Thực trạng và giải pháp hạn chế rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (L/C) tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Nam Hà Nội

MỤC LỤC 1.2.5.1. Đối với nhà nhập khẩu. 26 1.2.5.2. Đối với nhà xuất khẩu. 26 1.2.5.3. Đối với ngân hàng. 27 1.3. Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc theo phương thức tín dụng chứng từ. 28 1.3.1. Rủi ro trong các hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng. 28 1.3.1.1. Rủi ro thương mại. 28 1.3.1.2. Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế. 29 1.3.2. Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ. 30 1.3.2.1. Rủi ro tín dụng. 31 1.3.2.3. Rủi ro quốc gi

doc107 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1362 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp hạn chế rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (L/C) tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a. 34 1.3.2.4. Rủi ro pháp lý. 35 1.3.2.5. Rủi ro ngoại hối. 36 1.3.2.6. Rủi ro về tác nghiệp. 37 1.3.3. Chỉ tiêu phản ánh rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ. 38 1.3.3.1. Chỉ tiêu về định mức ký quỹ. 38 1.3.3.2. Chỉ tiêu về cho vay bắt buộc. 39 1.3.3.3. Chỉ tiêu về nợ quá hạn. 39 1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới hạn chế rủi ro trong thanh toán theo phương thức TDCT. 40 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG THANH TOÁN THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI CHI NHÁNH NHNO & PTNT NAM HÀ NỘI 41 2.1. Thực trạng hoạt động TTQT theo phương thức TDCT tại Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội (2005 - 2007). 41 2.1.1. Tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh nhno & ptnt nam hà nội (2005 – 2007). 41 2.1.1.1. Huy động vốn. 42 2.1.1.2. Dư nợ cho vay. 43 2.1.2. Khái quát về hoạt động TTQT của Chi nhánh (2005 -2007). 44 2.1.3. Quy trình nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ tại chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội. 47 2.1.3.1. Quy trình nghiệp vụ thanh toán thư tín dụng nhập khẩu. 47 2.1.3.2. Quy trình nghiệp vụ thanh toán L/C xuất khẩu. 51 2.1.4. Kết quả thực hiện hoạt động TTQT theo phương thức TDCT tại chi nhánh (2005 - 2007). 55 2.2. Thực trạng về rủi ro trong thanh toán theo phương thức TDCT tại chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội (2005 – 2007). 58 2.2.1. Rủi ro tín dụng. 58 2.2.2. Rủi ro tác nghiệp. 63 2.2.3. Rủi ro đạo đức. 67 2.2.4. Rủi ro kinh tế, chính trị, pháp lý. 69 2.2.5. Rủi ro ngoại hối. 70 2.3. Đánh giá về thực trạng rủi ro trong phương thức TDCT tại Chi nhánh( 2005 – 2007). 71 2.3.1. Kết quả đạt được. 71 2.3.2. Hạn chế. 72 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN TDCT TẠI NHNO & PTNT NAM HÀ NỘI 74 3.1. Định hướng phát triển hoạt động TTQT theo phương thức TDCT tại Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội. 74 3.1.1. Phân tích và dự đoán môi trường hoạt động của chi nhánh. 74 3.1.2. Định hướng phát triển chung của chi nhánh. 77 3.1.3. Định hướng phát triển hoạt động TTQT theo phương thức TDCT của chi nhánh. 78 3.2. Giải pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội. 79 3.2.1. Giải pháp hạn chế rủi ro khách quan. 79 3.2.1.1. Đẩy mạnh công tác tư vấn cho khách hàng. 79 3.2.1.3. Mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài. 81 3.2.1.4. Tăng cường công tác đào tạo nghiệp vụ cho các cán bộ TTQT. 82 3.2.2. Giải pháp hạn chế rủi ro chủ quan. 83 3.2.2.1. Xây dựng chính sách lãi suất và phí dịch vụ hợp lý. 83 3.2.2.2. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định, đánh giá và phân loại khách hàng. 84 3.2.2.4. Hoàn thiện, chuẩn hoá quy trình thanh toán TDCT. 86 3.2.2.5. Hiện đại hoá công nghệ thanh toán qua ngân hàng. 89 3.2.2.6. Xây dựng các chiến lược Marketing phù hợp với chi nhánh. 90 3.3. Một số kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro trong thanh toán TDCT tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội. 93 3.3.1. Kiến nghị đối với nhà nước, chính phủ. 93 3.3.1.1. Xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động TTQT và thanh toán TDCT của các NHTM. 93 3.3.1.2. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. 94 3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân Hàng Nhà Nước. 95 3.3.2.1. Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. 95 3.3.2.2. Xây dựng chế độ tỷ giá linh hoạt, phù hợp với từng thời kỳ cụ thể. 96 3.3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác thanh tra ngân hàng. 97 3.3.3. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. 98 3.3.3.1. Cần có đội ngũ cán bộ chuyên trách về XNK, có năng lực và am hiểu về luật TMQT và TTQT. 98 3.3.3.2. Không ngừng đào tạo cán bộ trẻ, cử cán bộ đi học để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. 98 3.3.3.3. Nâng cao chất lượng công tác tìm hiểu độ tin cậy của đối tác. 99 KẾT LUẬN 100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT NHNo & PTNT – Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. TTQT – Thanh toán quốc tế. TDCT – Tín dụng chứng từ. L/C – letter of credit. NHTM – Ngân hàng thương mại. XNK – Xuất nhập khẩu. XK – Xuất khẩu. NK – Nhập khẩu. NH – Ngân hàng UCP – Uniform customs and pratise for documentary DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1: Kết quả huy động vốn (2005- 2007). 42 Bảng 2: Kết quả dư nợ cho vay (2005 - 2007) phân tích theo thời gian cho vay. 43 Bảng 3: Doanh số thanh toán quốc tế (2005 - 2007) 44 tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội. 44 Bảng 4: Tỷ trọng các phương thức TTQT (2005 - 2007) 46 tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội. 46 Bảng 5: Doanh số TTQT theo phương thức TDCT 55 tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội (2005 - 2007). 55 Bảng 6: Tỷ trọng thanh toán các loại L/C trong TTQT (2005 - 2007). 56 tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội(2005 - 2007). 57 Bảng 7: Doanh số L/C chưa thanh toán (2005 - 2007) 59 tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội. 59 Bảng 8: Tình hình nợ quá hạn thanh toán L/C nhập (2005 - 2007) 60 tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội. 60 Bảng 9: Tình hình cho vay bắt buộc thanh toán L/C nhập 61 tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội (2005 - 2007). 61 Biểu đồ 1: Doanh số thanh toán XNK (2005 - 2007). 45 Biểu đồ 2: Tỷ trọng L/C NK và L/C XK trong TTQT 57 Biểu đồ 3: Nợ quá hạn và Cho vay bắt buộc trong TT L/C nhập tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội (2005 - 2007). 62 PHẦN MỞ ĐẦU Xu thế phát triển hội nhập của kinh tế thế giới, sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính quốc tế đã tác động đến sự vận động không ngừng đến các dòng vốn thông qua các hoạt động kinh tế liên quan đến thương mại quốc tế. Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên WTO đã mở ra nhiều thời cơ và cơ hội mới. Với xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng chúng ta đang khẳng định mình là một thành viên trong nền kinh tế toàn cầu. Vì thế, hoạt động xuất nhập khẩu đã trở thành lĩnh vực hết sức quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Hoạt động giao thương với nước ngoài đòi hỏi vai trò rất lớn của dịch vụ thanh toán quốc tế phát triển. Tuy nhiên hoạt động thanh toán quốc tế rất phức tạp và chỉ có các ngân hàng mới đảm nhiệm được, các cá nhân và tổ chức khác không thực hiện được. Công tác thanh toán là khâu cuối cùng của một quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thanh toán làm được tốt thì giá trị hàng hoá mới được thực hiện. Công tác thanh toán quốc tế được hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển ngoại thương của một nước và ngân hàng thương mại được nhà nước giao cho độc quyền làm công tác này. Đến nay, thanh toán quốc tế đã trở thành một trong những chức năng quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại. Nếu được làm tốt, nó sẽ góp phần thúc đẩy ngoại thương phát triển, ngược lại sẽ làm kìm hãm sự phát triển của thương mại quốc tế. Hiện nay các ngân hàng rất quan tâm và ngày càng hoàn thiện các loại hình thanh toán quốc tế, dịch vụ thanh toán quốc tế đã trở thành một mãng không thể tách rời và đem lại nguồn thu nhập lớn. Trong các phương thức thanh toán quốc tế thì phương thức tín dụng chứng từ chiếm tỷ lệ sử dụng cao hơn cả, do cân bằng được lợi ích của hai bên xuất khẩu và nhập khẩu. Thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ đem lại sự thành công cho các hợp đồng ngoại thương, tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu phát triển. Là sinh viên khoa ngân hàng em thấy đây là một lĩnh vực đầy tiềm năng đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng, tuy nhiên cũng chứa đựng nhiều rủi ro nên muốn đi sâu vào tìm hiểu nhằm xác định và hạn chế rủi ro trong thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ. CHƯƠNG 1 RỦI RO TRONG THANH TOÁN THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1.1.1. Khái niệm, chức năng, vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế quốc dân. 1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại (NHTM). Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện cho sự ra đời và phát triển của ngân hàng. Đến lượt mình, sự phát triển của hệ thống ngân hàng lại trở thành động lực phát triển của nền kinh tế. Ngân hàng là một loại hình tổ chức tài chính quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Theo Luật Các tổ chức tín dụng của nước CHXHCN Việt Nam: "Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán". Nếu căn cứ trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì "Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế". 1.1.1.2. Chức năng cơ bản của ngân hàng thương mại. Hiện nay, hoạt động của các ngân hàng thương mại đã rất phong phú và đa dạng, thể hiện ở các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho công chúng và các doanh nghiệp. Có thể nói, thành công của mỗi ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách hiệu quả. Tầm quan trọng của các ngân hàng thương mại được thể hiện qua các chức năng chủ yếu sau: - Huy động vốn của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, cơ quan, nhà nước và các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước bằng đồng bản tệ và ngoại tệ. - Sử dụng các nguồn vốn huy động được để cho vay, chiết khấu hay thực hiện các hoạt động đầu tư khác. - Làm chức năng trung gian thanh toán. 1.1.1.3. Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế quốc dân. Trong khi nhiều người tin rằng các ngân hàng chỉ đóng một vai trò rất nhỏ trong nền kinh tế - nhận tiền gửi và cho vay - thì trên thực tế, Ngân hàng đã phải thực hiện nhiều vai trò mới có thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của xã hội. Các ngân hàng ngày nay có những vai trò cơ bản sau: - Vai trò trung gian: Chuyển các khoản tiết kiệm, chủ yếu từ hộ gia đình, thành các khoản tín dụng chi các tổ chức kinh doanh và các thành phần khác để đầu tư vào nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác. - Vai trò thanh toán: Thay mặt khách hàng thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ (như bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới, thanh toán điện tử, kết nối các quỹ, phân phối tiền giấy và tiền đúc). - Vai trò người bảo lãnh: Cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán (chẳng hạn phát hành thư tín dụng). - Vai trò đại lý: Thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ, phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán (thường được thực hiện tại Phòng uỷ thác). - Vai trò thực hiện chính sách: Thực hiện các chính sách kinh tế của chính phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội. 1.1.2. Hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại. 1.1.2.1. Khái niệm thanh toán quốc tế (TTQT). Trong xu hướng phát triển của thế giới hiện nay, các quan hệ kinh tế quốc tế diễn ra hết sức sôi động, kéo theo đó là sự đa dạng phức tạp của chu chuyển hàng hoá quốc tế. Đồng thời với nó là sự vận động của các dòng tiền trong thanh toán. Quá trình thanh toán có vai trò quan trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp và cá nhân. Thanh toán quốc tế diễn ra trên thị trường rộng, phức tạp bởi khoảng cách giữa người mua và người bán, bởi luật lệ của mỗi nước, bởi sự khác biệt trong đồng tiền thanh toán… Phần lớn các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân đều không thể tự thực hiện thanh toán quốc tế. Nhu cầu thanh toán hộ được thực hiện bởi các ngân hàng. Như vậy, "Thanh toán Quốc tế (TTQT) là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả bằng tiền tệ liên quan tới hàng hoá, dịch vụ, tư bản phát sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng của các cá nhân, các hãng, các tổ chức kinh tế, Chính phủ nước này với đối tác của mình trên thế giới". 