Lời mở đầu
Với áp lực của xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới và sự phát triển như vũ bão của nền khoa học công nghệ, vốn kinh doanh trở thành vấn đề sống còn của mọi doanh nghiệp nếu muốn tồn tại và đi nên trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
Khai thác và huy động vốn hợp lý luôn là một nhiệm vụ trung tâm một ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Do đặc thù của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam và xét trong
43 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1352 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn ở các Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoàn cảnh chung của nền kinh tế, hiện tại doanh nghiệp vừa và nhỏ đang đứng trước những khó khăn cần tháo gỡ trong đó nguồn vốn là chủ yếu. Do nguồn vốn trung và dài hạn vẫn đang ở giai đoạn sơ khai, hệ thống ngân hàng vẫn còn yếu kém, chưa phát huy hết khả năng của mình cộng thêm sự kém mạnh dạn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên khó có thể tiếp cận được với tín dụng ngân hàng. Phần lớn lượng vốn còn lại được trang trải bằng vốn tự có và bằng các hình thức huy động phi chính thức. Các nguồn vốn này hiện chưa được nghiên cứu đánh giá một cách đầy đủ. Do đó chưa có giải pháp hữu hiệu để huy động và sử dụng một cách có hiệu quả. Được sự hướng dẫn của cô giáo Nguyễn Thu Thuỷ em đã chọn đề tài : “ Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn ở các DNVVN Việt Nam” làm đề án môn học. Do thời gian nghiên cứu và trình độ còn hạn hẹp, vì vậy không tránh khỏi những thiếu sót em rất mong được sự giúp đỡ, góp ý của các thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn.
Chương I:
Vốn trong doanh nghiệp vừa và nhỏ
I. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường
1. Khái niệm:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là đơn vị tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân nhằm thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng, trao đổi hàng hoá và các dịch vụ trên thị trường để tối đa hoá lợi nhuận của chủ sở hữu tài sản doanh nghiệp.
2. Các tiêu thức xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ( DNVVN)
Có nhiều cách phân loại doanh nghiệp : Phân theo tính chất hoạt động kinh doanh, theo ngành như : Công nghiệp thương mại, dịch vụ, nông lâm ngư nghiệp vv… phân theo trình độ sản xuất kinh doanh( doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ…) Đối với doanh ngiệp vừa và nhỏ cần phải xác định và phân loại theo từng tiêu thức riêng mới xác định được đúng bản chất, vị trí và những vấn đề có liên quan đến nó. Hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam còn có nhiều bàn cãi, tranh luận và có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau khi đánh giá, phân loại quy mô DNVVN nhưng thường tập chung vào các tiêu thức chủ yếu như : Vốn, doanh thu, lao động, thị phần và lợi nhuận.
Như vậy, tiêu chuẩn phân loại doanh nghiệp không tính đến phạm vi quan hệ của doanh nghiệp, trình độ công nghệ, trình độ quản lý và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là điều đáng chú ý.
Tiêu chuẩn phân loại doanh nghiệp là không cố định và chẳng những khác nhau giữa các nước mà còn thay đổi trong một nước. Cũng cần nói thêm rằng ở hầu hết các nước, người ta nói gộp chung doanh nghiệp nhỏ với doanh nghiệp vừa thành doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì các nước thường có chính sách chung cho cả hai loại doanh nghiệp đó.
ở Việt Nam, theo công văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 của Văn phòng Chính phủ, DNVVN là doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng ( tương đương 387.000 USD vào thời điểm ban hành công văn số 681) và có số lao động dưới 200 người.
Dựa trên định nghĩa này, một số nhà nghiên cứu đã cụ thể hoá thêm: doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động ít hơn 50 người hoặc có tổng giá trị vốn dưới 1 tỷ đồng; doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có số lao động từ 51- 200 người hoặc có tổng giá trị vốn (hoặc doanh thu ) từ 1 tỷ đồng đến 5 tỷ đồng.
3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vị trí rất quan trọng và có ảnh hưởng ngày càng lớn tới sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Theo đánh giá của các chuyên viên kinh tế ở các nước Nics, DNVVN chiếm tỷ trọng 81- 98% khối lượng các doanh nghiệp trong nền kinh tế, thu hút số lượng lao động từ 40-70%, xuất khẩu trực tiếp chiếm từ 15- 66%, kim nghạch xuất khẩu ở mỗi nước, tạo ra giá trị hàng hoá và dịch vụ chiếm từ 22 – 55% tổng lượng hàng hoá của nền kinh tế.
