Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến và xuất khẩu hàng hoá ở một số ngành sản phẩm cụ thể

Mục lục Trang Lời mở đầu 2 Chương I Vai trò của việc phát triển xuất khẩu và công nghiệp chế biến đối với nền kinh tế và đối với nước ta 1. Vai trò của công nghiệp chế biến đối với nền kinh tế và đối với nước ta. 1.1 Hoạt động sản xuất chế biến. 1.2 Vị trí công nghiệp chế biến trong cơ cấu ngành công nghiệp 1.3 Vai trò công nghiệp chế biến đối với nền kinh tế và đối với nước ta. 2. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế và đối với nước ta. 2.1 xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến và xuất khẩu hàng hoá ở một số ngành sản phẩm cụ thể, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước. 2.2 xuất khẩu góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển 2.3 xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. 2.4 xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. 3. Mối quan hệ công nghiệp chế biến và xuất khẩu đối với nền kinh tế và đối với nước ta. Chương II Thực tế công nghiệp chế biến và xuất khẩu ở một số ngành sản phẩm cụ thể 1.Tình hình sản xuất, chế biến ở một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu 1.1 Ngành nông sản chế biến 1.2 Về thị trường xuất khẩu các nông sản. 1.3 Ngành thuỷ sản : 1.4.Ngành dệt may. 1.5 Ngành da giầy: 2.Những hạn chế về công nghiệp chế biến và xuất khẩu ở một số ngành sản phẩm . 2.1 Hàng ở ngành nông sản 2.2 Ngành dệt may. 2.3 Ngành da giầy Chương 3 Giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến và xuất khẩu hàng hoá ở một số ngành sản phẩm cụ thể 1. Giải pháp đẩy mạnh công nghiệp chế biến và xuất khẩu ngành nông sản 2 Giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến và xuất khẩu ở ngành dệt may 2.1 Củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu: 2.2 Thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư 2.3 Nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu, từng bước tạo tiền đề chuyển sang xuất khẩu trực tiếp, giảm tỷ trọng gia công xuất khẩu sang nước thứ ba. 2.4 Nâng cao khả năng canh tranh của sản phẩm. 2.5. Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu: 3. Giải pháp đẩy mạnh công nghiệp chế biến và xuất khẩu ở ngành da giầy 4. ý kiến đề xuất Kết luận Tài liệu tham khảo Lời mở đầu T rong những năm vừa qua nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và nhà nước cùng với sự lỗ lực, cố gắng của toàn dân, kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. tổng kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng. Tuy nhiên hàng hoá xuất khẩu của Việt nam phần lớn ở dạng thô, sơ chế nên giá trị xuất khẩu thường thấp khả năng cạnh tranh đáp ứng nhu cầu thị trường còn hạn chế. Hơn nữa một số mặt hàng tuy đạt kim ngạch xuất khẩu cao như nông sản, may mặc, giầy dép nhưng phần lớn là hàng gia công theo đơn đặt hàng nên giá trị thực thu ngoại tệ còn thấp. Do đó đẩy nhanh tiêu thụ sản phẩm công nghiệp chế biến theo hướng xuất khẩu nhằm tận dụng nguồn lực hiện có về lao động, tài nguyên thiên nhiên... nhằm nâng cao tỷ trọng hàng qua chế biến sâu. Trong cơ cấu tỷ trọng hàng xuất khẩu từ đó tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá của Việt nam trên thị trường trong nước và quốc tế là một vấn đề có tính chiến lược như quan điểm của Đảng ta đã định rõ “Xây dựng nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và thế giới. Hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”. Qua đó vấn đề đẩy nhanh tiêu thụ công nghiệp chế biến theo hướng xuất khẩu không phải là vấn đề riêng của các doanh nghiệp mà còn là vấn đề chung cho toàn xã hội. Đó là lý do em chọn đề tài này nghiên cứu để hoàn thiện thêm kiến thức cho bộ môn chuyên nghành Quản Trị kinh doanh tổng hợp. