Mục lục
Trang
Mục lục
Trang
Phần mở đầu ……………………………………………………………….2
Phần nội dung……………………………………………………………..4
Chương I : Những vấn đề lý luận……………………………………………...4
I.Bản chất và nội dung của kế hoạch hóa …………………………………….4
1.Bản chất của kế hoạch hoá và nền kinh tế thị trường ở Việt Nam…………… 4
2.Nội dung của kế hoạch hoá……………………………………………………6
II.Vai trò của kế hoạch hoá và nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam ………………………………………………………..10
1.Sự cần thiết và yêu cầu khách
40 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1473 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp đổi mới kế hoạch hoá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan cảu việc chuyển đổi cơ chế kinh tế ở nước ta……………………………………………………………………………… 10
2.Những đặc điểm cơ bản của cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay……… 11
3.Cơ sở lý giải cho sự tồn tại và phát triển của kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường………………………………………………………………………… 13
4.Vai trò của kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa……………………………………………………………………….15
5.Các nguyên nhân thất bại trong kế hoạch hoá………………………………..16
6.Nội dung cần hoàn thiện ……………………………………………………..17
Chương II : Thực trạng đổi mới kế hoạch hoá ở Việt Nam ………………..18
I.Tình hình thực hiện kế hoạch và phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn 1991 – 2000…………………………………………………..18
1.Xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội……………… 18
2.Xác định trọng tâm của công tác kế hoạch hoá là kế hoạch 5 năm……….. 19
3. Đổi mới quy trình lập và phương thức điều hành kế hoạch ………………...22
4. Tăng cường công tác đấu thầu và thẩm định dự án…………………………..22
II.Những vấn đề còn hạn chế trong công tác kế hoạch hoá……………… .23
Chương III : Phương hướng tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hoá trong thời gian tới ……………………………………………………………………24
I. Bối cảnh quốc tế và khu vực……………………………………………….24
II.Cơ sở lý luận cho việc đổi mới công tác kế hoạch hoá……………………24
III.Quan điểm phát triển kinh tế của Đảng trong thời gian tới …………………………………………………………………………………25
IV.Những nội dung tiếp tục cần đổi mới ……………………………………26
V.Một số giải pháp để thực hiện nội dung đổi mới………………………… 31
PHần kết luận …………………………………………………………...34
Tài liệu tham khảo…………………………………………………….35
Phần Mở đầu
Sau hơn mười năm tiến hành đổi mới, đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam đã có những chuyển biến hết sức cơ bản và rõ nét. Xét về mặt thể chế quản lý thì nền kinh tế nhiều thành phần đang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước sử dụng ngày càng tốt hơn hệ thống chính sách kinh tế và kế hoạch hoá để quản lý và điều hành nền kinh tế. Bản thân công tác kế hoạch hoá cũng đã và đang trải qua thời kỳ đổi mới từng bước và cơ bản.
Khác với nhiều nước kinh tế chuyển đổi, đổi mới kinh tế ở Việt Nam không có nghĩa là từ bỏ hoặc coi nhẹ kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô, mà yêu cầu đặt ra là phải có những thay đổi cần thiết, đáp ứng đòi hỏi và điều kiện mới của nền kinh tế, nhất là nâng cao chất lượng của kế hoạch hoá. Đồng thời khi chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện tự do hoá thương mại và toàn cầu hoá, nhiều yêu cầu mới đặt ra đối với yêu cầu quản lý kinh tế nói chung cũng như đối với công tác kế hoạch hoá nói riêng. Muốn đáp ứng được những yêu này, phải tiếp tục đổi mới một cách mạnh mẽ hơn.
Bên cạnh đó, tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực cũng đặt ra những thách thức mới đối với sự phát triển bền vững của đất nước, đòi hỏi phải có những nỗ lực cải cách mới.
Đối với Việt Nam, kế hoạch hoá là một công cụ quản lý vĩ mô rất quan trọng của Nhà nước nhằm đạt tăng trưởng lâu bền và đảm bảo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Vì thế, đổi mới công tác kế hoạch hoá từ tư duy quan điểm định hướng, nội dung, quy trình lập và điều hành cho đến cơ cấu tổ chức và cách thức chỉ đạo kế hoạch là một nội dung cơ bản của quá trình cải cách nói trên. Chất lượng của việc đổi mới công tác kế hoạch hoá sẽ có ý nghĩa quan trọng cho những thành công của giai đoạn cải cách trong thời gian tới.