ở Việt Nam, trong những năm qua hầu hết các doanh nghiệp mới thành lập đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các doanh nghiệp, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước …làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
- Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế:
Mỗi năm, DNVVN đóng góp khoảng 25-26% GDP của cả nước. Năm 1996, giá trị sản lượng công nghiệp do DNVVN tạo ra là 8.315 tỷ đồng, chiếm 35% tổng giá trị sản lượng toàn ngành và 54% giá trị công nghiệp địa phương. Tổng giá trị bán lẻ hàng hoá dịch vụ đạt 49000 tỷ đồng, bằng 78% tổng mức bán lẻ. Trong vận tải, DNVVN chiếm 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá. Trong một số nghành nghề thủ công như thủ công mỹ nghệ, may mặc, giầy dép… thì các DNVVN là đơn vị chiếm lĩnh hầu hết thị trường.
- Thu hút việc làm:
Đây là một thế mạnh của DNVVN khu vực DNVVN thuộc các thành phần kinh tế hiên đang thu hút khoảng 25-26% lực lượng lao động phi nông nghiệp trong cả nước, nhưng triển vọng thu hút thêm lao động là rất lớn vì suất đầu tư cho một chỗ lao động ở đây thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp lớn chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút được các nguồn vốn rải rác trong dân. Theo tài liệu “ Một số chỉ tiêu chỉ tiêu chủ yếu về quy mô và hiệu quả của 1,9 triệu cơ sở sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam” của tổng cục thống kê năm 1997, lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc trong doanh nghiệp tư nhân chỉ có 35 triệu đồng và trong công ty TNHH là 45 triệu đồng, trong khi lượng vốn cho doanh nghiệp nhà nước là 87.5 triệu đồng. Các DNVVN đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động nhất là ở nông thôn tăng thêm mỗi năm, đồng thời còn tiếp nhận số lao động trong doanh nghiệp nhà nước dôi ra qua việc cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê, phá sản doanh nghiệp hiện đang được triển khai. Như vậy, DNVVN có vai trò vô cùng quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho xã hội.
- Thu hút vốn:
Các DNVVN do nhu cầu về vốn không cao so với các doanh nghiệp lớn và do sự linh hoạt trong kinh doanh mà họ dễ dàng tiếp cận trực tiếp với các nguồn vốn, những người cho vay và các chủ đầu tư, tạo dựng được niềm tin và uy tín để có thể huy động được vốn và nhận được nhiều các hình thức hỗ trợ về vốn khai thác như lãi suất ưu đãi, thời hạn hoàn trả vốn …
Hiện nay, đa số các nguồn đầu tư trực tiếp từ trong nước hay các nguồn kiều hối từ nước ngoài vào Việt Nam đều chú trọng đến việc đầu tư cho các DNVVN. Nguồn vốn này xuất phát từ vốn nhàn rỗi trong dân, vốn kiều bào từ nước ngoài nên xét trên phương diện nền kinh tế chi phí về vốn sẽ thấp hơn, bớt rủi ro hơn so với các nguồn vốn từ bên ngoài ( vay nợ hoặc đầu tư trực tiếp từ nước ngoài ). Hơn nữa, khi nguồn vốn này được phát huy nó cũng tự làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn vì khi đó mỗi công dân sẽ trở thành một cổ đông của nền kinh tế, và họ sẽ quan tâm tích cực hơn tới sự vận động của chính “công ty” mà họ đang có cổ phần, điều này sẽ cho phép khai thác tối đa nguồn nhân lực mà chúng ta đang có và hiệu quả đem lại sẽ vô cùng lớn. Theo dự kiến kế hoạch 5 năm 2001- 2005, để đạt tốc độ tăng GDP bình quân năm là 7,5%, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phải đạt từ 830-850 nghìn tỷ đồng (tương đương với 59-61 tỷ USD ) tăng bình quân từ 11-12%, trong đó vốn trong nước phải chiếm 2/3. Trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, vốn ngân sách chiếm 20-21%, tín dụng nhà nước chiếm 17-18%, vốn cuả doanh nghiệp nhà nước 19-20%, vốn nước ngoài 16-17%, vốn của kinh tế dân doanh chiếm 24-25%. Như vậy, đây là một yêu cầu lớn cũng như triển vọng lớn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta.
II. Vai trò và các nguồn vốn trong DNVVN:
1. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Bất kỳ một DNVVN nào muốn phát triển đều phải có vốn. Nó là yếu tố quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển doanh nghiệp và trở thành một vấn đề bức xúc cần giải quyết, nhất là trong cuộc đấu tranh khốc liệt như hiện nay.