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng trong bài viết này em không tránh khỏi những khiếm khuyết em rất mong nhận được những ý kiến nhận xét, đánh giá của thày giáo để bài viết sau của em được hoàn thiện hơn. Qua đây em xin chân thành cảm ơn thạc sỹ Nguyễn Mạnh Quân về những ý kiến nhận xét, đóng góp thiết thực của thầy để em có thể hoàn thành bài viết này. Chương I Vai trò của việc phát triển xuất khẩu và công nghiệp chế biến đối với nền kinh tế và đối với nước ta 1. Vai trò của công nghiệp chế biến đối với nền kinh tế và đối với nước ta. 1.1 Hoạt động sản xuất chế biến. Hoạt động sản xuất, chế biến là hoạt động làm thay đổi hoàn toàn về chất của các nguồn nguyên liệu nguyên thuỷ để tạo ra các sản phẩm trung gian và tiếp tục chế biến thành các sản phẩm cuối cùng đưa vào tiêu dùng trong sản xuất và tiêu dùng trong đời sống. + Nguyên liệu nguyên thuỷ chính là các sản phẩm của các ngành công nghiệp khai thác và của ngành nông nghiệp. + sản phẩm trung gian là các sản phẩm được coi là nguyên liệu cho quá trình sản xuất, chế biến tiếp theo. + sản phẩm cuối cùng là sản phẩm đã ra khỏi quá trình sản xuất, chế biến để đưa vào sử dụng hoặc tiêu dùng trong đời sống. Hoạt động sản xuất, chế biến là một trong ba hoạt động chủ yếu của công nghiệp đó là: + Khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên tạo ra nguồn nguyênliệu nguyên thủy + sản xuất và chế biến các nguyên liệu nguyên thuỷ thành những sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu khác nhau của xã hội. + Khôi phục giá trị sử dụng của sản phẩm được tiêu dùng trong quá trình sản xuất và trong sinh hoạt. 1.2 Vị trí công nghiệp chế biến trong cơ cấu ngành công nghiệp Căn cứ vào tính chất biến đổi đối tượng lao động trong quá trình tạo ra sản phẩm và vị trí sản phẩm trong việc tạo ra sản phẩm cuối cùng toàn bộ sản xuất công nghiệp được chia thành hai nhóm ngành lớn đó là công nghiệp khai thác và công nghiệp chế biến. Công nghiệp khai thác bao gồm các ngành khai thác các quặng kim loại, phi kim loại, dầu khí, gieo trồng hoặc khai thác các nguồn nguyên liệu nông lâm thuỷ hải sản. Công nghiệp chế biến bao gồm các ngành sản xuất và các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng tuỳ theo đặc điểm nhu cầu của xã hội. Mối quan hệ giữa công nghiệp khai thác và công nghiệp chế biến được thể hiện qua mô hình sau: Sp cuối cùng tiêu dùng trong SX và đời sống Nguồn nguyên liệu tái sinh Tái sinh lần thứ n Tái sinh lần thứ 1, 2...i Thu hồi và xử lý phế thải Nguồn nguyên liệu tái sinh tiềm tàng Phế thải SX tiêu dùng Chế biến lần thứ n Chế biến lần thứ 2 Chế biến lần thứ 1 Khai thác tài nguyên Chế biến lần thứ n Thu hồi và xử lí phế thải Chế biến lần thứ 3,4,...n 1.3. Vai trò công nghiệp chế biến đối với nền kinh tế và đối với nước ta. Công nghiệp chế biến là một trong những ngành sản xuất vật chất có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân vị trí đó xuất phát từ những lý do chủ yếu sau. + Công nghiệp chế biến là một bộ phận hợp thành cơ cấu công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ do những đặc điểm vốn có của nó nên trong quá trình phát triển nền kinh tế lên sản xuất lớn công nghiệp chế biến phát triển từ vị trí thứ yếu trong giá trị sản phẩm hàng hoá thành ngành có giá trị lớn trong giá trị sản phẩm hàng hoá + Mục tiêu cuối cùng của nền sản xuất xã hội là tạo ra sản phẩm để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất công nghiệp chế biến là ngành chế biến các