Thực trạng và giải pháp hoàn thiện chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội ở Việt Nam

A- LỜI MỞ ĐẦU Bảo hiểm xã hội đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm trên thế giới, và cho tới nay, BHXH đã trở thành công cụ hữu hiệu mang tính nhân văn sâu sắc để giúp con người vượt qua những khó khăn, rủi ro phát sinh trong cuộc sống cũng như trong qua trình lao động .Vì vậy, BHXH ngày càng trở thành nền tảng cơ bản cho An sinh xã hội của mỗi quốc gia, của mọi thể chế Nhà nước và được thực hiện ở hầu hết các nước. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn coi con người là vốn quý của xã hội là lự

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1486 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp hoàn thiện chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c luợng tạo ra của cải vật chất cho xã hội và là nhân tố quan trọng trong quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Việc đảm bảo một môi trường an toàn cho sản xuất cũng như có được chính sách hỗ trợ người lao động khi họ gặp tai nạn lao động hay mắc bệnh nghề nghiệp luôn được chúng ta coi trọng. Chính vì vậy, chế độ trợ cấp về TNLĐ&BNN đã ra đời như một tất yếu khách quan. Trải qua hơn chục năm hình thành và phát triển, BHXH nói chung và chế độ trợ cấp TNLĐ&BNN nói riêng đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ. Hàng năm, chế độ đã chi trả trợ cấp cho hàng nghìn người lao động giúp cho cuộc sống của họ và gia đình giảm bớt được phần nào khó khăn đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho nguời lao động có thể tái gia nhập vào lực luợng sản xuất xã hội. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế, đất nước ta đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ, chính vì vậy, một số những quy định trong chế độ trợ cấp TNLĐ&BNN đã tỏ ra không phù hợp với tình hình mới. Trước thực tế này, đề tài : “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện chế độ TNLĐ&BNN cho người lao động tham gia BHXH ở Việt Nam” đã ra đời. Đề tài đã được em nghiên cứu trong suốt quá trình thực tập của mình. Em hi vọng rằng với những gì đã được tiếp thu từ ghế nhà trường cũng với những kiến thức bổ ích trong quá trình thực tập vừa qua, đề tài sẽ phản ánh được phần nào về thực trạng tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cũng như trình bày một vài giải pháp để có thể góp phần hoàn thiện hơn nữa chế độ trợ cấp TNLĐ&BNN cho người lao động tham gia BHXH ở nước ta trong thời gian tới. Trong quá trình thực hiện đề tài này, em đã nhận được sự chỉ bảo tận tình của cô: TS Trịnh Thị Hoa (Trưởng phòng Quản lí khoa học) cùng các cô chú công tác tại Trung tâm NCKH- BHXH (tại 150- phố Vọng), đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của thầy: PGS, TS Nguyễn Văn Định. Em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo cùng các cô chú đã giúp em hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 4 năm 2006 Sinh viên thực hiện Nguyễn Phương Thuỷ B- NỘI DUNG CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH VÀ CHẾ ĐỘ TNLĐ&BNN: I LÍ LUẬN CHUNG VỀ BHXH 1 Sự cần thiết khách quan của BHXH: Để có của cải vật chất con người phải lao động. Để lao động được, con người cần có sức khoẻ và khả năng lao động nhất định. Trong thực tế cuộc sống không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức khoẻ, khả năng lao động hay có được những may mắc khác để hoàn thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no, đầy đủ hạnh phúc. Ngược lại, không mấy người tránh khỏi những rủi ro bất hạnh như ốm đau, tai nạn, già yếu, chết hoặc thiếu việc làm do những ảnh hưởng của điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác. Rơi vào những hoàn cảnh như vậy như nhu cầu của con người không những không giảm đi mà trái lại còn pháp sinh thêm nhiều nhu cầu mới như: nhu cầu được chăm sóc, điều trị ốm đau… trong khi đó thu nhập của họ lại bị giảm sút do khả năng lao động của họ bị giảm hoặc họ không còn khả năng lao động nữa và khi ấy, cuộc sống của họ trở lên rất khó khăn. Bởi vậy, muốn tồn tại, con người trong cuộc sống đã phải tìm nhiều cách để có thể đối phó với những khó khăn không lường trước được đó như: tự tích luỹ, đi vay mượn… Có thể thấy rằng các cách này hoàn toàn thụ động và không chắc chắn do không lường trước được về thời gian, mức độ cũng như số lần gặp phải rủi ro đó. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, việc thuê mướn lao động trở lên phổ biến thì mối quan hệ kinh tế giữa người lao động và giới chủ ngày càng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Giới chủ lúc này không những phải cam kết trả đủ lương cho người lao động mà còn phải cam kết đảm bảo cho người lao động có được một khoản thu nhập khi họ không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản…Tuy nhiên, việc thực hiện cam kết này nhiều khi lại đem lại những rủi ro về tài chính không mong đợi cho người sử dụng lao động vì: nhiều khi các sự cố nêu trên không xảy ra và người chủ không phải cho trả đồng nào, nhưng cũng có khi lại xảy ra dồn dập buộc giới chủ phải bỏ ra một khoản tiền khá lớn mà họ không mong muốn. Chính vì vậy, mâu thuẫn chủ thợ lại bùng phát mạnh mẽ. Cuộc đấu tranh này ngày càng rộng lớn và tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, gây ngừng trệ sản xuất… lúc này buộc nhà nước phải can thiệp, đứng ra điều hoà mâu thuẫn. Nhà nước buộc giới chủ và giới thợ đều phải đóng góp một hoản tiền nhất định hàng tháng trên cơ sở tính toán chặt chẽ xác suất xảy ra đối với người làm thuê, số tiền này được hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ Ngân sách nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp những biến cố bất lợi. Nhờ vậy, người lao động cảm thấy được bảo vệ và họ yên tâm tập trung vào sản xuất, còn giới chủ cũng cảm thấy có lợi khi họ không phải chi những khoản quá lớn không mong đợi (bởi đã có sự chi sẻ rủi ro với những chủ sử dụng lao động khác) và cũng không phải đối diện với các cuộc đấu tranh biểu tình của công nhân làm ngưng trệ sản xuất và nhà nước cũng đạt được mực tiêu ổn định trật tự an toàn xã hội. Toàn bộ hoạt động với những mối qua hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là Bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Có thể hiểu BHXH là sự thay thế bù đắp thu nhập cho người lao động khi họ không may gặp phải những biến cố làm giảm hoặc khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Như vậy, chỉ khi có sự ra đời của BHXH thì những tranh chấp mới được giải quyết một cách ổn thoả và có hiệu quả nhất. Đó cũng là cách giải quyết chung nhất cho xã hội loài người trong quá trình phát triển. Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết phải tiến hành bảo hiểm cho nguời lao động. Chính vì lí do này, BHXH đã được thừa nhận như là một nhu cầu và quyền lợi chính đáng của người lao động. Trong Tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hiệp quốc ngày 10/12/1948 cũng đã khảng định: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội đều có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt trên cơ sở sự thoả mãn các quyền về kinh tế, văn hoá, xã hội, nhu cầu cho nhân cách và tự do phát triển con người”. 2 Lịch sử phát triển của BHXH: 2.1 Lịch sử phát triển của BHXH trên thế giới: BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỉ 19, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ ở châu Âu. Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau và yêu cầu công nhân phải đóng góp để phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật. Đến cuối năm 1880, BHXH đã có sự thay đổi, lúc này sự tham gia là bắt buộc và không chỉ có nguời lao động tham gia đóng góp mà giới chủ và nhà nước cũng thực hiện nghĩa vụ của mình. Tính đoàn kết và chia sẻ thể hiện rõ nét: mọi người không phân biệt già - trẻ, nam - nữ, lao động phổ thông - lao động kỹ thuật, người khoẻ - người yếu mà tất cả đều phải tham gia đóng góp. Mô hình ở Đức đã lan sang các nước giành độc lập ở Châu Á, Châu Phi và vùng Caribê. Năm 1935 ở Mĩ đã ban hành đạo luật đầu tiên trên thế giới về An sinh xã hội, đạo luật này quy định thực hiện các chế độ bảo vệ tuổi già, chế độ tử tuất, tàn tật và trợ cấp thất nghiệp. Ngày 4 tháng 6 năm 1952, tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã kí công ước Giơnevơ – Công ước số 102 - về “Bảo hiểm xã hội cho người lao động” và khuyến nghị các nước thực hiện BHXH cho người lao động tuỳ thuộc vào khả năng và điều kiện kinh tế của mỗi nước. Từ đó, các nước vận dụng khuyến nghị của ILO đề ra các chính sách biện pháp phù hợp với từng điều kiện cụ thể, tạo ra môi trường cho BHXH phát triển không ngừng và cho tới nay, hầu hết các nước trên thế giới đều có hệ thống BHXH cho riêng mình. 2.2 Lịch sử phát triển của BHXH Việt Nam: 2.2.1 Giai đoạn 1945-1995: Giai đoạn 1945-1960: Bảo hiểm xã hội là một trong những nội dung quan trọng của chính sách xã hội (bên cạnh cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội). Ngay từ khi giành được chính quyền, mặc dù gặp muôn vàn khó khăn nhưng nhà nước ta luôn quan tâm đến việc ban hành sửa đổi bổ sung chính sách BHXH và trợ cấp BHXH. Chính phủ đã ban hành các Sắc lệnh 29/SL ngày 12/03/1950, Sắc lệnh 76/SL ngày 20/05/1950 và Sắc lệnh 77/SL ngày 22/05/1950 quy định các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, già yếu, chế độ trợ cấp gia đình khi công nhân viên chức từ trần để đảm bảo đới sống cho họ và gia đình, góp phần đảm bảo ổn định xã hội. Có thể thấy rằng: do chính sách BHXH được ban hành ngay sau khi giành được độc lập, trong hoàn cảnh kháng chiến kinh tế còn nhiều khó khăn nên chưa được thực hiện đầy đủ, chỉ mới thực hiện được một số chế độ cơ bản với mức trợ cấp thấp nhằm đảm bảo mức sống tối thiểu cho công nhân viên chức nhà nước. Mức trợ cấp còn mang tính chất bình quân với tinh thần đồng cam cộng khổ, chưa có tính lâu dài. Các khoản chi về hưu còn lẫn lộn với tiền lương nên rất khó khăn cho việc hoạch toán, chính sách BHXH chưa có quỹ riêng để thực hiện. Tuy nhiên việc thực hiện chính sách BHXH trong giai đoạn này lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi nó thể hiện sự quan tâm của nhà nước tới nguời lao động, tạo niềm tin tưởng của đông đảo người lao động đối với chính quyền non trẻ. Giai đoạn 1961-1995 Bước vào thời kì xây dựng đất nước, trước yêu cầu tuyển dụng lực lượng công nhân ngày càng lớn để phục vụ cho cộng cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội, nhà nước đã tiến hành sủa đổi bổ sung chính sách BHXH cho phù hợp với tình hình mới. Ngày 27/02/1961 Nhà nước ban hành Nghị định 218/CP của Chính phủ về “Điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức” và được thi hành từ 01/01/1962 cùng với: “Điều lệ đãi ngộ quân nhân” theo Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 của Chính phủ, cũng từ đây nguồn quỹ BHXH được hình thành trên cơ sở đóng góp của các xí nghiệp và phần còn lại do Ngân sách nhà nước cấp. Tuy nhiên, sau gần 20 năm thực hiện chế độ BHXH đối với công nhân viên chức đã bộc lộ nhiều hạn chế. Ngày 18/09/1995, Chính phủ ban hành Nghị định 236/HĐBT về việc sửa đổi bổ sung chính sách và chế độ BHXH đối với người lao động với nội dung chủ yếu là điều chỉnh mức đóng và hưởng. Tuy nhiên, với những quy định như trên chính sách BHXH còn bộc lộ những hạn chế sau: Thứ nhất: Phạm vi đối tượng tham gia BHXH chỉ giới hạn cho công nhân viên chức làm việc trong khu vực nhà nước, còn đại bộ phận (khoảng 88%) lao động làm việc ở khu vực tập thể và cá nhân chưa được tham gia BHXH. Chính sách BHXH chưa thể hiện rõ sự công bằng đối với người