- Thứ nhất, vốn kinh doanh là tiền đề để các doannh nghiệp có thể thực hiện được các hoạt động kinh doanh. Khi khởi nghiệp doanh nghiệp cần có một số vốn ban đầu nhất định để đầu tư mua sắm các yếu tố cần thiết cho hoạt động kinh doanh như: chi phí thành lập, xây dựng trụ sở công ty, mua máy móc trang thiết bị, dự trữ nguyên nhiên liệu, thuê lao động… Đối với một số ngành như ngân hàng, bảo hiểm…Nhà nước còn có quy định số vốn tối thiểu phải có khi thành lập doanh nghiệp (vốn pháp định).
- Thứ hai, vốn kinh doanh tạo điêù kiện để doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh một cách liên tục và có hiệu quả. Trước hết, để duy trì được hoạt động kinh doanh bình thường, số vốn đầu tư ban đầu phải được quay vòng liên tục và phải được bảo toàn sau mỗi chu kỳ luân chuyển. Có như vậy, doanh nghiệp mới có thể tiếp tục mua sắm tư liệu sản xuất cho chu kỳ sau. Khi doanh nghiệp đã phát triển, quy mô rộng, nhu cầu đầu tư chiều sâu sẽ xuất hiện. Doanh nghiệp cần cải tạo, đưa công nghệ tiên tiến vào sản xuất, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhập khẩu công nghệ từ nước ngoài, đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật, cải tiến mẫu mã nâng cao chất lượng sản phẩm. Để làm được điều đó doanh nghiệp cần có một số vốn nhất định.
- Thứ ba, tiềm lực mạnh mẽ sẽ giúp cho doanh nghiệp khẳng định được chỗ đứng trong thị trường, tạo lợi thế trong cạnh tranh. Vốn lớn không những cho phép doanh nghiệp đầu tư nhiều trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, mà còn là sức mạnh cho doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường thông qua các chiến dịch Maketing đưa sản phâm đến với người tiêu dùng. Việc mở rộng thị trường tiêu thụ và đa dạng hoá hoạt động kinh doanh cũng góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp và tạo điều kiện cho doanh nghiệp khi muốn huy động thêm vốn. Trong điều kiện Việt Nam đang cố gắng hội nhập vào nền kinh tế của thế giới như hiện nay, sự cạnh tranh sẽ diễn ra ngày càng quyết liệt và các doanh nghiệp nhỏ yếu về vốn sẽ gặp phải nguy cơ đào thải ngày càng lớn.
- Cuối cùng, vốn là công cụ phản ánh đánh giá sự vận động của tài sản, giám sát quá trình sản xuất kinh doanh. Thông qua các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ta có thể biết được hiệu quả của việc quản lý hoạt động kinh doanh. Một doanh nghiệp làm ăn hiệu quả là một doanh nghiệp không những bảo toàn mà ngày càng phát triển, nâng cao số vốn của mình. Vốn kinh doanh cũng trở thành một trong những thước đo quy mô của doanh nghiệp( tổng số vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp là một trong những tiêu chuẩn được sử dụng để xếp hạng doanh nghiệp Nhà nước).
Để nâng cao vai trò của vốn kinh doanh trong hoạt động của doanh nghiệp vấn đề đặt ra trước mắt là doanh nghiệp phải có đủ số vốn cần thiết cho nhu cầu đầu tư của mình. Hiện đây là điều làm đau đầu cả chủ doanh nghiệp lẫn các nhà quản lý kinh tế vĩ mô.
2. Các nguồn vốn cho DNVVN
2.1 Nguồn vốn ngân sách nhà nước:
Với hình thức cung ứng từ ngân sách nhà nước doanh nghiệp sẽ nhân được lượng vốn xác định từ ngân sách nhà nước cấp. Thông thường hình thức này không đòi hỏi nhiều về điều kiện ngặt nghèo đối với doanh nghiệp được cấp vốn như các hình thức huy động vốn khác.
2.2 Gọi vốn qua phát hành cổ phiếu:
Gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu là hình thức doanh nghiệp được cung ứng vốn trực tiếp từ thị trường chứng khoán. khi có nhu cầu về vốn và lựa chọn hình thức này, doanh nghiệp tính toán phát hành cổ phiếu, bán trên thị trường chứng khoán. Hình thức cung ứng vốn này có đặc trưng cơ bản là tăng vốn mà không làm tăng nợ của doanh nghiệp bởi những người sở hữu cổ phiếu trở thành cổ đông của doanh nghiệp.
Tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng được phép khai thác nguồn vốn này mà chỉ có những doanh nghiệp được phép phát hành cổ phiếu như công ty cổ phần, các doanh nghiệp Nhà Nước có quy mô lớn.
Như vậy các DNVVN sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc khai thác nguồn vốn này, doanh nghiệp phải có quy mô đủ lớn để có thể hứa hẹn một mức lợi nhuận cao trong tương lai thì mới bán được cổ phiếu phát hành trên thị trường.