Trước hết, cần xác định khái niệm “kế hoạch hoá” được hiểu theo nghĩa rộng nhất, nghĩa là bao gồm toàn bộ các hành vi can thiệp một cách có chủ định của Nhà nước vào nền kinh tế để đạt những mục tiêu đã được đề ra. Do vậy, để xác định những vấn đề nghiên cứu cũng như các giải pháp khuyến nghị cần thực hiện với một phương pháp tiếp cận rộng hơn.
Bản chất nội dung của kế hoạch hoá hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Với phương châm : “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, cần xác định vai trò của Nhà nước và vị trí của công tác kế hoạch hoá và lựa chọn một mô hình kế hoạch hoá thích hợp, chúng ta có thể xác định những mục tiêu mong muốn trong việc đổi mới kế hoạch hoá.
Để xác định những yêu cầu cụ thể trong việc đổi mới công tác kế hoạch hoá, cần làm rõ đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi. Cần phân tích và dự báo tình hình kinh tế - xã hội trong nước một cách nghiêm túc, từ đó xây dựng kế hoạch phát triển cho kỳ tương lai. Thực hiện đúng như vậy thì chúng ta mới không bị chệch hướng và đưa nền kinh tế theo đúng định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
Phần nội dung
Chương i : Những vấn đề lý luận
I.Bản chất và nội dung của kế hoạch hoá
1.Bản chất của kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
1.1.Khái niệm về kế hoạch hoá
Việt Nam hiện nay đang trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường. Thực chất của quá trình này là giảm bớt tính mệnh lệnh, tính tập trung và đồng thời tăng cường hơn tính thị trường, tính tự điều chỉnh của nền kinh tế. Với đặc trưng đó, nền kinh tế Việt Nam hiện nay là một nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với những sắc thái riêng.
Cơ chế vận hành của nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với những sắc thái riêng.
Cơ chế vận hành của nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Điều này có nghĩa là :
- Trước hết nền kinh tế phải được vận động và phát triển theo cơ chế thị trường. Thị trường tham gia vào việc giải quyết các vấn đề : sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai ? Nhờ vậy nguồn lực khan hiếm của xã hội được phân bổ và sử dụng một cách có hiệu quả.
- Bên cạnh ưu điểm nổi bật nói trên, thị trường cũng chứa đựng bên trong nó nhiều khuyết tật. Để hạn chế khuyết tật này của thị trường, đòi hỏi Nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế. Điều này có nghĩa là Nhà nước tham gia vào giải quyết các vấn đề : sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? sản xuất cho ai ?
Vì vậy, Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế là tất yếu khách quan. Nhà nước thường sử dụng các công cụ sau để điều chỉnh thị trường đó là : kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, luật pháp, các chính sách kinh tế, các đòn bẩy kinh tế, lực lượng kinh tế của Nhà nước.
Trong hệ thống các công cụ trên, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội có nhiệm vụ xác định mục tiêu và phương hướng phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân và đề ra các giải pháp để thực hiện được các mục tiêu và phương hướng đó.
Dựa vào định hướng phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước sử dụng đồng bộ các công cụ khác nhằm thực hiện định hướng đã vạch ra với hiệu quả kinh tế cao nhất.
Vậy, kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội là một phương thức quản lý kinh tế của Nhà nước. Xét về bản chất, nó là hoạt động có ý thức của Nhà nước trên cơ sở nhận thức khách quan nhằm định hướng phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như xác định các giải pháp lớn để thực hiện định hướng đó với hiệu quả kinh tế - xã hội lớn nhất.
Khác với kế hoạch hoá trong nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, kế hoạch hoá phát triển trong nền kinh tế - xã hội trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay có những đặc điểm sau :
- Thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch, kế hoạch được hình thành từ đòi hỏi khách quan của thị trường, xuất phát từ thị trường. Thoát ly thị trường, kế hoạch chứa đựng nhiều yếu tố không khả thi. Một kế hoạch đúng, phải là kế hoạch phản ánh được lợi ích của các bên tham gia quan hệ thị trường.