lao động làm việc trong và ngoài khu vực nhà nước. Thứ hai: Nguồn chi BHXH chủ yếu lấy từ Ngân sách nhà nước. Quyền lợi và trách nhiệm các bên tham gia BHXH chưa được thiết lập đầy đủ, mức trợ cấp thấp, đời sống người lao động còn nhiều khó khăn Thứ ba: Việc thực hiện Chính sách BHXH còn gắn với các chính sách khác như: ưu đãi người có công, chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, chính sách tinh giảm biên chế… dẫn tới tình trạng phần lớn những người hưởng chế độ hưu trí đều nghỉ hưu trước tuổi quy định và chỉ có 1/10 số người được nghỉ mất sức lao động là thực sự ốm đau, giảm khả năng lao động. Thứ tư: Tổ chức BHXH mang tính hành chính. Nhà nước vừa đảm nhận chức năng quản lí nhà nước vừa tổ chức hoạt động sự nghiệp chi trả (có sự tham gia của tổ chức Công đoàn) nên đã làm cho hoạt động BHXH trở lên khó quản lí và hiệu quả thấp. 2.2.2 Giai đoạn từ 1995 tới nay: Trước sự đổi mới về cơ chế kinh tế, chính sách BHXH trong thời kì trước đã tỏ ra không đáp ứng được nhu cầu tình hình lúc bấy giờ. Chính vì vậy, ngày 22/06/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP quy định tạm thời về các chế độ BHXH áp dụng cho các thành phần kinh tế, đánh dấu bước đổi mới của BHXH Việt Nam. Tuy nhiện BHXH Việt Nam chỉ thực sự có bước đột phá khi Nghị định 12/CP của Chính phủ ban hành ngày 26/01/1995 về việc ban hành “Điều lệ BHXH” đối với công chức, công nhân viên chức của nhà nước và mọi người lao động theo loại hình bắt buộc. Theo đó: + Phạm vi đối tượng tham gia BHXH được mở rộng áp dụng với lao động làm công hưởng lương ở các tổ chức, các đơn vị kinh tế sử dụng 10 lao động trở lên thuộc mọi thành phần kinh tế. + Quỹ BHXH được hình thành trên cơ sở đóng góp của người lao động, ngưòi sử dụng lao động và sự hỗ trợ của nhà nước. Quỹ được quản lí và sử dụng tuân theo các quy đinh chế độ tài chính Nhà nước: theo nguyên tắc hoạch toán cân bằng thu chi, độc lập với Ngân sách nhà nước. + Các chế độ về cơ bản đã thể hiện được tính công bằng giữa mức đóng và hưởng, khắc phục được tính bình quân trong hưởng trợ cấp, đồng thời mang lại tính cộng đồng chia sẻ rủi ro. Như vậy nội dung của bản điều lệ đã góp phần thực hiện mực tiêu của Đảng và nhà nước đề ra, góp phần thực hiện công bằng và sự tiến bộ xã hội, làm lành mạnh hoá thị trường lao động đồng thời cũng đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo người lao động trong các thành phần kinh tế đất nước. Ngày 01/10/1995 Nghị định 19/CP về việc thành lập BHXH ra đời, từ đây BHXH có một tổ chức sự nghiệp riêng là đơn vị có chức năng, nhiệm vụ thu chi các chế độ BHXH. Từ đây BHXH là cơ quan có tư cách pháp nhân trực thuộc Chính phủ, được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương tới địa phương. Các hoạt động nghiệp vụ của BHXH được đặt dưới sự điều hành trực tiếp của Hội đồng quản lí và của Tổng giám đốc BHXH. 3 Bản chất và chức năng của BHXH: 3.1 Khái niệm về BHXH: BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ không may gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội. 3.2 Bản chất của BHXH: - BHXH là nhu cầu tất yếu khách quan, đa dạng, phức tạp của xã hội, là sản phẩm tất yếu khách quan của nền kinh tế hàng hoá. Khi nền kinh tế phát triển tới một mức nhất định thì hệ thống BHXH ra đời. Như vậy, có thể thấy sự ra đời và phát triển của BHXH chính là sự phản ánh về mức độ phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển thì không thể có một hệ thống BHXH vững mạnh. Ngược lại, một nền kinh tế phát triển sẽ là cơ sở cho một hệ thống BHXH đa dạng và phong phú với các chế độ BHXH càng được mở rộng và quyền lợi của người lao động ngày càng được đảm bảo hơn. Có thể nói: kinh tế là nền tảng của BHXH hay nói cách khác BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước. Nền kinh tế của một nước như thế nào sẽ cho ta hình dung được phần nào về hệ thống BHXH của nước đó và ngược lại, nhìn vào hệ thống BHXH của một nước sẽ cho ta hiểu hơn về tình hình kinh tế, đời sống xã hội của đất nước đó. - Quan hệ lao động chính là cơ sở để hình thành nên mối quan hệ bên trong của BHXH, chính trong quá trình lao động các mối quan hệ về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên được hình thành và là nền tảng để hình thành nên mối quan hệ nội tại của BHXH. Mối quan hệ này diễn ra giữa ba bên : 1- bên tham gia BHXH gồm: người lao động và người sử dụng lao động; 2- bên BHXH là: cơ quan chuyên trách do nhà nước lập ra và bảo trợ; 3- bên được BHXH là: người lao động và gia đình họ khi đủ điều kiện ràng buộc cần thiết theo quy định của pháp luật. - Những rủi ro được BHXH hỗ trợ bao gồm những rủi ro có thể phát sinh ở bên trong hoặc bên ngoài quá trình lao động, làm giảm hoặc mất khả năng lao động dẫn tới việc giảm hoặc mất thu nhập. Những rủi ro này có thể là những rủi ro mang tính ngẫu nhiên, không thể dự đoán trước và trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn… hoặc đó có thể là những trường hợp mà ta có thể dự đoán được chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai song lại không đoán biết trước được về thời điểm phát sinh sự kiện được bảo hiểm như: tuổi già, thai sản… - Các bên tham gia BHXH bao gồm người lao động, người sử dụng lao động cùng tham gia đóng góp vào một quỹ tiền tệ tập trung, quỹ này được gọi là quỹ BHXH. Quỹ được quản lí theo cơ chế tập trung tồn tích và được sử dụng để bù đắp cho phần thu nhập bị giảm, bị mất của người lao động do việc giảm hoặc mất khả năng lao động gây ra. Như vậy, BHXH cũng là quá trình phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một bộ phận của GDP được xã hội phân phối lại cho những thành viên khi phát sinh nhu cầu BHXH như: ốm đau, thai sản, già yếu, chết… - Mục tiêu của BHXH là nhằm đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ. BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm quốc dân để thoả mãn nhu cầu an toàn kinh tế của người lao động và an toàn xã hội. Có thể thấy rằng BHXH vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội. Về mặt kinh tế : Thông qua việc tổ chức phân phối lại thu nhập mà đời sống của người lao động và gia đình họ luôn được đảm bảo trước những bất trắc, rủi ro. Về mặt xã hội: thông qua cơ chế san sẻ rủi ro mà người lao động chỉ đóng góp một phần nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH song xã hội lại có một lượng vật chất đủ lớn để trang trải cho những rủi ro xảy ra, có nghĩa là BHXH thực hiện theo nguyên tắc “lấy số động bù số ít”. Tuy nhiên tính kinh tế và tính xã hội của BHXH không tách rời mà đan xen với nhau. Khi nói đến sự đảm bảo kinh tế cho người lao động và gia đình họ là đã bao gồm tính xã hội và ngược lại khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lai đủ để trang trải các rủi ro xã hội cũng có nghĩa là đề cập tới tính kinh tế của BHXH. Với những mục tiêu trên, BHXH đã sớm trở thành một trong những quyền con người được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên ngôn Nhân quyền, năm 1948. 3.3 Chức năng của BHXH: Thứ nhất: Chức năng cơ bản nhất quyết định tính chất nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của BHXH đó là chức năng thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm gây nên. Bởi đã là người lao động thì ai cũng có nguy cơ bị giảm hoặc mất thu nhập. Điều này có thể do người lao động gặp những rủi ro như ốm đau, bệnh tật, tai nạn trong quá trình lao động… hay do tuổi già sức yếu mà khả năng lao động gảim sút hoặc không còn khả năng lao động. Vì vậy có thể thấy, khi người lao động đã tham gia BHXH, họ có thể hoàn toàn yên tâm bởi phần thu nhập bị giảm sút của họ do các yếu tố trên sẽ chắc chắn được BHXH đảm bảo và khi đó cuộc sống của họ và gia đình sẽ bớt đi phần nào khó khăn. Thứ hai: Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung được tồn tích dần bởi sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước. Những người sử dụng lao động bắt buộc phải đóng góp vào quỹ BHXH là để bảo hiểm nhưng không phải là trực tiếp cho mình mà cho những người lao động mà mình sử dụng nên không có quyền được hưởng trợ cấp. Chỉ có những người lao động có đóng góp vào quỹ mới có quyền hưởng trợ cấp. Tuy nhiên, khi những người lao động này nếu như vẫn còn khoẻ mạnh có thu nhập bình thường thì họ sẽ không được hưởng trợ cấp. Số lượng những người không được trợ cấp như vậy thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số những người tham gia đóng góp. Chỉ có những người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập trong những trường hợp xác định và có đủ điều kiện cần thiết mới được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH. Số lượng những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp. Như vậy BHXH đã lấy số đông bù số ít và thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang: giữa những người có thu nhập cao và thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm đau phải nghỉ việc… và giữa số đông người đóng góp vào quỹ BHXH với số ít người được hưởng trợ cấp theo những chế độ xác định. Thực hiện chức năng này cũng có nghĩa BHXH đã góp phần thực hiện công bằng xã hội. Thứ ba: Chức năng đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Nhờ có BHXH mà người lao động khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất được trả tiền lương và tiền công còn khi không may bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc khi về già đều được hưởng trợ cấp từ nguồn quỹ BHXH thay thế cho nguồn thu nhập bị mất. Vì vậy, cuộc sống của họ và gia đình luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, người lao động yên tâm lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và hiệu quả xã hội. Thứ tư: BHXH tạo ra sự gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và chủ sử dụng lao động luôn tồn tại những mâu thuẫn về các vấn đề liên quan tới tiền công, thời gian lao động … Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà giải quyết, cả giới thợ và giới chủ đều nhận thấy nhờ có BHXH mà các quyền lợi của mình đều được bảo vệ, từ đó giúp họ hiểu và gắn bó với nhau hơn. Còn đối với nhà nước, chi cho BHXH là cách thức chi ít nhất song lại có hiệu quả nhất đồng thời lại giải quyết được những khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ từ đó đảm bảo cho sản xuất được ổn định, kinh tế - chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn. II CHẾ ĐỘ TAI NẠN LAO ĐỘNG VÀ BỆNH NGHỀ NGHIỆP TRONG HỆ THỐNG CÁC CHẾ ĐỘ BHXH 1 Vai trò của chế độ TNLĐ&BNN Cuộc sống của con người luôn tiềm ẩn những tai nạn bất ngờ xảy ra ngoài ý muốn của con người. Đó có thể là do những hành vi thiếu cẩn trọng của cá nhân gây nên hoặc có thể là những rủi ro mà con người không thể lường trước được. Trong quá trình lao động sản xuất, con người lại phải đối mặt với những rủi ro rất đặc trưng đó là tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Những rủi ro này có thể xảy ra với bất kì người lao động nào bởi nó trực tiếp gắn liền với điều kiện lao động và môi trường lao động. Những nguyên nhân này chủ yếu là do việc vi phạm các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh lao động như: môi trường lao động độc hại, thiếu các trang thiết bị bảo hộ cần thiết... Hậu quả của tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp thường rất nặng nề, nó có thể dẫn tới việc suy giảm khả năng lao động từ đó kéo theo việc giảm hoặc mất thu nhập của người lao động và trực tiếp đe doạ tới cuộc sống của người lao động và gia đình họ. TNLĐ&BNN có thể làm thay đổi mối quan hệ pháp luật lao động giữa người lao động và chủ sử dụng lao động khi người lao động không thể phục hồi khả năng lao động để đáp ứng được công việc mà mình đảm nhận trước đây. Trong nhiều trường hợp, TNLĐ&BNN có thể dẫn tới việc chấm dứt mối quan hệ lao động khi người lao động bị chết hoặc không đủ khả năng để thực hiện bất kì công việc nào. Để xảy ra tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp, lỗi lớn nhất thuộc về người sử dụng lao động. Bởi môi trường lao động có an toàn hay không phụ thuộc rất lớn vào sự quan tâm đầu tư của chủ sử dụng lao động. Khi doanh nghiệp mải chạy theo lợi nhận, năng suất hay theo đuổi mục tiêu giảm thiểu chi phí thì vấn đề này không được qua tâm đúng mức. Môi trường sản xuất độc hại nguy hiểm sẽ làm cho khả năng bị mắc bệnh và bị tai nạn trong quá trình lao động tăng lên. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi của người lao động, nhiều quốc gia trên thế giới đã quy định: người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đối với người lao động mà mình sử dụng và gia đình của họ. Điều này là hoàn toàn phù hợp bởi bị tai nạn lao động hay mắc phải bệnh nghề nghiệp là nỗi bất hạnh lớn của người lao động.Vì thế, khi gặp phải những trường hợp trên người lao động rất cần có sự hỗ trợ để nhanh chóng phục hồi khả năng lao động, ổn định cuộc sống. Tuy nhiên trên thực, việc thực hiện điều này lại hoàn toàn không phải dễ dàng và người sử dụng lao động luôn tìm cách trốn tránh trách nhiệm này. Bởi một lí do dễ hiểu, đây là những khoản chi phí không được báo trước, nó có thể phát sinh bất cứ khi nào và có thể xảy ra với bất kì quy mô nào với bất kì mức độ nào. Việc bỏ ra các chi phí này sẽ có thể làm xáo trộn quá trình sản xuất kinh doanh, làm đảo lộn các kế hoạch đầu tư cho sản xuất…. Vì vậy, trên thực tế, người sử dụng lao động đã tìm nhiều biện pháp khắc phục như: tự chịu trách nhiệm thông qua việc hình thành các quỹ dự phòng, tham gia các hình thức bảo hiểm thương mại cho trách nhiệm phát sinh khi để xảy ra TNLĐ&BNN. Nhưng việc đền bù theo các hình thức này thường không làm thoả mãn cả người sử dụng lao động lẫn người lao động do: - Xuất phát từ bản chất đối kháng và sự mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, trong mối quan hệ hai bên này, người lao động luôn là người yếu thế hơn bởi ta biết rằng: trong điều kiện áp lực về thu nhập cũng như cơ hội tìm kiếm việc làm khó khăn khiến cho người lao động luôn lo sợ việc mất việc làm, cho nên để có được việc làm nhiều khi người lao động phải chịu thiệt thòi…. Do vậy, trong quá trình xác định nguyên nhân tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, người lao động khó có thể chứng minh được nguyên nhân một cách rõ ràng theo ý chí của họ. Và hệ quả kéo theo là họ khó có thể được đền bù một cách thoả đáng và nhanh chóng nhất là khi có phát sinh tranh chấp. Mặt khác, trong trường hợp mất khả năng lao động vĩnh viễn hoặc chết, mà người bị tai nạn chỉ được trợ cấp một lần thì đời sống của họ và gia đình trong tương lai tới sẽ rất khó khăn. Vấn đề này sẽ phức tạp hơn nhiều nếu như các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả hoặc có thể bị chấm dứt hoạt động, khi ấy công việc chi trả cho người lao động sẽ bị trì trệ kéo dài thậm chí không thực hiện được và trong những trường hợp như vậy, người động đã là người thiệt thòi lại càng thiệt thòi hơn, đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Và điều này là hoàn toàn có thể xảy ra với bất kì doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường, nhất là ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng tài chính thấp, sức cạnh tranh yếu kém, điều kiện lao động thường không được đảm bảo an toàn, thiếu ổn định trong sản xuất kinh doanh. - Thêm vào đó chi phí đền bù tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp đối với một doanh nghiệp là khá cao so với chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là khi tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp nghiêm trọng xảy ra và xảy ra với nhiều người hoặc thậm chí có những lúc xảy ra dồn dập làm nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn. Lẽ ra với số tiền lớn họ có thể tiếp tục đầu tư vào sản xuất kinh doanh, hoặc sửa chữa máy móc thiết bị…thì họ lại phải bỏ tiền ra chi trả cho người lao động mà lỗi gây ra tai nạn chưa hẳn là do phía người chủ sư dụng lao động vì vậy không ít trường hợp người chủ sử dụng lao động tìm cách tránh né trách nhiệm … Ngoài những tổn tất hữu hình, người chủ sử dụng lao động còn phải gánh chịu những tổn thất vô hình như: uy tín của nhà máy, sự ngừng trệ trong tiêu thụ sản phẩm, thời gian cho việc giải trình các nguyên nhân gây tai nạn với các cơ quan chức năng, giải toả tâm lí hoang mang, lo lắng nặng nề của người lao động trong đơn vị … Để giải quyết được mẫu thuẫn chủ thợ cũng như là đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động đồng thời buộc giới chủ phải thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đòi hỏi cần có bên thứ ba can thiệp đứng vai trò làm người chung gian đó chính là nhà nước. Và yêu cầu về một hệ thống đáp ứng được sự quan tâm của người lao động, chủ sử dụng lao động cũng như của Nhà nước được đặt ra: Một hệ thống vừa phải đảm bảo được tính công bằng tin cậy, bảo vệ cho những quyền lợi chính đáng cho người lao động, lại vừa đảm bảo được sự san sẻ trách nhiệm phát sinh của chủ sử dụng lao động còn về phía Nhà nước, một công cụ hữu hiệu để bảo vệ người lao động đồng thời thực hiện được mục tiêu đảm bảo công bằng, ổn định và phát triển lại là rất cần thiết. Chính vì vậy, chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp đã sớm được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng trong hệ thống BHXH của mình bởi nó đã đáp ứng được tính công bằng khách quan, có khả năng đảm bảo đời sống, đảm bảo sự phực hồi sức khoẻ và khả năng lao động cho người lao động một cách toàn diện lâu dài với mức chi phí vừa phải (thường không quá 1% quỹ lương). Như vậy, ta có thể thấy vai trò của chế độ TNLĐ&BNN được thể hiện ở những khía cạnh sau: - Đối với người lao động: đó là sự thay thế, bù dắp một phần thu nhập bị mất do việc bị giảm hoặc mất khả năng lao động mà nguyên nhân xuất phát từ việc bị tai nạn lao động hay mắc phải bệnh nghề nghiệp gây nên. Với chế độ này, đời sống của người lao động sau khi bị nạn và gia đình họ sẽ giảm bớt được khó khăn và nhanh chóng đi vào ổn định. Người lao động sau khi bị nạn sẽ được chăm sóc và điều trị kịp thời, giúp họ nhanh chóng phục hồi sức khoẻ để có thể tiếp tục gia nhập vào quá trình sản xuất. Chế độ này sẽ khiến cho người lao động cảm thấy được bảo vệ trước những rủi ro trong quá trình lao động và tạo ra tâm lý yên tâm gắn bó với công việc. - Đối với người sử dụng lao động: việc tham gia BHXH nói chung và chế độ TNLĐ&BNN nói riêng sẽ giúp cho người sử dụng lao động chia sẻ được phần trách nhiệm phát sinh với những người sử dụng lao động khác khi có tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp xảy ra. Suy cho cùng, thì đây cũng là cách các doanh nghiệp tự bảo vệ lấy mình trước những biến động tài chính phát sinh. Hơn nữa, việc tham gia này sẽ tạo ra tâm lí gắn bó vô hình giữa người lao động và chủ sử dụng lao động. Khi chủ sử dụng lao động tham gia chế độ cho người lao động thì đổi lại họ sẽ nhận được sự nhiệt tình và sự cống hiến hết sức mình của những người lao động trong doanh nghiệp, đơn vị. - Đối với nhà nước: Việc thực hiện chính sách BHXH mà cụ thể là việc thực hiện chế độ TNLĐ&BNN sẽ góp phàn to lớn vào việc ổn định tình hình xã hội đồng thời tạo ra môi trường thuận lợi để sản xuất phát triển. Vừa có thể đảm bảo lợi ích hài hoà cho cả hai bên lại vừa có được nguồn tài chính đề đầu tư phát triển sản xuất… Trước những vai trò to lớn trên thì việc thực hiện chính sách BHXH nói chung và việc thực hiện chế độ BHXH về TNLĐ&BNN nói riêng là việc tất yếu. 2. Khái niệm và phân loại: 2.1 Các khái niệm có liên quan: Từ những đặc trưng trên cùng với sự đa dạng hoá môi trường, điều kiện việc làm cũng như xu hướng tiến bộ xã hội mà định nghĩa về tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp buộc phải mở rộng. Ngoài tai nạn lao động tại nơi làm việc nhiều nước cũng co._.i tai nạn trên đường đi và về từ nơi làm việc đến nơi ở của người lao động cũng coi là tai nạn lao động, thậm chí một số quốc gia còn coi các tai nạn trong hoạt động cứu hộ, chữa cháy, hoạt động công đoàn, hoạt động hội chữ thập đỏ…những hoạt động ít hoặc không liên quan đến hoạt động của đơn vị sử dụng lao động cũng là tai nạn lao động. Còn đối với bệnh nghề nghiệp cho tới năm 1980 Hội nghị Lao động quốc tế đã quy định 29 bệnh được xếp vào danh mục bệnh nghề nghiệp. Tuy nhiên, chưa thể nói được rằng danh mục trên đã đầy đủ bởi vì sản xuất càng phát triển, môi trường làm việc ngày càng thay đổi thì càng ngày lại càng xuất hiện thêm nhiều bệnh mới. Chính vì vậy, định nghĩa về tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có tính tương đối. Cùng với sự phát triển của sản xuất, định nghĩa về tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ngày càng cần được mở rộng và mang tính cứu trợ, tính ưu đãi xã hội. Sự tương đối của định nghĩa và việc không đồng nhất thậm chí đối ngược nhau về lợi ích giữa các bên trong quan hệ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp làm cho việc xác định tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp trong thực tế hết sức khó khăn và phức tạp đòi hỏi phải có sự giám sát, ràng buộc và phối hợp chặt chẽ giữa các bên trong quá trình xác định. Nếu thiếu các điều kiện này thì việc xác định tai nạn lao động có thể trở thành tai nạn rủi ro và ngược lại; đối với bệnh nghề nghiệp việc xác định này lại càng phức tạp hơn vì nguyên nhân không chỉ do điều kiện lao động độc hại mà còn do thể chất, tâm thần của người lao động và mối liên hệ giữa điều kiện lao động với bệnh tật trong nhiều trường hợp là không rõ ràng. Để đi đến khái niệm về tai nạn lao động vầ bệnh nghề nghiệp chúng ta cùng tìm hiểu về một số khái niệm có liên quan: -Tàn tật thể lực: tàn tật thể lực là sự suy giảm về mặt thể lực hoặc năng lực trí tuệ, là kết quả của việc bị mất hoặc bị suy giảm một cơ quan chức năng nào đó của người lao động. - Tàn tật về lao động nghề nghiệp: trong trường hợp bị tàn tật về lao động nghề nghiệp, mức độ tàn tật của người lao động được đánh giá trong mối liên hệ với việc mất khả năng kiếm thu nhập bởi không còn đủ năng lực thích hợp để nối tiếp công việc trước đây đã làm. - Tàn tật nói chung: mức độ tàn tật nói chung được đánh giá trong mối liên hệ với năng lực làm việc còn lại với mức thu nhập mà một người vẫn có thể kiếm được từ công việc thích hợp với tình trang sức khoẻ của người đó. Năng lực làm việc còn lại được đánh giá trong mối liên hệ với bất kì một loại hình công việc nào và không chỉ liên hệ với riêng một nghề như trong trường hợp tàn tật về lao động nghề nghiệp - Tai nạn lao động: là tai nạn xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động, gây tổn thương cho bất kì bộ phận chức năng nào của cơ thể người lao động gây tàn tật hoặc tử vong. - Bệnh nghề nghiệp: là bệnh phát sinh do điều kiện lao động, môi trường lao động tác động một cách từ từ liên tục, gây tàn tật hoặc mắc bệnh đối với người lao động. Từ những định nghĩa trên ta có thể thấy rằng tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp và tàn tật nói chúng đều dẫn tới việc giảm hoặc mất khả năng lao động song tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp được giới hạn cụ thể trong môi trường làm việc gắn với những điều kiện về vệ sinh an toàn lao động cho nên phạm vi của chúng được bó hẹp hơn và cũng đòi hỏi sự xác định cụ thể rõ ràng hơn. 2.2 Phân loại tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp: Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu ta có nhiều cách thức phân loại khác nhau. a) Phân loại tai nạn lao động - Theo nguyên nhân: + Nguyên nhân chủ quan: do trang thiết bị máy móc, phương tiện làm việc, việc bảo hộ lao động không được chu đáo hay do sự cố ý vi phạm quy trình kỹ thuật an toàn lao động của người lao động và chủ sử dụng lao động. + Nguyên nhân khách quan: đó là các yếu tố tự nhiên xảy ra không lường trước được như do mưa bão, động đất, lốc… Việc phân loại này giúp ta tìm hiểu được nguyên nhân gây ra tai nạn lao động từ đó có được cách phòng ngừa tai nạn hiệu quả, giảm thiểu những tổn thất khi tai nạn xảy ra. Theo ngành nghề sản xuất: Những ngành nghề khác nhau có môi trường lao động khác nhau và cũng có những yêu cầu kỹ năng, thao tác khác nhau do đó mỗi ngành nghề lại có những nguy cơ xảy ra tai nạn lao động khác nhau. Ở nước ta nhũng ngành nghề hay xảy ra tai nạn nhất là: xây dựng, mỏ, khai thác đá, sửa chữa thiết bị điện… và mức độ tổn thương trong các ngành nghề này là khác nhau. Việc nghiên cứu theo ngành nghề này giúp chúng ta có thể nhận thấy rõ nguy cơ mất an toàn lao động ở ngành nghề nào cao nhất để đề ra các biện pháp phòng tránh hiệu quả. - Theo mức độ tổn thương tới cơ thể: (theo thứ tự từ nặng tới nhẹ ta có) + Tai nạn lao động làm chết người. + Tai nạn lao động nặng làm cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động lớn từ 61% trở lên. + Tai nạn lao động vừa làm cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 21% đến 60%. + Tai nạn lao động nhẹ làm người lao động suy giảm khả năng lao động nhỏ hơn 21%. Việc phân loại tai nạn lao động theo mức độ tổn thương sẽ giúp chúng ta có được cách nhìn đúng đắn về thực trạng tai nạn lao động, về mức độ nghiêm trọng của từng vụ tai nạn, cũng như biết được khả năng lao động của những người lao động sau tai nạn để có được chính sách phù hợp nhằm giảm bớt những khó khăn mà họ và gia đình họ gặp phải. - Theo độ tuổi và giới tính: Việc nghiên cứu theo độ tuổi và giới tính cũng đóng vai trò quan trọng, nó gíúp chúng ta thấy được tai nạn lao động xảy ra với giới nào cao hơn, và ở độ tuổi nào người lao động dễ bị tai nạn hơn từ đó có được cách sắp xếp bố trí công việc phù hợp. Thực tế chỉ ra rằng: tỷ lệ tai nạn lao động xảy ra ở nam giới cao hơn nhiều so với nữ giới do họ thường làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hơn và họ cũng không được cẩn thận như nữ giới. Và tỷ lệ xảy ra tai nạn lao động ở các độ tuổi khác nhau cũng khác nhau. Những lao động trẻ tuổi thường có nguy cơ để xảy ra tai nạn lao động cao hơn so với những lao động có thâm niên do những hạn chế về trình độ và thiếu kinh nghiệp thực tế. b) Phân loại bệnh nghề nghiệp: Bệnh nghề nghiệp có nguyên nhân từ những tác động thường xuyên, liên tục và kéo dài của các yếu tố có hại, phát sinh trong quá trình sản xuất lên cơ thể con người dẫn tới sự suy yếu dần sức khoẻ, gây bệnh cho người lao động. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần chú ý rằng: những trường hợp nhiễm độc cấp tính, bán cấp tính do hơi độc hoá chất gây nên tại nơi làm việc thì được coi là tai nạn lao động không phải là bệnh nghề nghiệp. Các loại bệnh nghề nghiệp bao gồm: - Bệnh do bụi xâm nhập vào phổi: như bệnh bụi phổi silic, amiăng… - Bệnh do yếu tố vật lí như tiếng ồn, độ rung, chấn động, tia X… - Bệnh do môi trường lao động như: lao, vi trùng, vi khuẩn… - Bệnh do điều kiện lao động như: ngoài trời, trên cao, không thông thoáng…. - Bệnh do hoá chất: nhiếm độc khí, hợp chất hoá học thuỷ ngân, chì, cacbon oxit, cacbon đioxit… 3 Cơ sở hình thành chế độ Tai nạn lao động và Bệnh nghề nghiệp: Cũng giống như các chế độ khác trong hệ thống BHXH chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp được xây dựng dựa trên các nguyên tắc chung của BHXH như sau: + Quyền lợi và nghĩa vụ phải đi đôi với nhau, điều này có nghĩa là trên cơ sở có tham gia BHXH thì mới được hưởng chế độ; + Thể hiện tính cộng đồng xã hội, tính nhân đạo của xã hội và có sự đoàn kết chia sẻ rủi ro; + Tài chính và quỹ BHXH phải tập trung thống nhất dảm bảo sự chia sẻ rủi ro. + Xây dựng trên cơ sở ngành, nghề, điều kiện lao động và môi trường lao động. Việc xác định đóng BHXH thuộc trách nhiệm của chủ sử dụng lao động. Căn cứ để xác định mức trợ cấp không dựa vào điều kiện thời gian tham gia BHXH, mức đóng góp, tiền công, tiền lương … mà căn cứ vào tỷ lệ suy giảm khả năng lao động và mức tiền lương tối thiểu không phân biệt nguyên nhân do chủ quan hay khách quan đối với người lao động khi xảy ra tai nạn lao động hoặc mắc bệnh nghề nghiệp. Ở Việt Nam, do sớm thấy được tầm quan trọng cũng như vai trò to lớn của việc thực hiện chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho nên Đảng và nhà nước ta đã sớm đưa chế độ này vào làm một trong số sáu chế độ BHXH quy định tại điều lệ BHXH tạm thời. Tuy nhiên, phải tới năm 1995 chế độ BHXH cho người bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (TNLĐ&BNN) mới được thực hiện theo Bộ Luật Lao Động năm 1995 và Điều lệ ngày 26/01/1995 của Chính phủ (được sửa đổi bổ sung tại Nghị Định 01/2003/NĐ-CP). Qua hơn 10 năm thực hiện, chính sách BHXH nói chung và chế độ trợ cấp TNLĐ-BNN nói riêng đã góp phần ổn định cuộc sống của hàng chục ngàn người không may gặp rủi ro trong quá trình lao động và gia đình họ. 4 Nội dung của chế độ TNLĐ&BNN: 4.1 Đối tượng tham gia: Mọi người lao động đều có nguy cơ bị tai nạn lao động hoặc mắc phải bệnh nghề nghiệp. Cuộc sống của họ và gia đình họ luôn đứng trước nguy cơ bất ổn do phần thu nhập của người lao động bị giảm sút đột ngột do việc suy giảm sức khoẻ sau khi bị TNLĐ&BNN. Do vậy, tất cả mọi người lao động đều là đối tượng tham gia BHXH. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện mỗi nước mà các nước có những quy định riêng về đối tượng tham gia. Nó có thể là tất cả những người lao động hoặc quy định những đối tượng tham gia bắt buộc và những đối tượng tham gia tự nguyện. Mỗi nước có thể tự lựa chọn cho mình đối tượng tham gia phù hợp nhất với điều kinh tế - xã hội - chính trị và khả năng quản lí của mình. Tuy nhiên, phạm vi tối thiểu những người được bảo vệ phải bao gồm: - Những người làm công ăn lương được quy định, tổng số ít nhất phải chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương và đối với trợ cấp tiền tuất thì bao gồm cả vợ và con của người làm công ăn luơng của những người lao động đó. - Đối với những nước mà nền kinh tế và các phương tiện y tế chưa phát triển đủ mức có thể thì đối tượng tham gia phải bao gồm những lao động làm công ăn lương được quy định, tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn luơng làm việc trong các cơ sở công nghiệp sử dụng 20 người trở lên và đối với trợ cấp tiền tuất thì bao gồm cả vợ và con của người làm công ăn lương của những người đó. Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế cho nên việc thực hiện BHXH nói chung và thực hiện chế độ BHXH TNLĐ&BNN nói riêng vẫn còn nhiều khó khăn và chúng ta mới chỉ dừng ở việc thực hiện cho những đối tượng phải tham gia bắt buộc. Theo điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính Phủ, đối tượng bắt buộc tham gia BHXH bao gồm: Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước, trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên; người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp, có vốn đầu tư nước ngoài, các khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam; người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh, dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể; người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang; người giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước, Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện; công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện; Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội chúng ta đang nỗ lực để ngày càng mở rộng phạm vi đối tượng tham gia BHXH nhằm đảm bảo thực hiện những quyền lợi chính đáng cho mọi người lao động và cũng là để thực hiện tốt công bằng xã hội. Chính vì vậy, Nghị định số 01/2003/ NĐ - CP của Chính phủ ngày 09/01/2003 đã bổ sung thêm một số đối tượng bắt buộc tham gia BHXH như sau: Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và hợp đồng không xác định thời hạn trong các doanh nghiệp, cơ quan tổ chức sử dụng lao động; Người lao động làm việc và hưởng tiền lương, tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên trong các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp và các cán bộ công chức, viên chức theo Pháp lệnh công chức. Việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH cũng đồng nghĩa với việc ngành BHXH của chúng ta chấp nhận thêm nhiều khó khăn và thách thức mới. Tuy nhiên, ngành BHXH đã chủ động phối hợp với các cấp chính quyền, các ban ngành đoàn thể thực hiện nhiều biện pháp để khai thác nắm bắt số lượng lao động và thu nhập của người lao động thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc, kịp thời xử lí các vấn đề khó khăn, vướng mắc ở cơ sở, tạo điều kiện để các đơn vị sử dụng lao động thực hiện tốt các chế độ, chính sách BHXH cho người lao động. 4.2 Trách nhiệm và mức đóng góp của các bên tham gia: Đối với các chế độ khác trong hệ thống BHXH của mỗi quốc gia, thì người lao động muốn được hưởng trợ cấp từ chế độ nào thì phải tham gia đóng góp vào chế độ đó. Tuy nhiên, trong chế độ TNLĐ&BNN, người lao động lại không phải tham gia đóng góp vào quỹ. Lý do được đưa ra là: những rủi ro về TNLĐ&BNN là những rủi ro xảy ra nằm ngoài mong muốn của người lao động và chủ sử dụng lao động luôn là người có lỗi lớn nhất trong việc không đảm bảo an toàn sản xuất cho người lao động. Theo quy định chung, người sử dụng lao động phải có trách nhiệm tham gia đóng góp đầy đủ vào quỹ chế độ TNLĐ&BNN cho người lao động và Nhà nước sẽ đóng vai trò là người hỗ trợ cho quỹ. Hiện nay trên thế giới, các nước đang áp dụng hai hình thức đóng góp của chủ sử dụng lao động đó là: hình thức tham gia đóng góp theo một tỷ lệ % nhất định trên tổng quỹ lương của người lao động và hình thức đóng góp theo tỷ lệ % phụ thuộc vào ngành nghề sản xuất kinh doanh và xác suất để xảy ra TNLĐ&BNN ở các ngành nghề đó. Ở Việt Nam, chúng ta sử dụng hình thức đóng góp theo một tỷ lệ nhất định trên cơ sở tổng quỹ tiền lương cho người lao động. Tuy nhiên, mức đóng góp này cho tới nay vẫn được tính chung cho cả các chế độ trợ cấp BHXH ngắn hạn khác mà chưa có quy định đóng góp riêng cho chế độ TNLĐ&BNN, mức đóng góp này là 5% trên tổng quỹ lương của người lao động và do chủ sử dụng lao động đóng. 4.3 Đối tượng được hưởng trợ cấp: Theo quy định chung đối tượng được hưởng trợ cấp bao gồm những người lao động có tham gia BHXH và trong quá trình lao động của mình, họ gặp tai nạn lao động hoặc không may mắc phải các bệnh nghề nghiệp. Ngoài ra, đối tượng được hưởng trợ cấp chế độ này còn bao gồm những người sống phụ thuộc vào nguồn thu nhập chính do những người lao động này mang về như vợ, con nhỏ, bố mẹ già yếu… Ở Việt Nam, chúng ta cũng thực hiện theo đúng nội dung trên và có quy định chi tiết cho những trường hợp nào được coi là tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp Người lao động trong các trường hợp sau được hưởng trợ cấp tai nạn lao động: - Bị tai nạn trong giờ làm việc, tại nơi làm việc kể cả làm ngoài giờ do yêu cầu của chủ sử dụng lao động; - Bị tai nạn ngoài nơi làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động; - Bị tai nạn trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc. Như