2.3. Vay vốn bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn
Đây là hình thức cung ứng vốn trức tiếp từ công chúng : doanh nghiệp phát hành lượng vốn cần thiết dưới hình thức trái phiếu thường là có kỳ hạn xác định và bán cho công chúng. Bằng hình thức này ta có thể thu hút một lượng vốn lớn cần thiết chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp hơn so với vay ngân hàng, không bị người cung ứng kiểm soát chặt chẽ như vay ngân hàng và doanh nghiệp có thể lựa chọn trái phiếu thích hợp với yêu cầu của mình. Hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm chắc các kỹ thuật tài chính, chi phí kinh doanh phát hành trái phiếu khá cao. Do đó nó cũng gây trở ngại đối với DNVVN khi thiếu các kỹ thuật tài chính.
2.4. Vay vốn của các ngân hàng thương mại
Vay vốn từ hình thức ngân hàng thương mại là hình thức doanh nghiệp vay vốn dưới các hình thức cụ thể ngắn hạn, trung hạn, hoặc dài hạn từ các ngân hàng thương mại. Với hình thức này doanh nghiệp có thể huy động được lượng vốn lớn, đúng hạn và có thể mời các ngân hàng cùng tham gia thẩm định dự án nếu có nhu cầu vay đầu tư lớn. Bên cạnh đó để thực hiện được hình thức vay vốn từ các ngân hàng thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải có uy tín lớn, kiên trì đàm phán, chấp nhận các thủ tục thẩm định ngặt ngheò. Hiện nay khả năng tiếp cận nguồn vốn này của DNVVN còn hạn chế do thiếu năng lực tài chính, các dự án đầu tư thiéu khả thi nên khó được chấp nhận.
2.5. Tín dụng thuê mua
Đây là hình thức tín dụng giữa một bên là doanh nghiệp có cầu sử dụng máy móc thiết bị với một bên thực hiện chức năng thuê mua. Đó có thể là công ty thuê mua và công ty tài chính. Với hình thức này doanh nghiệp có thể có máy móc thiết bị để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mà chỉ cần trả tiền thuê hoặc có máy móc thiết bị để sản xuất kinh doanh mà chỉ phải trả theo phương thức trả chậm. Thông qua hình thức này doanh nghiệp có thể huy động được nguồn vốn sử dụng đúng mục đích, tránh được mua những máy móc thiết bị không đúng với yêu cầu sử dụng. Nhưng bên cạnh đó thì chi phí vốn cao và việc làm hợp đồng khá phức tạp.
2.6 Nguồn vốn viện trợ phát triển ODA
ODA là nguồn vốn hỗ trợ phát triển của các nước phát triển dành cho các nước kém phát triển trong đó có Việt Nam. Đối tác mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể tìm kiếm và nhận được nguồn vốn này là các chương trình hợp tác của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế khác.
Hình thức cấp vốn ODA có thể là hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi về lãi suất và thời hạn thanh toán. Nếu các doanh nghiệp được vay vốn từ nguồn vốn ODA có thể chịu mức lãi suất thường trong khoảng 1% - 1,5%/ năm, phí ngân hàng thường là 0,2%-0,3%/ năm trong thời hạn có thể từ 10- 20 năm và có thể được gia hạn thêm.
Hình thức huy động từ nguồn vốn ODA có chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp. Tuy nhiên để nhận được nguồn vốn này các doanh nghiệp phải có trình độ quản trị dự án đầu tư cũng như trình độ phối hợp với các cơ quan chính phủ và chuyên gia nước ngoài.
Hiện nay với hầu hết các DNVVN , năng lực tài chính, năng lực quản lý còn nhiều hạn chế nên việc tiếp cận với nguồn vốn này là vô cùng khó khăn. Nguồn vốn này chủ yếu dành cho các doanh nghiệp lớn của Nhà Nước hoặc các dự án trọng điểm phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội của cả nước.
2.7. Vốn tự bổ sung của DNVVN
Đây là nguồn vốn quan trọng cho phát triển DNVVN . Nguồn vốn vày được hình thàmh từ hai nguồn :
Trích khấu hao cơ bản
Phần lợi nhuận còn lại bổ sung vào vốn kinh doanh
Ngoài ra doanh nghiệp bổ sung vốn hình thành từ chiến lược gía, vốn vay sau khi đã trả nợ và lãi suất tiền vay. Việc phát triển hoặc giảm nguồn này tuỳ thuộc vào hoạt động kinh doanh và việc phân cấp quản lý của Nhà Nước đối với doanh nghiệp.
