quan trọng để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước và đầu tư các công trình trọng điểm quốc gia. 2.1.2. Giai đoạn 1995 - 1999 Để tạo hành lang pháp lý cho công tác huy động vốn, ngày 26/7/1994, Chính phủ ban hành Nghị định 72/CP về quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ. Theo đó, cơ chế phát hành trái phiếu Chính phủ đã được cải tiến và mở rộng với nhiều hình thức khác nhau: phát hành trực tiếp qua hệ thống Kho bạc Nhà nước, đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước và đại lý phát hành. Kho bạc nhà nước chỉ phát hành trực tiếp ra công chúng các loại trái phiếu kho bạc có kỳ hạn từ 1-2 năm. Các đợt phát hành được thực hiện tương đối liên tục trong năm tại tất cả các đơn vị Kho bạc Nhà nước. Đối với tín phiếu kho bạc ngắn hạn (dưới 1 năm), Kho bạc Nhà nước đã phối hợp với Ngân hàng Nhà nước đưa vào hoạt động thị trường đấu thầu theo hình thức chiết khấu. Đối tượng tham gia đấu thầu là các định chế tài chính, chủ yếu là các ngân hàng thương mại và các công ty bảo hiểm Hoạt động thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc tuy còn ở giai đoạn thử nghiệm song đã mang lại những kết quả thiết thực. Khối lượng tín phiếu đấu thầu tăng qua các năm và là nguốn quan trọng để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Cơ chế đấu thầu đã bước đầu tạo ra cơ hội cạnh tranh, hình thành lãi suất tín phiếu theo cơ chế thị trường. Tín phiếu phát hành theo hình thức ghi sổ nên giảm bớt chi phí phát hành. Ngân hàng Nhà nước thực hiện việc quản lý sổ sách và thanh toán tín phiếu đã cho phép rút ngắn thời gian thanh toán và tạo thuận lợi cho việc chuyển giao tín phiếu trên thị trường thứ cấp. Nghiệp vụ quản lý phát hành và thanh toán tương đối đơn giản, thuận lợi cho cả nhà phát hành và các nhà đầu tư. 2.1.3. Giai đoạn 2000 đến nay Nhằm tăng cường khả năng huy động các nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế, đồng thời tạo hàng hóa cho thị trường chứng khoán đã được thành lập và đang đi vào hoạt động, ngày 13 tháng 1 năm 2000, Chính phủ ban hành Nghị định số 01/2000/NĐ-CP về quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ, thay thế Nghị định 72/CP. Theo Nghị định mới, bên cạnh việc duy trì phương thức đấu thầu tín phiếu qua Ngân hàng Nhà nước và phát hành trái phiếu trực tiếp ra công chúng qua hệ thống Kho bạc nhà nước, trái phiếu Chính phủ còn được phát hành theo hai phương thức mới: đấu thầu qua Sở Giao dịch chứng khoán và bảo lãnh phát hành. Trái phiếu phát hành theo hai phương thức này được niêm yết và giao dịch tại SGDCK, tạo điều kiện cho việc phát triển thị trường thứ cấp. Mặt khác, quy chế mới cũng đã quy định rõ hơn về cơ chế phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh. Mặc dù còn có nhiều hạn chế nhất định, song đây là một bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển thị trường chứng khoán nợ nói chung và thị trường TPCP nói riêng ở Việt Nam. 2.2 Thực trạng công tác huy động vốn qua Kho bạc Nhà nước thời gian vừa qua 2.2.1. Huy động vốn thông qua phát hành tín phiếu Kho bạc Từ đầu thập niên 90, để phát triển kinh tế xã hội, Việt Nam cần có một số nguồn