Mặt khác, thị trường chỉ có thể giải quyết các vấn đề có tính ngắn hạn, riêng lẻ mà không thấy được các vấn đề lợi ích có tính dài hạn, lâu dài, bền vững. Vì vậy, sử dụng kế hoạch như một công cụ để Nhà nước hướng dẫn thị trường và điều chỉnh thị trường nhằm kết hợp giữa lợi ích ngắn hạn với lợi ích dài hạn, giữa sự phát triển trước mắt với sự phát triển bền vững của đất nước.
- Kế hoạch mang tính định hướng :
Điều này có nghĩa là không sử dụng biện pháp mệnh lệnh hành chính trực tiếp mà chủ yếu sử dụng các biện pháp gián tiếp để hướng mọi nỗ lực kinh tế quốc dân vào thực hiện định hướng đó. Vì vậy, hiện nay chúng ta đang tiếp tục đổi mới kế hoạch hoá theo hướng : kế hoạch hóa Nhà nước phải quán triệt đường lối , chủ trương của Đảng để đưa ra một hệ thống các mục tiêu vĩ mô, xác định tốc độ, cơ cấu các cân đối lớn, xác định chính sách, giải pháp để dẫn dắt nền kinh tế theo định hướng kế hoạch.
- Kế hoạch có tính linh hoạt :
Kế hoạch trong nền kinh tế thị trường không phải là kế hoạch cứng nhắc mà là một kế hoạch hết sức mềm dẻo, linh hoạt. Điều đó có nghĩa là tuỳ tình hình biến đổi của thị trường mà có kế hoạch thích ứng cho phù hợp với yêu cầu thị trường mà vẫn đảm bảo được mục tiêu của kế hoạch.
1.2.Bản chất của kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội
Bản chất chung của kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội là sự tác động có mục đích của Chính phủ nhằm gây ảnh hưởng định hướng và khống chế một số biến số kinh tế - xã hội chủ yếu nhằm hướng nền kinh tế theo một mục tiêu đã định sẵn.
Xuất phát từ những quan điểm và mục đích chính trị của Chính phủ , kế hoạch hoá xác định những mục tiêu chính sách liên quan đến sự phát triển trong tương lai của nền kinh tế.
Kế hoạch hóa phát triển không chỉ bao gồm những mục tiêu mà còn thể hiện những mục tiêu đó thành những chỉ tiêu cụ thể.
Kế hoạch hoá là quá trình xây dựng những quy tắc và chính sách nhất quán về một nội dung để thực hiện những mục tiêu đề ra cũng như hướng dẫn việc thực hiện những chỉ tiêu kế hoạch và những quyết định chính sách thường nhật.
Kế hoạch hoá là quá trình toàn diện trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đồng thời có kế hoạch cho từng lĩnh vực.
Để đảm bảo tính tối ưu và tính nhất quán, kế hoạch hoá kinh tế quốc dân thường sử dụng một số mô hình kinh tế lượng, ít nhiều đã được công nhận chính thức để dự báo những hướng phát triển của nền kinh tế trong tương lai.
Kế hoạch phát triển kinh tế thường là kế hoạch trung hạn 5 năm có thể kết hợp với một số kế hoạch triển vọng dài hạn và được cụ thể hoá bằng những kế hoạch hàng năm.
2.Nội dung của kế hoạch hoá
2.1.Dự báo phát triển
Công tác kế hoạch hoá có bản chất là hướng tới các quá trình tương lai. Vì vậy nó luôn gắn với hoạt động dự báo. Với tư cách là một khâu tiền kế hoạch, dự báo cần đi trước để đào tạo cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, xây dựng quy hoạch, xây dựng kế hoạch, xây dựng chính sách. Vì vậy, nội dung của công tác dự báo là :
- Phân tích xu thế phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và dự báo sự phát triển của một số lĩnh vực quan trọng như dân số, lương thực, mức sống dân cư, ...
- Xác định những nhân tố tác động đến kinh tế, xã hội đất nước, như nguồn nguyên liệu, những thay đổi về thị trường, giá cả, sự tiến bộ của khoa học công nghệ, sức mua của nhân dân, tâm lý người tiêu dùng.
- Phân tích ảnh hưởng của kinh tế và thị trường kinh tế thế giới đến kinh tế trong nước.