1.1.2.2. Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế. Công tác thanh toán là khâu cuối cùng của một quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thanh toán làm được tốt thì giá trị hàng hoá mới được thực hiện. Công tác Thanh toán quốc tế được hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển ngoại thương của một nước và ngân hàng thương mại được nhà nước giao cho độc quyền làm công tác này. Đến nay, thanh toán quốc tế đã trở thành một trong những chức năng quan trọng nhất của các Ngân hàng thương mại. Nếu được làm tốt, nó sẽ góp phần thúc đẩy ngoại thương phát triển, ngược lại sẽ làm kìm hãm sự phát triển của thương mại quốc tế. Vai trò của thanh toán quốc tế được thể hiện cụ thể như sau: a) Đối với nền kinh tế quốc dân. - TTQT góp phần thúc đẩy, mở rộng và phát triển các hoạt động thương mại quốc tế, từ đó thúc đẩy nền kinh tế của một quốc gia nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. - TTQT được thực hiện tốt sẽ tạo được uy tín trên thị trường quốc tế, từ đó thu hút được nhiều khách hàng nước ngoài, tăng lượng ngoại tệ nhằm cải thiện cán cân thanh toán quốc tế; đồng thời thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế trong nước. - Việc TTQT được tiến hành nhanh chóng, an toàn, chính xác sẽ tạo được sự tin tưởng cho khách hàng trong quan hệ giao dịch, mua bán với đối tác nước ngoài, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, từ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển mạnh. - Bảo vệ quyền lợi, thực hiện bảo lãnh… cho khách hàng trong giao dịch thanh toán hàng nhập khẩu, thanh toán L/C, chiết khấu chứng từ xuất khẩu… với đối tác nước ngoài. b) Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. - TTQT là nghiệp vụ đòi hỏi cao về chuyên môn, ngoại ngữ…, từ đó tạo niềm tin cho khách hàng và nâng cao uy tín của ngân hàng, đồng thời tạo điều kiện thu hút khách hàng, mở rộng thị trường cũng như khẳng định ưu thế và tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong cơ chế thị truờng. - Một đóng góp quan trọng khác của TTQT là làm tăng doanh thu và lợi nhuận cho Ngân hàng thông qua nguồn thu phí dịch vụ với mức phí được quy định nhất định. - TTQT còn giúp Ngân hàng nâng cao tính thanh khoản thông qua khoản tiền ký quỹ với một tỷ lệ nhất định mà Ngân hàng yêu cầu khách hàng phải nộp. Mặt khác, kỳ hạn thanh toán cho nước ngoài chưa đến hạn cũng là một nguồn tạo thanh khoản cho ngân hàng dưới hình thức tiền tệ tập trung chờ thanh toán. - TTQT tạo môi trường ứng dụng công nghệ ngân hàng. Bất cứ một nước nào dù có hệ thống ngân hàng đã hay đang phát triển đều hết sức quan tâm đến hoạt động thanh toán sao cho nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Chính vì vậy, các ngân hàng đều có mức đầu tư đáng kể vào công nghệ thông tin, công nghệ viễn thông và xử lý dữ liệu. - TTQT cũng tạo điều kiện phân tán rủi ro cho ngân hàng. - TTQT giúp Ngân hàng mở rộng quan hệ với các ngân hàng nước ngoài, nâng cao uy tín trên trường quốc tế, trên cơ sở đó khai thác nguồn vốn tài trợ của các ngân hàng nước ngoài cũng như nguồn vốn trên thị trường tài chính quốc tế để đáp ứng nhu cầu về vốn của khách hàng. 1.1.2.3. Các phương thức thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại. Đây là một trong những điều kiện quan trọng nhất của hợp đồng thanh toán quốc tế. Phương thức thanh toán quốc tế là toàn bộ quá trình, cách thức nhận trả tiền hàng trong giao dịch mua bán ngoại thương giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu. Tuỳ theo từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, các bên đối tác trong quan hệ thương mại quốc tế sẽ lựa chọn và thoả thuận với nhau cùng sử dụng một phương thức thanh toán thích hợp trên nguyên tắc cùng có lợi. Trong thương mại quốc tế, có 4 phương thức thanh toán chủ yếu sau: a) Thanh toán bằng phương thức chuyển tiền. * Khái niệm: Thanh toán bằng chuyển tiền là phương thức thanh toán trong đó khách hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu. * Các bên tham gia thanh toán: - Người yêu cầu chuyển tiền: là người yêu cầu ngân hàng thay mình thực hiện chuyển tiền ra nước ngoài, thường là người mua, người trả nợ, hoặc nhà đầu tư yêu cầu chuyển vốn, kinh phí ra nước ngoài. - Người thụ hưởng: là người được nhận số tiền chuyển tới thông qua ngân hàng, thường là người xuất khẩu, chủ nợ hoặc người tiếp nhận đầu tư do người chuyển tiền chỉ định. - Ngân hàng nhận uỷ nhiệm chuyển tiền: là ngân hàng phục vụ người chuyển tiền, ở nước người yêu cầu chuyển tiền. - Ngân hàng trả tiền: là ngân hàng trực tiếp trả tiền cho người thụ hưởng, thông thường là ngân hàng đại lý hay chi nhánh của ngân hàng chuyển tiền ở nước người thụ hưởng. Người yêu cầu chuyển tiền ( Người mua) Người thụ hưởng (Người bán) Ngân hàng nhận chuyển tiền Ngân hàng trả tiền (1) (2) (3) (4) * Quy trình thanh toán chuyển tiền: Quy trình nghiệp vụ thanh toán chuyển tiền được thực hiện như sau: - Bước1: Hợp đồng được ký kết giữa nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu. Nhà xuất khẩu tiến hành cung ứng hàng hoá, dịch vụ, đồng thời chuyển giao bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu. - Bước 2: Nhà nhập khẩu kiểm tra hàng hoá và bộ chứng từ, nếu phù hợp thì viết giấy uỷ nhiệm cho ngân hàng phục vụ mình chuyển tiền tới ngân hàng đại lý ở nước ngoài để thanh toán cho nhà xuất khẩu . - Bước 3: Ngân hàng nhận chuyển tiền kiểm tra chứng từ và tài khoản, trích tiền trên tài khoản của khách hàng và tiến hành chuyển tiền sang ngân hàng đại lý (hoặc chi nhánh) nhận trả tiền; đồng thời báo Nợ cho khách hàng. - Bước 4: Ngân hàng đại lý nhận được điện chuyển tiền thì tiến hành thanh toán tiền cho người thụ hưởng; đồng thời báo Có cho khách hàng. b) Thanh toán bằng phương thức mở tài khoản. * Khái niệm: Thanh toán bằng mở tài khoản là phương thức mà người bán xin mở tài khoản (hoặc sổ) để ghi nợ người mua sau khi người bán đã hoàn thành việc giao hàng hoặc cung ứng xong dịch vụ, định kỳ sau khi kiểm tra, đối chiếu theo thoả thuận giữa 2 bên (tháng, quý, niên) thì người mua trả tiền cho người bán. * Đặc điểm của phương thức mở tài khoản: - Đây là một phương thức thanh toán không có sự tham gia của các ngân hàng với chức năng là người mở tài khoản và thực thi thanh toán. - Chỉ mở tài khoản đơn biên, không mở tài khoản song biên. - Nếu người mua mở tài khoản để ghi thì tài khoản này chỉ là tài khoản theo dõi, không có giá trị thanh quyết toán. - Chỉ có 2 bên tham gia thanh toán là người mua và người bán. (3) (1) Người mua Người bán NH bên mua NH bên bán (2) * Quy trình thanh toán mở tài khoản: Khi thực hiện nghiệp vụ theo phương thức mở tài khoản, quy trình nghiệp vụ được thực hiện theo các bước cụ thể như sau: - Bước 1: Người bán giao hàng hoá và dịch vụ cùng với các chứng từ. - Bước 2: Báo nợ trực tiếp. - Bước 3: Người mua dùng hình thức chuyển tiền để trả tiền khi đến hạn. c) Thanh toán bằng phương thức nhờ thu. * Khái niệm: Thanh toán bằng nhờ thu là phương thức thanh toán mà người xuất khẩu sau khi giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ nào đó cho nhà nhập khẩu thì tiến hành uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền trên cơ sở hối phiếu hoặc chứng từ do người xuất khẩu lập. Có 2 hình thức nhờ thu: - Phương thức nhờ thu phiếu trơn: Là phương thức thanh toán trong đó bên bán uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền từ người mua căn cứ vào hối phiếu do chính người bán lập. Các chứng từ thương mại có có liên quan đến giao dịch đã được bên bán chuyển giao trực tiếp cho bên mua, không qua ngân hàng. - Phương thức nhờ thu kèm chứng từ: Là phương thức thanh toán trong đó bên bán uỷ nhiệm cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ gửi kèm theo với điều kiện nếu người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền (đối với hối phiếu có kỳ hạn) sẽ trao bộ chứng từ cho người mua nhận hàng. * Các bên tham gia thanh toán: - Người có yêu cầu uỷ nhiệm thu: là người cung ứng dịch vụ (gọi là bên bán). - Ngân hàng nhận uỷ thác thu: là ngân hàng phục vụ bên bán. - Ngân hàng xuất trình: là ngân hàng thu hộ, thường là ngân hàng đại lý hoặc chi nhánh của ngân hàng nhận uỷ nhiệm thu (ở nước người mua). - Người trả tiền: là người nhập khẩu, người sử dụng dịch vụ được cung ứng, gọi chung là bên mua. * Quy trình thanh toán: (1) Người mua Người bán NH xuất trình NH thu hộ NH nhận uỷ thác thu (3) (6) (2) (7) (4) (5) Phương thức thanh toán nhờ thu được thực hiện: - Bước 1: Bên bán tiến hành chuyển giao hàng hoá, đồng thời chuyển toàn bộ chứng từ hàng hoá cho bên mua. - Bước 2: Bên bán lập hối phiếu đòi tiền người mua, gửi hối phiếu (nếu nhờ thu trơn) hoặc hối phiếu kèm bộ chứng từ (nếu nhờ thu kèm chứng từ) cho ngân hàng phục vụ mình thu tiền từ người mua. - Bước 3: Ngân hàng phục vụ bên bán chuyển hối phiếu qua ngân hàng phục vụ bên mua nhờ thu tiền từ người mua. - Bước 4: Ngân hàng phục vụ bên mua chuyển hối phiếu hoặc hối phiếu kèm chứng từ cho người mua để đòi tiền người mua hoặc yêu cầu ký chấp nhận hối phiếu. - Bước 5: Bên mua thanh toán tiền hoặc trả lại hối phiếu đã chấp nhận thanh toán cho ngân hàng phục vụ bên mua. - Bước 6: Ngân hàng phục vụ bên mua chuyển tiền hoặc hối phiếu đã chấp nhận thanh toán cho ngân hàng phục vụ bên bán. - Bước 7: Ngân hàng phục vụ bên bán thanh toán tiền cho bên bán. d) Thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ. Có thể thấy rằng, trong quan hệ thanh toán thì người mua và người bán luôn có quyền lợi ngược nhau, bởi người bán luôn muốn thu được tiền hàng càng sớm càng tốt để tránh tồn đọng vốn trong lưu thông, còn người mua bao giờ cũng muốn nhận được hàng đúng như yêu cầu trước khi trả tiền. Hơn nữa, việc mua bán hàng hoá dịch vụ không chỉ diễn ra trong phạm vi một quốc gia mà còn được tiến hành giữa các thương nhân ở các nước khác nhau với ngôn ngữ, luật pháp, tập quán thương mại… khác nhau, bên nào cũng muốn giành ưu thế nên cần có bên thứ ba độc lập, có đủ uy tín cũng như tiềm lực tài chính đứng ra làm trung gian cho việc thanh toán, đó chính là ngân hàng. Và phương thức thanh toán tín dụng chứng từ ra đời như một cách thức nhất định để ngưòi bán thu được tiền nhanh nhất, an toàn nhất, và người mua trả được tiền, nhận được hàng đủ về số lượng, đúng về chất lượng, đúng thời hạn như hợp đồng đã ký. Do vậy, mặc dù còn nhiều hạn chế và gây khó khăn cho cả hai bên nhưng tín dụng chứng từ ngày càng trở nên phổ biến và trở thành phương thức TTQT chủ yếu hiện nay. Đây cũng là nội dung chính được đề cập trong chuyên đề này. 1.2. PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TRONG TTQT. 1.2.1. Khái niệm, đặc trưng của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. 