Chương II:
Thực trạng công tác huy động vốn
ở DNVVN Việt Nam
I. Khái quát thực trạng DNVVN Việt Nam
1. Những đóng góp của DNVVN Việt Nam trong nền kinh tế
DNVVN có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
Vào đầu năm 2002, các DNVVN Việt Nam hoạt động trong nhiều lĩnh vực , với cơ cấu tỷ lệ của loại hình này như sau: 35,4% thuộc ngành công nghiệp chế biến; gần 10% lĩnh vực xây dựng; 4,4% ngành khách sạn và nhà hàng; 3,3% ngành vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc; 2,1% ngành kinh doanh bất động sản và dịch vụ tư vấn ; 1,2% ngành khai thác mỏ … và 7 ngành khác chỉ có dưới 1%.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã có vai trò khá quan trọng trong một số ngành sản xuất , cụ thể như : Sản xuất phân phối điện, khí đốt và nước chiếm 61,5%; hoạt động văn hoá và thể thao : 67,4%; tài chính, tín dụng :72,3%; hoạt động phục vụ cá nhân và công cộng : 83,1%; hoạt động kinh doanh tài sản dịch vụ tư vấn : 83,5%; công nghiệp khai thác mỏ : 83,6%… trong ngành công nghiệp chế biến, số lượng và tỷ lệ các DNVVN tham gia vào sản xuất nhiều loại sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau có sự biến động khá mạnh, tuỳ thuộc vào từng lĩh vực. Các DNVVN tập trung vào chủ yếu 7 phân ngành thuộc ngành công nghiệp chế biến và mỗi phân ngành chiếm tỷ lệ dao động trong khoảng từ 73%-93%. Giá trị sản lượng của 7 phân ngành này chiếm 81% tổng giá trị sản lượng của toàn ngành…
Tỷ lệ lao động trong các doanh nghiệp nhà nước và cơ quan hành chính sự nghiệp có chiều hướng giảm. Trong hoàn cảnh này, các DNVVN ngoài quốc doanh trở thành nơi giải quyết nhu cầu về việc làm cho số lao động được tinh giảm trong các doanh nghiệp và hệ thống hành chính nhà nước. Các DNVVN Việt Nam còn là nơi tạo việc làm cho số lượng lớn những người mới tham gia vào lực lượng lao động hàng năm. Nhìn chung, các DNVVN Việt Nam là nguồn chủ yếu tạo ra việc làm trong tất cả các lĩnh vực. Với việc tuyển dụng gần 1 triệu lao động, các DNVVN Việt Nam chiếm 49% lực lượng lao động trong tất cả các loại hình doanh nghiệp. Có thể thấy, các DNVVN Việt Nam đã thu hút nguồn lao dộng rộng khắp trên phạm vi toàn quốc ; riêng vùng Duyên hải miền trung, tỷ lệ lao động làm việc tại các DNVVN so với tổng số lao động làm việc ở tất cả các doanh nghiệp đạt mức cao nhất là 67%; khu vực Đông Nam Bộ có tỷ lệ thấp nhất là 44%. Đến đầu năm 2002, lĩnh vực khách sạn và nhà hàng tuy chỉ tuyển dụng 51000 lao động nhưng lại chiếm tỷ lệ lao động trong ngành là 89%. Các lĩnh vực cơ bản của ngành công nghiệp chế biến tuyển dụng được 355000 lao động, nhiều nhất so với 6 ngành khác…
Như vậy, các DNVVN giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế, nhận thức được điều đó Đảng và Nhà nước ta đã xác định :”Phát triển DNVVN là một trong những chiến lược trọng tâm trong những năm tới.”
2. Những cơ hội và thách thức đối với DNVVN của Việt Nam trong quá trình phát triển
Mặc dù có sự phát triển ngày một mạnh mẽ, vai trò đối với nền kinh tế ngày một tăng nhưng DNVVN Việt Nam trong quá trình phát triển, hội nhập vào nền kinh tế quốc tế đang đứng trước những cơ hội rất to lớn và cũng phải đối mặt với những khó khăn, thách thức không nhỏ
2.1. Những cơ hội:
Các DNVVN hoạt động trong một môi trường pháp lý, cơ chế đang được tích cực hoàn thiện theo hướng thông thoáng, gia tăng nhiều ưu đãi. Các DNVVN Việt Nam phần nào đã khắc phục được tình trạng phân biệt đối xử được hưởng những ưu đãi trong kinh doanh quốc tế như các doanh nghiệp lớn của Nhà Nước. Bên cạnh đó, các DNVVN được hưởng những hỗ trợ cụ thể về cải tiến quá trình chế tác, quản lý kinh doanh các hoạt động sản xuất thủ công thông qua dự án “ nghiên cứu phát triển ngành thủ công phục vụ công nghiệp hoá ở nông thôn Việt Nam” do bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cùng cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (SICA) thực hiện …
Các DNVVN đã bước đầu tạo dựng được thế và lực trong kinh doanh nội địa, và từng bước tham gia vào thị trường quốc tế, thu hút đầu tư vốn và công nghệ của nước ngoài. Gần đây, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có môi trường kinh doanh an toàn nhất ở Châu á- đây là cơ hội rất lớn cho DNVVN Việt Nam hợp tác với nước ngoài.