- Phân tích ảnh hưởng của yếu tố chính trị, xã hội đến kinh tế.
2.2.Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
Việc xác định quan điểm, mục tiêu phát triển việc định hướng cơ cấu kinh tế - xã hội và các chính sách chủ yếu để huy động mọi nguồn lực, mọi yếu tố cả bên trong và bên ngoài nhằm tạo ra những động lực phát triển là nội dung cốt lõi của chiến lược phát triển. Khi đã xác định được một chiến lược phù hợp, công tác quy hoạch, kế hoạch và hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội sẽ có cơ sở vững chắc, tạo điều kiện để biến khả năng thành hiện thực. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội có nội dung cơ bản sau :
- Xác định các phương án phát triển kinh tế vĩ mô dài hạn và trung hạn, trong đó có các chỉ tiêu cơ bản như tốc độ tăng trưởng GDP, định hướng kinh tế đối ngoại, phát triển xã hội, ...
- Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thành phần kinh tế, hợp tác đầu tư, .... đối với toàn bộ nền kinh tế cũng như các địa bàn trọng điểm và các ngành quan trọng.
2.3.Xây dụng quy hoạch tổng thể, quy hoạch ngành, quy hoạch vùng
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển các vùng và các ngành kinh tế là xây dựng khung vĩ mô về xây dựng và tổ chức không gian, nhằm cung cấp những căn cứ khoa học cho các cấp để chỉ đạo vĩ mô nền kinh tế thông qua các kế hoạch, các chương trình và dự án đầu tư, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững và có hiệu quả. Các dự án quy hoạch là những đề tài khoa học lớn, phối hợp sự cộng tác nghiên cứu của các ngành, các Bộ và các điạ phương, nhằm phân tích đúng thực trạng kinh tế - xã hội, các lợi thế của các ngành, các vùng; trên cơ sở đó đề ra phương hướng phát triển các ngành, các vùng; trên cơ sở đó đề ra phương hướng phát triển các ngành và vùng cho từng giai đoạn nhất định và xác định những điều kiện cần thiết ( vốn, chính sách, ... ) để thực hiện các quy hoạch này.
Các quy hoạch phát triển được xây dựng dựa trên chiến lược hướng tới xuất khẩu, tìm ra và phát huy lợi thế từng vùng và liên kết giữa các vùng, nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Các giải pháp thực hiện quy hoạch không chỉ quan tâm tới nguồn và hướng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất mà còn chú trọng đến nhân tố con người, đến sự phát triển của khoa học công nghệ và đổi mới quản lý sản xuất.
2.4.Xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm
Xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm là một nhiệm vụ quan trọng của công tác kế hoạch hoá nhưng với phạm vi, phương pháp và nội dung ở tầm vĩ mô.
* Về phạm vi kế hoạch hoá : phạm vi kế hoạch hoá không chỉ bao quát các doanh nghiệp thuộc khu vực Nhà nước mà phần nào đã bao quát được các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Kế hoạch hoá theo đường lối đổi mới được khẳng định từ Đại hội Đảng lần thứ VI, lần thứ VII, khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần : quốc doanh, tập thể, cá thể, tư bản tư nhân, tư bản Nhà nước; đến Đại hội IX xác định thêm thành phần kinh tế là khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là chiến lược quan trọng tạo tiền đề khách quan cho cơ chế thị trường hoạt động. Theo đó, kế hoạch cũng bao quát toàn bộ nền kinh tế.
* Về nội dung kế hoạch : do nhận thức rõ vai trò của các lĩnh vực văn hoá, xã hội đối với sự nghiệp phát triển kinh tế, đặc biệt trong điều kiện xã hội Việt Nam với 80% dân số sống ở nông thôn nên trong kế hoạch các năm từ 1991- 1996 đã chuyển hướng từ kế hoạch phát triển kinh tế sang kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội với các nội dung chủ yếu sau :
- Hệ thống các mục tiêu chiến lược : xác định cần đạt được cuối cùng trong khoảng thời gian kế hoạch, hệ thống các mục tiêu này gồm :
+ Mục tiêu kinh tế
+ Mục tiêu xã hội
+ Mục tiêu tổng hợp
Để thực hiện được các mục tiêu này, cần phải có sự phối hợp, kết hợp thực hiện bởi các nhà lãnh đạo thông qua hệ thống tham mưu của mình và hệ thống kế hoạch hoá trong cả nước.