loaị nguyên liệu nguyên thuỷ được khai thác và sản xuất từ các loại tài nguyên khoáng sản, động thực vật thành các sản phẩm trung gian. Để sản xuất ra các sản phẩm cuối cùng nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất tinh thần cho con người. Sự phát triển công nghiệp chế biến trong cơ cấu công nghiệp là một yếu tố có tính quyết định để thực hiện qúa trình công nghiệp hoá hiện đại hoá toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển nền kinh tế lên nền sản xuất lớn tuỳ theo trình độ phát triển của bản thân công nghiệp chế biến và của toàn bộ nền kinh tế, xuất phát từ những điều kiện và đặc điểm cụ thể của mỗi nước, mỗi thời kỳ cần xác định đúng đắn vị trí của công nghiệp chế biến trong cơ cấu công nghiệp và trong nền kinh tế quốc dân hình thành phương án cơ cấu công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ và định hướng chuyển dịch cơ cấu hiệu quả đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc tổ chức nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước. Đối với nước ta cơ cấu công nông nghiệp đang là bộ phận cơ cấu kinh tế quan trọng nhất Đảng ta đã có chủ trương xây dựng nền kinh tế nước ta có cơ cấu kinh tế công nông nghiệp hiện đại và chuyển dịch cơ cấu đó theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá vì vậy vai trò công nghiệp chế biến trong quá trình phát triển nền kinh tế lên sản xuất lớn là một yếu tố khách quan. Trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta theo định hướng XHCN công nghiệp chế biến trong cơ cấu công nghiệp luôn giữ vai trò chủ đạo, vai trò chủ đạo của nó được thể hiện là: Trong quá trình phát triển nền kinh tế công nghiệp chế biến là ngành có khả năng tạo ra động lực và định hướng sự phát triển của ngành kinh tế khác lên nền sản xuất lớn. Sự phát triển công nghiệp chế biến dẫn theo những điều kiện tăng nhanh tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ đó vào sản xuất làm cho quá trình sản xuất sản phẩm hoàn thiện hơn nhờ đó lực lượng sản xuất công nghiệp phát triển nhanh hơn các ngành kinh tế khác. Do qui luật “quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ và tính chất phát triển của lực lượng sản xuất” Trong công nghiệp có được hình thức quan hệ sản xuất tiên tiến tính tiên tiến về các hình thức quan hệ sản xuất, sự hoàn thiện nhanh về các mô hình tổ chức sản xuất đã làm cho công nghiệp có khả năng định hướng cho các ngành kinh tế khác tổ chức sản xuất đi lên nền sản xuất lớn theo hình mẫu theo kiểu công nghiệp. Trình độ phát triển lực lượng sản xuất trình độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ hoàn thiện về tổ chức. Tổ chức hình thành một đội ngũ lao động có tính tổ chức, tính kỷ luật và trình độ trí tuệ cao, cộng với tính đa dạng của hoạt động sản xuất công nghiệp chế biến là một trong những ngành đóng góp phần quan trọng vào việc tạo ra thu nhập quốc dân, tích luỹ vốn để phát triển nền kinh tế từ đó công nghiệp chế biến có vai trò quan trọng góp phần vào việc giải quyết những nhiệm vụ có tính chiến lược của nền kinh tế xã hội như tạo công ăn việc làm cho lực lượng lao động, xoá bỏ sự cách biệt thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi... Trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay Đảng ta đã chủ trương coi “nông nghiệp là mặt trận hàng đầu” giải quyết về cơ bản vấn đề lương thực cung cấp nguyên liệu động thực vật để phát triển công nghiệp chế biến và thúc đẩy nông sản hàng hoá nhằm tạo ra những tiền đề để thực hiện công nghiệp hoá. Để thực hiện được những nhiệm vụ cơ bản đó công nghiệp chế biến phát triển ở mức độ cao nhằm phát triển công nghiệp nông thôn đưa nông nghiệp lên nền sản xuất hàng hoá 2. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế và đối với nước ta. Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập, ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển các hạ tầng là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu. Khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước. 2.1 xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo, và chậm phát triển của nước ta, để công nghiệp hoá đất nước trongmột thời gian ngắn đòi hỏi phải có một số vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể hình thành từ các nguồn như: + Đầu tư nước ngoài + Vay nợ, viện trợ + Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ + Xuất khẩu sức lao động Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ ... Tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hoá đất nước là xuất khẩu. xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu: ở nước ta thời kỳ 1986 – 1990 nguồn thu về xuất khẩu bằng tổng ngoại tệ. Và thu về xuất khẩu năm 1994 đảm bảo được 80% nhập khẩu so với 24,6% năm 1986. Trong tương lai nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu của ta đó là nguồn vốn duy nhất để trả nợ và trở thành hiện thực. 2.2 xuất khẩu góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ đó là thành quả của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là: xuất khẩu chỉ làm việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng nếu chỉ thụ động chờ ở sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. Hai là: coi thị trường , đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất quan điểm thứ hai chính là xuất phát từ nhu cầu thị trường thế giới để tổ chức sản xuất điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi chẳng hạn khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo ra cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu dầu thực vật, chè... có thể sẽ kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó. Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất nâng cao năng lực sản xuất trong nước Xuất khẩu tạo ra tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và ký thuật công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt nam, nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước tạo ra một năng lực sản xuất mới. Thông qua xuất khẩu hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với thị trường. 2.3 Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt trước hết đến sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp. xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân sự phát triển của ngành công nghiệp hướng vào xuất khẩu tạo ra một khả năng mới thu hút một lực lượng lao động ngày càng lớn góp phần vào giải quyết vấn đề gay gắt: vấn đề việc làm đây là hướng giải quyết tình trạng thất nghiệp, đưa một bộ phận chưa có việc làm, gánh nặng của nền kinh tế tham gia vào sự phân công lao động quốc tế dưới dạng “xuất khẩu tại chỗ” . Mặt khác một khía cạnh hết sức có ý nghĩa là chính nhờ cách sử dụng lao động thông qua việc phát triển các ngành công nghiệp xuất khẩu nhằm giải quyết nhu cầu khắt khe của khách hàng và sản xuất ra các sản phẩm có trình độ kỹ thuật đạt tiêu chuẩn quốc tế mà một lao động được đào tạo, rèn luyện về trình độ kỹ thuật và chuyên môn ngành nghề. Đây là cơ sở để mở ra một hướng mới là tăng cường cho sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật cao. Đó cũng là một tiền đề để nền kinh tế có một bước chuyển về chất từ nông nghiệp, công nghiệp sang công nông nghiệp. Xuất khẩu còn góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Việc