Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may VN sang thị trường Mỹ

Lời mở đầu Nền kinh tế Việt Nam đã và đang trong tiến trình hội nhập với khu vực và thế giới, với phương châm đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá mối quan hệ kinh tế thông qua con đường xuất khẩu để nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả của sự phát triển. Một trong những thị trường có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển kinh tế thế giới nói chung và kinh tế khu vực nói riêng,đó là Mỹ-nước có nền kinh tế, nền ngoại thương phát triển nhất thế giới và là thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới. Đẩ

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1397 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may VN sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y mạnh xuất khẩu sang thị trường này chẳng những tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập mà còn gia tăng sự phát triển và nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Trong điều kiện hiện nay khi Việt Nam đã gia nhập WTO và Mỹ thông qua quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn với Việt Nam, mở ra nhiều cơ hội cho hàng hoá thâm nhập vào thị trường đầy tiềm năng này. Muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này, trong điều kiện mà nền kinh tế Việt Nam đang ở mức phát triển còn thấp, tính cạnh tranh kém thì phải nghiên cứu kỹ thị trường từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Ngành dệt may nước ta phát triển từ lâu nhưng chỉ thập niên 90 trở lại đây, nó mới thực sự chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng. Trong nhiều năm qua, kinh ngạch xuất khẩu hàng dệt may luôn đạt trên 1 tỷ USD/năm và trở thành mặt hàng chủ lực của Việt Nam. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may liên tục tăng trưởng mạnh nhưng những khó khăn thách thức vẫn còn rất nhiều. Đặc biệt là thị trường Mỹ luôn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam, do đó việc tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích thực trạng, cơ hội, thách thức của ngành dệt may và đưa ra những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ là rất quan trọng. Trong giới hạn bài viết này em xin được trình bày một số hiểu biết của mình về vấn đề trên. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo ThS Nguyễn Mai Thu đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này. Tuy nhiên, do trình độ còn hạn chế, đề án của em không khỏi có thiếu sót. Em rất mong có được sự góp ý, phê bình của các thầy, các cô, các bạn và toàn thể các độc giả. Em xin chân thành cảm ơn ! Nội dung Chương 1: Khái quát mặt hàng dệt may ở Việt Nam và đặc điểm của thị trường Mỹ Ngành dệt may trong nền kinh tế quốc dân Sự phát triển của ngành công nghiệp dệt may có vai trò quan trọng trong cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước ta. Điều này thể hiện rất rõ trong đường lối chính sách của Đảng là công nghiệp hoá hiện đại hoá đi từ công nghiệp nhẹ Việt Nam là một nước đang phát triển tiến hành cuộc công hoá, hiện đại hoá đất nước trong điệu kiện điểm xuất phát thấp. Lợi thế lớn của nhiều nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam trong giai đoạn đầu công nghiệp là lao động giá rẻ, nguyên liệu dồi dào. Vì vậy trong giai đoạn đầu lấy công nghiệp nhẹ làm trọng tâm, Việt Nam cần phát triển mạnh các ngành có khả năng tận dụng những lợi thế có sẵn có bởi lẽ chính các ngành này sẽ nhanh chóng tạo ra một tiềm lực công nghiệp mới, nhanh chóng tạo ra nhiều việc làm góp phần đẩy lùi tình trạng thất nghiệp cao, nhanh chóng có thêm nguồn thu nhập và tích luỹ lớn hơn để chuẩn bị cho việc phát triển các tiềm lực lớn hơn. Điều này được thể hiện rõ nét ở ngành dệt may Việt Nam. Ngành dệt may của Việt Nam đã đạt được những thành công đáng kể trong giai đoạn vừa qua. Tăng trưởng xuất khẩu từ mức thấp đã tăng nhanh: năm 1989 chỉ đạt xấp xỉ 100 triệu USD, năm 1997 và năm 1998 đạt trên 1,4 tỷ USD mỗi