vậy, người lao động chỉ được coi là bị tai nạn lao động khi thực hiện các nhiệm vụ do người sử dụng lao động giao cho hoặc trên dường đi và về liên quan đến nhiệm vụ (kể cả việc hàng ngày đi từ nhà tới nơi làm việc). Nếu ngưòi lao động đang trên đường làm nhiệm vụ nhưng thực hiện thêm các công việc khác không do chủ sử dụng lao động giao cho mà bị tai nạn thì không được coi là tai nạn lao động mà chỉ coi là tai nạn rủi ro. Còn về bệnh nghề nghiệp, khi người lao động bị mắc phải một trong những bệnh theo danh mục quy định bệnh nghệ nghiệp sau được hưởng trợ cấp cho chế độ Bệnh nghề nghiệp: + Bệnh bụi phổi + Bệnh bụi phổi atbet hay bụi phổi amiăng. + Bệnh bụi phổi bông (byssinosis). + Bệnh điếc nghề nghiệp. + Bệnh rung chuyển nghề nghiệp. + Bệnh nhiễm xạ nghề nghiệp (bức xạ ion hoá). + Bệnh loét da, loét vành ngăn mũi, viêm da, chàm tiếp xúc (bệnh da nghề nghiệp do crôm). + Bệnh sạm da. + Bệnh nhiễm độc TNT (Trinitrotoluen). + Bệnh nhiễm độc benzen. + Bệnh nhiễm độc mangan. + Bệnh nhiễm độc thuỷ ngân. + Bệnh nhiễm độc chì hữu cơ, nhiễm độc chì vô cơ. + Bệnh lao nghề nghiệp. + Bệnh do leptospira nghề nhiệp (Leptospirosis). + Bệnh viên gan virus nghề nghiệp. + Bệnh nhiễm độc asen và các hợp chất asen vô cơ. + Bệnh nhiễm độc Nicôtin. + Bệnh nhiễm độc hoá chất trừ sâu. + Bệnh giảm áp. + Bệnh viêm phế quản mãn tính. (Danh mục bệnh nghề nghiệp trên do Bộ Y tế và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành) 4.4 Điều kiện được hưởng trợ cấp: Theo quy định tại điều 32 phần VI, Công ước số 102 “Công ước về phạm vi tối thiểu và an toàn xã hội” của ILO quy định đối tượng được hưởng trợ cấp chế độ TNLĐ&BNN bao gồm các trường hợp sau: các trường hợp do tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp được quy định gây ra: - Tình trạng ốm đau; - Mất khả năng lao động do tình trạng ốm đau gây ra và dẫn tới gián đoạn thu nhập như pháp luật hoặc pháp quy quốc gia quy định; - Mất hoàn toàn khả năng thu nhập hoặc mất một phần khả năng thu nhập vượt quá mức quy định, nếu như tình trạng đó có cơ trở thành thường xuyên, hoặc có sự giảm sút tương ứng về thể lực; - Người vợ goá hoặc con cái bị mất phương tiện sinh sống do người trụ cột trong gia đình chết; trong trường hợp người vợ goá, thì quyền được hưởng trợ cấp có thể tuỳ thuộc vào sự suy đoán chiểu theo pháp luật hoặc pháp quy quốc gia, rằng người đó không thể đài thọ cho những nhu cầu của chính mình. 4.5 Mức hưởng và thời gian hưởng: Cũng theo Công ước 102, nội dung của việc trợ cấp được quy định tại điều 34 và 36. Cụ thể như sau: Về tình trạng đau ốm, việc trợ cấp phải bao gồm việc chăm sóc y tế gồm những nội dung sau: Sự chăm sóc y tế của các y bác sĩ điều trị chung và các chuyên gia cho người nằm viện hoặc không nằm viện, kể cả thăm bệnh tại nhà; sự chăm sóc về răng; sự chăm sóc của các hộ lí tại nhà hoặc trong bệnh viện hay tại một cơ quan y tế; Sự điều dưỡng tại bệnh viện, nhà nghỉ sau khi ốm đau, nhà an dưỡng hoặc tại các cơ quan an dưỡng khác; Sự hỗ trợ về vật liệu răng, thuốc men và các vật liệu y tế hoặc giải phẫu khác, kể cả các dụng cụ chỉnh hình và việc bảo dưỡng các dụng cụ đó và kính mắt; Sự chăm sóc của người làm nghề khác nhưng được công nhận hợp pháp là có liên quan đến nghề y tế tiến hành dưới sự giám sát của một thầy thuốc hoặc một nha sĩ. Đối với những nước mà ở đó nền kinh tế và các phương tiện y tế còn chưa phát triển thì việc thực hiện chăm sóc y tế phải gồm ít nhất là: Sự chăm sóc của y sĩ điều trị chung, kể cả thăm khám bệnh tại nhà; Sự chăm sóc của các chuyên gia trong bệnh viện cho người nằm viện hoặc không nằm viện và sự chăm sóc của các chuyên gia có thể tiến hành ngoài viện; Việc cung cấp các dược liệu thiết yếu, theo đơn của thầy thuốc hoặc các nhân viên y tế khác có bằng cấp; việc nằm viện nếu thấy cần thiết. Sự chăm sóc y tế được cung cấp theo các khoản trên phải bảo toàn, hồi phục hoặc cải thiện sức khoẻ cho người được bảo vệ, kể cả khả năng làm việc và khả năng ứng phó với nhu cầu cá nhân. Còn về thời gian được hưởng được quy định như sau: Trong trường hợp bị mất khả năng lao động hoặc mất toàn bộ khả năng thu nhập, nếu tình trạng này có thể trở thành thường xuyên, hoặc bị giảm sút tương ứng về thể lực, hoặc mất người trụ cột trong gia đình, thì trợ cấp sẽ là việc chi trả định kì. Trong trường hợp bị mất một phần khả năng thu nhập và việc mất này có thể trở thành thường xuyên hoặc trong trường hợp có giảm sút tương ứng về thể lực thì trợ cấp sẽ là việc chi trả định kì được ấn định với một tỷ lệ thích hợp so với tỷ lệ quy định cho trường hợp mất hoàn toàn khả năng thu nhập hoặc bị giảm tương ứng về thể lực. Việc chi trả định kì trên có thể chuyển thành một số vốn chi trả một lần khi mức độ mất khả năng là không đáng kể hoặc khi các nhà chức trách có thẩm quyền được đảm bảo rằng số vốn đó sẽ được sử dụng thích đáng. Trách nhiệm của các bên có liên quan được quy định như sau: Các cơ quan Chính phủ hoặc các thể chế quản lí chăm sóc y tế phải hợp tác thích đáng với các cơ quan chung về đào tạo lại nghề nghiệp để làm cho người có khuyết tật tái thích ứng với một công việc thích hợp. Pháp luật hoặc pháp quy quốc gia có thể cho phép các cơ quan hoặc các thể chế nói trên có các biện pháp đào tạo lại nghề nghiệp cho những người bị khuyết tật. Ở Việt Nam, hiện nay chúng ta chưa có được những quy đinh chi tiết về nội dung chế độ trợ cấp như theo công ước ILO. Tuy nhiên, quán triệt tư tưởng chung của ILO chúng ta thực hiện trợ cấp trên cơ sở hỗ trợ về tài chính cho người lao động. Trong đó có quy định trách nhiệm cụ thể của chủ sử dụng lao động và trách nhiệm chi trả tiền trợ cấp cho chế độ TNLĐ&BNN của quỹ BHXH. Cụ thể như sau: Khi xảy ra tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp trách nhiệm của chủ sử dụng lao động được quy định tại điều 107 Bộ luật dân sự như sau: - Người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị xong cho người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Nếu doanh nghiệp chưa tham gia loại hình BHXH bắt buộc thì người sử dụng lao động phải trả cho người lao động một khoản tiền ngang với mức quy định trong điều lệ BHXH. - Người sử dụng lao động có trách nhiệm bồi thường ít nhất bằng 30 tháng lương cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người chết do tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp mà không có lỗi của người lao động. Trường hợp do lỗi của người lao động thì cũng được hưởng trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 12 tháng luơng. Sau khi điều trị ổn định thương tật, người sử dụng lao động có trách nhiệm sắp xếp công việc phù hợp cho người bị tai nạn lao động khi họ vẫn còn khả năng lao động. Trách nhiệm chi trả của BHXH chỉ phát sinh sau khi người lao động đã được điều trị ổn định. Lúc này trên cơ sở tỷ lệ thương tật được Hội đồng giám định y khoa công nhận BHXH sẽ tiến hành chi trả trợ cấp cho người lao động. Với mức suy giảm khả năng lao động từ 5-30% được hưởng trợ cấp một lần và từ 31% trở lên được hưởng trợ cấp hàng tháng ngoài ra người lao động còn được nhận một số trang thiết bị hỗ trợ phục hồi chức năng khác (về nội dung này sẽ được trình bày cụ thể hơn trong nội dung về thực trạng chi trả chế độ TNLĐ&BNN ở trong phần sau). Trên cơ sở quán triệt những tư tưởng chung đã được đề cập, các nước căn cứ vào điều kiện cụ thể của nước mình để xây dựng một chế độ BHXH về TNLĐ&BNN phù hợp nhất. 5 Mối quan hệ giữa chế độ TNLĐ&BNN với các chế độ khác trong hệ thống BHXH 5.1 Mối quan hệ với chế độ trợ cấp ốm đau: Ta biết rằng TNLĐ&BNN gây nên tình trạng suy giảm khả năng lao động của con người. Tuy nhiên, sự suy giảm khả năng lao động không chỉ biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm suy giảm sức lao động (do Hội đồng giám định y khoa chứng nhận) sau khi điều trị mà có thể TNLĐ&BNN có thể sẽ còn để lại những tác động không tốt tới tình trạng sức khoẻ sau này của người lao động. Điều này có nghĩa là, những người lao động bị mắc bệnh nghề nghiệp hay bị tai nạn lao động có thể dễ bị ốm đau hơn so với những người lao động khác nhất là đối với những người bị mắc bệnh nghề nghiệp. Việc quy định thời gian nghỉ ốm đau và mức được trợ cấp chế độ trợ cấp ốm đau đối với những người lao động này là tương tự như đối với những người lao động bình thường khác. Trong trường hợp người lao động bị mắc bệnh nghề nghiệp phải điều trị dài ngày thì được hưởng trợ cấp ốm đau theo quy định riêng. Với những người lao động bị TNLĐ&BNN dẫn tới việc suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên và phải nghỉ việc hưởng trợ cấp BHXH thì khi bị ốm đau sẽ được đi khám và chữa bệnh theo tiêu chuẩn của Bảo hiểm y tế (tức là lức này sẽ phát sinh trách nhiệm chi trả của bên Bảo hiểm y tế) 5.2 Mối quan hệ với chế độ trợ cấp thai sản: Môi trường lao động độc hại mất an toàn vệ sinh lao động gây nguy hiểm không chỉ với những người lao động nói chung mà còn đặc biệt nguy hiểm với lao động nữ. Bởi sức khoẻ của lao động nữ ảnh hưởng trực tiếp tới con cái họ sau này nhất là trong qua trình mang thai bởi nó có thể dẫn tới tình trạng sảy thai, thai chết lưu, đẻ non… Do đó, đối với những lao động nữ làm việc trong những môi trường sản xuất độc hại, nặng nhọc, nguy hiểm thì chế độ trợ cấp thai sản có quy định về thời gian được hưởng trợ cấp nhiều hơn so với các lao động nữ bình thường khác là từ 1 cho tới 2 tháng, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể. Còn khi người lao động nữ bị sảy thai, thai chết lưu, thai không bình thường… thì thời gian nghỉ và mức hưởng trợ cấp được quy đinh theo tiêu chuẩn trợ cấp ốm đau như những người lao động khác (kể cả trong trường hợp kể trên có nguyên nhân từ tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp). 5.3 Mối quan hệ với chế độ trợ cấp hưu trí: Dưới tác động thường xuyên, liên tục của môi truờng lao động độc hại nguy hiểm sức khoẻ của người lao động sẽ bị ảnh hưởng. Có thể thấy, người lao động bị tai nạn lao động hay mắc phải bệnh nghề nghiệp có nét tương đồng với những người lao động đến tuổi nghỉ hưu ở chỗ sức khoẻ của họ đều bị giảm sút và khó có khả năng phục hồi theo thời gian chúng chỉ khác nhau về thời điểm giảm sút sức lao động. Ở hưu trí đó là do tuổi tác còn ở TNLĐ&BNN là sự suy giảm sức khoẻ do tác động của môi trường ngay trong quá trình lao động. Điều này cũng phần nào lí giải tại sao nhiều nước trên thế giới hiện nay lại xếp chế độ trợ cấp TNLĐ&BNN vào chung cùng với chế độ hưu trí và tử tuất. Người lao động bị tai nạn lao động hoặc mắc bệnh nghề nghiệp khi về hưu thì bên cạnh khoản trợ cấp theo chế độ TNLĐ&BNN thì vẫn được hưởng các quyền lợi như đối với những người lao động đến tuổi về hưu khác. Cụ thể như sau: - Đối với lao động nam đủ 55 tuổi, lao động nữ đủ 50 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên mà trong 20 năm dó lại có thời gian làm việc đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc độc hại hoặc làm việc ở những nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 1,7 trở lên thì được hưởng lương về hưu như những người lao dộng đủ tuổi về hưu khác ( với nam là 55; với nữ là: 50) - Đối với lao động nam đủ 50 tuổi, nữ 45 tuổi có thời gian đóng BHXH đủ 20 năm trở lên và bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì được hưởng chế độ hưư trí hàng tháng với mức lương hưu thấp hơn chế độ hưu trí thông thường. Với người lao động có ít nhất 15 năm làm công việc đặc biệt nặng nhọc, đặc biệt độc hại đã đóng BHXH đủ 20 năm trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì cũng được hưởng trợ cấp hưu trí hàng tháng với mức hưu thấp hon so với