đưa các nguồn tài nguyên này tham gia vào sự phân công lao động quốc tế thông qua sự phát triển các ngành chế biến xuất khẩu góp phần nâng cao giá trị của hàng hoá. Giảm bớt những thiên tai do điều kiện ngoại thương ngày càng trở nên bất lợi cho hàng hoá và nguyên liệu thô xuất khẩu. 2.4 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại có thể hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động đối ngoại mặt khác tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển chẳng hạn xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư mở rộng vận tải quốc tế mặt khác chính các quan hệ kinh tế đối ngoại chúng ta vừa kê lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu. Tóm lại: thúc đẩy xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước. 3. Mối quan hệ công nghiệp chế biến và xuất khẩu đối với nền kinh tế và đối với nước ta. Đẩy mạnh xuất khẩu là công tác hàng đầu, vì có đẩy mạnh xuất khẩu thì mới có ngoại tệ tăng nhập khẩu thanh toán nợ quốc tế, trả vốn và lời đầu tư cho nước ngoài tránh được các khủng hoảng kiểu Mexico, Thái Lan do nợ ngắn hạn, đáo hạn không thanh toán được gây ra. Tuy nhiên việc đẩy mạnh xuất khẩu không theo đường nối mấy năm gần đây là nhằm vào việc tăng gia xuất khẩu nông khoáng sản rẻ tiền mà nên giữ lại để chế biến thành hàng cấp cao hơn và xuất khẩu ra nước ngoài. Thí dụ thay vì xuất khẩu hạt điều thô chúng ta tự làm lấy một số máy để chế biến điều thành ra những thành phẩm xuất khẩu, giá cao hơn xuất khẩu thô khoảng 30% và tạo công ăn việc làm cho nhiều người. Tương tự như trên thay vì trồng lúa xuất khẩu gạo có thể trồng bắp lai năng suất cao hơn nhiều, sau đó dùng bắp nuôi gà, vịt, heo, thuỷ sản xuất khẩu vì thịt, sữa, trứng, thuỷ sản giá cao hơn gấp khoảng 10 lần các nông sản thô mà lại khỏi phải nhập khẩu hàng 3 triệu tấn phân mỗi năm do giữ lại được phân chuồng bón cho cây. Thay vì xuất khẩu cao su thô nên xuất khẩu dưới dạng vỏ ruột xe ôtô, vỏ xe gắn máy sẽ thu được ngoại tệ gấp 10 lần so với xuất khẩu thô và tạo công ăn việc làm cho nhiều chục vạn người. Thay vì xuất khẩu khoai, mỳ khô có thể xuất khẩu dưới dạng TAPIOCA, bột ngọt và nhiều thành phẩm khác. Xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến như máy ĐIESEL, xe gắn máy, xe ôtô, máy photocoppy ... Việc xuất khẩu các hàng hoá này là đặc quyền của các nước công nghiệp. Tuy nhiên các nhà máy lỗi thời rất mau, nếu Việt nam trang bị máy tốt, thì nếu chưa làm được ô tô nguyên chiếc ít ra cũng có thể làm được một số bộ phận của xe ôtô như các bánh xe. Do máy móc tối tân và do công nhân Việt nam lương thấp, cau su có tại chỗ, các bánh xe làm ra có thể tốt bằng hay hơn bánh xe nước ngoài và giá rẻ hơn như vậy Việt nam có thể xuất khẩu bánh xe ôtô hoặc một số bộ phận khác trong xe như bình ắc quy, đèn xe... Những thí dụ trên có thể kể thêm nhiều muốn đạt được mục tiêu trên cần phải có một khu vực I có khả năng sản xuất các thiết bị máy móc ... Việt nam hiện nay có nhiều tri thức, kỹ sư chưa có việc làm công suất sản xuất sắt và xi măng lên đến nhiều triệu tấn không sử dụng được vì hàng làm ra không bán được hết. Chỉ cần có chính sách sử dụng trí thức phù hợp Ngân hàng áp dụng chính sách tiền Keynes “mềm” in thêm tiền lập các nhà máy lọc dầu, vỏ xe ôtô, trại nuôi tôm giống ... thì một quá trình kinh tế phồn vinh sẽ bột phát ngay. Tăng gia xuất khẩu hàng chế biến là phương thức tốt nhất để đẩy mạnh xuất khẩu Việt nam tránh được tình trạng nông khoáng sản bị ép giá khi các nước kém mở mang giữ các nông khoáng sản lại tự chế biến lấy và với tiền lương công nhân rẻ hơn, sẽ làm