năm, tới năm 1999 đã tăng lên 1,76 tỷ USD và năm 2000 đạt khoảng 1,9 tỷ USD, năm 2004 đạt 4,386 tỷ USD, năm 2005 khoảng trên 5 tỷ USD, năm 2006 đạt 5,82 tỷ USD…Hiện nay ngành này đứng thứ hai, chỉ sau dầu lửa về mặt kim ngạch xuất khẩu của cả nước (tạo ra 20% tổng kinh ngạch xuất khẩu, và khoảng 44% kinh ngạch xuất khẩu công nghiệp chế tác). Ngành thu hút gần nửa triệu công nhân (trong đó 80% là lao động nữ) tức khoảng 20% lực lượng lao động làm việc trong ngành công nghiệp chế tác của Việt Nam. Tuy nhiên, trong thế kỷ 21, trước xu thế hội nhập và cạnh tranh gay gắt, ngành dệt may nước ta còn nhiều hạn chế. Vì vậy chúng ta phải tìm ra những giải pháp thúc đẩy nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam Tiềm năng xuất khẩu mặt hàng dệt may vào thị trường Mỹ a. Việt Nam có khả năng cạnh tranh với Trung Quốc và ấn Độ về dệt may Uỷ ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ(ITC) đã nhận định như vậy trong bản báo cáo đánh giá mới đây về khả năng cạnh tranh của các nước xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ sau khi hiệp định dệt may (ATC) hết hiệu lực vào năm 2005. Theo bản đánh giá này Trung Quốc được chọn là nhà cung ứng số một của hầu hết các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ, vì nước này có khả năng sản xuất hầu hết các sản phẩm dệt may ở mọi cấp độ với gí cả cạnh tranh. Tuy vậy tốc độ tăng trưởng của dệt may Trung Quốc sẽ bị hạn chế sau khi (ATC) hết hiệu lực. Để giảm rủi ro do mua từ một nước duy nhất các nhà nhập khẩu Mỹ có kế hoạch mở rộng quan hệ thương mại với các nước có giá thấp khác. Trong đó đặc biệt là ấn Độ, ngoài ra là các nước Nam á, Trung Mỹ Theo phân tích của (ITC) trong số các nước thành viên của ASEAN chỉ có Việt Nam và ở chừng mực thấp hơn Indonesia là có khả năng cạnh tranh với Trung Quốc và ấn Độ, vì hai nước này đều có nguồn lao động rẻ, dồi dào. Tuy nhiên Việt Nam có lợi thế hơn do có nền chính trị ổn định. Có thể thấy thị phần dệt may của nhiều nước tại Mỹ giảm sau khi ATC hết hiệu lực tuy nhiên cũng có thể có những ngoại lệ, đặc biệt ở cấp độ công ty. Điều này thể hiện tầm quan trọng của những mối quan hệ lâu dài giữa các nhà nhập khẩu, nhà bán lẻ với các nhà cung ứng nước ngoài, cũng như hiệu quả, sự linh hoạt và kinh nghiệm của các nhà cung ứng nước ngoài trong sản xuất một số loại sản phẩm nhất định. Hàng dệt may sang Mỹ sẽ thông thoáng hơn do bãi bỏ hạn ngạch b. Những thuận lợi, khó khăn hiện nay trong hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam * Thuận lợi Nguồn lao động dồi dào và giá nhân công rẻ Mỹ xoá bỏ hạn ngạch cho hàng dệt may Việt Nam vào Mỹ Việc gia nhập Tổ choc Thương mại Thế giới (WTO) và thông qua Quy chế Quan hệ thương mại vĩnh viễn (PNTR) như đã tháo gỡ những khó khăn cho ngành dệt may Việt Nam hứa hẹn tạo ra những thay đổi. Khi đã là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ được áp dụng nguyên tắc tối huệ quốc, hàng hoá xuất khẩu vào các nước được đối xử bình đẳng như với 149 nước thành viên. Các doanh nghiệp dệt may có thể xuất khẩu theo khả năng mà không lo về hạn ngạch tại bất kỳ thị trường nào. Như vậy cơ hội mở rộng thị trường của Việt Nam sẽ lớn hơn Môi trường kinh doanh nước ta ngày càng được cải thiện thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động Khi gia nhập WTO các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tập trung đầu tư vào lĩnh vực nguyên phụ liệu, do đó chúng ta sẽ chủ động được lĩnh vực này Khi gia nhập WTO các doanh nghiệp dệt may sẽ phải năng động hơn, hàng dệt may Việt Nam đã có cải tiến về mẫu mã được các khách hàng trong va ngoài nước ưa chuộng Việt Nam đi sâu trong hội nhập kinh tế nên có điều kiện tiếp thu các công nghệ kỹ thuật mới và tiên tiến cũng như tiếp thu những kinh nghiệm của các nước đi trước Phần lớn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường có quy mô vừa và nhỏ nên có những lợi thế mà các doanh nghiệp lớn không có được, như: Linh hoạt và thích nghi dễ dàng với sự biến