- Hệ thống các chỉ tiêu kế hoạch
+ Giảm các chỉ tiêu mang tính pháp lệnh
+ Tăng các chỉ tiêu kinh tế, chỉ tiêu xã hội và chỉ tiêu lồng ghép của hai chỉ tiêu kinh tế và xã hội.
- Hệ thống các chính sách vĩ mô điều tiết sự phát triển.
Các chính sách phải là khuôn mẫu cho các đơn vị cấp dưới sử dụng và thực hiện. Cần đảm bảo tính đầy đủ, đơn giản, cụ thể. Bảo đảm sự thống nhất giữa các loại chính sách với nhau và tính ổn định của các loại chính sách.
Kế hoạch kinh tế hàng năm bao hàm các chính sách linh hoạt, phù hợp với những thay đổi ở trong và ngoài nước mà không dự kiến hết trong khi xây dựng kế hoạch 5 năm. Kế hoạch bổ sung và thúc đẩy cho kế hoạch 5 năm thực hiện thành công.
2.5.Xây dựng các chương trình quốc gia và dự án phát triển
Các chương trình quốc gia được tiến hành đồng thời với việc xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm.
Chương trình quốc gia là tập hợp các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đồng bộ về kinh tế, xã hội, khoa học và công nghệ, môi trường, cơ chế, chính sách để tổ chức thực hiện một hoặc một số mục tiêu đã được xác định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước. Khi xây dựng một chương trình quốc gia đòi hỏi phải xác định rõ các mục tiêu của chương trình đối với sự phát triển của đất nước; xác định rõ các giải pháp cần thiết đảm bảo thực thi chương trình như giải pháp về vốn, phương thức vay và hoàn vốn, nguyên liệu, máy móc, ... ; hiẹu quả của chương trình thông qua các chỉ tiêu về lợi ích kinh tế - xã hội đem lại, đối tượng được hưởng thụ kết quả của toàn bộ chương trình, ... Các chương trình quốc gia phải được Chính phủ xem xét và được Quốc hội thông qua trước khi đi vào thực hiện.
Trong qua trình thực hiện chương trình, nếu cần thay đổi mục tiêu xã hội và điều kiện cân đối, các cơ quan chức năng sẽ xem xét và điều chỉnh trong thời gian xây dựng kế hoạch hàng năm và 5 năm. Nếu các vấn đề kinh tế - xã hội cụ thể từng khu vực từng vùng thì có thể chuyển sang cho các Bộ, ngành, địa phương để tập trung làm tốt các chương trình được xác định, tránh chồng chéo, bảo đảm hiệu quả và tính thiết thực của chương trình.
Để thực hiện được các chương trình phát triển kinh tế - xã hội thì cần thiết phải xây dựng các dự án phát triển. Mỗi chương trình cần được cụ thể hoá bằng nhiều dự án phát triển. Mỗi dự án phát triển hướng tới một mục tiêu nào đó của chương trình. Tuy nhiênm một số dự án có thể xác định từ kế hoạch 5 năm và hướng tới mục tiêu của kế hoạch 5 năm. Vì vậy dự án có vai trò rất quan trọng trong việc hoạch định phát triển, đó là :
- Dự án là công cụ đặc để triển khai thực hiện các nhiệm vụ của chiến lược, quy hoạch và kế hoạch 5 năm, chương trình phát triển một cách có hiệu quả nhất.
- Dự án là phương tiện để gắn kết kế hoạch và thị trường, nâng cao tính khả thi của kế hoạch, đồng thời đảm bảo khả năng điều tiết thị trường theo định hướng xác định của kế hoạch .
- Dự án góp phần giải quyết quan hệ cung cầu về vốn trong phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết quan hệ cung - cầu về sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
- Dự án góp phần cải thiện đời sống dân cư và cải biến bộ mặt kinh tế - xã hội của từng vùng và của cả nước.
Do các vai trò trên, dự án phát triển rất được coi trọng trong hệ thống kế hoạch hoá ở Việt Nam hiện nay. Nó là công cụ để triển khai thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch với hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất.