ra các hàng công nghiệp với giá thấp hơn, thì ưu thế của các nước công nghiệp như Nhật, sống nhờ nhập khẩu nông khoáng sản với giá rẻ và xuất khẩu hàng công nghiệp với giá cao sẽ cáo chung. Giá nông khoáng sản này khoáng sản tự nhiên được nâng cao vì các nước kém mở mang giữ lại trong nước để xuất khẩu dưới dạng chế biến chứ không còn xuất khẩu dưới dạng thô. Chương II THực tế công nghiệp chế biến và xuất khẩu ở một số ngành sản phẩm cụ thể Tình hình sản xuất, chế biến ở một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu Trong giai đoạn 1991- 1995 giá trị tổng sản lượng công nghiệp chế biến nông sản liên tục tăng, tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 10% là ngành chiếm tỉ lệ 34-36% trong giá trị sản lượng công nghiệp. Giá trị xuất khẩu hàng nông lâm sản từ 1991- 1995 chủ yếu dưới dạng thô và sơ chế chiếm khoảng 75% giá trị xuất khẩu riêng hàng nông sản chiếm khoảng 72% đã xâydựng được một số ngành công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu quy mô trung bình phục vụ cho một số ngành sản xuất hàng hoá tập trung như may mặc, giày dép, chế biến tơ tằm, rau quả, thịt, nhân điều, cà phê, cau su... Trong những năm gần đây trong cơ chế hàng xuất khẩu, tỷ trọng hàng qua chế biến trong đó có chế biến tinh sâu đã chuyển dịch theo hướng tích cực trong giai đoạn 1991- 1995 chỉ khoảng 15%, năm 1996 chiếm 29%, năm 1997 là 36,5%, năm 1998 là 40,3%, năm 1999 đã là 44% (lấy tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp). Đáng kể ở bốn nhóm hàng dệt may, giầy dép, nông sản, điện tử chiếm tỉ trọng 35,6% là mặt hàng chế biến có khối lượng lớn tốc độ tăng trưởng nhanh với chất lượng đáp ứng nhu cầu thị trường thế giới. Ngoài ra còn nhiều chủng loại hàng chế biến tuy chất lượng một số thị trường chấp nhận nhưng số lượng xuất khẩu chưa lớn như Bia Sài Gòn xuất sang thị trường Mỹ, bột giặt xuất sang Irăc, Trung Quốc, sứ vệ sinh, bánh kẹo. Cùng với sự gia tăng về kim ngạch thị trường xuất khẩu cũng được mở rộng từ những năm 1990 trở về trước Việt nam có quan hệ thương mại với 40 nước, đến năm 1995 đã tăng lên đến 105 nước và tổ chức quốc tế, trong đó Việt nam đã ký hiệp định thương mại với 60 nước Ngành nông sản chế biến Năm Gạo (1000 tấn) Cà phê (tấn) Cau su (tấn) Chè (tấn) Hồ tiêu (tấn) Điều (1000 tấn) Rau quả (1000 tấn) 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 TTBQ 1420 1624 1033 1946 1722 1983 1988 3003 3684 3720 4400 12% 57417 89583 93471 116175 122660 176385 248087 283000 390000 390000 400000 21,4% 57703 75875 62947 81927 96667 135532 138105 194000 197000 191000 200000 13,2% 15016 16076 7953 12967 21196 23502 18825 20800 31500 33500 37000 9,4% 7551 8995 16252 22347 14872 15985 17950 25300 26000 23500 -------- 13,6% 5,8 24,7 30,6 51,7 47,7 81,3 98,8 23 32 26 17 11,4% 66646 52328 33173 32255 23613 20820 56119 -------- 68000 57000 74000 1,1% Nguồn niên gián thống kê- Tổng cục thống kê. Qua bảng số liệu trên cho thấy thời gian qua ,khối lượng xuất khẩu một số mặt hàng nông sản đang tăng lên nhanh chóng và chở thành những mặt hàng chiến lược,vì có sức cạnh tranh cao của việt nam như là: * Cà phê: Là mặt hàng có tốc độ tăng xuất khẩu lớn nhất 21,4%,tính đến thời điểm này Việt nam là nước đứng đầu châu á và đứng thứ ba thế giới sau Braxin và Côlômbia về xuất khẩu cà phê. Riêng xuất khẩu cà phê buruta Việt nam đứng đầu thế giới , chiếm tỷ trọng 7% khối lượng giao thương quốc tế. Trên thực tế với 7% này cùng với sự điều tiết xuất khẩu trong từng thời kì chúng ta có khả năng tác động vào giá cà phê quốc tế ở vị thế khá cao,cà phê Việt nam có mặt hầu hết trên thị trường thế