mức trợ cấp hưu trí thông thường mà không phụ thuộc vào tuổi đời. Ở đây có thể dễ nhận thấy với cùng điều kiện như những người lao động khác thì người lao động làm việc trong những môi truờng lao động độc hại có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì được hưởng cùng mức như những người lao động khác nhưng độ tuổi lại được quy định thấp hơn 5 năm. 5.4 Mối quan hệ với chế độ trợ cấp tử tuất: Người lao động khi tham gia BHXH có thời gian đủ 15 năm trở lên mà không may qua đời thì gia đình họ được hưởng một khoản trợ cấp tiền mai táng phí bằng 8 tháng tiền lương tối thiểu, trợ cấp tuất một lần hoặc trợ cấp hàng tháng cho thân nhân của họ (thân nhân ở đây bao gồm những người mà người lao động trực tiếp nuôi dưỡng như: bố mẹ già yếu, con cái còn nhỏ..). Tuy nhiên, đối với những người lao động tham gia BHXH bị tai nạn lao động hoặc mắc bệnh nghề nghiệp trong quá trình lao động dẫn tới tử vong thì thân nhân họ được hưởng trợ cấp tử tuất hàng tháng mà không cần có thêm điều kiện về thời gian tham gia BHXH với mức trợ cấp là 40% tháng tiền lương tối thiểu và trong trường hợp thân nhân không có nguồn thu nhập nào khác và cũng không còn người thân trực tiếp nuôi dưỡng thì mức tiền tuất hàng tháng được nhận là 70% mức tiền lương tối thiểu. Trường hợp người lao động không có thân nhân thuộc diện được hưởng tiền tuất hàng tháng thì gia đình họ sẽ được nhận tiền tuất một lần Trong trường hợp người lao động đang nghỉ hưu hưởng chế độ trợ cấp lương hưu hưu, hoặc nghỉ hưởng theo chế độ mất sức lao động, hoặc người lao động đang được nhận trợ cấp TNLĐ& BNN hàng tháng mà bị chết thì gia đình họ vẫn được hưởng trợ cấp tiền tuất CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ TNLĐ&BNN Ở VIỆT NAM I THỰC TRẠNG VỀ TAI NẠN LAO ĐỘNG VÀ BỆNH NGHỀ NGHIỆP Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA: Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp luôn là mối lo ngại đối với doanh nghiệp, người lao động nói riêng và xã hội nói chung. Ngay từ khi có cuộc cách công nghiệp, vấn đề giải quyết TNLĐ&BNN đã được đặt ra và từ đó cho đến nay mặc dù khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, con người được làm việc trong môi trường lao động ngày càng được cải thiện, máy móc thiết bị ngày càng hiện đại và tiên tiến, nhưng không vì thế mà TNLĐ&BNN giảm đi. Theo báo cáo ngày 18/09/2005 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) mỗi năm trên thế giới có khoảng 250 triệu vụ tai nạn lao động ở các mức độ khác nhau làm cho hơn 2,2 triệu người chết và hàng trăm triệu người khác bị mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn. Trung bình mỗi ngày có khoảng 5.000 người lao động bị chết vì tai nạn liên quan đến an toàn lao động và bệnh nghề nghiệp. Chi phí cho tai nạn lao động và những thiệt hại do tai nạn lao động gây ra làm tổn hại trên 4% tổng thu nhập quốc nội của mỗi nước. Hậu quả của TNLĐ&BNN rất nặng nề và kéo dài đối với từng gia đình và xã hội. ILO cũng chỉ ra rằng số vụ TNLĐ đang có xu hướng giảm ở các nước phát triển nhưng lại tăng nhanh ở các nước đang phát triển. Các nghiên cứu tình hình TNL Đ hàng năm trên thế giới cho thấy: tại các nước đang phát triển tỷ lệ TNLĐ chết người khoảng 30 - 40 người /100.000 lao động, cao hơn rất nhiều lần so với các nước phát triển (khoảng 3 - 8 người/100.000 lao động) và Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật này. Với đặc điểm là một nước đang phát triển, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có xu hướng tăng nhanh cả về số lượng và quy mô, tuy nhiên, trình độ trang thiết bị công nghệ của chúng ta lại đang ở tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Vì vậy, TNLĐ&BNN thực sự là vấn đề hết sức nóng bỏng và đáng lưu tâm. 1 Thực trạng tai nạn lao động ở Việt Nam: Theo số liệu thông kê chưa đầy đủ của các tỉnh, thành phố trong cả nước cho thấy: từ năm 1995-2005 tổng số vụ tai nạn lao động ._.g lao động lệch nhau tới 10%. Ngược lại, có những người lao động chỉ chênh lệch nhau 1% mức suy giảm khả năng lao động nhưng lại nằm ở hai khung liền kề nhau và đương nhiên mức trợ cấp cũng khác nhau. Với những quy định trên, một mặt sẽ gây ra tình trạng thiếu công bằng trong hưởng thụ của người lao động, mặt khác lại dẫn tới việc các kết quả giám định về tỷ lệ thương tật của của Hội đồng giám định y khoa có thể bị bóp méo, sai lệch so với thực tế và đây cũng chính là khẽ hở để thực hiện việc trục lợi bảo hiểm. Một vấn đề khác cũng cần được xem xét là mức trợ cấp giữa hai khung. Chúng ta có thể thấy rằng hiện nay, mức trợ cấp giữa hai khung chênh lệch nhau là 4 tháng tiền lương tối thiểu cho trợ cấp một lần và 0,2 tháng tiền lương tối thiểu cho trợ cấp hàng tháng. Việc thực hiện như trên chưa thật thuyết phục và còn mang tính bình quân. Bởi ta biết rằng: cứ tăng 1% tỷ lệ suy giảm khả năng lao động thì sức khoẻ của người lao động lại bị suy giảm nhiều hơn so với 1% suy giảm trước. Ví dụ như: suy giảm khả năng lao động từ 79% lên 80% khác rất nhiều so với việc suy giảm từ 31% lên 32%, có nghiã là “ giá trị sức khoẻ” của 1% suy giảm từ 79% lên 80% lớn hơn nhiều so với “giá trị sức khoẻ” của 1% suy giảm từ 31% lên 32%. Vì thế có lẽ cách tốt nhất là chúng ta nên tính mức hưởng luỹ tiến theo tỷ lệ tăng của sự suy giảm khả năng lao động. 1.4 Kiến nghị về kết cấu của chế độ: Hiện nay ở nước ta, những người lao động khi không may bị tai nạn lao động hay mắc bệnh nghề nghiệp đều được hưởng trợ cấp theo chế độ TNLĐ & BNN. Những người lao động có cùng tỷ lệ suy giảm sức lao động do TNLĐ hoặc mắc bệnh BNN đều được tính chung cho cùng một mức hưởng. Điều này trên thực tế đã bộ lộ nhiều hạn chế và đã tạo ra sự bất công bằng tương đối trong mức hưởng giữa những người bị tai nạn lao động và những người lao động bị mắc bệnh nghề nghiệp. Bởi TNLĐ&BNN tuy có những đặc điểm giống nhau song chúng lại có những đặc trưng khác nhau điều này xuất phát từ chính nguyên nhân gây ra tai nạn lao động và bệnh nghề ngiệp. Tai nạn lao động là những tai nạn bất ngờ xảy ra trong quá trình lao động, nó có thể xảy ra với bất cứ người lao động nào từ những người trẻ tuổi mới đi vào làm việc cho tới những người lao động đã làm việc lâu năm. Tai nạn lao động chỉ là những tai nạn xảy ra trong thời gian ngắn và gây tỷ lệ thương tật cho người lao động, do vậy, những người lao động bị tai nạn lao động sau khi được điều trị ổn định thì đa phần sức khoẻ của họ ngày càng được cải thiện, ngày càng tốt hơn kéo theo mức suy giảm khả năng lao động so với lúc giám định ban đầu giảm xuống, nhu cầu về các trang thiết bị trợ giúp sinh hoạt nhằm để phục hồi chức năng cũng như nhu cầu về người phục vụ giảm đi. Điều này càng được thể hiện rõ ở những người lao động trẻ tuổi. Còn đối với bệnh nghề nghiệp thì lại khác hẳn (từ nguyên nhân gây ra bệnh cho tới chiều hướng phát triển của bệnh). Nguyên nhân gây ra mắc bệnh nghề nghiệp ở người lao động là do môi trường độc hại tác động một cách từ từ, liên tục lên người lao động gây tổn hại sức khoẻ của người lao động theo chiều hướng từ nhẹ tới nặng dần. Nếu như đối với TNLĐ chúng ta khó có thể xác định số lượng cũng như mức độ thương tật của người bị nạn thì ở BNN chúng ta lại có thể dự đoán tương đối về số người bị mắc bệnh cũng như mức độ nhiễm bệnh, do đó công tác đề phòng cũng có nhiều thuận lợi hơn. Ở bệnh nghề nghiệp do thời gian nhiễm bệnh lâu dài nên những người bị mắc bệnh nghề nghiệp sau khi đã được điểu trị ổn định thì sức khoẻ của người lao động nhìn chung vẫn có xu hướng bị giảm sút kéo theo mức suy giảm khả năng lao động của họ tăng lên, điều này cũng đồng nghĩa với nhu cầu được trợ cấp của họ ngày càng tăng. Từ những điều trái ngược trên cho thấy việc thực hiện hai chế độ này ở nước ta lại được xếp chung vào cùng một chế độ BHXH với những quy định về điều kiện hưởng, thời điểm hưởng, mức hưởng giống nhau là chưa hợp lý, nhất là khi chúng ta đề cập tới vấn đề tình trạng sức khoẻ sau khi điều trị thương tật ổn định. Từ lý do trên thiết nghĩ chúng ta cần tách chế độ TNLĐ&BNN thành hai chế độ : một cho tai nạn lao động và một cho bệnh nghề nghiệp với những quy định về mức hưởng, điều kiện hưởng và thời gian hưởng phù hợp với đặc điểm của từng chế độ cụ thể. Ví dụ như: Với đặc điểm người lao động bị mắc bệnh nghề nghiệp có thời gian nhiễm bệnh dài, kéo theo độ tuổi trung bình bị mắc bệnh bệnh (tức là độ tuổi bệnh biểu hiện ra bên ngoài) cao song họ lại có tuổi thọ trung bình thấp hơn (do sức khoẻ ngày càng bị giảm sút) do vậy thời gian được hưởng trợ cấp của họ cũng ngắn hơn so với người lao động bị tai nạn lao động. Từ đặc điểm này, chúng ta nên thay đối nội dung trợ cấp như sau: cùng một tỷ lệ suy giảm khả năng lao động như nhau thì mức hưởng của những người lao động bị mắc BNN nên dược quy định cao hơn so với những người bị tai nạn lao động và việc nâng cao mức trợ cấp này cũng cần được thực hiện đối với cả loại hình trợ cấp một lần và cả trợ cấp hàng tháng Theo quy định, người lao động sẽ được nhận trợ cấp một lần từ người dụng lao động nếu như có mức độ suy giảm khả năng lao động là 81%. Tuy nhiên, những nghiên cứu trên thực tế cũng chỉ ra rằng tỷ lệ người lao động bị mắc bệnh nghề nghiệp có mức độ suy giảm khả năng lao động là 81% l à bằng 0. Điều này đồng nghĩa rằng: trên thực tế sẽ không có bất kì người lao động bị mắc bệnh nghề nghiệp nào có thể được hưởng trợ cấp này. Nên chăng, trong thực tế chúng ta cần xem xét lại mức quy định này để có được sự điều chỉnh phù hợp hơn. Một điểm nữa cũng cần được sửa đổi đó là việc quy định với mức độ suy giảm khả năng lao động là bao nhiêu thì sẽ được nhận trợ cấp hàng tháng? Theo quy định hiện nay, với mức suy giảm khả năng lao động từ 31% đến 100% được hưởng trợ cấp hàng tháng từ 0,4 đến 1,6 tháng tiền lương tối thiểu cho cả hai đối tượng hưởng trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp như nhau là chưa hợp lí. Các chuyên gia cho rằng khi mắc bệnh nghề nghiệp thì người lao động khó có cơ may để phục hồi mà phải chịu suốt đời, vì vậy, nên quy định đối với trường hợp bị mắc bệnh nghề chỉ cần suy giảm khả năng lao động 21% là đựơc hưởng trợ cấp hàng tháng. Trong trường hợp nếu như chúng ta không muốn tách hai chế độ này ra thành hai chế độ độc lập mà vẫn muốn duy trì là một chế độ trong hệ thống các chế độ BHXH thì chúng ta cần có những quy định riêng, cụ thể cho từng chế độ với những tư tưởng chung đã trình bày ở trên. Và chúng ta cũng cần nghiên cứu tên gọi của chế độ sao cho ngắn gọn và dễ hiểu, thể hiện rõ nội dung và thống nhất chung với quốc tế. Chúng ta có thể tham khảo tên gọi chế độ “ Thương tật trong lao động” như theo khuyến nghị của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã sử dụng để chỉ các tai nạn trong khi làm việc và các bệnh nghề nghiệp. 