1.2.1.1. Khái niệm phương thức tín dụng chứng từ (TDCT). Theo điều 3 UCP 600 do ICC xuất bản 2005, thuật ngữ " tín dụng chứng từ" (documentary credit) và "tín dụng dự phòng" (letter of credit hay L/C ) có nghĩa là bất cứ một sự thoả thuận nào, dù cho được gọi hoặc mô tả như thế nào, theo đó một ngân hàng (Ngân hàng phát hành) hành động theo yêu cầu và chỉ thị của khách hàng (người yêu cầu phát hành thư tín dụng) nhân danh chính mình: - Phải thực hiện việc trả tiền theo lệnh của người thứ ba (người thụ hưởng) hoặc phải chấp nhận và trả tiền hối phiếu do người thụ hưởng phát hành. - Hoặc: Uỷ quyền cho ngân hàng khác thực hiện việc trả tiền như vậy, hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu đó. - Hay: Uỷ quyền cho ngân hàng khác chiết khấu, dựa vào những chứng từ đã được quy định, đảm bảo rằng các điều kiện và điều khoản của tín dụng phải phù hợp. Nói một cách khác, "Thanh toán bằng thư tín dụng là một sự thoả thuận, trong đó một Ngân hàng (Ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng". 1.2.1.2. Đặc điểm của phương thức tín dụng chứng từ. a) Phương thức TDCT được thực hiện theo UCP 600. Trong thanh toán quốc tế nói chung, hình thức thanh toán bằng L/C được sử dụng phổ biến và an toàn nhất. Tuy nhiên, thực tiễn thương mại quốc tế cho thấy việc áp dụng phương thức TDCT tại các quốc gia khác nhau cũng có sự khác biệt. Chính vì thế, bản "Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ" ấn bản số 500 năm 1993 (gọi tắt là UCP 500) và ấn bản số 600 năm 2005 ( gọi tắt là UCP600) do Phòng thương mại quốc tế (ICC) nghiên cứu, soạn thảo và sửa đổi, có những chỉ dẫn cụ thể chi tiết về nội dung giao dịch của phương thức này. Tư tưởng cơ bản của UCP 500 và UCP 600 là: - Ngân hàng và các bên tham gia liên quan chỉ giao dịch trên cơ sở chứng từ, không dựa trên hàng hoá hoặc dịch vụ. - L/C phải chỉ rõ là huỷ ngang hay không huỷ ngang, nếu không chỉ ra như vậy, nó sẽ được coi là không huỷ ngang. - Chứng từ được coi như không phù hợp với các điều khoản quy định trong L/C nếu chứng từ mâu thuẫn với các điều khoản quy định của L/C hay các chứng từ mâu thuẫn nhau. - Ngân hàng phát hành có một khoảng thời gian hợp lý không quá 05 ngày làm việc sau khi nhận được chứng từ để kiểm ra chứng từ và xác định chứng từ phù hợp hay không phù hợp, nếu quá thời gian, ngân hàng phát hành không có quyền thông báo sai sót. - Ngân hàng không chịu trách nhiệm kiểm tra các chứng từ không quy định trong L/C. - Nếu ngân hàng quyết định từ chối chứng từ thì phải thông báo bằng phương tiện truyền thống trước lúc đóng cửa của ngày làm việc thứ 05. - Ngân hàng không chịu trách nhiệm về sự chậm trễ do truyền tin, về lỗi chính tả phát sinh trong quá trình chuyển giao hoặc truyền tin. b) TDCT là một sự thoả thuận. Bản UCP 600 mang tính chất pháp lý tuỳ ý, có nghĩa là khi áp dụng nó, các bên tham gia phải thoả thuận ghi vào văn bản của hợp đồng và có dẫn chiếu trong L/C. TDCT là một thoả thuận, có nghĩa là một cam kết trả tiền có điều kiện: người hưởng lợi phải xuất trình bộ chứng từ đúng hạn và các nội dung trong bộ chứng từ phải phù hợp với các điều kiện trong L/C. Sự cam kết trả tiền của ngân hàng căn cứ vào bộ chứng từ chứ không dựa vào thực tế giao hàng. c) TDCT dựa trên chứng từ. Trong phương thức thanh toán TDCT, ngân hàng chỉ căn cứ vào đơn yêu cầu mở thư tín dụng của người mua gửi đến để lập thư tín dụng cam kết trả tiền cho người bán chứ không căn cứ vào hợp đồng thương mại. Sau khi người bán cam kết giao hàng, nếu xuất trình bộ chứng từ thanh toán phù hợp với các điều khoản, điều kiện quy định trong thư tín dụng thì ngân hàng phát hành sẽ trả tiền mà không căn cứ vào việc bộ chứng từ đó có phù hợp với hợp đồng hay không. Điều đó có nghĩa là việc chi trả của ngân hàng có liên quan mật thiết với việc thể hiện chứng từ mà không xét đến thực trạng của hàng hoá. Nguyên tắc này được quy định trong Điều 4 của UCP 600: "Các nguyên tắc và cách sử dụng thích hợp liên quan tới tín dụng thư kèm chứng từ". Nhưng dù được thực hiện dưới hình thức nào, có những chủ thể nào tham gia hay bản chất của nó là gì thì một yếu tố không thể không nhắc đến trong phương thức này là thư tín dụng. Đây chính là xương sống cho việc xác lập cũng như thực hiện thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ. 1.2.2. Thư tín dụng chứng từ (Letter of Credit - L/C). 1.2.2.1. Khái niệm thư tín dụng. Thư tín dụng (L/C) là một cam kết thanh toán của ngân hàng cho người xuất khẩu nếu như họ xuất trình được một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với các điều khoản và điều kiện của L/C. Thư tín dụng có tính chất quan trọng, nó được hình thành trên cơ sở của hợp đồng ngoại thương, nhưng sau khi được thiết lập, nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng này. Tính chất độc lập của thư tín dụng được thể hiện ở chỗ nghĩa vụ của ngân hàng đối với người hưởng lợi ( nhà xuất khẩu) hoàn toàn không phụ thuộc vào mối quan hệ giữa người mua và người bán. Khi nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ phù hợp về mặt hình thức với những nội dung của L/C đã được mở, ngân hàng phát hành L/C phải trả tiền vô điều kiện cho nhà xuất khẩu mà không phụ thuộc vào thực trạng của hàng hoá. Nếu thực trạng của hàng hoá không khớp với chứng từ thì hai bên mua bán phải trực tiếp giải quyết với nhau. Trong trường hợp người mua từ chối thanh toán tiền cho ngân hàng thì ngân hàng vẫn phải hoàn thành nghĩa vụ trả tiền cho người bán, thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản đã được quy định trong L/C. Đặc trưng này cũng thể hiện nghĩa vụ của ngân hàng không thay đổi. Khi hợp đồng ngoại thương thay đổi mà không sửa đổi thư tín dụng thì ngân hàng vẫn căn cứ vào thư tín dụng để thanh toán mà không cần biết đến sự thay đổi của hợp đồng. Ngược lại, khi thư tín dụng đã được sửa đổi mà không sửa đổi hợp đồng thì khi xuất trình bộ chứng từ thanh toán, tuy phù hợp với hợp đồng nhưng trái với thư tín dụng thì ngân hàng phát hành vẫn có quyền từ chối thanh toán. 1.2.2.2. Nội dung chủ yếu của thư tín dụng. * Số hiệu, địa điểm, ngày mở L/C. - Số hiệu L/C: Tất cả các thư tín dụng đều phải có số hiệu riêng để thuận lợi trong việc trao đổi thư từ, điện tín có liên quan đến việc thực hiện thư tín dụng, hoặc để ghi vào các chứng từ có liên quan như hối phiếu hay các chứng từ cần thiết khác. - Địa điểm phát hành L/C: là nơi ngân hàng mở L/C viết cam kết thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu. Địa điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc chọn pháp luật áp dụng khi giải quyết những tranh chấp về L/C. - Ngày phát hành L/C: là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của ngân hàng mở L/C với người xuất khẩu, là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C, là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu thực hiện việc mở L/C có đúng hạn như đã quy định trong hợp đồng không. * Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến L/C. - Các thương nhân: bao gồm người nhập khẩu là người yêu cầu mở L/C, người xuất khẩu là người hưởng lợi L/C. - Các ngân hàng tham gia : bao gồm Ngân hàng mở L/C, ngân hàng thông báo, ngân hàng trả tiền, ngân hàng xác nhận và các ngân hàng khác (nếu có). * Số tiền của thư tín dụng. Số tiền này vừa được ghi bằng số, vừa được ghi bằng chữ và thống nhất với nhau, tên của đơn vị tiền tệ phải ghi rõ ràng. Trên thư tín dụng không nên ghi số tiền tuyệt đối vì người xuất khẩu khó có thể giao hàng có giá trị đúng như L/C quy định, khi đó khó có thể được thanh toán vì ngân hàng sẽ đưa ra lý do chứng từ không phù hợp với những điều kiện quy định trong thư tín dụng. Nên ghi số tiền theo một số giới hạn mà ngườ._.i xuất khẩu có thể đạt được hoặc là một giới hạn chênh lệch hơn kém % của tổng số tiền. * Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền, thời hạn giao hàng. - Thời hạn hiệu lực của thư tín dụng: là thời hạn mà ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu nếu người này xuất trình bộ chứng từ trong thời hạn đó và phù hợp với những quy định trong L/C. Thời hạn này được tính từ ngày mở L/C đến hết ngày hiệu lực của L/C. Việc xác định thời hạn hiệu lực của L/C cần thoả mãn các nguyên tắc: Ngày giao hàng phải nằm trong thời hạn hiệu lực và không được trùng với ngày hết hạn hiệu lực của L/C. Ngày mở L/C phải trước ngày giao hàng một thời gian hợp lý, không trùng với ngày giao hàng, nhằm đảm bảo thông báo L/C, lưu L/C tại Ngân hàng, chuẩn bị hàng để giao… Ngày hết hạn hiệu lực của L/C phải sau ngày giao hàng một thời gian hợp lý nhằm đảm bảo thời gian lập bộ chứng từ, luân chuyển chứng từ, lưu chứng từ tại ngân hàng… - Thời hạn trả tiền của L/C: là thời hạn trả tiền ngay hay trả tiền về sau, tuỳ thuộc theo quy định trong hợp đồng. Nếu thực hiện đòi tiền bằng hối phiếu thì thời hạn trả tiền được quy định ở yêu cầu ký phát hối phiếu. - Thời hạn giao hàng: Được ghi trong L/C và do hợp đồng mua bán quy định. Thời hạn giao hàng có quan hệ chặt chẽ với thời hạn hiệu lực của L/C. * Những nội dung về hàng hoá. Bao gồm tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá cả, quy cách phẩm chất, bao bì, mã ký hiệu… * Những nội dung về vận tải, giao nhận hàng hoá. Bao gồm điều kiện cơ sở giao hàng (FOB, CIF, CFR), nơi gửi, nơi giao hàng, cách vận chuyển, cách giao hàng… * Những chứng từ người xuất khẩu phải xuất trình. Được coi là nội dung then chốt trong thư tín dụng, bộ chứng từ quy định trong thư tín dụng là một bằng chứng của người xuất khẩu chứng minh rằng mình đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng và làm đúng những điều quy định trong thư tín dụng. Nếu bộ chứng từ phù hợp với những quy định trong thư tín dụng, ngân hàng mở L/C sẽ tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu. Bộ chứng từ thường bao gồm: - Bản gốc thư tín dụng. - Hóa đơn thương mại. - Giấy tờ bảo hiểm. - Vận đơn. - Giấy chứng nhận kiểm định, giấy chứng nhận xuất xứ. - Bản kê khai hàng hoá. Và một số giấy tờ khác theo yêu cầu của người nhập khẩu. * Cam kết trả tiền của Ngân hàng mở L/C: Đây là nội dung cuối cùng của thư tín dụng và nó ràng buộc trách nhiệm của ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền bằng uy tín và trách nhiệm của mình đối với khách hàng. Cam kết này là một cam kết có điều kiện, tức là ngân hàng chỉ thực hiện cam kết với điều kiện người xuất khẩu phải trình được bộ chứng từ phù hợp với các điều khoản quy định trong L/C. * Những điều khoản đặc biệt khác. Ngoài những nội dung kể trên, Ngân hàng mở L/C nhập khẩu có thể thêm những nội dung khác, ví dụ như có thể hoàn trả tiền bằng điện T/T… * Chữ ký của Ngân hàng mở L/C. Bản quy tắc này mang tính chất pháp lý tuỳ ý, có nghĩa là khi áp dụng nó, các bên tham gia phải thoả thuận ghi vào văn bản của hợp đồng và có dẫn chiếu trong L/C. 1.2.2.3. Các loại thư tín dụng. a) Căn cứ theo công dụng của thư tín dụng.. * L/C có thể huỷ ngang. Là loại L/C có thể bị sửa đổi hoặc huỷ bỏ mà không cần thông báo cho người hưởng lợi. Nó chứa đựng những rủi ro đối với người bán vì việc sửa đổi hay huỷ thư tín dụng có thể xảy ra khi hàng hoá đang trên đường vận chuyển hoặc trước khi việc thanh toán được thực hiện. Thư tín dụng huỷ ngang tạo cho người mua sự chủ động tối đa vì nó có thể được sửa đổi hoặc huỷ bỏ mà không cần thông báo cho người bán. Thư tín dụng huỷ ngang chỉ được sử dụng trong các trường hợp: - Việc giao hàng được thực hiện giữa công ty mẹ và công ty con. - Giữa người mua và người bán có quan hệ tín dụng rất tốt. * L/C không thể huỷ ngang. Là loại L/C sau khi đã được Ngân hàng mở thì không thể sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ trong thời hạn hiệu lực của nó nếu chưa có sự thoả thuận của các bên tham gia. Như vậy, nếu không có sự nhất trí của bên bán, của Ngân hàng xác nhận thì Ngân hàng mở L/C không được phép thực hiện theo yêu cầu của bên mua, do đó quyền lợi của người bán được đảm bảo hơn. L/C không thể huỷ ngang tuy ít linh hoạt nhưng an toàn và cân bằng được quyền lợi của các bên tham gia nên nó đựoc sử dụng rộng rãi trong thương mại quốc tế ngày nay. * L/C có điều khoản đỏ. Là loại L/C đặc biệt, trong đó có một điều khoản ghi rõ Ngân hàng phát hành sẽ chuyển tiền hoặc uỷ quyền cho Ngân hàng thông báo (hay Ngân hàng xác nhận, Ngân hàng chiết khấu) để thực hiện ứng trước cho người hưởng lợi một số tiền nhất định, thông thường tính theo tỷ lệ phần trăm so với giá trị L/C. Người hưởng lợi phải xuất trình chứng từ tại Ngân hàng mà họ đã nhận tiền ứng trước và phải bồi hoàn lại số tiền này nếu không xuất trình đủ chứng từ hợp lệ trong thời hạn quy định. Số tiền ứng trước được thực hiện theo yêu cầu của người mở L/C. Rủi ro trong thanh toán L/C có điều khoản đỏ là tiền ứng trước có thể bị sử dụng không đúng mục đích, chứng từ do nhà xuất khẩu trình có thể không phù hợp hoặc người xuất khẩu không hoàn thành được việc sản xuất hàng hoá mà cũng không hoàn lại được tiền ứng trước cho Ngân hàng. * L/C tuần hoàn. Là loại L/C không thể huỷ ngang mà sau khi sử dụng xong hoặc sau khi hết hạn hiệu lực L/C thì sẽ tự động khôi phục lại giá trị như cũ mà không cần mở L/C mới. Quy trình nghiệp vụ giống như L/C không thể huỷ ngang. L/C tuần hoàn có thể khống chế việc thực hiện tuần hoàn theo hai cách: - Theo thời gian: là khống chế thời hạn hiệu lực của L/C trong mỗi lần tuần hoàn và tổng giá trị L/C. Theo cách này có thể là L/C tích luỹ hoặc không tích luỹ. L/C tuần hoàn không tích luỹ không cho phép cộng số tiền của L/C trước để tăng giá trị của L/C sau nếu L/C trước chưa sử dụng hết. - Theo giá trị: là L/C được phép khôi phục lại giá trị ngay khi giá trị cũ đã được sử dụng. Loại L/C này ít được sử dụng vì nó tạo ra một cam kết vô hạn của Ngân hàng phát hành. Do đó thông thường khi phát sinh nhu cầu thanh toán L/C tuần hoàn, các Ngân hàng thường phát hành L/C khống chế theo thời gian hoặc vừa khống chế số tiền vừa khống chế thời gian. Có ba cách tuần hoàn: - Tuần hoàn tự động: nghĩa là L/C tiếp sau tự động có giá trị, không cần sự thông báo của Ngân hàng phát hành L/C. - Tuần hoàn không tự động: nghĩa là chỉ khi nào Ngân hàng phát hành L/C thông báo cho người bán thì L/C mới có giá trị hiệu lực. - Tuần hoàn hạn chế (bán tự động): nghĩa là nếu sau vài ngày kể từ ngày L/C cũ hết hạn hiệu lực hoặc đã sử dụng hết mà không có ý kiến gì của Ngân hàng phát hành thì L/C kế tiếp tự động có giá trị hiệu lực. Rủi ro trong thanh toán L/C tuần hoàn là với khoảng thời gian dài như vậy thì tình hình tài chính của người nhập khẩu có thể xấu đi, hoặc có những biến động trên thị trường tiêu thụ, hàng hoá bị ứ đọng mà người nhập khẩu vẫn phải tiếp tục nhập hàng về, không huỷ bỏ được L/C. Tất cả những rủi ro đó của nhà nhập khẩu sẽ dẫn đến những rủi ro cho Ngân hàng phát hành. Vì vậy, loại L/C này chỉ được sử dụng trong việc mua bán những hàng hoá với số lượng đều đặn và nhiều lần trong năm. Để giảm bớt rủi ro cho mình, Ngân hàng phát hành nên chỉ định L/C tuần hoàn hạn chế hoặc không tự động hơn là tuần hoàn tự động. * L/C chuyển nhượng. Là một L/C mà người hưởng đầu tiên có thể chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần giá trị L/C cho một hoặc nhiều người hưởng lợi thứ hai. Trong L/C chuyển nhượng, người hưởng lợi thứ nhất không tự động cung cấp được hàng hoá, mà chỉ là trung gian môi giới giữa người cung cấp hàng hoá và người mua cuối cùng. L/C này cũng chỉ đuợc chuyển nhượng một lần, có nghĩa là người hưởng lợi thứ hai không được chuyển nhượng cho người hưởng lợi thứ ba. Các bên tham gia trong phương thức L/C chuyển nhượng bao gồm: - Nhà nhập khẩu. - Ngân hàng phát hành. - Nhà xuất khẩu/ Người hưởng lợi thứ nhất. - Ngân hàng thông báo/ chuyển nhượng (NH chấp nhận hoặc chiết khấu). - Người cung cấp/ Người hưởng lợi thứ hai. L/C chuyển nhượng thường được sử dụng khi người hưởng lợi thứ nhất là đại lý cho nhà nhập khẩu, khi đó họ không cần phải giữ bí mật về người cung cấp hàng hoá, còn trong trường hợp người hưởng lợi chỉ là người trung gian cung cấp hàng hoá cho nhà nhập khẩu thì họ rất muốn giữ bí mật về người cung cấp. Trong nghiệp vụ L/C chuyển nhượng thì người hưởng lợi thứ hai chịu nhiều rủi ro hơn cả. Họ chỉ nhận được tiền khi người hưởng lợi thứ nhất được người mua thanh toán. Vì vậy họ gánh chịu mọi rủi ro không những về người mua và Ngân hàng phát hành, mà cả về người hưởng lợi thứ nhất và Ngân hàng chuyển nhượng. * L/C giáp lưng. Khi người hưởng nhận được một L/C (L/C gốc) không phải L/C chuyển nhượng song không thể tự mình cung cấp hàng hoá, khi đó họ có thể thoả thuận với Ngân hàng của mình phát hành một L/C thứ hai (L/C giáp lưng) với nội dung tương tự cho người cung cấp hàng hoá. Như vậy, điều khác biệt cơ bản và quan trọng nhất so với nghiệp vụ L/C chuyển nhượng là L/C gốc và L/C giáp lưng hoàn toàn độc lập với nhau. Vì vậy, người cung cấp hàng hoá (ngưòi hưởng lợi L/C giáp lưng) có thể yên tâm về mặt thanh toán. Về nguyên tắc, L/C gốc sẽ là vật thế chấp hoặc sự đảm bảo cho việc thanh toán L/C giáp lưng, song việc thanh toán cho nhà cung cấp sẽ được thực hiện trước khi Ngân hàng phát hành L/C giáp lưng nhận được thanh toán từ L/C gốc. Đây cũng là một rủi ro đối với Ngân hàng phát hành L/C giáp lưng nếu Ngân hàng phát hành L/C gốc từ chối thanh toán, vì vậy không phải lúc nào Ngân hàng cũng coi L/C gốc là vật đảm bảo để phát hành L/C giáp lưng. Để đảm bảo an toàn cho mình, Ngân hàng phát hành L/C giáp lưng phải kiểm tra chặt chẽ chứng từ của L/C giáp lưng, phối hợp với khách hàng của mình để hoàn thiện các chứng từ thanh toán L/C gốc hoặc phải thực hiện nghiêm ngặt chế độ ký quỹ và thế chấp đối với người hưởng lợi thứ nhất (người trung gian). Các bên tham gia trong L/C gốc : - Nhà nhập khẩu. - Ngân hàng nhập khẩu. - Ngân hàng trung gian (Ngân hàng thông báo). - Người trung gian (Người hưởng lợi thứ nhất). * L/C dự phòng. Là một loại tín dụng chứng từ hoặc một thoả thuận tương tự, dù được gọi hay miêu tả bằng cách nào, theo đó Ngân hàng phát hành cam kết với người thụ hưởng: - Trả khoản tiền mà người yêu cầu mở thư tín dụng đã vay hoặc nhận ứng trước. - Bồi hoàn về những thiệt hại do người yêu cầu mở không thực hiện được nghĩa vụ của chính mình. L/C dự phòng cũng là cam kết thanh toán của Ngân hàng phát hành cho người hưởng lợi. Song khác với thư tín dụng truyền thống, là phương tiện thanh toán của người mua cho người bán theo hợp đồng thương mại, thì thư tín dụng dự phòng chỉ được sử dụng để phòng ngừa phía đối tác vi phạm nghĩa vụ hoặc cam kết, gây hậu quả xấu cho người hưởng, và việc thanh toán sẽ được thực hiện khi người hưởng xuất trình được những bằng chứng nêu lên những điều kiện cam kết không được tôn trọng. Như vậy, thực chất L/C dự phòng giống như một thư bảo lãnh của Ngân hàng. Riêng trong xuất nhập khẩu hàng hoá, thư tín dụng dự phòng là L/C mà trong đó Ngân hàng mở cam kết với người hưởng lợi (nhà nhập khẩu) là sẽ thanh toán lại cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng theo L/C đã đề ra. Khoản tiền này bao gồm: tiền đặt cọc, tiền ứng trước, mọi khoản chi phí liên quan đến việc mở một thư tín dụng thương mại, và những chi phí khác cùng những thiệt hại mà người nhập khẩu phải gánh chịu do hậu quả của việc không cung cấp được hàng hoá của người xuất khẩu. * L/C xác nhận. Là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang, được một Ngân hàng khác xác nhận, điều đó có nghĩa là ngoài cam kết thanh toán của Ngân hàng phát hành còn có thêm sự cam kết thanh toán của Ngân hàng xác nhận. Ngân hàng xác nhận có thể là Ngân hàng thông báo hoặc là một Ngân hàng thứ ba tuỳ theo thoả thuận giữa người mua, người bán và Ngân hàng phát hành. Trong thực tế, việc yêu cầu xác nhận L/C không xuất phát từ mong muốn của người mở L/C mà xuất phát từ yêu cầu của người hưởng khi họ nghi ngờ khả năng thanh toán và uy tín của Ngân hàng phát hành, hoạc họ lo lắng về tình hình chính trị và khả năng an toàn của nước người mua. Khi Ngân hàng xác nhận đã thanh toán cho người hưởng theo đúng quy định của L/C, nó có quyền truy đòi lại số tiền đã thanh toán từ Ngân hàng phát hành. Để đảm bảo an toàn, Ngân hàng xác nhận có thể yêu cầu Ngân hàng phát hành ký quỹ theo tỷ lệ nhất định. Ngược lại, để đảm bảo quyền lợi của mình, Ngân hàng phát hành sẽ thoả thuận với khách hàng để chọn Ngân hàng đại lý của mình ở nước người xuất khẩu làm Ngân hàng xác nhận, tránh những rủi ro về vốn ký quỹ tại Ngân hàng xác nhận. Hiện tại có một số Ngân hàng xác nhận L/C mà không cần có sự uỷ quyền của Ngân hàng phát hành, loại L/C này được coi là xác nhận ngầm và Ngân hàng xác nhận chịu hoàn toàn rủi ro trong trường hợp này mà không được phép dẫn chiếu theo các điều khoản của UCP 600. b) Căn cứ vào thời hạn thanh toán của thư tín dụng. * L/C trả ngay. Là loại L/C không thể huỷ ngang và phải thanh toán ngay khi hối phiếu được xuất trình. Rủi ro trong loại thư tín dụng này là thường phải thanh toán trước khi nhận hàng, vì hối phiếu và bộ chứng từ thường đến trước khi hàng nhập cảng. * L/C trả chậm. Là loại L/C trong đó Ngân hàng phát hành cam kết thanh toán cho người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng một số ngày sau khi bộ chứng từ hoàn hảo được xuất trình hoặc sau ngày giao hàng. Loại thư tín dụng này có hai dạng: - L/C có kỳ hạn: Là loại L/C không huỷ ngang trong đó Ngân hàng phát hành sẽ chấp nhận hối phiếu có kỳ hạn do người hưởng lợi ký phát khi họ xuất trình được bộ chứng từ hoàn hảo. Những hối phiếu này nhà xuất khẩu có thể giữ cho đến thời hạn thanh toán và lúc ấy trình nộp Ngân hàng để nhận tiền hoặc bán/chuyển nhượng trên thị trường. Các Ngân hàng phát hành có thể mua hối phiếu hoặc chấp nhận thanh toán cho chính mình. - L/C trả dần: Là loại L/C không thể huỷ ngang trong đó quy định người hưởng sẽ được thanh toán dần toàn bộ số tiền của L/C theo những thời hạn đã quy định rõ trong L/C đó. Khác với loại thư tín dụng có kỳ hạn, loại L/C này không đòi hỏi hối phiếu do người bán ký phát. Do đó, người bán không có quyền lợi pháp lý đối với hối phiếu và quyền truy đòi liên quan đến hối phiếu đó. 1.2.3. Mối quan hệ pháp lý giữa các bên tham gia phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. 