2.2. Một số tồn tại, thách thức
Tuy nhiên, do cơ chế cạnh tranh của nền kinh tế thị trường và sự ảnh hưởng của tình hình khủng hoảng tài chính, kinh tế của một số nước trong khu vực cũng như trên thế giới đã có tác động, ảnh hưởng không nhỏ tới các DNVVN làm cho các DNVVN ở nước ta bộc lộ những mặt hạn chế và gặp không ít khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Cụ thể là:
Việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất sản phẩm vật chất đã có giảm so với đầu tư vào các hoạt động kinh doanh, thương mại của các DNVVN làm giảm đáng kể sự đóng góp và GDP của loại hình doanh nghiệp này. Tuy nhiên, ngay cả trong lĩnh vực thương mại – dịch vụ thì tình trạng hàng biên giới, hàng đã qua sử dụng, hàng nhập lậu (chủ yếu từ Trung Quốc) tràn ngập trên thị trường với giá rẻ cũng gây cho các doanh nghiệp này rất nhiều khó khăn. Thị trường và khách hàng bị thu hẹp cộng với sự lúng túng trong quản lý đã dẫn tới việc một số doanh nghiệp bị phá sản hoặc buộc bị giải thể hạn chế phần nào vai trò của loại hình doanh nghiệp này trong phát triển kinh tế.
Trình độ công nghệ, trang thiết bị, máy móc vừa cũ, vừa lạc hậu laị không đồng bộ đã dẫn đến việc sản phẩm làm ra không phù hợp với nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng do đó hạn chế rất lớn khả năng cạnh tranh của các DNVVN trên thị trường.
Lực lượng công nhân kỹ thuật lao động lành nghề được đào tạo làm việc trong các doanh nghiệp còn quá ít. Việc đào tạo, đào tạo lại diễn ra không thường xuyên và đồng bộ dẫn đến tình trạng thừa ở nơi này nhưng lại thiếu ở nơi khác không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất, cộng với đội ngũ cán bộ thiếu kỹ năng quản lý và điều hành nên việc quản lý và sử dụng lao động vô cùng khó khăn dẫn đến hiệu quả hoạt dộng của DNVVN không cao, năng suất lao động thấp, thu nhập không ổn định
Việc tiếp cận với thông tin về văn bản pháp luật, thị trường, tiến bộ công nghệ… còn tản mạn và hạn chế. Khi áp dụng hiệp định GATT/WTO (từ cuối tháng 9-2003), sẽ là một khó khăn cho các DNVVN Việt Nam, bởi đây là một hiệp định khá phức tạp mà các nước đều phải giành thời gian mới có thể tạo được thuận lợi cho mình.
Tình trạng thiếu vốn của các DNVVN , đây là một vấn đề bức xúc và đáng lo ngại nhất hiện nay. Sự suy giảm của kinh tế khu vực sau cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ diễn ra cuối năm 97 đầu năm 98 đã có tác động trực tiếp tới nền kinh tế nước ta đặc biệp là các DNVVN . Một số nhà đầu tư nước ngoài đã rút vốn đầu tư ở VN về khôi phục kinh tế trong nước, một số khác do e ngại về sự ổn định của nền kinh tế trong nước và khu vực (đây là thị trường chủ yếu của các DNVVN ) không đầu tư thêm hoặc rút vốn đầu tư sang thị trường khác dẫn đến sự sụt giảm khủng khiếp của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Và cuối cùng các DNVVN là người gánh chịu trực tiếp hậu quả của việc suy giảm nguồn vốn này. Hơn nữa việc tiếp cận với các nguồn vốn khác lại rất khó khăn, trong đó nguồn vốn chủ yếu đối với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp là nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại nhưng thực tế hiện nay lại có rất ít các doanh nghiệp đủ các điều kiện thế chấp, bảo đảm tiền vay theo yêu cầu của ngân hàng để vay vốn, tỷ trọng vốn vay ngân hàng của các DNVVN chỉ chiếm 20% nhu cầu vốn hoạt động. Nhìn chung các DNVVN đều dựa vào nguồn vốn tự có là chính hoặc huy động từ các nguồn khác như bạn bè, người thân… Việc các DNVVN không tiếp cận và sử dụng được các nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn tín dụng là hạn chế lớn nhất đối với sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này.