động của thị trường ; Có khả năng tận dụng mọi thành nguồn lao động khắp các miền của đất nước, từ thành thị đến nông thôn; Không cần vốn lớn, có điều kiện tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận trong hoạt động sản xuất và kinh doanh; Dễ đổi mới trang thiết bị, cải tiến quy trình công nghệ, mẫu mã để mở rộng thị trường; Có điều kiện trợ lực tốt cho các doanh nghiệp quy mô lớn, chẳng hạn như hoạt động dưới dạng chân rết cho các tổng công ty trong sản xuất và kinh doanh. * Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi cơ bản nêu trên, ngành dệt may Việt Nam vẫn còn tồn tại những khó khăn như: Dệt may Việt Nam chủ yếu là gia công cho nước ngoài do đó lợi nhuận đạt được rất thấp trên tổng kim ngạch xuất khẩu. Nguyên liệu phụ cho ngành may chủ yếu vẫn nhập từ nước ngoài làm cho chi phí khá cao và thiếu chủ động Chúng ta chưa xây dựng được một thương hiệu nổi tiếng nào, hàng dệt may xuất ra nước ngoài chủ yếu tồn tại la do có thị trường khe Chúng ta chưa có khả năng thực hiện các hợp đồng lớn Năng suất lao động và trình độ tay nghề công nhân còn thấp, chẳng hạn một công nhân Việt Nam chỉ may được 16 áo sơ mi/ngày, trong khi ở các nước khác là 27 áo/ngày… Trình độ quản lý trong ngành dệt may còn thấp. Hoạt động tiếp thị còn yếu, chưa chủ động thu hút khách hàng và giao dịch trực tiếp. Vừa qua đa số đơn hàng các doanh nghiệp Việt Nam đạt được là do các khách hàng tự tiếp cận và chủ động ký hợp đồng hoặc thông qua một số nước thứ ba làm trung gian giao cho Việt Nam gia công để họ xuất vào thị trường thế giới Khâu thiết kế sản phẩm may mặc còn rất yếu, nên chưa có được các sản phẩm độc đáo và chưa tạo được nhãn hiệu uy tín đối với thị trường thế giới Việt Nam đã và đang phải cạnh tranh ngang bằng với các cường quốc xuất khẩu lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Indonexia, Pakixtan, Hàn Quốc… Hiện nay chính phủ Mỹ đã cam kết sẽ áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt đối với ngành dệt may Việt Nam và áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Đây là khó khăn rất lớn tới Việt Nam vì Mỹ là thị trường chiếm 50% hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. 1.3 Đặc điểm về thị trường dệt may của Hoa Kỳ a. Những nét chung về thị trường Mỹ Vài nét chung: Mỹ là thị trường lớn nhất toàn cầu, với dân số 300 triệu người, thu nhập bình quân đầu người cao, chênh lệch giàu nghèo tương đối lớn. Dân Mỹ được xem là dân có sức tiêu ding lớn nhất trong các nước có nền công nghiệp phàt triển. Theo nghiên cứu của một nhóm chuyên gia Liên Hiệp Quốc thì nếu sức tiêu ding của các gia đình Nhật, EU la 1 thì của các gia đình Mỹ là 1,7. Ngoài ra, nước Mỹ hàng năm xuất khẩu ra thị trường thế giới một giá trị hàng hoá khoảng gần 900 tỷ USD năm 2000, nhiều loại hàng xuất khẩu cần đến nguyên liệu xuất khẩu. Đối với thị trường Mỹ, hiện đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam. Tụi cho rằng trong năm 2004 cỏc doanh nghiệp cần tập trung khai thỏc cú hiệu quả nhất bằng cỏch tăng giỏ trị cỏc mó hàng xuất khẩu cú hạn ngạch, đồng thời tỡm cỏch đẩy mạnh xuất khẩu cỏc mặt hàng chưa bị khống chế hạn ngạch. Theo quy định của Mỹ, cỏc sản phẩm dệt may được chia thành 167 mó hàng riờng lẻ, trong đú riờng hàng may mặc cú tới 106 mó hàng. Trong số 38 mó hàng dệt may Việt Nam bị khống chế hạn ngạch cú tổng cộng 35 mó hàng may mặc (chiếm 33% tổng số mó hàng may mặc vào thị trường Mỹ) và chỉ cú ba mó hàng dệt (chiếm 4,9% tổng cỏc mó hàng dệt). Tớnh chung, tổng số cỏc mó hàng bị khống chế của Việt Nam chỉ chiếm 22,7%. Như vậy vẫn cũn tới 129 mó hàng Việt Nam vẫn cú thể xuất tự do vào thị trường Mỹ mà cỏc doanh nghiệp cú thể tận dụng. Tuy nhiờn, đặc điểm của cỏc cat khụng bị khống chế hạn ngạch là cỏc cat thuộc nhúm nguội, cạnh tranh cao về chất lượng và giỏ cả. Thực tiễn sau khi thực hiện Hiệp định dệt may của Trung Quốc và Cam-pu-chia với Mỹ cho thấy: cú tới 60% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của hai nước này vào