vốn lớn, trong khi đó nguồn vốn vay nước ngoài bị hạn chế; do đó việc huy động vốn trong nước trở nên cấp thiết, và một trong những kênh huy động quan trọng phải kể đến là phát hành tín phiếu Kho bạc. Từ tháng 3/1991 đến tháng 3/1995, hệ thống KBNN đã phát hành tín phiếu Kho bạc với các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng. Mức lãi suất luôn được điều chỉnh để phù hợp với mặt bằng lãi suất huy động vốn trên thị trường( lãi suất giảm từ 5%/tháng trong năm 1991 xuống còn 1,7%/tháng năm 1995). Hình thức thanh toán tín phiếu khá đa dạng như thanh toán lãi ngay khi phát hành, thanh toán cả gốc và lãi tín phiếu khi đến hạn. Bảng 2.1: KẾT QUẢ PHÁT HÀNH TÍN PHIẾU QUA HỆ THỐNG KHO BẠC NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 1991 – 1995 Số thứ tự Năm Khối lượng (tỷ đồng) Lãi suất (%/tháng) Kỳ hạn (tháng) 1 1991 -1992 1.356 4 - 5 3 - 6 2 1993 3.545 1.9 – 2.9 3 - 6 3 1994 5.152 1.7 6 4 1995 3.147 1.7 6 Tổng 13.209 Nguồn số liệu: Kho bạc Nhà nước Bắt đầu từ tháng 6/1995, KBNN đã triển khai phương thức đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua NHNN dưới hình thức chiết khấu. Sự thay đổi này đã mở ra một kênh huy động mới với nhiều ưu thế hơn hẳn phương thức bán lẻ tín phiếu qua hệ thống KBNN trước đây nhằm huy động nguồn vốn trong nước đáp ứng kịp thời nhu cầu điều hành NSNN. Đối tượng tham gia đấu thầu chủ yếu là các Ngân hàng thương mại (NHTM) và các công ty bảo hiểm. Qua các năm số lượng thành viên tham gia thị trường đấu thấu tín phiếu Kho bạc ngày càng tăng. Tính đến cuối năm 2007 đã có 48 thành viên tham gia thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc. Tín phiếu Kho bạc đấu thầu qua NHNN được áp dụng theo phương thức đấu thầu của Hà Lan, các thành viên đặt thầu theo lãi suất chứ không theo giá; nhưng có điểm khác là Bộ Tài chính áp dụng lãi suất chỉ đạo (lãi suất trần) trong quá trình xét mở thầu. Nếu lãi suất trúng thầu trong phạm vi lãi suất chỉ đạo thì đợt thầu thành công, lãi suất trúng thầu chính là lãi suất tín phiếu phát hành. Nếu lãi suất trúng thầu cao hơn lãi suất chỉ đạo, trong trường hợp này những đơn vị nào trúng thầu với mức lãi suất nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất chỉ đạo mới được trúng thầu. Từ tháng 6/1995 đến 31/12/2008, KBNN đã phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức được 583 phiên đấu thầu với tổng doanh số huy động là 126.049,8 tỷ đồng, cụ thể số liệu qua các năm như sau: Bảng 2.2: KẾT QUẢ ĐẤU THẦU TÍN PHIẾU KHO BẠC QUA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 6/1995 – 12/2009 STT NĂM SỐ PHIÊN ĐẤU THẦU KHỐI LƯỢNG TRÚNG THẦU (Tỷ đồng) LÃI SUẤT BÌNH QUÂN (%) 1 1995 4 243,6 17,5 2 1996 19 976,4 9,0 3 1997 37 2.917,5 10,5 4 1998 46 4.020,7 11,6 5 1999 46 3.001,6 8,6 6 2000 46 4.766 5,4 7 2001 44 3.915 5,4 8 2002 50 8.410 5,9 9 2003 51 15.989 5,87 10 2004 45 15.200 5,7 11 2005 60 17.886 5,75 12 2006 58 18.093 5,15 13 2007 42 10.179 3,76 14 2008 35 20.830 9,992 15 2009 44 10.000 - Tổng 627 126.049,8 Nguồn số liệu: Kho bạc Nhà nước Nhìn vào bảng số liệu trên có thể thấy rằng, qua gần 15 năm hoạt động, công tác đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua NHNN đã dần đi vào ổn định. Quy mô và tần suất phát hành ngày càng tăng. Năm 1995 chỉ có 4 phiên đấu thầu với khối lượng trúng thầu là 243,6 tỷ đồng. Từ năm 1997 số phiên đấu thầu tăng nhanh chóng, đặc biệt là năm 2005 với 60 phiên và khối lượng trúng thầu là 17.886 tỷ đồng. Khối lượng huy động tăng đều năm sau cao hơn năm trước và trở thành nguốn vốn chính để bù đắp thâm hụt ngân sách. Năm 2007 lượng vốn huy động được chỉ là 10.179 tỷ đồng. Sự sụt giảm này có nguyên nhân vì từ năm 2007, NHNN phát hành trái phiếu ngân hàng dưới 1 năm vì thế tín phiếu Kho bạc không còn hấp dẫn với các nhà đầu tư. Nhưng năm 2008 lượng vốn huy động được đã tăng trở lại với mức 20.830 tỷ đồng. Lãi suất khá ổn định, có xu hướng giảm dần qua từng năm. Lãi suất giảm từ 17,5% năm 1995 xuống còn 5.4% năm 2001, có tăng nhẹ trong các năm tiếp theo và giảm xuống mức 3,76% năm 2007. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã khiến cho tình hình huy động vốn qua phát hành tín phiếu Kho bạc gặp nhiều khó khăn. Trong 7 tháng đầu năm chỉ có 2 phiên được tổ chức nhưng không thành công. Đến tháng 8/2008 hoạt động này mới được khôi phục lại, lãi suất được đẩy lên mức cao 9,992% và kết quả huy động cả năm đạt 20.830 tỷ đồng. Không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu bù đắp bội chi NSNN, công tác đấu thầu tín phiếu Kho bạc còn có ý nghĩa quan trọng trong thực hiện chính sách tiền tệ. Với chính sách tiền tệ thắt chặt trong giai đoạn này, việc huy động vốn thông qua phát hành tín phiếu Kho bạc đã làm giảm bớt một lượng lớn tiền mặt trong lưu thông, góp phần kiềm chế lạm phát và ổn định vĩ mô nền kinh tế. Đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua NHNN đã tạo ra một bước cạnh tranh mới trong việc hình thành lãi suất tín phiếu theo cơ chế thị trường. Việc NHNN giữ sổ sách và thanh toán tín phiếu đã rút ngắn thời gian thanh toán, tạo điều kiện cho việc chuyển giao tín phiếu trên thị trường thứ cấp. Với thực trạng đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua NHNN như trên, có thể rút ra một vài nhận xét như sau: Thứ nhất, các thành viên tham gia đấu thầu chủ yếu là các NHTM nhà nước, là các tổ chức có vốn khả dụng cao. Thời gian đầu mới đi vào hoạt động, số lượng thành viên tham gia đấu thầu còn ít, tăng dần qua các năm. Tuy nhiên tính cạnh tranh vẫn không cao. Thứ hai, thực chất của việc đấu thầu tín phiếu là đấu thầu khối lượng tín phiếu với khung lãi suất do Bộ Tài chính định trước. Mặc dù Bộ Tài chính đã có những điều chỉnh cho phù hợp với lãi suất chung trên thị trường nhưng rõ ràng nó ảnh hưởng không nhỏ đến việc xác định lãi suất. Thứ ba, thị trường thứ cấp tín phiếu Kho bạc đã được mở ra với việc triển khai nghiệp vụ thị trường mở, nhưng các thành viên tham gia chưa nhiều và vẫn chỉ tập trung vào các NHTM. Do đó, công cụ này vẫn chưa phát huy hết vai trò trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Có thể nói răng đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua NHNN thực sự đã trở thành một kênh huy động vốn có hiệu quả của Nhà nước nhằm mục tiêu bù đắp thâm hụt NSNN với chi phí thấp. Hơn thế