giới. Năm 1999 lượng ngoại tệ thu về đạt 592 triệu USD, tuy nhiên 98% lượng cà phê xuất khẩu là cà phê nhân. * Cau su: Mấy năm gần đây cây cao su đã chở thành loại cây có giá trị kinh tế cao (Sau cây cà phê ) theo báo cáo của tổng công ty cau su Việt nam hiện nay diện tích vườn cau su đang kinh doanh trên 154.000 ha , sản xuất được 185.000 tấn mủ với doanh thu xấp xỉ 115 triệu USD . Trong đó xuất khẩu đạt 97 triệu USD (1999) ,mặc dù năm 1999 diễn biến thị trường cau su thế giới có nhiều thất thường có những lúc xuống đến mức thấp nhất.Trong vòng ba thập kỷ trở lại đây đã ảnh hưởng lớn đến quá trình sản xuất kinh doanh của toàn ngành,thế nhưng tổng công ty vẫn đạt lợi nhuận gần 8 triệu USD do ngành cau su đã có sự chuyển đổi cơ cấu sản phẩm phù hợp. Trong những năm qua công suất chế biến loại mủ chất lượng cao như SVR3L (Của 30 nhà máy trực thuộc công tổng công ty cau su ) lên đến 186.000 tấn chiếm 83%tổng công suất (225.000 tấn). Đây chính là loại sản phẩm có nhu cầu rất ít trên thị trường thế giới ,chỉ khoảng 3%-5% tổng nhu cầu tương đương với 200-300 ngàn tấn/năm. Trong khi đó loại mủ SVR10,2 là loại mủ được tiêu thụ chính trên thị trường thế giới thì công suất của chúng ta chỉ đạt 26 ngàn tấn/năm. Đứng trước tình hình đó tổng công ty cau su đã từng bước thực hiện các biện pháp như là: không mở rộng nhà máy sản xuất loại SVR3L, mà tăng lượng sản phẩm SVR 10,20 bằng cách xây dựng thêm các nhà máy mới, đổi mới công nghệ, chủ động đánh đông mủ tại vườn cây để tạo nguồn nguyên liệu cho chế biến loại sản phẩm SVR 10,20 sao cho tới năm 2010 sẽ có thêm 50% loại mủ SVR 10,20 đó chính là cơ sở để mặt hàng cau su của ta có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, là cơ sở để sản lượng cau su xuất khẩu đạt tốc độ tăng trưởng 13,2%/năm. * Hạt điều: Trong giai đoạn 1989-1995 tốc độ xuất khẩu tăng bình quân hàng năm là 62%, mấy năm lại gần đây sản lượng kim ngạch xuất khẩu hạt điều liên tục giảm năm 1995 là 98,8 nghìn tấn năm 1999 là 17 nghìn tấn làm cho tốc độ mặt hàng này chỉ đạt 11,4% trong mười năm chở lại đây. Cây điều là loại cây công nghiệp hàng hoá có giá trị kinh tế cao, về sản lượng sản xuất nước ta đứng thứ 2 trong các nước ASEAN (sau inđôlêxia) và đứng thứ 4 thế giới (sau ấn độ, In đô lê xia, Braxin) sản lượng xuất khẩu đứng thứ 2 thế giới (sau ấn độ). Hiện nay cây điều được phát triển thành những vùng tập chung lớn đó là đồng bằng nam bộ 149 nghàn ha chiếm 60% diện tích toàn quốc, tây nguyên 27 nghàn ha chiếm (11%) và đồng bằng sông cửu long 13 ngàn ha (hơn 5%). Đó chính là cơ sở để sản lượng hạt điều xuất khẩu và chế biến xuất khẩu vào thị trường thế giới . 1.2 Về thị trường xuất khẩu các nông sản. Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế là sự chuyển đổi về thị trường xuất khẩu hàng nông sản Việt nam từ thị trường truyền thống (Liên xô và các nước Đông âu) sang thị thị trường châu á đặc biệt là các nước ASEAN chiếm tỷ trọng lớn trong trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam. Tuy nhiên từ năm 1996 cho tới nay đã có thay đổi theo xu hướng giảm tỷ lệ xuất khẩu nông sản sang thị trường các nước ASEAN mà tăng tỷ lệ xuất khẩu sang thị trường các nước Châu á khác như: Trung quốc, singapore...... Thị trường gạo có chuyển biến rõ rệt, từ việc tập chung xuất khẩu vào các nước đông âu (những năm 1980) sang thị trường châu á (những năm 1990). Hiện nay thị trường xuất khẩu gạo của Việt nam ở khu vực châu á chiếm khoảng 70% tổng khối lượng gạo xuất khẩu ( trong đó các nước ASEAN chiếm 36%), các nước tây âu chiếm 11%, châu phi chiếm 2%, đông âu chiếm 2%.... Thị thị trường cà phê