Các chính sách vĩ mô, vi mô nhằm hỗ trợ DNVVN còn hạn chế, nặng về hình thức, thiếu hướng dẫn cụ thể như chính sách đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ, chính sách vay vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi nhằm giải quyết việc làm cho người lao động, các hệ thống thông tin, các dịch vụ tư vấn về mặt hàng, thị trường, công nghệ, thiết bị, môi trường luật pháp, thông lệ quốc tế về kinh doanh… không đáp ứng được các nhu cầu của các DNVVN.
Những khó khăn phiền toáI đối với DNVVN xung quanh các thủ tục kê khai hải quan, thủ tục tín dụng vay vốn, tính thuế, hoàn trả thuế, nhà đất … vẫn còn là nỗi lo lắng, băn khoăn của các doanh nghiệp.
II. Thực trạng công tác huy động vốn DNVVN
1. Những thuận lợi và khó khăn do môi trường đem lại cho công tác huy động vốn DNVVN Việt Nam.
1.1. Thuận lợi :
Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường khởi sự bằng nguồn vốn hạn hẹp của cá nhân, sự tài trợ bên ngoài là hết sức hạn chế. Do tính chất nhỏ bé dễ phân tán đi sâu vào các ngõ ngách bản làng và yêu cầu số lượng vốn ban đầu không nhiều, cho nên các DNVVN có vai trò và tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ bé nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản suất kinh doanh. DNVVN chỉ cần một số vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể khởi sự doanh nghiệp. Vòng quay sản phẩm nhanh do đó có thể sử dụng vốn tự có hoặc đi vay bạn bè, người thân dễ dàng mà khi nhu cầu thị trường thay đổi tình thế để thích ứng.
Vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao thu hồi nhanh, do đó DNVVN đã tạo nên sự hấp dẫn trong đầu tư của nhiều cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế.
Hơn nữa, còn được chính phủ từng bước tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của DNVVN :
Thông qua tổ nghiên cứu cơ chế chính sách phát triển DNVVN Việt Nam được thành lập tháng 5/1999, chính phủ nắm bắt kịp thời thực trạng DNVVN Việt Nan và các hoạt động hỗ trợ của các đoàn thể và tổ chức quốc tế để từ đó quy các nguồn vốn này vào một đầu mối để dễ quản lý, doanh nghiệp dễ tiếp cận khi cần vay vốn. Trên thực tế, hiện nay chỉ có khoảng 2 quỹ hỗ trợ phát triển thực sự cho hiệu quả đối với các DNVVN . Bên cạnh các chính sách ưu đãi về tài chính quy định tại các luật khuyến khích đầu tư trong nước và luật thuế thu nhập doanh nghiệp, các DNVVN còn nhận được sư hỗ trợ khác từ Nhà Nước với mục tiêu trợ giúp DNVVN về vốn. Chính phủ đã có quyết định số 193/2001/QD-TTG ngày 20/2/2001 ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN
1.2. Khó khăn
Đối với các DNVVN ở bất kỳ nước nào, không chỉ riêng Việt Nam, vốn vẫn là mối quan tâm hàng đầu của họ. Do thành lập DNVVN tương đối dễ dàng nên số DNVVN ngày càng nhiều, lại tập trung vào những ngành những sản phẩm không đòi hỏi vốn qúa lớn nên cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt, mức lợi nhuận ngày càng mỏng đi, khó tích luỹ vốn để mở rộng kinh doanh. Trong khi đó DNVVN lại không có đủ tài sản, nhất là bất động sản, để làm vật đảm bảo vay vốn ở các ngân hàng. Đặc biệt là nhu cầu vốn trung và dài hạn để đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị, xây dựng thêm nhà xưởng lại càng nan giải hơn.
Khó khăn về vốn để hoạt động sản xuất hoặc dịch vụ có lẽ là điều bất lợi nghiêm trọng nhất của DNVVN vì nó hạn chế năng lực của họ để cho được những dịch vụ cần thiết cho doanh nghiệp hoạt động. DNVVN thường buộc phải trả giá cao hơn về nguyên vật liệu hoặc giá thấp hơn về sản phẩm, cuối cùng vì họ bị phụ thuộc tài chính vào các nguồn cung cấp nguyên liệu hoặc người môi giới. Họ có thể phải chịu thiếu một hạng mục thiết bị mà lẽ ra nhờ nó họ có thể giảm chi phí cho sản phẩm của họ hoặc cải tiến được chất lượng sản phẩm, chỉ bởi vì không đủ mua thiết bị đó.