II. Vai trò của KHH trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam.
1. Sự cần thiết và yêu cầu khách quan của việc chuyển đổi cơ chế kinh tế ở nước ta.
Sau kháng chiến chống pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN, đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất với sự nỗ lực của nhân dân ta có thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa khác, mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch hóa Nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về mặt đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế.
Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta đã tỏ ra phù hợp, nó tạo ra những bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội. Đồng thời nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó cho phép Đảng và Nhà nước huy động ở mức cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến.
Nhưng sau ngày giải phóng miền Nam, bức tranh về thực trạng kinh tế xã hội đã thay đổi. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý kinh tế cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện nhiều tiêu cực. Do chủ quan cứng nhắc, không chú ý tới sự phù hợp với nền kinh tế dẫn đến quản lý không hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất trong nước các nguồn lực bị sử dụng bừa bãi, tài nguyên bị phá hoại, môi trường ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, Nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan, nền kinh tế bị suy thoái nghiêm trọng. Trước tình hình đó đặt ra nền kinh tế nước ta phải đổi mới.
Đại hội VI của Đảng 1986 đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đến đại hội VII, Đảng ta đã xác định rõ việc đổi mới cơ chế nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đã diễn ra việc đó, tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là sự thay đổi về nhận thức rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận kinh tế. Xem xét dưới góc độ khoa học thì việc chuyển nền kinh tế với thực tế nước ta phù hợp với các quy luật kinh tế và xu thế của thời đại.
2. Những đặc điểm cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
- Từng bước thực hiện những quá trình mang tính quy luật của bước chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước , với tự do hoá thương mại và tự do hoá giá cả là khâu trung tâm đột phá, từng bước phát huy vai trò điều tiết của thị trường, hình thành một thị trường cạnh tranh làm cho hàng hoá được lưu thông suốt, cung cầu được cân đối, thoát khỏi tình trạng khủng hoảng thiếu, giá cả ổn định dần.
Cơ chế này thúc đẩy việc xử lý những vấn đề mấu chốt làm đảo lộn hệ thống tư duy và hệ thống quan điểm, kinh tế cũ như vấn đề sở hữu, với sự thừa nhận và đánh giá cao những thành tựu của chính sách kinh tế nhiều thành phần, đồng thời cũng xác định những biện pháp nâng cao hiệu quả của khu vực kinh tế quốc doanh cho phù hợp với thực tiễn nước ta.
- Cơ chế thị trường còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát rối loạn. sản phẩm của một nền kinh tế chưa thoát khỏi khủng hoảng và cơ bản là sản xuất nhỏ, tính cạnh tranh chưa cao.
Sự yếu kém của bộ máy quản lý Nhà nước, tình trạng quan liêu, tham nhũng, bảo thủ trước bước ngoặt kinh tế .
Thị trường chấp nhận tự do kinh doanh theo quản lý nhưng chưa giải quyế những tiền đề cơ bản cho sự tự do này -đó là sự tự do về sở hữu. Doanh nghiệp Nhà nước chưa tách được quyền sở hữu với quyền sử dụng của doanh nghiệp về vốn, tài sản, lao động. Đặc biệt, hiện nay hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả. Cần đẩy nhanh công tác đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, một trong giải pháp cơ bản là cổ phần hoá doanh nghiệp.
- Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XNCN.
Cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị trường là do tác động của quy luật cung cầu, quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh. ở đâu tồn tại các điều kiện và môi trường của kinh tế thị trường thì các quy luật sẽ phát huy tác dụng và nền kinh tế có những khuyết tật vì nó thiếu cạnh tranh ở một số lĩnh vực (lợi nhuận thấp) nhưng lại rất cần cho sự ổn định kinh tế xã hội. Để khắc phục những khuyết tật này cần phải cso sự bổ xung của bàn tay “hữu hình”, đó là vai trò can thiệp của Nhà nước vào thị trường. Nhà nước ta tác động vào cơ chế thị trường bằng những công cụ gián tiếp: pháp luật, kế hoạch, chính sách, đòn bẩy kinh tế, các lực lượng kinh tế của Nhà nước. Đặc biệt, Nhà nước sử dụng công cụ kế hoạch vĩ mô để quản lý đất nước để thực hiện các mục tiêu và chỉ tiêu đề ra. Vai trò can thiệp của Nhà nước trong việc ổn định và phát triển nền kinh tế nước ta có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của nước ta hiện nay theo định hướng XNCN.