1.5 Vấn đề chăm sóc y tế đối với người lao động bị tai nạn lao động hoặc mắc bệnh nghề nghiệp: Như đã đề cập tới phần trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động theo điều 107 của Bộ luật lao động, các Nghị định 06/CP ngày 20/01/1995, Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995…thì khi người lao động không may bị tai nạn lao động hay mắc phải bệnh nghề nghiệp thì người sử dụng lao động có trách nhiệm phải chịu toàn bộ các chi phí về chăm sóc y tế từ khi người lao động bị nạn cho tới khi điều trị ổn định thương tật. Tuy nhiên trên thực tế chúng ta lại thiếu tiêu chuẩn chung trong việc chăm sóc này như ( tiêu chuẩn về thuốc men, trình độ của cán bộ y tế …) cũng như chưa có được sự quản lí thống nhất tập chung về chế độ TNLĐ&BNN từ đó tuỳ thuộc vào khả tài chính của đơn vị sử dụng lao động mà người lao động bị nạn được chăm sóc, điều trị với mức độ quan tâm khác nhau. Điều này tạo ra sự bất công bằng tương đối giữa những người lao động bị nạn. Để đảm bảo quyền lợi cho người lao động bị nạn được chăm sóc y tế đầy đủ hơn và cũng nhằm thực hiện sự công bằng giữa những người lao động, trong thời gian tới, một hệ thống các văn bản quy định những tiêu chuẩn chung về chăm sóc y tế đối với những trường hợp bị TNLĐ&BNN quy định chi tiết từ khâu cấp cứu, khám chữa, điều trị cho tới khi đã được điều trị ổn định hoặc tái phát cũng như những quy định về nội dung trợ cấp (thuốc men, cán bộ y tế..) là rất cần thiết và cần sớm được nghiên cứu và triển khai trên thực tế. 1.6 Các vấn đề khác: Ngoài những vấn đề trọng tâm dã được trình bày ở trên, đề tài cũng xin được đưa ra một vài kiến nghị khác có liên qua như: - Về chế độ trang cấp phương tiện nhằm trợ giúp sinh hoạt cho những người lao động chúng ta cũng cần có những quy định cụ thể hơn, không nên trang bị theo kiểu thiếu bộ phận nào thì được trang cấp bộ phận đó mà cần phải căn cứ theo mức độ tàn tật của từng bộ phận của cơ thể để trang cấp những phương tiện trợ giúp phù hợp. Chúng ta cũng cần quy định thời hạn sửa đổi trang cấp hoặc thay thế của từng bộ phận cho phù hợp hơn. - Đối với bệnh nghề nghiệp: với tốc độ kinh tế phát triển như hiện nay, càng ngày chúng ta lại càng có thêm nhiều nhân tố gây hại tới sức khoẻ của người lao động vì vậy các cơ quan chức năng nên nghiên cứu để có thể bổ sung kịp thời những bệnh nghề nghiệp mới vào hệ thống bệnh nghề nghiệp nhằm đảm bảo thực hiện tốt hơn nữa quyền lợi của người lao động và cũng là tạo điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện chế độ. 1.7 Kiến nghị về tổ chức thực hiện quản lí và chi trả các khoản trợ cấp: Để bù đắp những thiệt hại do TNLĐ&BNN gây ra cho người lao động, nhà nước đã có nhiều chính sách chế độ tập trung vào hai nhóm chính là: chính sách bồi thường TNLĐ&BNN do chủ dử dụng lao động đảm nhận và chính sách trợ cấp do cơ quan BHXH đảm nhận. Theo quy định thì người sử dụng lao động ngoài trách nhiệm phải chịu toàn bộ các chi phí y tế liên quan thì còn phải trả tiền lương đầy đủ cho người lao động trong suốt quá trình điều trị thương tật, có trách nhiệm sắp xếp lại công việc phù hợp cho người lao động sau khi họ bị tai nạn lao động, kể cả chi phí đào tạo lại cho người lao động nếu họ phải chuyển sang nghề khác ngoài ra đơn vị sử dụng lao động còn phải chịu trách nhiệm bồi thường một lần cho người lao động khi họ bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên. Có thể thấy với quy định như trên các doanh nghiệp để xảy ra tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp sẽ phải chịu sức ép rất lớn về tâm lý và phải chịu những chi phí rất cao mà không có sự chia sẻ từ các doanh nghiệp khác trong khi đó họ lại vẫn phải đóng BHXH đều đặn. Điều này càng đáng được quan tâm đối với các đơn vị sản xuất mà ở đó nguy cơ xảy ra TNLĐ&BNN cao và tất nhiên điều này cũng tác động không nhỏ tới giá thành sản phẩm, dẫn tới khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm và làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường… Thêm vào đó các đơn vị lại tốn nhiều thời gian làm việc với các đoàn thanh tra nên đã làm giảm thời gian để tập trung vào sản xuất. Ngoài ra, đối với các đơn vị có khả năng tài chính eo hẹp, không có khả năng nộp BHXH kịp thời theo quy định hoặc cố tình không nộp đã gây ra tình trạng chậm thanh toán cả trợ cấp BHXH và khoản bồi thường của đơn vị sử dụng lao động, chi phí cho công tác sơ cứu, điều trị không được thực hiện đầy đủ, thiếu chu đáo gây khó khăn về kinh tế cũng như tâm lí cho người lao động khi bị TNLĐ hoặc mắc BNN. Mặt khác, do chỉ quy định trách nhiệm bồi thường của chủ sử dụng lao động cho người lao động bị mất khả năng lao động từ 81% trở lên nên những người lao động có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động thấp hơn sẽ rất thiệt thòi trong khi thu nhập của họ cũng bị ảnh hưởng bởi khả năng lao động giảm sút. Hơn nữa, thủ tục để nhận được tiền bồi thường từ chủ doanh nghiệp rất phức tạp. Nó đòi hỏi phải có biên bản điều tra tai nạn lao động, trong khi đó để có được biên bản phải mất tới 10 ngày, thậm chí có những vụ nghiêm trọng phải kéo dài đến 5-6 tháng nên người lao động bị nạn không có được khoản hỗ trợ kịp thời. Đây chính là hạn chế lớn nhất của chế độ chi trả trực tiếp từ người sử dụng lao động. Còn đối với chính sách trợ cấp TNLĐ&BNN từ BHXH, khi người lao động tham gia BHXH bị TNLĐ&BNN thì tuỳ theo mức suy giảm khả năng lao động mà được hưởng trợ cấp một lần (với mức suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30%) hoặc trợ cấp hàng tháng (với mức suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên), ngoài ra còn được trang cấp thêm các phương tiện trợ giúp phục hồi chức năng khác.... Với cơ chế đóng góp chung như hiện nay và tỷ lệ đóng góp còn thấp, đồng đều nên mức hưởng trợ cấp của người lao động còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của họ. Mặt khác, hiện nay cơ chế chi trả bồi thường TNLĐ&BNN còn rất phức tạp và không kịp thời nên cũng đã ảnh hưởng không nhỏ tới quyền lợi của người lao động. Có thể thấy rằng với cơ chế hai nguồn như hiện nay có ưu điểm là gắn trách nhiệm vật chất của người sử dụng lao động đối với tình trạng TNLĐ&BNN ở đơn vị mình, từ đó buộc người sử dụng lao động phải quan tâm hơn nữa tới việc tăng cường công tác phòng ngừa TNLĐ&BNN. Tuy nhiên, cơ chế này lại có nhược điểm rất lớn là không đạt được hiệu quả tối ưu cho người lao động và cho xã hội vì nó không tập trung được nguồn lực. Cơ quan BHXH chủ yếu chi trả các khoản trợ cấp về BHXH mà chưa có chức năng hỗ trợ bồi dưỡng, đào tạo lại nghề cho người lao động sau khi đã điều trị ổn định thương tật. Hơn nữa, trong hệ thống BHXH của Việt Nam, chế độ TNLĐ&BNN thuộc các chế độ ngắn hạn với mức đóng góp được quy định chung là 5% tổng quỹ lương của người lao động và do người sử dụng đóng góp và tỷ lệ đóng góp là như nhau nên không khuyến khích các doanh nghiệp cải thiện môi trường lao động cũng như thực hiện các quy định về bảo hộ và an toàn lao động. Vì vậy, một giải pháp đươc đưa ra là nên thành lập quỹ bồi thường TNLĐ&BNN nằm trong hệ thống BHXH Việt Nam và được quản lí theo quy định chung của pháp luật BHXH. Quỹ này sẽ đứng ra thanh toán thay cho người sử dụng lao động các chi phí y tế, tiền lương trong quá trình điều trị TNLĐ&BNN, trả trợ cấp thương tật cho tất cả các mức thương tật (không hạn chế ở mức 5% trở lên như hiện nay), đảm bảo các chi phí phục hồi chức năng và hỗ trợ kinh phí để bồi dưỡng, đào tạo lại nghề cho người lao động khi họ không còn có khả năng tiếp tục làm nghề cũ… Việc thành lập quỹ này sẽ tránh được sự e ngại về tâm lý và những vấn đề khác giữa người lao động và người sử dụng lao động khi xảy ra TNL hoặc BNN. Đồng thời khi bị tai nạn lao động hay mắc bệnh nghề nghiệp người lao động sẽ tới thẳng quỹ để nhận tiền trợ cấp, do vậy mà công tác thống kê các số liệu về tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cũng trở lên dễ dàng, chính xác và đầy đủ hơn. Tham gia vào quỹ này, người sử dụng lao động có thể chia sẻ rủi ro với nhau, họ có thể được nhận khoản hỗ trợ từ quỹ để nhanh chóng ổn định sản xuất (vì các vụ tai nạn lao động xảy ra có thể làm ngưng trệ quá trình sản xuất do máy móc thiết bị bị hư hỏng…). Hơn nữa viêc tham gia vào quỹ sẽ giúp các doanh nghiệp sẽ nhận được sự hỗ trợ nhằm thực hiện tốt hơn nữa công tác ATVSLĐ của mình. Bên cạnh đó, sự thay đổi trong cơ chế và việc sử dụng các biện pháp kinh tế để tác động trực tiếp váo các doanh nghiệp tỏ ra có hiệu quả. Kinh ngiệm các nước khi thực hiện theo mô hình này cho thấy: bằng việc quy định đóng góp vào quỹ là bắt buộc song mức đóng góp lại được dựa trên cơ sở tần xuất TNLĐ&BNN xảy ra ở từng ngành nghề, công việc, nên nó đã tạo ra sự chủ động trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa TNLĐ&BNN. Đây cũng chính là thước đo về trách nhiệm đối với xã hội của người sử dụng lao động và thể hiện sự công bằng xã hội. Có thể thấy rằng, hiện nay ở Việt Nam đã có khá nhiều doanh nghiệp doanh bảo hiểm tiến hành triển khai loại hình bảo hiểm bồi thường trách nhiệm chi trả TNLĐ&BNN cho người sử dụng lao động tuy nhiên các loại hình này không thể thay thế được việc thực hiện chế độ này khi xét tới tính công bằng và tính xã hội. Nhà nước nên đứng ra để thành lập quỹ nhằm tránh tình trạng tản mác, và tăng cường độ chính xác trong thống kê TNLĐ&BNN đồng thời tái đầu tư trở lại cho doanh nghiệp.Và theo quan điểm đề tài thì Bộ Lao động nên là người đứng ra thành lập quỹ vì: thứ nhất là: quỹ bồi thường TNLĐ & BNN được hình thành nhằm phục vụ cho công tác ngăn ngừa TNLĐ&BNN gắn với chính sách lao động. Thứ hai là: việc Bộ Lao động quản lý sẽ thuận lợi hơn trong công tác điều tra, ngăn ngừa tai nạn nhanh chóng, xác định tỷ lệ đóng góp cho quỹ được chính xác đồng thời sẽ hạn chế đáng kể những phí tổn, sai lệch trong công tác truyền đạt thông tin. Để việc xây dựng quỹ bồi thường TNLĐ&BNN sớm trở thành hiện thực hi vọng rằng chương trình Quốc gia về ANVSLĐ sẽ đạt mực tiêu và lộ trình cụ thể cho vấn đề này. Và với những ưu điểm và lợi ích đã phân tích hi vọng việc thành lập quỹ bồi thường TNLĐ&BNN sẽ chỉ còn là vấn đề về thời gian. 2 Kiến nghị về công tác quản lý chế độ: 2.1 Về công tác thu: Có thể nói công tác thu của chúng ta sau hơn mười năm đi vào hoạt động đã đi vào nề nếp và hoạt động tương đối hiệu quả, tuy nhiên để năng cao hiệu quả công tác thu hơn nữa chúng ta cần: - Sớm nghiên cứu và thông nhất biện pháp hướng dẫn trong việc giải quyết những vướng mắc, tồn tại đối với các trường hợp chưa có đủ hồ sơ, căn cứ để ghi chép và cấp sổ BHXH, đảm bảo cho 100% số người lao động hiện đang tham gia BHXH được cấp sổ BHXH cho những đói tượng mới tham gia BHXH được kịp thời, chính xác. - Nghiên cứu việc sử dụng công nghệ tin học để có thể theo dõi, quản lí đối tượng tham gia BHXH, số thu BHXH, đối với các đơn vị thường xuyên chậm nộp BHXH để tìm ra nguyên nhân và biên pháp khắc phục cũng như có được chế tài xử phạt hiệu quả. - Tăng cường công tác tuyên truyền để mọi người có thể hiểu rõ về quyền và nghĩa vụ tham gia BHXH . 