thị trường Mỹ nằm ở cỏc mó khụng bị khống chế hạn ngạch. Cỏc doanh nghiệp dệt may Việt Nam hoàn toàn cú thể làm được điều này qua sự chuyển đổi mó hàng sản xuất phự hợp. Núi về đặc tớnh của thị trường Mỹ, bà Heather Variava (Tựy viờn kinh tế Tổng lónh sự quỏn Hoa Kỳ tại thành phố Hồ Chớ Minh ) bật mớ cho cỏc doanh nghiệp Việt Nam ba yếu tố quan trọng cần phải nắm rừ. Đú là người tiờu dựng Mỹ, thị trường hoàn toàn nhập khẩu của thị trường thế giới và thực tiễn làm ăn ở Mỹ. Theo bà Heather Variava, nền kinh tế Mỹ là nền kinh tế tiờu thụ Người tiờu dựng Mỹ cú hiểu biết về kỹ thuật, họ nghiờn cứu, so sỏnh chất lượng cỏc sản phẩm trước khi tiờu dựng nhờ sự phỏt triển của thương mại điện tử. Người tiờu dựng Mỹ thường thớch cú sự lựa chọn đa dạng của sản phẩm, cựng một loại sản phẩm nhưng họ thớch cú nhiều mẫu mó, màu sắc, kớch cỡ khỏc nhau. Cỏc doanh nghiệp Việt Nam cần phải năng động cập nhật sự thay đổi nhanh chúng của thị hiếu người tiờu dựng, đảm bảo uy tớn của thương hiệu. Người Mỹ luụn coi trọng thời hạn giao hàng chớnh xỏc. Thị trường Mỹ phõn khỳc hết sức mạnh mẽ, do vậy cỏc doanh nghiệp Việt Nam cần xỏc định rừ và nhắm loại sản phẩm mỡnh vào một phõn khỳc thớch hợp, để từ đú đề ra chiến lược phự hợp. Bà Heather cũng khuyờn cỏc doanh nghiệp Việt Nam cần nắm rừ sự khỏc biệt văn húa của người Mỹ so với cỏc nước chõu Á và Việt Nam. Doanh nhõn Mỹ thường cú tớnh cỏch đơn giản, khụng cầu kỳ, khỏch sỏo, thẳng thắn núi ra những suy nghĩ của mỡnh. Và ngược lại, họ cũng muốn biết thụng tin rừ ràng, nhất quỏn từ phớa đối tỏc Mỹ là thành viên lâu đời của tổ chức thương mại thế giới WTO, là một nước có nhiều tiêu chuẩn với các ngành kỹ thuật, phương thức kinh doanh chủ yếu la cạnh tranh bằng chất lượng, phân phối dịch vụ, cạnh tranh về giá ít được sử dụng Thị trường Mỹ được đặc trưng bởi hệ thống bán buôn bán lẻ rộng, người tiêu dùng ngày càng có xu hướng sử dụng những sản phẩm có chất lượng cao thân thiện với môi trường và không chấp nhận tăng giá. Hệ thống luật kinh doanh cua Mỹ rất phức tạp vì ngoài luật của Liên bang, còn có luật của tong bang. Cho nên muốn thâm nhập vào thị trường Mỹ cần có sự am hiểu nhất định về hệ thống luật của Mỹ và phải có những bước đi thận trọng Tìm hiểu chính sách ngoại thương của Mỹ: Hiện nay chính sách ngoại thương của Mỹ được thực hiện theo các nội dung chính như sau: Sử dụng trợ cấp cho sản phẩm công nghiệp Không sử dụng các hàng rào thông thường, sử dụng hàng rào kỹ thuật, quy định phân phối Mức thuế quan thấp Mỹ và các nước bạn hàng của Mỹ phải đối xử bình đẳng với nhau trong quan hệ buôn bán. Nếu các nước khác muốn buôn bán sản phẩm và dịch vụ của mình vào thị trường Mỹ thì họ phải để cho Mỹ bán các sản phẩm của Mỹ vào các nước điều kiện như nhau. Nếu các nước khác muốn đầu tư vào các xí nghiệp của Mỹ thì Mỹ cũng yêu cầu họ tạo điều kiện để Mỹ đầu tư vào các nước đó. Nếu các nước khác muốn thành lập công ty tại Mỹ thì Mỹ cũng phải được đến thành lập công ty ở các nước đó và phải được hưởng mức thuế tương tự như công ty của nước sở tại Mức độ cạnh tranh hàng hoá tại thị trường Mỹ: + Tính cạnh tranh của thị trường Mỹ rất cao vì đa số các nước có nền kinh tế hàng hoá phát triển như EU, Nhật, các nước ASEAN, Trung Quốc, ấn Độ…đều lấy Mỹ làm thị trường chủ lực để thâm nhập. Cú một cõu hỏi luụn làm đau đầu cỏc doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu Dệt may Việt Nam là: Tại sao hàng Dệt may Trung Quốc cú giỏ rẻ khụng chỉ tràn ngập thị trường Mỹ, EU mà cũn loang rộng cả cỏc chõu lục? Lý do thật đơn giản vỡ Trung Quốc chủ động được nguồn nguyờn liệu, bụng họ trồng được; hoỏ chất nhuộm và thiết bị sản xuất họ cũng tự tỳc được. Những thuận lợi đú của Trung Quốc cũng là những điểm yếu của Việt Nam. Theo thống kờ, hiện nay Việt Nam vẫn phải nhập khẩu 90% nguyờn liệu bụng, 100% hoỏ chất nhuộm và thiết bị cho ngành dệt. Cú thể núi, đối thủ lớn nhất của hàng Dệt may Việt Nam tại thị trường Mỹ vẫn là Trung Quốc. Hiện nay, Dệt may Việt Nam