- Chuyển sang cơ chế thị trường trên cơ sở sự ổn định chính trị, lấy ổn định chính trị làm tiền đề và điều kiện cho cải cách kinh tế; mặt khác cũng cần nhận thức rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính, trên cơ sở đối mới quản lý Nhà nước nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của quản lý của nó cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường, mà tiếp tục ổn định chính trị, đưa cải cách tiến lên những bước phát triển mới.
Ngay từ đầu, chúng ta đã khảng định định hướng XHCN là không thay đổi, tuy nhiên đã có sử dụng các công cụ phổ biến mà chủ nghĩa tư bản đã từng sử dụng như thị trường, các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quy luật giá trị, cho mục tiêu của mình.
Xuất phát từ thực tiễn thị trường nước ta đang trong bước hình thành và phát triển, còn những yếu tố mất ổn định, từ chỗ nền kinh tế thực chất đã từ lâu là nền kinh tế nhiều thành phần, nên đã không chủ trương tư nhân hoá tràn lan, mà trái lại, chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và xây dựng kinh tế quốc doanh thành thực lực làm chỗ dựa của Nhà nước ở các khâu và lĩnh vực then chốt để ổn định và định hướng thị trường.
Mặc đù còn nhiều thiếu sót và yếu kém, nhất là trong điều hành kinh tế vĩ mô và gần đây có nạn tham nhũng khá phổ biến trong bộ máy quản lý các cấp, nhưng nhìn chung tính ổn định và hoạt động theo đường hướng đổi mới, tiến lên một Nhà nước trong việc đảm bảo các chính sách xây dựng, xử lý hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và cân bằng, ổn định, giữa phát triển kinh tế với thực hiện các chính sách xã hội và công bằng xã hội .
Phân tích các đặc điểm này cho thấy chúng ta cần tiếp tục thực hiện phương châm ổn định để phát triển Nhà nước ta phải đổi mới hơn nữa, nhận thức rõ vai trò của mình trong điều kiện mới, đặc biệt thay đổi về chất lượng, tư duy, tác phong của bộ máy, đưa bộ máy thoát khỏi tình trạng nạn tham nhũng. Điều đó nói lên tầm quan trọng đặc biệt của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thị trường nước ta.
3.Cơ sở lý giải cho sự tồn tại và phát triển của kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
3.1.Sự phát triển của phân công lao động xã hội
Nước ta phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường và chịu sự tác động của xu thế toàn cầu hóa, hợp tác hoá trên thế giới. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phát triển của phân công lao động xã hội được chia thành 3 loại:
- Phân công chung : chia thành 20 ngành cấp 1
- Phân công lao động đặc thù : là quá trình phân công trong nội bộ một ngành để chia thành các ngành chuyên môn hóa
Phân công lao động đặc thù càng phát triển thì trình độ chuyên môn hóa sản xuất càng cao
- Phân công cá biệt : là sự phân công trong nội bộ một đơn vị kinh tế
Trước xu thế phát triển của phân công lao động xã hội, cần phải có sự tác động của Chính phủ bằng các mục tiêu, chỉ tiêu để định hướng sự phát triển phù hợp với đời sốngkinh tế và xã hội, hạn chế những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Vì vậy, cần phải có kế hoạch để nắm bắt được xu thế phát triển của phân công lao động xã hội ( đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất và khoa học - công nghệ ) để tổ chức thực hiện theo định hướng của Nhà nước.
3.2.Sự thất bại của thị trường
- Thị trường ở các nước đang phát triển thường là thị trường chưa phát triển một cách đầy đủ những yếu tố chủ yếu của nó; giá cả trên thị trường như vậy thường xuyên tạc vì người sản xuất và người tiêu dùng thiếu thông tin cần thiết; sự điều tiết của thị trường trong điều kiện như vậy có nhiều khả năng dẫn đến những quyết định sản xuất và lưu thông sai lầm, không có hiệu quả.