2.2 Về công tác chi: - Cần có các quy định cụ thể, rõ ràng về thủ tục hành chính, có hệ thống tập trung từ Trung ương tới địa phương trong tổ chức thực hiện. - Đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp - Việc áp dụng công nghệ tin học cũng rất cần thiết trong công tác chi trả, nó sẽ rút ngắn thời gian hoàn thành hồ sơ xét hưởng nhất là khi mọi giấy tờ có liên quan đều được lưu chuyển trong mạng máy tính, điều này cũng giúp cho việc thẩm định lại hồ sơ được nhanh chóng hạn chế được việc trục lợi BHXH . - Chúng ta cũng cần quan tâm hơn nữa tới vấn đề đảm bảo an toàn tiền mặt trong chi trả. 2.3 Kiến nghị trong quản lí chế tài thực hiện: Một hệ thống BHXH tốt không chỉ cần tới việc xây dựng nội dung và cơ chế quản lí phù hợp mà nó cũng cần tới một chế tài xử phạt công bằng, nghiêm minh và có hiệu quả. Tuy nhiên, ở nước ta vấn đề chế tài sử phạt về trách nhiệm hành chính đối với các trường hợp vi phạm trong việc thực hiện BHXH vẫn chưa đầy đủ, cụ thể và còn ở mức quá thấp chưa đủ để rằng buộc về trách nhiệm vật chất làm cho chủ sử dụng lao động chấp hành. Thêm và đó, việc quy định các cơ quan có quyết định xử phạt chưa gắn với thực tế nên hiệu quả rất thấp và thiếu tính khả thi. Vì vậy, trong thời gian tới chúng ta cần xem xét nghiên cứu để có thể đưa ra một mức xử phạt hành chính hiệu quả vừa có tác dụng răn đe vừa có tác dụng hạn chế phòng ngừa đối với những hành vi trốn đóng BHXH hay cố tình không nộp và thiếu trung thực trong việc lập hồ sơ giải quyết chế độ. Về cơ quan có quyền xử phạt, đề tài kiến nghị nên được giao cho bên cơ quan BHXH thực hiện chức năng này. Bởi thông qua cac hoạt động chuyên môn của mình, cơ quan BHXH sẽ dễ dàng phát hiện ra dấu hiệu của các hành vi vi phạm trên. Còn mức xử phạt thì cần được thiết kế trên nguyên tắc: tiền phạt phải nộp phải cao hơn tiền lãi ngân hàng và thường được xác định bằng một tỷ lệ % so với số phí nợ đọng còn thiếu và tính theo lãi gộp. Đối với số tiền xử phạt thu được, thì cách sử dụng tốt nhất là cho bổ sung vào quỹ BHXH. Chỉ khi chúng ta có được một chế tài đủ mạnh, quy định rõ rằng về mức xử phạt thì công tác thu - chi - quản lí BHXH mới thực sự có hiệu quả và khi đó những quyền lợi chính đáng của người lao động mới có thực sự được đảm bảo và những lợi ích mà BHXH đem lại mới thực sự phát huy được tác dụng. II GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ: 1 Đối với cơ quan BHXH: - Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra trong các doanh nghiệp các cơ quan trên các lĩnh vực: môi trường lao động; quá trình tham gia đóng góp vào quỹ BHXH và tình hình TNLĐ&BNN trong các đơn vị này. - Đẩy nhanh tiến độ xây dựng bộ luật BHXH để làm cho hệ thống BHXH của chúng ta sớm có được cơ sở pháp lý và hoạt động có hiệu quả. - Xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật một cách hợp lí và khoa học hơn, tránh hiện tượng chồng chéo, đan xen, thậm chí có những văn bản có nội dung mâu thuẫn nhau. - Củng cố và hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lí nhà nước về ATVSLĐ từ Trung ương tới địa phương. Cần ưu tiên trước hết cho hệ thống thanh tra lao động. Với hệ thống Thanh tra lao động như hiện nay thì vấn đề cấp thiết là xây dựng tổ chức Thanh tra lao động hợp nhất với chức năng thanh tra chính sách lao động, ATLĐ và VSLĐ. - Cần làm chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa nhận thức và ý thức trách nhiệm của các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội, người sử dụng lao động và người lao động với công tác AT-VSLĐ. Đây là vấn đề cốt lõi, mang tính quyết định đến hiệu quả thực hiện công tác này. Muốn vậy, chúng ta cần phải tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, huấn luyện; tăng cường vai trò tư vấn của Thanh tra lao động; phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lí nhà nước các cấp với các tổ chức đại diện quyền lợi của người sử dụng lao động và người lao động. - Hoàn thiện cơ sở pháp lí về quản lí nhà nước về ATVSLĐ trên cơ sở quy định của Bộ luật Lao động đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002 và các văn bản dưới luật để đưa đến tận tay người sử dụng lao động. - Tăng cường công tác tự kiểm tra của doanh nghiệp, phát huy vai trò tổ chức Công đoàn cơ sở trong kiểm tra, giám sát thực hiện luật pháp về ALVSLĐ; duy trì, củng cố và tăng cường hoạt động một cách có hiệu quả mạng lưới an toàn vệ sinh viên. - Phải tiến hành sửa đổi bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm quy định về ATVSLĐ đảm bảo cho các văn bản này phù hợp với điều kiện cũng như sự phát triển sản xuất. Hiện nay, chúng ta đang áp dụng hàng trăm tiêu chuẩn kỹ thuật, trong đó có những tiêu chuẩn đã quá cũ, không còn phù hợp với tình hình sản xuất, mặt khác, do kinh tế xã hội ngày càng phát triển nên nhiều lĩnh vực sản xuất với những công nghệ mới ra đời lại thiếu các quy phạm, tiêu chuẩn về ATVSLĐ đây là vấn đề bất cập cần được giải quyết sớm trong thời gian tới đây. - Nhà nước cũng cần nghiên cứu để ban hành các văn bản quy định về các chế tài xử phạt đối với các doanh nghiệp, cơ quan vi phạm ATVSLĐ cũng như các đơn vị nợ đọng, trốn đóng BHXH, gây tổn hại tới lợi ích của người lao động để tránh tình trạng các doanh nghiệp tuy đã bị xử phạt những vẫn tiếp tục tái diễn các sai phạm. Vì vậy chúng ta cần có một hệ thống chế tài xử phạt công bằng, nghiêm minh, có tác dụng răn đe. - Nhà nước cũng cần đẩy mạnh việc tham khảo, trao đổi kinh nghiệm tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, kể cả khoa học quản lí cũng như khoa học công nghệ để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ATVSLĐ để có thể áp dụng kinh nghiệm của các nước công nghiệp phát triển và tạo thêm nguồn lực để năng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lí nhà nước về ATVSLĐ, của hệ thống Thanh tra lao động, tạo điều kiện để Việt Nam sớm hoà nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời, sớm nghiên cứu việc hình thành quỹ BHXH TNLĐ&BNN . - Các cơ quan, đơn vị BHXH cần phối hợp với các cơ quan, các ban ngành có chức năng thông tin nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức tới mọi người lao động để họ hiểu biết về các chính sách của Đảng và Nhà nước từ đó thực hiện theo. 2 Đối với các doanh nghiệp: - Cần chú ý quan tâm đến công tác đào tạo nghề cho người lao động để họ có thể sử dụng thành thạo các trang thiết bị máy móc trong quá trình sản xuất, tránh những tai nạn đáng tiếc xảy ra do sự thiếu hiểu biết trong quá trình vận hành máy móc thiết bị. - Các doanh nghiệp phải quan tâm hơn nữa tới công tác cải thiện môi trường lao động của mình: như sử dụng các công cụ lao động phù hợp, đầu tư vào các hệ thống chống bụi, chống khí độc, hạn chế sử dụng các loại nguyên vật liệu không đảm bảo (dễ gây cháy nổ, phát sinh khí độc, chứa vi sinh vật gây hại…); tập trung đầu tư vào các công nghệ sạch, tiên tiến. - Hàng năm, các doanh nghiệp nên tổ chức lớp học về ATVSLĐ, về công tác bảo hộ lao động. Nhằm hạn chế sự tốn kém cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện nội dung này, cách tốt nhất là các doanh nghiệp trong cùng ngành nghề hoặc ở các ngành nghề có tính chất công việc giống nhau có thể phối hợp cùng nhau tổ chức thực hiện. - Các doanh nghiệp hàng năm nên tự mình thành lập một quỹ riêng để có thể dự phòng cho những chi phí phát sinh liên quan tới TNLĐ&BNN. Quỹ này được sử dụng để chi trả cho công tác ATVSLĐ, chi trả đền bù phần trách nhiệm của doanh nghiệp do TNLĐ&BNN gây ra và là nguồn kinh phí để tiến hành kiểm tra sức khỏe định kì cho người lao động tại đơn vị. - Quy định trang phục bảo hộ lao động phù hợp với từng công việc và nên đưa nội dung này vào nội quy của doanh nghiệp, buộc mọi người lao động trong doanh nghiệp phải nghiêm túc chấp hành - Các doanh nghiệp cũng tham gia và nộp BHXH đầy đủ theo quy định của nhà nước để người lao động có quyền được hưởng BHXH khi phát sinh sự kiện BHXH . - Khi quỹ bồi thường TNLĐ&BNN còn chưa được hình thành thì các doanh nghiệp có thể có thể kết hợp với nhau hình thành nên các tổ chức tương hỗ nhằm giúp đỡ nhau trong công tác chi trả TNLĐ&BNN . - Các doanh nghiệp cũng cần phải có sự hợp tác với các cơ quan ban ngành, tổ chức thanh tra lao động một cách đầy đủ; kịp thời cung cấp các hồ sơ có liên quan tới TNLĐ&BNN nhằm giúp cho việc điều tra được thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác giúp cho người lao động bị nạn nhanh chóng được hưởng các quyền lợi BHXH để ổn định cuộc sống và khắc phục khó khăn. 3 Đối với người lao động: - Bản thân người lao động trước hết phải có ý thức tự bảo vệ mình trước những nguy cơ rủi ro về TNLĐ&BNN để tự mình có được biện pháp phòng tránh tích cực nhất. - Nghiêm túc chấp hành tốt mọi kỉ luật lao động trong quá trình làm việc. Ví dụ như: thực hiện đúng các thao tác trong quá trình sản xuất, làm việc đúng theo chức năng phận sự của mình… - Đẩy mạnh hoạt động của tổ chức Công đoàn để tổ chức Công đoàn thực sự là tiếng nói chung của người lao động, kịp thời phản ánh những sai phạm của chủ sử dụng lao động trong việc thực hiện công tác ATVSLĐ hay các vi phạm khác liên quan tới quyền lợi được hưởng BHXH của người lao động. - Người lao động thông qua tổ chức Công đoàn của mình có thể tham gia đóng góp những ý kiến của mình về chế độ TNLĐ&BNN, về những bất cập trong quá trình thực hiện và có thể đưa ra những ý kiến phản hồi quan trọng để hoàn thiện tốt hơn nữa chính sách BHXH nói chung và chế độ TNLĐ&BNN nói riêng. Như vậy, chế độ TNLĐ&BNN có được hoàn thiện hay không phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng về BHXH, người sử dụng lao động và người lao động. Với sự nỗ lức từ các bên liên quan hi vọng chế độ TNLĐ&BNN sớm có được những bước tiến vượt bậc để ngày càng đóng vai trò tích cực hơn nữa trong việc nhanh chóng giúp đỡ người lao động ổn định cuộc sống, phục hồi chức năng, giúp cho quyền lợi của người lao động ngày càng được đảm bảo. C KẾT LUẬN Qua những gì đã được phân tích ở trên, chúng ta một lần nữa cần phải nhìn thẳng vào thực trạng tình hình tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ở nước ta, thấy được những hậu quả mà chúng tác động ra tới đời sống người lao động, gia đình họ và xã hội cũng như thấy được tầm quan trọng trong việc sớm đề ra các biện pháp phòng tránh TNLĐ&BNN cho người lao động. Thông qua đây, chúng ta cũng thấy được những điều còn bất cập trong việc thực hiện chế độ trợ cấp TNLĐ&BNN ở nước ta. Hoàn thiện chế độ trợ cấp TNLĐ&BNN đã và đang là vấn đề bức xúc thu hút được sự quan tâm không chỉ từ phía người lao động, người sử dụng lao động mà còn thu hút được sự quan tâm của các ngành, các cấp có liên quan. Làm thế nào để có được một chế độ trợ cấp công bằng, hợp lí vẫn là vấn đề cấp thiết được đặt ra. Do những hạn chế về thời gian cũng như việc còn thiếu các kiến thực thực tế, đề tài nghiên cứu “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện chế độ TNLĐ&BNN cho người lao động tham gia BHXH ở Việt Nam” không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo để có thể hoàn thiện đề tài hơn nữa. Với những kiến nghị và giải pháp đã được trình bày, em hi vọng đề tài sẽ được góp phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện chế độ TNLĐ&BNN ở Việt Nam . Hi vọng rằng, trong tương lai không xa, cùng với sự phát triển của đất nước, sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp, các ban ngành, chúng ta sẽ sớm có được một hệ thống các chế độ BHXH nói chung và chế độ trợ cấp TNLĐ& BNN nói riêng hoàn thiện, sớm đáp ứng được những mong mỏi, nguyện vọng chính đáng của đông đảo người lao động. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo cùng các cô chú công tác tại trung tâm NCKH-BHXH đã giúp cho em có thể hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 . Bảo hiểm xã hội những điều cần biết- Bộ Lao động Thương binh & Xã hội – NXB Lao động – 2000 2. Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam – NXB Chính trị quốc gia – 1994 3. Giáo trình Bảo hiểm- TS Nguyễn Văn Định – NXB Thống kê –2004 4. Hệ thống văn bản pháp quy về Bảo hiểm xã hội- Trung tâm thông tin khoa học BHXH Việt Nam –NXB Tài chính – 2000 5. Những quy định pháp luật về chế độ Bảo hiểm xã hội hiện hành - Luật gia: Hải Đăng – NXB Lao động – 2004 6.Tạp chí Bảo hiểm xã hội: Số 4,6,7,8 năm 2000 Số 1,4,6,7,8,9,10 năm 2002 Số 4,8 năm 2003 Số 1,9,11 năm 2004 Số 1,3,8,9,12 năm 2005 Số 1 năm 2006 7. Tạp chí Lao động và Xã hội: Số: 190, 202, 211, 212, 221, 134, 258, 259, 272, 276. 8. Trang Web: - Bộ Lao động Thương binh & Xã hội: www.vubhld.netnam.vn - Bộ Y tế : www.moh.gov.vn - Cục An toàn và Vệ sinh lao động: www.dosmolisa.gov.vn - Tạp chí Lao động- Xã hội: www.molisa.gov.vn - Tiểu mạng thông tin ATVSLĐ khu vực phía Nam: www.oshvn.net - Viện nghiên cứu Khoa học kỹ thuật bảo hộ lao động của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam : www.vubhld.netnam.vn MỤC LỤC Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36378.doc
Tài liệu liên quan