khụng thể cạnh tranh nổi với Dệt may Trung Quốc. Minh chứng là trong 9 thỏng đầu năm 2005, khi Trung Quốc được bói bỏ hạn ngạch tại thị trường Mỹ, lập tức, Dệt may Trung Quốc tăng trưởng tới 76%, cũn chỳng ta xuất khẩu õm vào thị trường này. Chỉ đến khi Mỹ ỏp dụng biện phỏp tự vệ (ỏp dụng hạn ngạch với 28 mặt hàng Dệt may của Trung Quốc đến năm 2008) thỡ xuất khẩu của Việt Nam mới tăng trưởng trở lại, nhưng cũng chỉ chiếm được 3,2% thị phần Dệt may Mỹ. Như vậy, khi Trung Quốc được bói bỏ hoàn toàn hạn ngạch vào năm 2008, nếu doanh nghiệp Dệt may Việt Nam chuẩn bị khụng tốt thỡ khụng những xuất khẩu vào Mỹ khú tăng, mà khả năng quay trở lại mức tăng trưởng õm cũng dễ trở thành hiện thực. Nguồn tin từ Hiệp hội Nhập khẩu dệt may Mỹ (USA - ITA) cũng cho biết Việt Nam được coi là nguồn cung lựa chọn thứ 2 sau Trung Quốc (nếu Việt Nam khụng cú khú khăn về hạn ngạch), nhất là đối với cỏc cat. 347/348, 647/648, 338/339, 638/639, 340/640. Hiện Việt Nam cú lợi thế là lao động rẻ và chất lượng may tốt hơn so với Ấn Độ (lựa chọn tiếp theo của cỏc nhà nhập khẩu dệt may Mỹ sau Việt Nam). + Phõn tớch cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may VN vào thị trường Mỹ và so sỏnh đơn giỏ với một số nước khỏc Năm 2001 2002 2003 2004 Tổng kim ngạch XK (triệu USD) 49 951 2484 2888 + Giỏ trị XK cú hạn ngạch (triệu USD) 1926 1933 + Giỏ trị XK phi hạn ngạch (triệu USD) 49 951 558 955 + % XK phi hạn ngạch/ tổng kim ngạch XK 22% 33% Đơn giỏ bỡnh quõn (USD/m2) + Trung Quốc 2.96 1.76 1.40 1.25 + Ấn Độ 2.11 1.94 1.93 1.89 + Pakistan 0.88 0.78 0.82 0.84 + Bangladesh 1.89 1.73 1.75 1.85 + Việt Nam 1.51 2.66 3.00 3.14 Do vậy, hầu hết các nhà xuất khẩu xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ đều gặp phải những trở ngại rất lớn từ các đối thủ cạnh tranh đã thâm nhập vào thị trường Mỹ,muốn thâm nhập vào thị trường Mỹ hay chính các doanh nghiệp của Mỹ. b. Biện pháp để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Mỹ Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Mỹ, những bài học rút ra từ nghiên cứu kinh nghiệm của các nước có hàng hoá xuất khẩu sang thị trường này là: Tận dụng lợi thế gần Mỹ và hợp tác kinh tế với Mỹ, tuy nhiên Việt Nam không có lợi thế này như Canada va Mêhico. Tận dụng kiều dân sống ở Mỹ để đẩy mạnh xuất khẩu: Đó là kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Philippines…họ tận dụng hoạt động kinh tế của doanh nghiệp gốc Hoa, gốc Hàn…để làm bàn đạp đưa mạnh hàng hoá vào thị trường Mỹ mà không cần buôn bán qua trung gian. Với những khu vực thương mại của người Hoa ở các thành phố lớn của nước Mỹ mà hàng hoá Trung Quốc, Đài Loan chiếm lĩnh thị trường Mỹ mau chóng và hiệu quả. Việt Nam có thể áp dụng kinh nghiệm này vì chúng ta có rất nhiều kiều bào đang sinh sống ở Mỹ. Nâng cao tính cạnh tranh về giá để chiếm lĩnh thị trường: Đó là kinh nghiệm của Trung Quốc, Thái Lan, Peru…Thật vậy, thị trường Mỹ rất lớn nhưng người Mỹ khá thực dụng: giá rẻ vẫn là mồt trong những yếu tố quan trọng để chiếm lĩnh thị trường, đặc biệt là thị trường bình dân và thu nhập thấp. Chính nhờ chính sách giá rẻ nhưng không vi phạm luật chống bán phá giá của Mỹ mà nhiều mặt hàng như: quần áo, đồ chơi trẻ em, giày dép, hàng dệt kim…của Trung Quốc chiếm thị phần rất lớn ở Mỹ. Đa số hàng dệt may của ta xuất sang Mỹ có giá tương đối cạnh tranh. Đa dạng hoá mặt hàng, cải tiến mẫu mã thường xuyên cũng là biện pháp quan trọng để chiếm lĩnh thị trường Mỹ. Đó là kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc tuy nhiên đây là thách thức lớn đối với Việt Nam. Có chính sách ưu đãi thu hút vốn đầu tư nước ngoài để làm ra hàng xuất khẩu đưa vào thị trường Mỹ: Đó là kinh nghiệm của Trung Quốc và Campuchia: sau khi được hưởng quy chế Tối Huệ Quốc của Mỹ, các nước này giành những ưu đãi về thuế đối với những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có hàng xuất khẩu sang Mỹ, nhờ vậy mà Campuchia thu hút vốn đầu tư từ Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, họ “ đổ xô” đến Campuchia để tận dụng ưu đãi về hạn ngạch của Mỹ giành cho nước này. Nếu năm 1996 doanh số xuất khẩu ngành may của Campuchia chỉ đạt 72 triệu USD ( đây là năm Mỹ bắt đầu cho Campuchia hưởng quy chế Tối Huệ Quốc) thì năm 1999 tăng vọt lên 600 triệu USD ( chiếm hơn 90% kim ngạch xuất khẩu của nước này), 70% số này xuất khẩu sang Mỹ. Nhìn chung, những kinh nghiệm đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ kể trên đều có thể áp dụng ở mức độ khác nhau cho Việt Nam. Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ 2.1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ Kim ngạch xuất khẩu và giá cả. Việt Nam hiện nay đã nằm trong top 10 nước có lượng hàng dệt may xuất khẩu cao của thế giới (năm 2006 xếp vị trí thứ 16). Năm 2004 2005 2006 2007 2008 Đơn vị (tỷ USD) 5,4 4,4 2,95 2,88 2,72 (Biểu đồ kim ngạch xuất khẩu qua một số năm) Theo số liệu của Hoa Kỳ, tính đến hết tháng 10/2006, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã đạt 2,95 tỉ đô la, trong khi tổng kim ngạch cả năm 2004 là 2,72 tỉ và năm 2005 là 2,88 tỉ đô la, năm 2007 đạt 4,4 tỉ đô la. Đối với sản phẩm dệt may, kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ năm 2008 dự kiến đạt 5,4 tỷ USD, tăng 25,6% so với năm 2007. Tuy nhiên, ngành dệt may sẽ phải đối mặt với một thách thức chủ yếu là cơ chế giám sát của Bộ Thương mại Mỹ vẫn được duy trì cho đến hết năm 2008. Với việc bãi bỏ hạn ngạch dệt may vào đầu năm 2007, giới quan sát hy vọng kỷ lục này sẽ tiếp tục được phá vỡ và ngành dệt may Việt Nam sẽ bước sang một giai đoạn mới với nhiều tiềm năng tăng trưởng vượt bậc. Tuy nhiên hiện nay, chúng ta có nguy cơ mất thị trường Mỹ_ thị trường hiện chiếm 55% hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Chính phủ Mỹ đã cam kết sẽ áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt đối với ngành dệt may Việt Nam và áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Theo dự báo trước đây, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam sẽ tăng 15-20% năm, nhưng nếu Mỹ áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt đối với ngành dệt may Việt Nam và áp dụng biện pháp chống bán phá giá, thị mức tăng chỉ còn khoảng 5-7%/năm. Một tín hiệu đáng mừng là từ sau khi Mỹ công bố không khởi động điều tra chống bán phá giá hàng dệt may Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu yên tâm sản xuất, có nhiều đơn đặt hàng và nhiều khách hàng lớn đã quay trở lại, nhưng khó có thể có sự tăng trưởng đột biến trong năm 2008. Có thể nói, đối thủ lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam tại thị trường Mỹ vẫn là Trung Quốc. Minh chứng là trong 9 tháng đầu năm 2005, khi Trung Quốc được bãi bỏ hạn ngạch tại thị trường Mỹ, lập tức dệt may Trung Quốc tăng trưởng tới 76%, còn Việt Nam xuất khẩu âm vào thị trường này. Giá hàng xuất khẩu sang Mỹ giảm nhẹ trong thời gian qua, theo Vụ Kế hoạch- Đầu tư, Bộ Thương mại, giá bình quân các loại mặt hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ trong thời gian qua đã giảm khoảng 3,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là mức giảm thấp, bởi nhiều nhiều nước xuất khẩu cùng loại chủng loại hàng dệt may với Việt Nam có mức giảm tới 40%. Việc Hoa Kỳ bãi bỏ hạn ngạch sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam nhưng lại áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt và biện pháp chống bán phá giá sẽ khiến ngành dệt may Việt Nam phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức, cả hiện tại và tiềm ẩn cũng như các cam kết gia nhập WTO và quy định thông qua PNTR mang đến. Cơ cấu hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ. Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ đa phần là hàng may mặc, chia ra làm hai chủng loại chủ yếu là hàng dệt kim và hàng dệt thường, với kim ngạch xuất khẩu qua các năm như sau: Cơ cấu hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ Mặt hàng 1996 1997 1998 Kim ngạch % Kim ngạch % Kim ngạch % Dệt thường 20,01 84,79 21,96 83,15 24,53 81,22 Dệt kim 3,59 15,21 4,45 16,85 5,67 18,78 Tổng cộng 23,6 100 26,41 100 30,2 100 Nguồn: Tạp chí ngoại thương Số liệu trên cho ta thấy hàng dệt thường của Việt Nam chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ. Một trong những nguyên nhân, ngoài thị hiếu của công chúng Mỹ đối với hàng dệt may thường, là do thực trạng công nghệ dệt Việt Nam đang chú ý đổi mới trang thiết bị, lắp đặt các dây chuyền sản xuất đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và gia tăng hiệu quả sản xuất mặt hàng dệt kim vì lý do mặt hàng này có hiệu quả kinh tế hơn. Các phương pháp thâm nhập thị trường Mỹ mà Việt Nam đã áp dụng đối với hàng dệt may Việt Nam hiện nay đang áp dụng các phương thức thâm nhập thị trường Mỹ như sau: Bán trực tiếp cho các nhà kinh doanh Mỹ ở những mặt hàng có mức thuế suất nhập khẩu chênh lệch không nhiều so với Quy chế tối huệ quốc. Gia công trực tiếp nhưng rất ít; Gia công và bán qua trung gian các nước thứ ba như Hong Kong, Đài Loan, Singapore. 2.2 Những khó khăn của sản phẩm dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ. a. Điểm yếu của hoạt động xuất khẩu ngành may: Giá thành may mặc còn cao vì năng suất lao động của công nhân ngành may còn thấp hơn so với một số nước trong khu vực; công nghệ, thiết bị máy móc vẫn còn thua so với các đối thủ cạnh tranh; nguyên vật liệu ngành may chủ yếu còn phụ thuộc vào nhập khẩu làm giá thành nguyên vật liệu cao. Phần lớn trị giá thành xuất khẩu hàng may mặc thực hiện qua phương thức gia công, trong khi đó thị trường Mỹ chủ yếu thực hiện nhập khẩu trực tiếp ( mua đứt,bán đoạn sản phẩm). Sản phẩm may của Việt Nam chưa có thương hiệu nổi tiếng thế giới. Tiêu chuẩn hóa chất lượng sản xuất chưa được coi trọng do xuất khẩu gia công, nên công tác thiết kế mẫu mã chưa được coi trọng. Trình độ tiếp thị yếu, phụ thuộc vào phía đối tác nước ngoài đặt gia công. Tay nghề công nhân chưa cao, vì đây được coi là ngành có sự dich chuyển lao động lớn (hậu quả do chế độ tiền lương thấp). Am hiểu về thị trường Mỹ chưa nhiều. b. Những khó khăn do quy định ngặt nghèo của Mỹ: Luật pháp Mỹ quy định rất chặt chẽ về chất lượng sản phẩm, về nhãn mác hàng hoá, về chứng nhận xuất xứ hàng dệt may; Sản phẩm dệt may không được ảnh hưởng đến sức khoẻ của người tiêu dùng, chănge hạn sản phẩm có nguồn gốc từ động vật phải được kiểm tra thật kĩ lưỡng để không lây lan mầm bệnh từ vật sang người…Tất cả hàng hoá xuất sang Mỹ phải đáp ứng các quy định an toàn, sức khỏe cộng đồng Liên bang cũng như yêu cầu từng khách hàng đặt ra. Điều quan trọng là người bán phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu cần thiết như thông báo trong danh mục an toàn sản phẩm. Chính phủ Mỹ có thể yêu cầu ngừng hoạt động nhập khẩu, hoạt động bán hàng đối với những sản phẩm có lỗi, và yêu cầu bồi thường nếu nó gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu dùng. CPSC có chức năng đưa ra các quy định an toàn sản phẩm và các quy định này bảo vệ người tiêu dùng tránh khỏi các sản phẩm không an toàn và đặt trách nhiệm này lên các nhà sản xuất, nhập khẩu và bán lẻ. CPSC đưa ra các yêu cầu báo cáo chặt chẽ đối với các nhà sản xuất, nhà phân phối và nhà bán lẻ các sản phẩm đã được liệt kê ra, kết hợp với đạo luật liên quan vấn đề thương tật và tử vong. Hơn nữa CPSC còn áp dụng mức phạt rất nặng đối với các nhà sản xuất, nhà nhập khẩu và nhà bán lẻ có hanh vi vi phạm. Vì vậy sẽ không có một chuyến giao hàng nào được thực hiện cho đến khi người mua nhận được kết quả kiểm tra liên quan đến an toàn sản phẩm. Tất cả các loại vải 100% bông, tơ, gai, axêtat hoặc lụa và vải pha ó chứa các loại sợi kể trên với trọng lượng nhỏ hơn 2,6oz/sq yd. Tất cả các loại vải cào tuyết 100% bông hoặc tơ và các loại vải pha khác từ các loại sợi này. Tất cả màu sắc đều phải kiểm tra vì nhuộm ở những lần khác nhau gây ảnh hưởng đến tỷ lệ đốt cháy vải cào tuyết. Hiện tại hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ không phải chịu