1.2.3.1. Các bên tham gia thanh toán. * Người yêu cầu mở thư tín dụng. Là người mua, người nhập khẩu hàng hoá, hoặc là người do người mua uỷ thác. Khi hợp đồng mua bán áp dụng phương thức tín dụng chứng từ thì việc mở L/C của người mua là điều kiện đầu tiên để người bán thực hiện hợp đồng. Người mua căn cứ vào hợp đồng mua bán để làm đơn yêu cầu Ngân hàng mở L/C. Người mua phải trả một khoản thủ tục phí cho Ngân hàng mở L/C và thường phải ký quỹ giá trị kim ngạch của L/C tại Ngân hàng. Người mua có quyền từ chối hay không hoàn trả toàn bộ hay một phần số tiền của L/C nếu xét thấy bộ chứng từ không phù hợp với điều kiện đã nêu ra trong L/C. * Ngân hàng phát hành thư tín dụng. Là Ngân hàng đại diện và cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu. Ngân hàng nhận đơn của nhà nhập khẩu và căn cứ vào yêu cầu trong đơn để mở L/C, sau đó chịu trách nhiệm thông báo cho nhà xuất khẩu biết. Ngân hàng phát hành chịu trách nhiệm kiểm tra bộ chứng từ được gửi đến, nếu thấy phù hợp thì thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Nếu Ngân hàng làm sai sót thì phải chịu trách nhiệm. Sau khi đã trả tiền cho người bán, Ngân hàng trao lại bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu và đòi khoản tiền thủ tục phí. Ngân hàng mở L/C thường là Ngân hàng ở nước ngoài hoặc có trường hợp ở nước thứ ba nào đó. * Người hưởng lợi thư tín dụng. Là người bán, người xuất khẩu và là bên được hưởng lợi tín dụng chứng từ. Nhà xuất khẩu chỉ giao hàng khi nào biết được người mở L/C đúng với nội dung của hợp đồng mua bán. Nếu sai sót trong hợp đồng hoặc có điều gì bất lợi cho mình thì người hưởng lợi có quyền yêu cầu người mua sửa đổi hoặc bổ sung. Nội dung sửa đổi hay bổ sung L/C phải được Ngân hàng mở L/C xác nhận thì mới có hiệu lực thanh toán. * Ngân hàng thông báo thư tín dụng. Là Ngân hàng báo tín dụng chứng từ cho người hưởng lợi một cách trực tiếp hoặc thông báo cho một Ngân hàng khác. Người hưởng lợi không nhất thiết là khách hàng của Ngân hàng thông báo, Ngân hàng này thường là Ngân hàng đại lý của Ngân hàng mở L/C tại nước người xuất khẩu. Ngoài 4 thành viên trên, trong một số trường hợp đặc biệt, còn có các thành viên sau: - Ngân hàng xác nhận: Là ngân hàng đứng ra xác nhận cho người mở L/C theo yêu cầu của ngành mở L/C, thường phải là ngân hàng có uy tín lớn trên thị trường tín dụng và tài chính quốc tế. Muốn xác nhận, ngân hàng mở L/C phải mở thủ tục phí rất cao và đôi khi phải đặt cọc trước. - Ngân hàng chiết khấu: Là ngân hàng đứng ra mua hối phiếu có kỳ hạn chưa đến hạn trả tiền do người bán ký phát cho ngân hàng trả tiền theo yêu cầu của người mở L/C. - Ngân hàng hoàn trả: Là ngân hàng mà tại đó ngân hàng thông báo hay ngân hàng xác nhận tiền vì giữa ngân hàng mở và chúng không có tài khoản trực tiếp. Trên thực tế, quá trình thanh toán tín dụng chứng từ không nhất thiết phải có đủ các ngân hàng nói trên cùng tham gia mà tuỳ trường hợp cụ thể sẽ xác định các thành viên tham gia. Thông thường chỉ có hai và đôi khi chỉ có một ngân hàng đứng ra làm tất cả các chức năng nói trên về nghiệp vụ thanh toán L/C. 1.2.3.2. Mối quan hệ pháp lý giữa các bên tham gia. * Giữa ngân hàng phát hành và người yêu cầu mở L/C. Bằng cách gửi thẳng yêu cầu mở L/C đến ngân hàng phục vụ mình, người yêu cầu đã chính thức đề nghị ngân hàng mở thư tín dụng để thực hiện việc thanh toán cho hợp đồng kinh doanh. Thông qua việc chấp nhận thư yêu cầu mở L/C và thực hiện mở L/C, ngân hàng mở L/C và người yêu cầu đã có mối quan hệ pháp lý, người ta gọi là hợp đồng thực hiện dịch vụ (hợp đồng B). Một bộ phận cơ bản của thư yêu cầu mở L/C là điều kiện chung của các ngân hàng. Trong đó quy định rằng việc thực hiện L/C phải tuân theo nội dung cơ bản của "Quy tắc thực hành và thống nhất về tín dụng chứng từ - UCP 600". Khi L/C được mở và ngân hàng đòi hỏi người mua phải ký quỹ một tỷ lệ nhất định nào đó thì mối quân hệ này trở thành mối quan hệ tín dụng. * Giữa ngân hàng phát hành và người hưởng lợi. Với việc mở L/C cho người hưởng lợi, ngân hàng phát hành đã cam kết việc thanh toán cho người hưởng lợi, điều đó có nghĩa là ngân hàng phát hành sẽ trả tiền cho người thụ hưởng, thực hiện đầy đủ các điều kiện ngay khi người mở không trả hay không muốn trả theo L/C. Rủi ro này thuộc về mối quan hệ tín dụng cho nên khi nhận được thư yêu cầu mở L/C, ngân hàng cần xem xét kỹ tình hình tài chính của khách hàng để có thể phán quyết chính xác trước khi mở L/C. * Giữa ngân hàng thông báo với người hưởng lợi. Khi ngân hàng thông báo chỉ thực hiện việc thông báo tín dụng chứng từ mà không có một cam kết nào về thanh toán với L/C thì mọi quan hệ đối với người hưởng lợi của ngân hàng thông báo chỉ là người đưa thư. * Giữa ngân hàng xác nhận và người hưởng lợi. Ngân hàng xác nhận và người hưởng lợi đã cam kết việc thanh toán cho người hưởng lợi. Đồng thời ngân hàng xác nhận đã đồng ý chịu trách nhiệm với ngân hàng phát hành về nghĩa vụ trả tiền L/C. * Giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng xác nhận. Ngân hàng phát hành và ngân hàng xác nhận đã đồng ý chịu trách nhiệm về một khoản nợ. Một khi ngân hàng xác nhận không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình đã cam kết, người hưởng lợi có quyền đòi tiền Ngân hàng phát hành. Khi xác nhận đòi tiền ngân hàng mở ký quỹ một khoản tiền nhất định thì quan hệ này trở thành quan hệ tín dụng. * Giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng thông báo. Với yêu cầu thông báo L/C phía ngân hàng phát hành, ngân hàng thông báo và ngân hàng phát hành hoàn thành mối quan hệ đồng nghiệp và ngân hàng thông báo không bị bất cứ một ràng buộc pháp lý nào. * Giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng hoàn trả. Với số tiền ký quỹ tại ngân hàng để thanh toán L/C cho ngân hàng thông báo hay ngân hàng xác nhận, đã xuất hiện mối quan hệ đồng thực hiện nghiệp vụ mà không có sự đảm bảo nào từ phía ngân hàng hoàn trả. Chính vì thế, ngân hàng hoàn trả sẽ không chịu trách nhiệm trong trường hợp tài khoản tiền gửi của ngân hàng phát hành không đủ tiền thanh toán. Giữa ngân hàng thông báo, ngân hàng xác nhận và ngân hàng hoàn trả không có mối quan hệ nghiệp vụ nào trong nghiệp vụ L/C. (1) Nhà nhập khẩu Nhà xuất khẩu NH phát hành L/C NH thông báo L/C (5) (7) (3) (6) (6) (2) (7) (8) (9) 1.2.4. Quy trình thanh toán. (4) Quy trình nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ được thực hiện cụ thể gồm: - Bước 1: Nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu ký kết hợp đồng ngoại thương với các điều khoản và điều kiện theo phương thức L/C. - Bước 2: Trên cơ sở các điều khoản và điều kiện của hợp đồng ngoại thương, nhà nhập khẩu làm đơn gửi đến ngân hàng phục vụ mình yêu cầu phát hành L/C. - Bước 3: Căn cứ vào đơn xin mở L/C, nếu đồng ý, ngân hàng phát hành lập một L/C và thông qua ngân hàng đại lý của mình ở nước nhà xuất khẩu để thông báo về việc phát hnàh L/C và chuyển L/C đến người xuất khẩu. - Bước 4: Khi nhận được thông báo L/C, ngân hàng thông báo sẽ kiểm tra tính hợp lệ và thông báo cho nhà xuất khẩu toàn bộ nội dung thông báo về việc phát hành L/C và khi nhận được bản gốc của L/C thì chuyển ngay cho nhà xuất khẩu. - Bước 5: Nhà xuất khẩu kiểm tra xem L/C có tuân thủ các điều khoản, điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng hay không, nếu chấp nhận thì tiến hành giao hàng, còn nếu không thì đề nghị nhà nhập khẩu thông qua ngân hàng phát hành sửa đổi, bổ sung L/C cho phù hợp với hợp đồng ngoại thương. - Bước 6: Sau khi giao hàng, nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C và xuất trình thông qua ngân hàng thông báo cho Ngân hàng phát hành L/C để thanh toán. - Bước 7: Ngân hàng phát hành L/C sau khi kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C do mình phát hành thì tiến hành thanh toán cho nhà xuất khẩu; nếu thấy không phù hợp thì từ chối thanh toán và gửi trả lại toàn bộ, nguyên vẹn chứng từ cho nhà xuất khẩu. - Bước 8: Ngân hàng phát hành L/C đòi tiền nhà nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu sau khi đã nhận được tiền hoặc được nhận thanh toán. - Bước 9: Nhà nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C thì trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền, nếu thấy không phù hợp thì có quyền từ chối trả tiền. Hiện nay, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức được sử dụng rộng rãi nhất và ưu việt hơn cả trong thanh toán quốc tế, chiếm khoảng 70% giá trị thanh toán, bởi nó đảm bảo quyền lợi một cách tương đối giữa người mua và người bán. 1.2.5. Những thuận lợi và khó khăn của các bên tham gia phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. 1.2.5.1. Đối với nhà nhập khẩu. * Thuận lợi - Chắc chắn nhà xuất khẩu phải đáp ứng các quy định của L/C, người mua chỉ phải thanh toán khi nhận được bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản của L/C để đi nhận hàng. Người mua được sự trợ giúp của ngân hàng trong việc bảo đảm các điều kiện của L/C được tuân thủ, dễ dàng được ngân hàng tài trợ về vốn. Được các điều khoản của UCP 600 bảo vệ. - Tận dụng được tín dụng của ngân hàng, đây được coi là điểm thiết yếu trong kinh doanh quốc tế vì khoảng thời gian từ lúc mở L/C cho đến khi thanh toán tiền hàng là khá dài, do đó, nếu được ngân hàng cho miễn ký quỹ một phần hay toàn bộ trị giá L/C thì không khác gì ngân hàng đã cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu. - Vì có sự đảm bảo về thanh toán, nhà nhập khẩu có thể thương lượng để đạt được giá cả tốt hơn và mở rộng được quan hệ khách hàng cũng như quy mô kinh doanh. * Khó khăn: Ngân hàng chỉ giao dịch trên cơ sở chứng từ, nên buộc phải thanh toán bất kể hàng hoá tốt hay xấu. Rủi ro thuộc về người mua. Nếu người bán cố ý lập các chứng từ hàng hoá giả tạo, người mua sẽ phải gánh chịu những thiệt hại do lừa đảo từ phía người bán. 1.2.5.2. Đối với nhà xuất khẩu. * Thuận lợi. - Được đảm bảo thanh toán khi tuân thủ các điều khoản và điều kiện của L/C và được nhận thanh toán nhanh nhất mà không phải chờ đến khi nhà nhập khẩu chấp nhận hàng hoá hay chấp nhận bộ chứng từ hay có tình trạng tài chính không khả quan. - Được ngân hàng giúp đỡ và tư vấn, giảm thiểu được các rủi ro. Ngoài ra, người bán có thể sử dụng L/C như là một phương thức tài trợ cho xuất khẩu như: chiết khấu bộ chứng từ, bán bộ chứng từ cho Ngân hàng hay vay vốn ngân hàng bằng thế chấp bộ chứng từ… * Khó khăn. - Nhà xuất khẩu rất khó khăn trong việc đáp ứng những đòi hỏi chặt chẽ và khắt khe của bộ chứng từ. - Chi phí cao; quy trình thanh toán rất tỷ mỉ và máy móc, bất cứ một sơ xuất nhỏ nào cũng là nguyên nhân dẫn đến việc thanh toán có thể bị trì hoãn, thậm chí bị từ chối thanh toán. - Nếu người mua thiếu thiện chí trong kinh doanh, có thể tìm ra những lỗi rất nhỏ, không quan trọng để từ chối thanh toán trong khi người bán đã giao hàng đầy đủ, đúng hạn như hợp đồng. 1.2.5.3. Đối với ngân hàng. * Thuận lợi. - Khi thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng cũng thu được lợi ích khá lớn từ các khoản thu phí dịch vụ như phí phát hành L/C, phí tu chỉnh, các phí khác có liên quan… - Việc cung cấp dịch vụ thanh toán cũng tạo điều kiện để ngân hàng mở rộng tín dụng, bảo lãnh quốc tế kinh doanh ngoại tệ… - Tăng cường mối quan hệ với các ngân hàng đại lý, làm tăng tiềm năng kinh doanh đối ứng giữa các ngân hàng với nhau. * Khó khăn: Bị ràng buộc bởi trách nhiệm của mình đối với người mua và người bán với tư cách là một thành viên tham gia vào phương thức thanh toán. Có thể thấy rằng, tín dụng chứng từ là một phương thức đòi hỏi sự chính xác và chặt chẽ tuyệt đối nhưng vẫn được sử dụng phổ biến nhất trong thanh toán quốc tế hiện nay. Bởi vì phương thức này đã dung hoà, cân bằng một cách tương đối giữa quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng mua bán ngoại thương. Những nghĩa vụ và trách nhiệm được đan xen, ràng buộc lẫn nhau tạo nên một sự đảm bảo và chắc chắn hơn cả cho việc thanh toán tiền hàng, nâng cao quyền bình đẳng trong quan hệ thanh toán giữa người mua và người bán. Hơn nữa, trong phương thức này, các ngân hàng tham gia không đơn thuần chỉ là những trung gian thanh toán mà chính là những thành viên thực sự của quá trình thanh toán, là "người" cam kết trả tiền cho người bán thay cho người mua, vì vậy đôi khi cũng phải chịu những rủi ro trong quá trình thực hiện nghiệp vụ này. 1.3. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ. 