- Thị trường vốn hoặc là còn thiếu hoặc là còn rất sơ khai, chưa đảm đương được vai trò trung gian cần thiết cho quá trình phát triển. Trong điều kiện đó nếu không có sự can thiệp của Chính phủ thông qua kế hoạch hoá thì những nguồn lực khan hiếm của nền kinh tế dễ bị phân bổ một cách sai lệch, không đạt hiệu quả kinh tế - xã hội mong muốn, nhất là cho lợi ích tương đối dài hạn.
- Xu thế độc quyền ngày càng tăng.
Các nhà độc quyền phát triển kinh tế không theo sự lựa chọn của thị trường. Do họ có lợi thế nhất định trong vấn đề sản xuất nào đó nên họ làm cho người tiêu dùng phải chịu những chi phí cao khi tiêu dùng sản phẩm của họ.Vì vậy làm giảm phúc lợi ròng xã hội.
- Vấn đề ảnh hưởng ngoại lai.
Sự lựa chọn của thị trường khác sự lựa chọn của xã hội. Mục tiêu của các nhà sản xuất là lợi nhuận, bằng mọi cách để đạt lợi nhuận cao nhưng họ không quan tâm tới ảnh hưởng ngoại lai, đặc bệt là ngoại lai tiêu cực do họ gây ra cho môi trường và xã hội. Vì vậy, phải có kế hoạch để đưa ra các chính sách buộc các nhà sản xuất phải gắn với bảo vệ môi trường và lợi ích xã hội.
- Vấn đề cung cấp hàng hoá công cộng, hàng hoá khuyến dụng không đem lại lợi nhuận hoặc đem lại rất ít, thời gian thu hồi vốn dài nên tư nhân không tham gia vào. Vì vậy buộc Chính phủ phải thực hiện để đem lại phúc lợi xã hội cho nhân dân.
- Các vấn đề khác như phân phối, công bằng xã hội, ... thì Nhà nước phải thực hiện các chính sách theo lợi ích của xã hội.
Vì vậy, kế hoạch hoá ở nước ta là cần thiết vì cơ chế thị trường không đảm bảo các quyết định của cá nhân sẽ tối ưu hoá các hoạt động kinh tế theo những mục đích ưu tiên của xã hội.
3.3.Khả năng phân bổ nguồn lực khan hiếm.
Các nền kinh tế của các nước ở thế giới thứ ba rất cần tập trung nguồn lực hạn chế của mình, đặc biệt là lao động lành nghề và vốn đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất vật chất. Do đó những dự án đầu tư phải được lựa chọn không những trên cơ sở phân tích năng suất đạt được căn cứ vào suất đầu tư và thời gian hoàn vốn, mà còn phải tính đến những yếu tố của chương trình phát triển tổng thể, những tác động trước mắt cũng như lâu dài trên bình diện kinh tế xã hội. Nguồn lực khan hiếm phải được sử dụng vào lĩnh vực nào có đóng góp rõ rệt nhất cho xã hội. Kế hoạch hóa kinh tế còn phải góp phần giảm nhẹ những ảnh hưởng kìm hãm sự phát triển nguồn lực bằng cách phối hợp những dự án đầu tư để có thể tập trung những yếu tố khan hiếm vào lĩnh vực sản xuất có hiệu quả nhất. Mặt khác người ta còn thấy thị trường cạnh tranh tự do có xu thế hạn chế đầu tư vào các lĩnh vực mà xã hội mong muốn. Đó là khiếm khuyết của thị trường mà người ta muốn sử dụng kế hoạch hoá để khắc phục.
3.4.Lập luận về thái độ và tâm lý dân cư.
Thực tế cho thấy khi những mục tiêu kinh tế và xã hội của một quốc gia được công bố một cách công khai trong kế hoạch phát triển đất nước sẽ ảnh hưởng tích cực và quan trọng đến cách cư xử và tâm lý của nhân dân, nhất là ở những nước tính cộng đồng không cao hoặc dân cư bị chia rẽ. Trong những trường hợp này, kế hoạch hoá có thể thành công trong việc tập hợp nhân dân đằng sau Chính phủ để tiến hành thực hiện những chương trình quốc gia lớn, chẳng hạn như xoá đói giảm nghèo, xoá nạn mù chữ, phòng chống bệnh tật. Khi Chính phủ có bản kế hoạch khả thi và hợp lý t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28835.doc