nữa, công tác này còn có một vai trò quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ của Nhà nước, ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát. 2.2.2 Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Kho bạc 2.2.2.1 Bán lẻ trái phiếu Kho bạc qua hệ thống Kho bạc Nhà nước Trái phiếu Kho bạc được phát hành với mục đích huy động vốn vừa để bù đắp thiếu hụt NSNN theo dự toán NSNN hàng năm đã được Quốc hội quy định, đồng thời nhằm đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư phát triển của nền kinh tế. Từ tháng 6/1994 đến tháng 6/1995, KBNN phát hành thí điểm trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 3 năm, lãi suất được điều chỉnh và công bố hàng năm là 15%/năm, 21%/năm và 14%/năm. Tổng lượng vốn huy động được trong đợt phát hành này là 880 tỷ đồng. Kết quả huy động vốn không cao là do cùng thời điểm này, kỳ phiếu của các Ngân hàng thương mại ngắn hạn có lãi suất bình quân cao hơn, từ 21 – 22%/năm. Hơn nữa, người dân vẫn chưa quen với hình thức đầu tư vào trái phiếu trung hạn và lãi suất chưa thực sự hấp dẫn. Để đảm bảo nhu cầu vốn cho cân đối NSNN theo chỉ tiêu được Quốc hội giao nên từ tháng 4/1995 đến tháng 10/1999, KBNN đã phát hành trái phiếu có kỳ hạn 1 năm, lãi suất 21%/năm. Đây là loại trái phiếu vô danh, in sẵn mệnh giá, lãi suất hấp dẫn, được tự do chuyển nhượng, cầm cố nên đợt phát hành này đã thu hút được nhiều nhà đầu tư. Trong vòng 6 tháng, Kho bạc Nhà nước đã huy động được 7.361 tỷ đồng. Cũng trong giai đoạn này, từ 1/3/1996 đến 15/4/1996, KBNN đã phát hành trái phiếu có ghi tên, không in sẵn mệnh giá, kỳ hạn dưới 1 năm, lãi suất 16%/năm và kết quả huy động được 745 tỷ đồng. Tuy nhiên có thể thấy rằng, loại trái phiếu này có kỳ hạn ngắn (1 năm) nên nếu huy động vốn cho đầu tư phát triển thị kỳ hạn này không phù hợp, dẫn đến sự thiếu hiệu quả trong việc sử dụng vốn. Đến tháng 9/1996, loại trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 2 năm lần đầu tiên được phát hành, có ghi tên và không in trước mệnh giá. Loại trái phiếu này được bán cho các đối tượng là người Việt Nam và người nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam. Chỉ trong vòng 3 tháng đã huy động được 1.259 tỷ đồng. Đến cuối năm 2004, số dư nợ gốc trái phiếu bán lẻ qua hệ thống KBNN loại 2 năm là trên 9.694 tỷ đồng. Năm 2001, thời điểm thị trường chứng khoán Việt Nam mới ra đời, KBNN đã cung cấp hàng hoá cho thị trường này bằng việc phát hành thí điểm trái phiếu Chính phủ theo hình thức chiết khấu tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trái phiếu chiết khấu được phát hành vào 15/6/2001, kỳ hạn 5 năm, lãi suất 7,2%/năm. Giá bán trái phiếu sẽ được chiết khấu phần lãi tương ứng với thời gian tính từ ngày phát hành đến ngày mua trái phiếu, bảo đảm cho các trái phiếu phát hành trong cùng một đợt sẽ có cùng ngày đáo hạn. Trái phiếu không ghi tên, in trước mệnh giá, được thanh toán bằng đồng Việt Nam, tiền lãi thanh toán định kỳ mỗi năm một lần, được niêm yết và giao dịch tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Trong đợt phát hành này, lượng vốn huy động được chỉ là 48,6 tỷ đồng. Nguyên nhân là do đây