1.3.1. Rủi ro trong các hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng. Ngân hàng thương mại là loại hình doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt, đó là tiền tệ. Do vậy, hoạt động kinh doanh của ngân hàng với bản chất của nó luôn chịu tác động của nhiều loại rủi ro đi cùng với các lĩnh vực hoạt động của ngân hàng. Rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến của ngân hàng. Rủi ro trong thanh toán quốc tế là những rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện thanh toán quốc tế liên quan đến các giao dịch quốc tế, nguyên nhân phát sinh từ quan hệ giữa các bên tham gia thanh toán quốc tế như: Nhà xuất khẩu, nhập khẩu, các ngân hàng các tổ chức cá nhân và các tác nhân trung gian. . . hoặc do những nhân tố khách quan khác gây nên như thiên tai, chiến tranh, chính trị. . . Rủi ro trong giao dịch quốc tế cũng giống như rủi ro trong các giao dịch thương mại trong nước nhưng khoảng cách về địa lý, những khác biệt về văn hoá, luật pháp. . . làm tăng thêm các khó khăn cũng như rủi ro liên quan trực tiếp đến thanh toán quốc tế. 1.3.1.1. Rủi ro thương mại. Loại rủi ro này hiện diện trong tất cả các giao dịch giữa các thương gia, rủi ro trong giao dịch quốc tế cũng giống những rủi ro xảy ra trong các giao dịch nội địa. Tuy nhiên nó phức tạp hơn nhiều trong xử lý. Rủi ro này được xem xét một cách khác nhau từ phía người xuất khẩu và từ phía người nhập khẩu. a) Đối với người xuất khẩu. - nhưng khuyết tật của khâu thanh toán. - Sự suy yếu tài chính của con nợ. b) Đối với người nhập khẩu. Cũng như các quan hệ giao dịch thương mại nội địa rủi ro xảy ra khi vi pham các điều khoản của hợp đồng thương mại. Thời hạn gửi hàng. Vận chuyển hàng từng phần. Số lượng hàng. Sự thay đổi về điều kiện và thời gian thanh toán. Yếu tố giá cả. Những thay đổi trong điều kiện vận chuyển hàng hoá. Rủi ro trong bảo hiểm. Yếu tố chất lượng của hàng hoá. Nguồn gốc của hàng hoá. Điều kiện về vệ sinh, y tế. Rủi ro liên quan đến hàng phải lưu kho. 1.3.1.2. Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế. Đây là những bất ngờ, gây hậu quả tổn thất cho các bên tham gia thanh toán, đặc biệt đối với các ngân hàng khi thực hiện cung ứng dịch vụ thanh toán cho các bên tham gia kinh doanh, giao dịch quốc tế. - Rủi ro tín dụng. Đây là rủi ro mất khả năng thanh toán của một trong các bên tham gia vào phương thức thanh toán L/C. - Rủi ro đạo đức. Là những rủi ro xảy ra khi một bên tham gia cố tình không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, gây thiệt hại tới quyền lợi của người khác. Đạo đức hay còn đuợc hiểu là tín nhiệm, uy tín trong kinh doanh. Đây là vấn đề quan trọng trong thương mại và thanh toán quốc tế, vì các bên đối tác tham gia thương vụ thường ở rất cách xa nhau, thậm chí không hề gặp mặt nhau trong quá trình thực hiện thương vụ. - Rủi ro quốc gia. Rủi ro quốc gia là những rủi ro liên quan đến sự thay đổi về chính trị, kinh tế, vì chính sách quản lý ngoại hối - ngoại thương của một quốc gia khiến cho nhà xuất khẩu không nhận được tiền hàng, nhà nhập khẩu không nhận được hàng hoá. - Rủi ro pháp lý. Rủi ro pháp lý xảy ra trong trường hợp có tranh chấp, hay khiếu kiện giữa các bên tham gia thanh toán. Khi đó vấn đề đặt ra là toà án nước nào thụ lý, và xử lý vụ án trên cơ sở luật pháp nước nào? Cho dù trong hợp đồng ngoại thương đã đề cập đến vấn đề này, song không phải là không có phức tạp. Bởi vì không có một bên nào có thể thông thạo và nắm vững luật pháp quốc gia của bên đối tác. - Rủi ro ngoại hối. Là rủi ro xảy ra khi việc thanh toán được ấn định bằng ngoại tệ nào đó. Khi tỷ giá biến động sẽ gây tổn thất cho một trong hai phía đối tác tham gia thanh toán. Nếu ngoại tệ được lựa chọn trong thanh toán lên giá sẽ gây tổn thất cho người nhập khẩu, ngược lại ngoại tệ đó mất giá lại._.ng càng thấp và ngược lại. Nhưng trên thực tế, ngân hàng chỉ yêu cầu ký quỹ 100% đối với những khách hàng mới giao dịch lần đầu hoặc không có uy tín với ngân hàng. Đây chính là một nguyên tắc của ngân hàng nhằm bảo đảm an toàn trong thanh toán, tránh được các rủi ro về tỷ giá, rủi ro tín dụng đồng thời vẫn thu hút được nhiều khách hàng trên địa bàn. Trong thời gian qua, chi nhánh đã áp dụng một định mức ký quỹ tương đối hợp lý để đảm bảo cả hai mục tiêu trên nên cần tiếp tục được duy trì, đồng thời chi nhánh cũng cần nghiên cứu những biến động của thị trường nhằm đưa ra những quy định mới về mức ký quỹ linh hoạt và hiệu quả hơn, dựa trên các tiêu chí cơ bản như: - Khả năng thanh toán của khách hàng. - Uy tín của khách hàng đối với ngân hàng. - Khả năng tiêu thụ của sản phẩm: căn cứ vào chất lượng, giá cả, thị trường tiêu thụ... của hàng hoá. * Đa dạng hoá các loại L/C. Hiện nay, các loại thư tín dụng được sử dụng trong TTQT theo quy định của ICC khá đa dạng và mỗi loại đều có những điểm ưu việt riêng. Tuy nghiệp vụ thanh toán TDCT của chi nhánh ngày càng phát triển nhưng chỉ áp dụng loại thư tín dụng không huỷ ngang là chủ yếu, còn các loại L/C khác như L/C chuyển nhượng, L/C tuần hoàn... chỉ được sử dụng rất hạn chế. Chính vì thế, ngân hàng nên đa dạng hoá các loại thư tín dụng để các khách hàng có nhiều sự lựa chọn hơn, tận dụng được những ưu điểm vốn có của từng loại L/C cụ thể phù hợp nhất với đặc thù ngành nghề kinh doanh, tính chất và đặc điểm giao dịch... của doanh nghiệp để quy trình thanh toán diễn ra một cách suôn sẻ, mang lại hiệu quả kinh doanh cho khách hàng cũng như nâng cao vị thế cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Đối với L/C trả chậm, trong điều kiện sản xuất trong nước còn chưa đáp ứng đựoc nhu cầu tiêu dùng, nguyên vật liệu sản xuất chủ yếu được nhập từ nước ngoài, nguồn vốn của doanh nghiệp còn hạn hẹp thì nhập hàng trả chậm là một yếu tố tất yếu của nề kinh tế. Do đó, khi mở loại L/C này, ngân hàng cần phải thẩm định kỹ lưỡng về nguồn vốn, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như tình hình tiêu thụ trong nước của mặt hàng nhập khẩu... Đây là biện pháp vừa nhằm tài trợ cho sản xuất trong nước, vừa nhằm hạn chế rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh hàng nhập khẩu của ngân hàng. * Đẩy mạnh hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu. Để phát triển và mở rộng nghiệp vụ TTQT của mình, tránh hiện tượng bị lấn sân bởi các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, đòi hỏi ngân hàng phải tích cực đẩy mạnh hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp. Việc tạo điều kiện thuận lợi về mặt tài chính cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu là công cụ sắc bén giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường khả năng cạnh tranh trong đàm phán thương mại quốc tế, tạo cho họ thế chủ động giành lấy những điều khoản thanh toán phù hợp và hiệu quả nhất, qua đó Ngân hàng cũng có thể thực hiện tốt nhiệm vụ thanh toán của mình, đồng thời tránh được những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động thanh toán đó. - Hoạt động tài trợ xuất khẩu: chủ yếu là việc chiết khấu bộ chứng từ cho nhà xuất khẩu nhưng tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội hiện nay, nghiệp vụ này còn rất hạn chế. Để hoạt động này hiệu quả hơn cũng như tránh được những rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng, chi nhánh nên xem xét và cân nhắc kỹ lưỡng các yếu tố có liên quan như bộ chứng từ, khả năng trả nợ của nhà xuất khẩu nếu bộ chứng từ không được thanh toán, uy tín của ngân hàng phát hành, tình hình biến động kinh tế, chính trị của nước nhập khẩu... Tăng cường nghiệp vụ này cũng là cơ hội để ngân hàng cải thiện tình trạng mất cân đối trong thu chi ngoại tệ, đồng thời góp phần thu hút nhiều khách hàng xuất khẩu hơn cho chi nhánh. Ngoài ra, hoạt động tài trợ xuất khẩu còn bao gồm nghiệp vụ cho vay thu mua và sản xuất hàng xuất khẩu, ứng trước tiền hàng... - Hoạt động tài trợ nhập khẩu: đó là hoạt động ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng mở L/C nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài. Để đảm bảo uy tín cho ngân hàng cũng như tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh của khách hàng được thuận lợi, chi nhánh nên thực hiện cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu theo hạn mức. Và trước khi quyết định cho khách hàng vay để thanh toán, ngân hàng cần thẩm định kỹ lưỡng đối tượng khách hàng để tránh gặp rủi ro. * Giải pháp về nguồn ngoại tệ để thanh toán L/C. Hiện nay, NHNo & PTNT Việt Nam quy định số dư tài khoản ngoại tệ tối đa tại các chi nhánh là thấp làm cho ngân hàng nhiều khi rơi vào tình trạng thiếu hụt ngoại tệ để thanh toán cho những L/C giá trị lớn. Để tránh khỏi tình trạng đó, chi nhánh cần kiến nghị với ban tổng giám đốc NHNo cho phép có quyền chủ động hơn trong các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, chẳng hạn như cho phép chi nhánh mua bán ngoại tệ với các ngân hàng khác ngoài hệ thống để có thể chủ động trong việc cân đối thu chi ngoại tệ tại ngân hàng nhưng để tránh gặp phải rủi ro, NHNo cũng cần thiết lập một quy định cụ thể giới hạn trạng thái ngoại tệ căn cứ vào thực tế doanh số TTQT tại chi nhánh. Ngoài ra, chi nhánh cũng cần đẩy mạnh công tác tiếp thị và có những chính sách phù hợp để thu hút nhiều hơn các khách hàng xuất khẩu nhằm tăng lượng ngoại tệ, tiến tới cân bằng ngoại tệ thu vào và thanh toán ra nước ngoài. * Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ của chi nhánh. Cho đến nay, mặc dù ngân hàng luôn thực hiện công tác điều hành và thực hiện các quy chế, kế hoạch của NHNo & PTNT Việt Nam một cách nghiêm túc nhưng dường như công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động của chi nhánh mới chỉ dừng lại ở mức kiểm tra về quy trình nghiệp vụ thanh toán trong nước, trong khi việc kiểm tra những sai sót trong TTQT nói chung còn khá hạn chế. Trong thời gian tới, để tăng cường chất lượng công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và trong thanh toán TDCT nói riêng, chi nhánh cần sử dụng những biện pháp hữu hiệu như: lựa chọn đội ngũ cán bộ tham gia kiểm tra, kiểm soát phải có trình độ, nghiệp vụ ngân hàng chuyên sâu, am hiểu pháp luật, có phẩm chất đạo đức... để hoạt động kiểm soát đạt hiệu quả cao, không mang tính hình thức; phát hiện và uốn nắn kịp thời những sai phạm, nâng cao nhận thức toàn diện cho cán bộ kiểm tra; hợp tác nâng cao tinh thần cảnh giác với các vụ lừa đảo quốc tế... 3.2.2.5. Hiện đại hoá công nghệ thanh toán qua ngân hàng. Ngày nay, máy móc hiện đại đang dần dần thay thế sức lao động của con người, nâng cao năng suất lao động, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh ngày càng hiệu quả, tiết kiệm hơn. Và khoa học công nghệ hiện đại được coi là một nhân tố không thể thiếu được trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ Ngân hàng nói riêng. Đặc biệt, đối với TTQT, là một lĩnh vực luôn luôn đòi hỏi sự an toàn, chính xác, nhanh chóng... trong thanh toán, thì công nghệ khoa học lại càng khẳng định được vị trí quan trọng của mình. Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, mà đặc biệt là công nghệ thông tin trên thế giới hiện nay đang mở ra những cơ hội thuận lợi cho các NHTM trong chiến lược hiện đại hoá ngân hàng. Nhận thức được vai trò và tính thiết yếu của khoa học công nghệ, chi nhánh đã có những đầu tư đáng kể vào việc trang bị máy tính, nối mạng máy tính với sở giao dịch và với các chi nhánh, phòng giao dịch, đi đôi với việc phát triển các phần mềm về giao dịch, thanh toán liên hàng và thanh toán quốc tế... Tuy nhiên, cùng với sự khó khăn của đất nước đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, ngành khoa học kỹ thuật công nghệ của nước ta mà đặc biệt là công nghệ ngân hàng vẫn còn có một khoảng cách khá xa so với mặt bằng thế giới, công nghệ thanh toán của chi nhánh vẫn có những hạn chế nhất định. Đó là sự quá tải của phần mềm SWIFT nội bộ của NHNo, không còn đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng mạnh như hiện nay. Hơn nữa, việc thanh toán qua đầu mối duy nhất là sở giao dịch cũng làm giảm tính chủ động trong TTQT của chi nhánh. Chính vì vậy, chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội cần có kiến nghị với NHNo & PTNT Việt Nam nhanh chóng nghiên cứu và ứng dụng phần mềm mới để đáp ứng được nhu cầu thanh toán ngày một tăng cũng như giảm bớt những rủi ro do lỗi mạng gây nên khi chuyển điện. Đồng thời, chi nhánh cũng nên đề nghị NHNo cho phép được tiến hành thanh toán trực tiếp với nước ngoài nhằm tạo tính chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra, cũng cần sớm hoàn thiện mạng nội bộ giữa các Chi nhánh với Hội sở chính, với trung tâm phòng ngừa rủi ro để có thể thường xuyên cập nhật những thông tin mới nhất, trên cơ sở đó có các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro... Công nghệ được hiện đại hoá sẽ tiết kiệm được chi phí dịch vụ, giá rẻ, đẩy mạnh tốc độ lưu thông vốn và lưu chuyển tiền tệ, tập trung và sử dụng hiệu quả vốn trong kinh doanh, mang lại lợi ích cho cả khách hàng lẫn Ngân hàng. Như vậy, khoa học công nghệ chính là một nhân tố không thể thiếu tạo nên sức cạnh tranh cho ngân hàng. 3.2.2.6. Xây dựng các chiến lược Marketing phù hợp với chi nhánh. Trong điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường như hiện nay, để có thể giành được thắng lợi trong cuộc cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường thì việc xây dựng một chiến lược Marketing hiệu quả, phù hợp với thực tế là một đòi hỏi thiết yếu đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp nói chung và với các NHTM nói riêng. Một chiến lược Marketing hiệu quả là một chiến lược mà các chính sách về sản phẩm, giá cả, khách hàng... được xây dựng một cách đồng bộ, có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau để đáp ứng được mọi nhu cầu của khách hàng cũng như mang lại lợi nhuận cao nhất cho Ngân hàng. Có thể nói rằng, nghiên cứu và thực hiện được một cách tổng hợp, đồng bộ và hiệu quả các chính sách Marketing phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn phát triển cụ thể của cgân hàng cũng có nghĩa là cgân hàng đã thực hiện được các giải pháp hữu hiệu để một mặt nâng cao hiệu quả kinh doanh và mặt khác, góp phần hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của cgân hàng nói chung và trong TTQT nói riêng. Nhận thức được tầm quan trọng đó của Marketing, trong thời gian qua, Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội đã có những chiến lược nhằm thu hút khách hàng như tuyên truyền quảng cáo thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hay thực hiện các chương trình khuyến mại hấp dẫn, cung cấp các dịch vụ có chất lượng cao... Tuy nhiên, các chiến lược này mới được thực hiện một cách riêng biệt mà chưa có sự phối hợp đồng bộ nên hiệu quả chưa cao. Hơn nữa, chi nhánh vẫn chưa có bộ phận chuyên trách về Marketing mà chỉ có tổ bộ phận về quan hệ khách hàng. Vì vậy, trong thời gian tới, đặc biệt để nâng cao doanh số thanh toán cũng như hạn chế rủi ro trong nghiệp vụ thanh toán TDCT, ngân hàng nên có sự tập trung xây dựng một chiến lược kinh doanh với các chính sách về sản phẩm, giá cả, phân phối, khuếch trương và chính sách khách hàng phù hợp theo hướng: * Chính sách sản phẩm và giá cả. Chi nhánh nên mở rộng và đa dạng hoá các loại thư tín dụng để đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh chóng của thương mại quốc tế, song song với đó là công tác tư vấn cho khách hàng về tính năng, tác dụng của từng loại để khách hàng có sự lựa chọn đúng đắn, hạn chế được các rủi ro thường gặp và thu hút được nhiều khách hàng hơn. Cùng với việc đưa ra các sản phẩm mới thì việc thực hiện nhanh chóng, chính xác quy trình nghiệp vụ cũng là một vấn đề hết sức quan trọng. Còn đối với chính sách giá cả, do ngân hàng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ nên giá cả được biểu hiện chủ yếu dưới dạng lãi suất các khoản tiền gửi, tiền vay... Riêng trong TTQT, giá cả chính là các khoản thu phí thực hiện nghiệp vụ, do đó, ngân hàng cần xây dựng một biểu phí hợp lý để vừa có tác dụng thu hút khách hàng đến với Ngân hàng vừa đảm bảo hoạt động kinh doanh của ngân hàng có hiệu quả. * Chính sách phân phối. Trước hết, ngân hàng cần xem xét mật độ dân cư trên địa bàn, tình hình kinh tế của dân cư có phù hợp với những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp không để bố trí mạng lưới chi nhánh cho phù hợp và hiệu quả. Thêm vào đó, chi nhánh cũng cần thường xuyên nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, sự biến động của thị trường để nắm bắt được tâm lý, thấy được những khó khăn của khách hàng để có những ứng xử đúng đắn. Ngoài ra, việc phân loại khách hàng theo từng đối tượng khách hàng truyền thống hay khách hàng mới cũng phải thường xuyên thực hiện để có các chính sách phù hợp, đảm bảo quy trình thanh toán có hiệu quả và tránh được rủi ro. * Chính sách quảng cáo khuếch trương . Mục tiêu của chính sách này là tuyên truyền rộng rãi làm cho khách hàng hiểu rõ về các hoạt động, dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp nói chung và về nghiệp vụ thanh toán TDCT nói riêng. Đây là một dịch vụ đã trở nên khá phổ biến trong TTQT, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu khi tham gia thương mại quốc tế đều có ít nhiều sự hiểu biết về lĩnh vực này. Do đó, Chi nhánh có thể giới thiệu trực tiếp với khách hàng những điểm ưu việt trong thanh toán TDCT so với các Ngân hàng khác thông qua đội ngũ thanh toán viên trong quá trình giao dịch. Và trong quá trình đó, thanh toán viên cũng cần ghi chép lại những vướng mắc, sai sót mà khách hàng thường gặp để báo cáo cho Ban lãnh đạo, tìm cách hạn chế những sai sót, nhằm góp phần cải thiện chất lượng thanh toán. * Chính sách khách hàng. Trong cơ chế thị trường hiện nay, bất cứ một ngành nghề kinh doanh nào cũng tồn tại rất nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Trước sức ép của một hệ thống Ngân hàng đa dạng, phức tạp, để có thể tồn tại và phát triển, NHNo & PTNT Nam Hà Nội cần phải chủ động tìm kiếm khách hàng và thiết lập quan hệ chặt chẽ với khách hàng của mình. Hiện nay, ngân hàng đảm bảo thực hiện phục vụ khách hàng ở tất cả các khâu. Cụ thể trong thanh toán xuất nhập khẩu, chi nhánh không chỉ đóng vai trò là Ngân hàng phát hành hay trung gian thanh toán, mà còn có thể cho vay, chiết khấu chứng từ để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh... Chính điều đó đã gắn bó lợi ích của Ngân hàng với khách hàng, rủi ro của khách hàng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến Ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng phải luôn thận trọng trong việc xử lý nghiệp vụ, đẩy mạnh công tác tư vấn cho khách hàng trong tất cả các khâu từ ký kết hợp đồng đến thanh toán. Chỉ khi nào ngân hàng coi lợi ích của khách hàng thực sự là lợi ích của ngân hàng thì ngân hàng mới trở nên tin cậy đối với khách hàng và giữ được mối quan hệ bền vững, lâu dài với khách hàng. 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TRONG THANH TOÁN TDCT TẠI NHNO & PTNT NAM HÀ NỘI. 3.3.1. Kiến nghị đối với nhà nước, chính phủ. Từ khi bắt đầu thực hiện chính sách cải cách kinh tế, chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ quản lí tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN cho đến nay thì nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ trong nhiều lĩnh vực, đời sống nhân dân cũng từng bước được cải thiện. Ngày nay, xu thế quốc tế hoá toàn cầu hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ đã và đang đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức to lớn. Lúc này, định hướng của nhà nước lại càng trở nên cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết nhằm đưa đất nước phát triển theo đúng định hướng XHCN. Chính vì vậy, TTQT nói chung và thanh toán TDCT nói riêng rất cần đến những chính sách trực tiếp cũng như các chính sách hỗ trợ phù hợp để ngày càng mở rộng, phát triển đồng thời hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra cho các ngân hàng, cho các đơn vị xuất nhập khẩu. 3.3.1.1. Xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động TTQT và thanh toán TDCT của các NHTM. Hiện nay, TTQT có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong kinh tế đối ngoại nói riêng. Có thể nói rằng, nếu không có TTQT thì kinh tế đối ngoại không phát triển hay chỉ phát triển trong phạm vi hẹp và mức độ nhỏ. Tuy nhiên, do các chủ thể tham gia TTQT ở các nước khác nhau nên cũng có sự khác nhau về luật pháp, văn hoá, phong tục... Do đó, việc thực hiện TTQT nói chung và thanh toán TDCT nói riêng phải tuân theo các quy tắc chung do Phòng thương mại quốc tế ban hành, đồng thời cũng phải chịu sự chi phối của luật pháp của từng nước có chủ thể tham gia. Trong những năm qua, cùng với kim ngạch xuất nhập khẩu, hoạt động TTQT ở nước ta đã có sự tăng trưởng mạnh, tạo lập được uy tín trên thị trường quốc tế. Nhưng bên cạnh đó, các tranh chấp thương mại cũng phát sinh ngày càng nhiều và phức tạp, từ đó dẫn đến nguy cơ xảy ra rủi ro cho các NHTM và cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do Việt Nam chưa có quy định riêng về TTQT cũng như thanh toán TDCT trong một Bộ luật, Pháp lệnh hay Nghị định nào của chính phủ mà cho đến nay, các quy định của pháp luật về TTQT vẫn nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau nên chưa có sự thống nhất, chặt chẽ. Trên thực tế, hoạt động thanh toán TDCT tại Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn được thực hiện theo quy định của UCP 600. Nhưng UCP 600 chỉ là một thông lệ quốc tế và trong mọi trường hợp vẫn phải tuân thủ luật pháp quốc gia, nên trong một số trường hợp, khi xảy ra tranh chấp giữa các bên có liên quan, giữa phía Việt Nam với phía nước ngoài thì phía Việt Nam sẽ phải chịu thiệt thòi; còn trong thường hợp xảy ra tranh chấp giữa các bên Việt Nam với nhau thì UCP 600 lại không thể thay thế được Luật quốc gia. Chính vì thế, việc ban hành những văn bản pháp luật quy định nghĩa vụ, quyền lợi, trách nhiệm của các bên có liên quan và hướng dẫn các giao dịch TTQT nói chung và thanh toán TDCT nói riêng một cách cụ thể của Nhà nước là hết sức cần thiết, nhưng vẫn phải đảm bảo sự tương quan với thông lệ quốc tế UCP 600. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần xây dựng và cụ thể hoá các văn bản luật điều chỉnh các lĩnh vực có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, đến TTQT như luật hối phiếu, quy chế quản lý ngoại hối, hay các chính sách thương mại liên quan đến biểu thuế, danh mục hàng hoá cấm nhập khẩu... để quy trình thanh toán được tiến hành một cách hiệu quả, hạn chế được rủi ro. 3.3.1.2. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Trong những năm vừa qua, cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam luôn nằm trong tình trạng thâm hụt và khan hiếm ngoại tệ, gây khó khăn cho công tác TTQT nói chung và thanh toán TDCT nói riêng. Nguyên nhân của tình trạng này là do nước ta luôn ở trạng thái nhập siêu, sản xuất trong nước không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng, nguyên vật liệu sản xuất chủ yếu được nhập từ nước ngoài trong khi số lượng hàng hoá xuất khẩu rất hạn chế, ngoài ra cũng do một nguyên nhân khác là đầu tư nước ngoài giảm. Để khắc phục tình trạng này, nhằm mục tiêu tăng trưởng ổn định và bền vững cho nền kinh tế, chính phủ cần thực hiện những giải pháp sau: - Nhà nước cần có chính sách khuyến khích sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu như chính sách thuế, chính sách về lãi suất cho vay để sản xuất hàng xuất khẩu, trợ giá cho những mặt hàng nông sản... nhằm tạo điều kiện hạ giá thành sản phẩm, tạo nên sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. - Bên cạnh việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, cần phải có biện pháp quản lý nhập khẩu, có chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước để hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất được. - Chính sách tỷ giá hối đoái mềm dẻo, linh hoạt nhằm khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu nhưng vẫn phải đảm bảo sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế, không gây nên những cú sốc lớn và làm thiệt hại đến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. - Tiếp tục phát triển quan hệ thương mại với các nước trong khu vực, mở rộng thị trường truyền thống với các nước Đông Âu, duy trì và phát triển thị trường các nước Tây Âu... nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng như tạo thị trường cho hàng hoá xuất khẩu Việt Nam. 3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân Hàng Nhà Nước. 3.3.2.1. Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là thị trường trao đổi, cung cấp ngoại tệ nhằm giải quyết các mối quan hệ về ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước với các Ngân hàng Thương mại và giữa các Ngân hàng Thương mại với nhau. Để các Ngân hàng có điều kiện mở rộng nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và tài trợ ngoại thương nhằm phục vụ tốt cho hoạt động TTQT thì việc hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là một yếu tố hết sức quan trọng. Hiện nay, khó khăn đối với các NHTM Việt Nam nói chung và NHNo & PTNT Nam Hà Nội nói riêng là tỷ trọng thanh toán hàng xuất chênh lệch qua nhiều so với hàng nhập nên tính trạng khan hiếm ngoại tệ thường xuyên xảy ra. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo hướng: - Đa dạng hoá các loại ngoại tệ, các phương tiện thanh toán trên thị trường. Ngoài USD, các loại ngoại tệ khác như EUR, GBP, JPY... cũng cần tăng cường sử dụng. Và các nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu, hối phiếu ngoại tệ cũng nên áp dụng để đáp ứng như cầu của khách hàng. - Đa dạng hoá các hình thức thanh toán. Để đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh chóng của thương mại quốc tế, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu để có thể đa dạng hoá các hình thức thanh toán đã được nhiều nước trên thế giới sử dụng như thu đổi séc du lịch, chiết khấu chứng từ có giá, thư tín dụng điện tử, nhờ thu bù trừ tự động..., cần tiến tới mở rộng và phát triển các nghiệp vụ hoán đổi (Swap), kỳ hạn (Forward), kỳ hạn (Option)... để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng. - Mở rộng đối tượng tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, ngoài NHNN, các NHTM quốc doanh, cần tạo điều kiện để các Ngân hàng cổ phần, các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, các nhà môi giới, các tổ chức phi Ngân hàng tham gia để tạo tính sôi động cho thị trường. 3.3.2.2. Xây dựng chế độ tỷ giá linh hoạt, phù hợp với từng thời kỳ cụ thể. Nói chung, việc điều chỉnh tỷ giá là một vấn đề hết sức nhạy cảm bởi nó không chỉ ảnh hưởng tới hoạt động ngoại thương, hoạt động xuất nhập khẩu mà còn có tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Sau nhiều lần can thiệp của Ngân hàng Nhà nước vào chính sách tỷ giá, hiện nay, Việt Nam đang áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước. Trong điều kiện nước ta còn mới mở cửa, chưa thực sự hoà nhập với nền kinh tế thế giới thì đây được coi như một sự lựa chọn hợp lý nhất. Nhưng xét về lâu dài, vẫn cần đổi mới cơ chế điều chỉnh tỷ giá theo hướng tự do hoá dần. Để thực hiện được điều đó, chúng ta cần phải có những bước đi hết sức thận trọng theo hướng: - Xác định một cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý trên cơ sở đa dạng hoá rổ ngoại tệ mạnh, không nên neo giứ đồng Việt Nam vào dồng Đôla Mỹ; khuyến khích các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đa dạng hoá cơ cấu tiền tệ trong giao dịch thương mại. - Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng quỹ dự trữ ngoại tệ cần thiết tương ứng với nhịp độ phát triển kim ngạch xuất nhập khẩu, mục đích của quỹ này là có thể can thiệp kịp thời vào thị trường hối đoái quốc tế khi tỷ giá trong nước có sự biến động nhằm giữ ổn định đồng tiền, giảm tối đa những tác động xấu đến nền kinh tế. - Số liệu tổng hợp của các chỉ số kinh tế vĩ mô như lạm phát, lãi suất, thực trạng cán cân thanh toán... phải chính xác, rõ ràng nhằm giúp Nhà nước lựa chọn phương thức điều chỉnh tỷ giá thích hợp. 3.3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác thanh tra ngân hàng. Trong thời gian qua, công tác thanh tra Ngân hàng đã đạt được những kết quả rất quan trọng, góp phần làm lành mạnh hệ thống Ngân hàng, ngăn ngừa những tiêu cực xảy ra đồng thời hạn chế những rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng. Công tác thanh tra cần đảm bảo nhanh nhạy trong phát hiện và kiên quyết trong xử lý, nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời những sai phạm trong hoạt động nói chung và trong hoạt động nghiệp vụ thanh toán L/C nói riêng. Để thực hiện được yêu cầu đó, công tác thanh tra Ngân hàng cần phải: - Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, quy chế phục vụ quản lý, giám sát và thanh tra, trong đó chú trọng tính đồng bộ, khả thi, tính phù hợp và từng bước hoà nhập với thông lệ quốc tế. - Bảo đảm các điều kiện vật chất cần thiết và ứng dụng công nghệ tin học vào các hoạt động giám sát, thanh tra để các thông tin có liên quan đến Ngân hàng được nắm bắt thường xuyên, chính xác hơn, để có thể cảnh báo sớm tình hình rủi ro của ngân hàng. - Nâng cao trình độ của cán bộ thanh tra, đảm bảo phải có trình độ ngoại ngữ giỏi, có nghiệp vụ ngân hàng chuyên sâu, am hiểu pháp luật, có phẩm chất đạo đức và bản lĩnh trong công tác. Mặt khác cúng phải có chế độ điều kiện làm việc và đãi ngộ đúng mức đối với cán bộ thanh tra ngân hàng. - Các ngân hàng cũng phải chủ động làm tốt công tác kiểm tra và tự chịu trách nhiệm về rủi ro hoạt động, từ đó nâng cao ý thức chấp hành các quy định của pháp luật. 3.3.3. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Có thể nói rằng, những rủi ro trong phương thức thanh toán TDCT phần lớn có nguyên nhân bắt nguồn từ khách hàng, làm cho chính họ phải chịu những thiệt hại nặng nề và còn ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh cũng như uy tín của ngân hàng. Bởi vậy, đề xuất những giải pháp hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng có nghĩa là giảm thiểu nguy cơ rủi ro xảy ra với ngân hàng. 3.3.3.1. Cần có đội ngũ cán bộ chuyên trách về XNK, có năng lực và am hiểu về luật TMQT và TTQT. Các doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động thanh toán XNK cần phải có sự hiểu biết nhất định về TTQT nói chung và thanh toán L/C nói riêng để tránh được những điều khoản bất lợi cho mình trong quá trình ký kết hợp đồng ngoại thương. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải có một đội ngũ cán bộ chuyên trách có trình độ chuyên môn vững vàng, được đào tạo về nghiệp vụ ngoại thương, am hiểu về luật pháp quốc tế, có năng lực công tác và đặc biệt, phải có phẩm chất trung thực trong kinh doanh. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần phải thường xuyên thu thập thông tin về thực lực và uy tín cũng như khả năng tài chính của phía đối tác để tránh được những rủi ro không đáng có trong hoạt động thanh toán quốc tế bằng L/C. Trong một số trường hợp, khi ký kết những hợp đồng ngoại thương, doanh nghiệp cũng nên tham khảo ý kiến của ngân hàng để tránh khỏi những điều khoản bất lợi có thể mang đến rủi ro cho bản thân doanh nghiệp và cho cả ngân hàng. 3.3.3.2. Không ngừng đào tạo cán bộ trẻ, cử cán bộ đi học để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đây cũng là một yêu cầu cần thiết, phải thường xuyên thực hiện đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để các cán bộ xuất nhập khẩu có cơ hội được nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, được tiếp cận với các phương thức TTQT hiện đại và trau dồi ngoại ngữ, từ đó có thể tránh được những sai sót không đáng có khi ký kết hợp đồng hoặc khi lập bộ chứng từ để được tiến hành thanh toán. Việc đào tạo cán bộ có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức như cử cán bộ đi học ở các lớp chuyên môn nghiệp vụ ở trong và ngoài nước, hoặc trực tiếp mời giáo viên về giảng dạy... 3.3.3.3. Nâng cao chất lượng công tác tìm hiểu độ tin cậy của đối tác. Đó là viêc tìm hiểu độ tin cậy của bạn hàng, của ngân hàng phát hành, của ngân hàng thông báo hay của ngân hàng xác nhận... bằng cách thu thập những thông tin cụ thể về tình hình tài chính, hiệu quả kinh doanh, uy tín trong kinh doanh của bên đối tác. Việc thu thập thông tin phải được thực hiện đầy đủ, chính xác. Người mua thì tìm hiểu về người bán, về ngân hàng phát hành để đánh giá về năng lực và kinh nghiệm kinh doanh dịch vụ L/C... Còn người bán lại muốn tìm hiểu về người mua và ngân hàng phát hành để đánh giá khả năng thực hiện cam kết trả tiền... Nói chung, đây cũng là một trong những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro cho doanh nghiệp và cho khách hàng, đặc biệt là rủi ro đạo đức. KẾT LUẬN Năm 2007, Việt Nam chính thức trỏ thành thành viên của tổ chức WTO đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế cũng như việc đưa nền kinh tế nước ta gia nhập nền kinh tế toàn cầu. Đi đôi với nó là những khó khăn cũng như thách thức của quá trình hội nhập đem lại. Trong bối cảnh toàn cầu hoá đó, việc giao thương xuất nhập khẩu trở thành hoạt động kinh tế tất yếu đem lại khoản thu nhập đáng kể đóng góp tỷ trọng lớn trong GDP nước ta. Đáp ứng cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì nghiệp vụ thanh toán quốc tế của các ngân hàng ngày càng hoàn thiện và đem lại thu nhập từ các khoản phí dịch vụ. NHNo & PTNT Nam Hà Nội là chi nhánh có khối lượng thanh toán cao và uy tín, được các doanh nghiệp gửi gắm cho các phi vụ làm ăn với nước ngoài. Trong ba năm 2005 – 2007, chi nhánh luôn hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu về tổng số tiền trong thanh toán quốc tế, đặc biệt là thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ. Có thể nói chi nhánh đã thành công trong việc hoàn thiện nghiệp vụ TTQT bằng phương thức tín dụng chứng từ, thể hiện ở số tiền thanh toán L/C nhập khẩu năm 2005 là 48,852,000 USD đến năm 2007 là 115,797,000 USD; L/C xuất khẩu năm 2005 là 7,534,000 USD đến năm 2007 là 23,548,000 USD. Không những thế, việc hạn chế rủi ro trong thanh toán cũng được ngân hàng hạn chế và kiểm soát đến mức thấp nhất có thể. Số vụ L/C không thanh toán được cũng giảm đáng kể, năm 2007 hầu như không để xảy ra một trường hợp đáng tiếc nào. Chi nhánh đã phát huy được những mặt thuận lợi khắc phục được các khó khăn để nâng cao vị thế của mình qua nghiệp vụ TTQT đặc biệt là thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ như xúc tiến các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro đồng thời hoàn thiện quy trình thanh toán bằng đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn cao và cơ chế quản lý nâng cao tính tự chủ trong công việc. Có thể khẳng định trong tương lai nghiệp vụ thanh toán quốc tế băng phương thức tín dụng chứng từ sẽ đóng góp một phần quan trọng cho chi nhánh cũng như nền kinh tế đang trong giai đoạn hội nhập nước ta. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Ngiệp Vụ Thanh Toán Quốc Tế. Giáo trình Kế Toán Ngân Hàng. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh ( 2005 – 2007). Báo cáo chuyên đề kinh doanh đối ngoại ( 2005 – 2007). Báo cáo kết quả kinh doanh đối ngoại thực hiện 2005 kế hoạch 2006. Báo cáo kết quả kinh doanh đối ngoại thực hiện 2006 kế hoạch 2007. Báo cáo kết quả kinh doanh đối ngoại thực hiện 2007 kế hoạch 2008. Báo cáo kết quả kinh doanh 2007, mục tiêu, giải pháp trọng tâm 2008. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28575.doc
Tài liệu liên quan