Mặt khác, lãi suất cho vay hiện nay ở các ngân hàng vẫn còn đang ở mức quá cao so với tỷ suất lợi nhuận của mọi doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng. Thời gian vay quá ngắn (thường chỉ từ 3-12 tháng) so với chu kỳ sản suất kinh doanh (nếu tính đầu tư mới mở rộng sản suất kinh doanh thì phải 3-5 năm). Hơn nữa các DNVVN không đủ tài sản thế chấp khi vay những khoản tiền lớn cho nhu cầu phát triển sản xuất.
Vì thế, điều nghịch lý đó đã diễn ra: Các doanh ngiệp cần vốn nhưng không dám vay ngân hàng, ngược lại các ngân hàng thừa vốn dù phần lớn là vốn ngắn hạn nhưng khó tìm được khách hàng vay chân chính. Và những khách hàng vay chủ yếu của các ngân hàng có lẽ vẫn là các doanh nghiệp lớn của các “đại gia” hơn là các DNVVN .
Mối quan hệ với các DNVVN với ngân hàng còn lỏng lẻo. Sự hỗ trợ từ phía các ngân hàng đối với các DNVVN còn yếu. Mặc khác, các DNVVN khi quan hệ với các ngân hàng để vay vốn tín dụng thường thiếu sư thuyết phục cần thiết về luận chứng kinh tế kỹ thuật cần thiết đối với ngân hàng.
2. Thực trạng huy động vốn tại DNVVN Việt Nam
Khi chuyển sang cơ chế thị trường, tình hình khá phổ biến ở hầu hết các doanh nghiệp là tình trạng thiếu vốn. Đối với các DNVVN tình trạng thiếu vốn là một tất yếu không thể tránh khỏi. Theo số liệu điều tra ở Hà Nội năm1994 có hơn 60% doanh nghiệp thiếu vốn chỉ đáp ứng được một phầm nhỏ nhu cầu về vốn của doanh nghiệp. Đó là do nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết phải kể đến là sự tác động của tình trạng lạm phát, sự biến động của giá cả trong nước và thế giới trong một thời gian dài làm cho sau mỗi chu kỳ sản xuất không đủ tái tạo, không bù đắp được số vốn ban đầu hoặc sự dư ra không đáng kể. Sự thiếu vốn vòn do nhiều doanh nghiệp có hiệu quả kinh doanh thấp, thậm chí có nơi có lúc không hiệu quả, làm cho lượng vốn hao hụt, mất dần (thâm hụt vốn); tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, nợ nần lòng vòng, dây dưa giữa các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế đang diễn ra rất nghiêm trọng (trong giai đoạn II của quá trình thanh toán công nợ , số nợ phải xử lý lên tới 18000 tỷ đồng). Nhưng đáng chú ý nhất là sự thiếu vốn tương đối đang diễn ra trên bình diện rộng và khá gay gắt. Đó là những trường hợp doanh nghiệp có yêu cầu mở rộng kinh doanh hoặc yêu cầu đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, để có thể đứng vững trong cạnh tranh phát triển, nhưng không có nguồn cung ứng vốn(vốn trong dân không huy động được, vốn ngân hàng cho vay rất hạn chế). Cụ thể nguồn vốn cho DNVVN được thể hiện ở bảng dưới đây.
Bảng 1: Cơ cấu của các DNVVN ở một số tỉnh
Nguồn vốn
Hà Nội
Quảng Ninh
Hải phòng
Tổng số trung bình
Vốn chủ sở hữu
45,6
49,3
46,7
47,2
Vay người thân, bạn bè
24,7
24,5
22,3
24,3
Vay nóng
2,2
2,5
2,15
2,4
Vay ngân hàng
24
20,5
21,5
21,1
Đóng góp công nhân
1,9
2,3
3,5
2,5
Các nguồn khác
1,6
1,7
3,8
2,2
Nguồn : Tổ chức lao động thế giới(1998)
Từ bảng trên ta thấy, lượng vốn huy động được của các DNVVN chủ yếu từ các nguồn cá nhân như của chủ doanh nghiệp, bạn bè, người thân và các khoản vay không chính thức khác, chiếm7 5,2%; lượng vốn vay từ ngân hàng và đóng góp của công nhân chỉ chiếm một lượng nhỏ 23,6%, còn lại là từ một số nguồn khác 2,2%. điều này chứng tỏ các DNVVN gặp khó khăn trong việc huy động vốn để sản xuất kinh doanh nhất là từ phía ngân hàng.
ở Hà Nội, hiện tại chỉ có khoản._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35570.doc