hạn ngạch, tuy nhiên lại áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt và biện pháp chống bán phá giá sẽ khiến ngành dệt may Việt Nam gặp phải không ít khó khăn. Đại diện Thương mại và Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ cam kết định kỳ sáu tháng sẽ tiến hành rà soát kết quả giám sát để xem xét bằng chứng phục vụ việc tiến hành điều tra chống bán phá giá đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam. Nếu thấy có đủ bằng chứng và tình hình diễn biến nghiêm trọng thì Hoa Kỳ sẽ đánh thuế chống bán phá giá tạm thời trên cơ sở hồi tố. Chừng nào Việt Nam vẫn còn bị coi là nền kinh tế phi thị trường ( muộn nhất là đến 31/12/2018 theo đoạn 255(d) trong báo cáo của Ban công tác) thì Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ sử dụng số liệu của một nước khác để phục vụ chương trình giám sát này. Cũng trong thư này, Chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận sẽ đặc biệt lưu ý tới các nhóm hàng quần, áo sơ mi, đồ lót, đồ bơi và áo thun len ( chiếm khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào Hoa Kỳ). Mỹ ít thực hiện gia công mà mua đứt bán đoạn ở sản phẩm dệt may. 2.3. Cơ hội và thách thức của ngành dệt may Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Cơ hội Từ ngày 1/1/2007 Việt Nam được Hoa Kỳ xoá bỏ hạn ngạch về dệt may tạo cơ hội lớn cho ngành dệt may. Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, sẽ được áp dụng nguyên tắc tối huệ quốc và sẽ được đối xử bình đẳng với các nước thành viên nói chung va Mỹ nói riêng. Mỹ thông qua quy chế thương mại bình thường với Việt Nam Nguồn lao động của Việt Nam khá dồi dào. Hệ thống doanh nghiệp nước ta đã dần lớn mạnh và đang tích cực chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà nước có những chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu và rất quan tâm đến thị trường Mỹ do đây là thị trường lớn và có nhiều tiềm năng nhập khẩu. Vị trí địa lý và điều kiện giao hàng khá thuận lợi để giao lưu buôn bán với các nước kể cả với Mỹ. Thách thức. Mặc dù hàng dệt may Việt Nam có nhiệu cơ hội xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhưng thách thức mà Việt Nam gặp phải cũng không ít: Doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thể phải đối đầu với rất nhiều rào cản ngặt nghèo mới. Bộ Thương mại Mỹ đã áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt và áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng dệt may Việt Nam. Cụ thể hàng tháng, phía Mỹ sẽ khảo sát số lượng, giá cả hàng dệt may Việt Nám xuất sang thị trường này và so sánh với nước thứ ba nhằm đưa ra bằng chứng để điều tra chống bán phá giá (nếu có bằng chứng) Năm mặt hàng dệt may Việt Nam nằm trong “tầm ngắm” của việc áp thuế chống bán phá giá, gồm: áo sơ mi, áo thun len, quần dài, đồ bơi và đồ lót. Đây là những mặt hàng chủ yếu được nhập khẩu, rất ít được sản xuất từ Mỹ. Ngoài ra, phía Mỹ cũng sẽ giám sát chặt chẽ việc nhập khẩu hàng dệt may định kỳ 6 tháng/lần mà theo chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam nhìn nhận, cứ theo quy tắc này thì bất cứ lúc nào phía Mỹ cũng có thể áp mức thuế cao để ngăn chặn hàng dệt may từ Việt Nam. Yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá đối với ngành may rất cao, lên đến 60% trong khi tỷ lệ nội địa hoá thực tế còn thấp hơn nhiều, do chất lượng vải của ta còn quá kém, nên hầu hết nguyên liệu sử dụng cho ngành may xuất khẩu hiện nay đều phải nhập. Khâu thiết kế mẫu mã sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Bên cạnh đó, tỷ lệ sử dụng nguyên phụ liệu trong nước để sản xuất ra sản phẩm dệt may còn thấp. Nguồn nhân lực trình độ cao còn hạn chế, đặc biệt là nguồn nhân lực cho khâu thiết kế, chúng ta chưa tạo ra được những thương hiệu mạnh. Mỹ không đặt hàng nhỏ lẻ. Một đơn hàng của Mỹ có thể lên tới cả triệu sản phẩm mà thời gian cung ứng hàng lại rất nhanh. Do vậy, cần đưa năng lực sản xuất của các doanh ng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc27984.doc