là lần đầu tiên trái phiếu Chính phủ theo hình thức chiết khấu được phát hành, đồng thời lãi suất 7,2%/ năm cho kỳ hạn dài 5 năm không hấp dẫn được nhà đầu tư. Năm 2006 là thời gian mà phương thức bán lẻ trái phiếu Kho bạc được tạp dừng lại để tập trung vào hai phương thức đấu thầu và bảo lãnh. Tuy nhiên bước sang năm 2009, do nhu cầu thực tiễn, phương thức bán lẻ đã được thực hiện trở lại. Kết quả thu được rất khả quan khi khối lượng vốn huy động được đạt 860 tỷ đồng. Trái phiếu Kho bạc được phát hành với các loại kỳ hạn 1 năm, 2 năm, 3 năm và 5 năm đạt được kết quả còn rất khiêm tốn nhưng đã đánh dấu một bước thay đổi quan trọng trong quá trình đổi mới cơ chế huy động vốn qua KBNN. Trái phiếu ngắn hạn dần được thay thế bằng trái phiếu trung và dài hạn. Các nhà đầu tư đã quen dần với hình thức đầu tư này, tạo đà cho phát hành các loại trái phiếu dài hạn hơn trong tương lai. 2.2.2.2. Trái phiếu Kho bạc đấu thầu qua Sở Giao dịch Chứng khoán Phương thức đấu thầu qua SGDCK được bắt đầu thực hiện khi có Nghị định 01/2000/NĐ-CP ngày 13/1/2000 về quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ. Quy chế mới cho phép áp dụng phương thức đấu thầu TPCP qua Sở giao dịch chứng khoán và bảo lãnh phát hành. Hiện này số lượng thành viên tham gia đấu thầu trái phiếu Chính phủ là 52 thành viên, bao gồm các NHTM nhà nước, các NHTM cổ phần, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán. Phương pháp đấu thầu kết hợp giữa hai hình thức cạnh tranh lãi suất và không cạnh tranh lãi suất, trong đó khối lượng không cạnh tranh tối đa là 30%. Trái phiếu Chính phủ đấu thầu qua Sở Giao dịch Chứng khoán được bán ngang mệnh giá với kỳ hạn 5 năm. 7 năm. Hình thức phát hành là ghi sổ, được niêm yết và giao dịch tại Sở Giao dịch chứng khoán. Tổng khối lượng vốn huy động được thông qua phương thức đấu thầu TPCP qua Sở Giao dịch Chứng khoán từ tháng 7/2000 đến 31/12/2009 được phản ánh trong bảng 2.3 Bảng 2.3: KẾT QUẢ ĐẤU THẦU TPCP QUA SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN GIAI ĐOẠN 2000 - 2009 STT NĂM KHỐI LƯỢNG TRÚNG THẦU (tỷ đồng) LÃI SUẤT TRÚNG THẦU (%) 1 2000 600 6,5 2 2001 1.333 7,3 - 7,35 3 2002 231 7,4 - 8,6 4 2003 672 8,35 - 8,7 5 2004 1.420,7 8,35 - 8,7 6 2005 2.235 8,50 - 8,75 7 2006 7.885 8,20 - 8,75 8 2007 9.857 8,50 - 8,00 9 2008 4.292 8,00 - 8,25 10 2009 110 8,25 - 8.75 Tộng 28.635,7 Nguồn số liệu: Kho bạc Nhà nước Có thể thấy rằng huy động vốn qua kênh đấu thầu TPCP tại Sở Giao dịch Chứng khoán còn chưa đạt hiệu quả, số lượng thành viên tham đấu thầu mỗi phiên còn ít, chỉ có 3 đến 4 thành viên tham gia. Khối lượng huy động qua các năm được chưa ổn định. Giai đoạn từ 2006 đến 2008 đạt kết quả khá cao, đặc biệt là năm 2007 với mức 9.857 tỷ đồng nhưng sang năm 2009 lại giảm xuống chỉ ở mức 110 tỷ đồng. Điều này có thể lý giải là do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008. Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải phát triển thị trường thứ cấp cho hoạt động giao dịch trái phiếu. Thị trường chứng khoán trong các năm qua đã dần phát triển nhưng do những quy định khá chặt chẽ về khối lượng giao dịch, giá mua, giá bán nên việc tiền hành giao dịch TPCP vẫn gặp phải nhiều khó khăn. Các thành viên tham gia đấu thầu vẫn chưa có đầy đủ thông tin về các đợt phát hành trái phiếu nên không thể có kế hoạch trong dài hạn. Việc các thông tin chưa minh bạch đã ảnh hưởng không nhỏ đến chiến lược của các thành viên tham gia đấu thầu, dẫn tới sự chênh lệch lớn giữa khối lượng TPCP gọi thầu và khối lượng TPCP trúng thầu. Nếu như có những quy định và chính sách quản lý thích hợp, đồng thời thông tin được công khai minh bạch chắc chăn hiệu quả từ kênh huy động vốn này sẽ cao hơn. 2.2.2.3. Phát hành trái phiếu Kho bạc theo phương thức bảo lãnh phát hành Nhằm tạo thêm một kênh mới để huy động vốn trung và dài hạn cho NSNN và cho đầu tư phát triển, đồng thời cung cấp hàng hóa đủ tiêu chuẩn cho Sở Giao dịch Chứng khoán, ngày 15/9/2000 Kho bạc Nhà nước lần đầu tiên tổ chức phát hành trái phiếu Chính phủ theo phương thức phát hành. Đối tượng tham gia bảo lãnh phát hành bao gồm các ngân hàng thương mại và công ty chứng khoán. Thông qua kênh bảo lãnh phát hành, mỗi năm KBNN đã huy động được hàng nghìn tỷ đồng. Trái phiếu Chính phủ phát hành theo phương thức bảo lãnh đã góp phần bổ sung một lượng hàng hóa lớn cho thị trường chứng khoán trong quá trình xây dựng và mở rộng quy mô. Thị trường bảo lãnh phát hành ngày càng được hoàn thiện và phát triển. Đặc thù của nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là sự gặp gỡ, thỏa thuận trực tiếp giữa KBNN và các thành viên tham gia bảo lãnh. Do đó, thông qua thị trường này, KBNN có thể ước lượng được cung và cầu vốn trên thị trường với độ tin cậy cao, bám sát được diễn biến của lãi suất trên thị trường vốn, từ đó tham mưu cho lãnh đạo Bộ Tài chính trong việc lựa chọn phương án bảo lãnh phát hành, đảm bảo hài hòa lợi ích, quyền lợi giữa chủ thể phát hành và các nhà đầu tư chứng khoán. Bảng 2.4: KẾT QUẢ PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ THEO PHƯƠNG THỨC BẢO LÃNH GIAI ĐOẠN 2000 -2009 STT NĂM SỐ ĐỢT BL KHỐI LƯỢNG PHÁT HÀNH (tỷ đồng) LÃI SUẤT (tỷ đồng) KỲ HẠN (năm) 1 2000 1 500 6,6 5 2 2001 2 250 7,0 – 7,35 5 3 2002 1 0 0 0 4 2003 6 1.650 8,3 5 5 2004 21 2.390 8,35 – 8,5 5 6 2005 40 9.945 8,0 – 8,75(9,25)* 5 và 15 7 2006 28 12.241 8,15 – 8,75(9,25)** 5 và 15 8 2007 17 6.951 7,04 – 7,3 7 9 2008 - 15.070 - - 10 2009 - 2.100 - - Tổng - 51.097 Nguồn số liệu: Kho bạc Nhà nước Chú thích: (*) và (**) : Lãi suất trái phiếu có kỳ hạn 15 năm Từ năm 2000 đến năm 2008 khối lượng phát hành thông qua phương thức bảo lãnh tăng khá đều. Duy nhất có năm 2002, chỉ thực hiện được 1 đợt bảo lãnh nhưng cũng không thành công nên cả năm không huy động được vốn bằng phương thức này. Các năm sau đó lượng vốn huy động được tăng trưởng đều ở mức cao. Đến năm 2009 chỉ huy động được 2.100 tỷ đồng nguyên nhân cũng do cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008. Có thể thấy rằng phương thức huy động vốn bằng bảo lãnh đã thu hút được một lượng vốn đáng kể cho ngân sách nhà nước và đầu tư phát triển. Nếu thực hiện công khai và minh bạch thông tin liên quan đến phương thức bảo lãnh phát hành TPC._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25744.doc