xuất khẩu của Việt nam ngày càng mở rộng và phát triển, trước năm 1994 (trước khi mỹ bỏ cấm vận đối với Việt nam) cà phê của Việt nam phải xuất khẩu qua các nước trung gian chủ yếu qua Singapo (chiếm gần 70% cà phê xuất khẩu của Việt nam) và một số nước khác như là: Đức, Pháp, Ba lan...Từ khi Mỹ bỏ cấm vận đối với Việt nam thì xuất khẩu cà phê của Việt nam sang các nước như Singapo giảm dần (niên vụ 1995-1996 chỉ còn chiếm 3,65%), xuất khẩu sang thị trường Mỹ tăng lên nhanh chóng từ 15,2% (niên vụ 1994-1995) lên tới 50% (niên vụ 1997-1998) .Hiện nay Việt nam đã xuất khẩu trực tiếp sang trên 50 nước đứng đầu là Mỹ. Sau đó là các nước như Đức, Balan, Nhật Bản, Pháp và Singapore. Thị trường chè trong giai đoạn 1986-1995 của Việt Nam giảm mạnh tại các nước Liên Xô cũ và các nước Đông Âu, nhưng lại có xu hướng phục hồi trong những năm gần đây (các nước Đông Âu hiện chiếm 17% thị trường xuất khẩu chè của Việt Nam). Trong khi đó thị trường xuất khẩu chè của Việt nam lại tăng lên mạnh mẽ ở các nước Châu á đặc biệt là Nhật Bản, Pakitxtan và Đài Loan (hiện chiếm khoảng 70% thị trường chè xuất khẩu của Việt Nam). Ngoài ra các thị trường như Tây Âu, Bắc Mỹ đã bắt đầu sử dụng chè của Việt Nam. Thị trường Hạt điều trong giai đoạn 1990-1995, hạt điều là sản phẩm có tốc độ tăng xuất khẩu cao nhất. Đồng thời cũng là sản phẩm có thị trường xuất khẩu được phát triển rộng rãi. Thị trường cao su xuất khẩu chủ yếu của Việt nam trước đây là Liên Xô cũ và các nước Đông Âu chiếm tới 8,21% năm 1986 và đã giảm mạnh xuống 1,06% năm 1995. Hiện nay, thị trường xuất khẩu cao su chủ yếu của Việt Nam là các nước châu á chiếm đến 95% (trong đó các nước ASEAN chiếm 8%) còn lại tập chung chủ yếu là Trung Quốc và Singapore. Trong thời gian qua xuất khẩu của nông sản đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao về khối lượng và giá trị xuất khẩu. 1.3 Ngành thuỷ sản: Năm 1997 sản lượng thuỷ sản đạt 1570 ngàn tấn tăng 15,8% so với năm 1996 .Kim ngạch xuất khẩu có mức tăng trưởng tương đối cao (từ 22-33%/năm) Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Doanh thu 285,7 307,7 427,2 489 631 651 780 850 980 Theo thống kê của tổ chức nông nghiệp và lương thực thế giới (FAO) năm 1996 Việt Nam đứng thứ 25 .Năm 1997 đứng thứ 27 trên thế giới về xuất khẩu thuỷ sản. Trong khu vực Đông nam á năm 1996 Việt nam đứng thứ 3, năm 1997 Việt nam đứng thứ 4 về kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản.Tính đến đầu năm 1998 Việt nam có 186 nhà máy chế biến thuỷ sản đông lạnh có khả năng xuất khẩu khoảng 200 ngàn tấn xuất khẩu/năm. Đã có 27 doanh nghiệp đủ điều kiện chế biến xuất khẩu vào thị trường EU (chiếm 14,5% số xí nghiệp) và hơn 20 xí nghiệp sang Mỹ. Những năm gần đây, các nước chủ yếu nhập thuỷ sản của ta là nhật bản với tỷ trọng năm 1996: 20%, năm 1997: 46,5%, năm 1998: 60%, các nước EU thường chiếm 13%, Hồng công chiếm 11%-12%, Mỹ chiếm 6%-8%, ngoài ra còn có Trung quốc, Hàn quốc, Đài loan, cộng hoà liên bang nga, ôxtrây-lia. Dự báo năm 1999 xuất khẩu vào các nước châu á -Thái bình dương khoảng 660-680 triệu USD chiếm 75%, vào các nước Âu- mỹ khoảng 200- 220 triệu USD chiếm 20% kim ngạch xuất khẩu. 1.4.Ngành dệt may Nghành dệt may trong thập niên 90 trở lại đây nó chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động ngoại thương nói riêng. Kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may nước ta không ngừng tăng. Năm 1991 tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may chỉ đạt 158 triệu USD đến năm 1998 đã gấp 9,18 l._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29587.doc
Tài liệu liên quan