Phần I- Mở đầu
Kinh tế đối ngoại - một bộ phận cực kỳ quan trọng và chủ đạo của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế đối ngoại là hoạt động kinh tế đã có từ lâu đời: dưới chế độ chiếm hữu nộ lệ, và tiếp đó là chế độ phong kiến. Trong các xã hội nộ lệ và phong kiến do kinh tế tự nhiên còn chiếm địa vị thống trị nền kinh tế đối ngoại chỉ phát triển với qui mô nhỏ bé. kinh tế đối ngoại chỉ thực sự phát triển trong thời đại TBCN. Ngày nay sản xuất đã được quốc tế hoá, không một quốc gia nào có thể tồn tại
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1479 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp cơ bản để phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại của Việt Nam từ nay đến hết năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và phát triển kinh tế mà lại không tham gia vào phân công lao động quốc tế và trao đổi hàng hoá với bên ngoài.
Và Việt Nam cũng thế, sau khi dành độc lập, đặc biệt công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế được Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng từ hội nghị trung ương lần thứ 6 (khoá IV) họp cuối năm 1986 và được phát triển qua các kì đại hội lần thứ 8, 9. Từ đó đến nay nước ta thật sự có những biến đổi sâu sắc. Kinh tế đối ngoại nước ta hiện đã bước sang một gia đoạn mới chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Nước ta đã học hỏi và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, đã đạt được những thành tựu đáng kể trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, đã có được những nền tảng bước đầu để thể gia tăng hội nhập kinh tế quốc tế trong gia đoạn mới. Đồng thời những điều kiện quốc tế đã thay đổi, các quốc gia trong khu vực đã tiên xa so với chúng ta trên con đường hội nhập quốc tế và đang đặt ra những thách thức luật pháp. Trong bối cảnh đó, chúng ta phải nhận thức rõ thực trạng kinh tế đối ngoại cửa nước ta. Do thấy được tầm quan trọng của vấn đề này nên em đã chọn đề tài: Thực trạng và giải pháp cơ bản để phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại từ nay đến hến năm 2020.
Để nghiên cứu tận đề trên thì ta phải biết lựa chọn sử dụng phương pháp luận hợp lý và hiệu quả. Đó là, nhận thức khoa học phải bắt đầu bằng sự quan sát các hiện tượng cụ thể biểu hiện các quá trình kinh tế rồi dùng phương pháp trừu tượng hoá để tìm ra bản chất và tính qui luật của sự phát triển, sau đó các mối quan hệ nội tại, cơ chế tác động cụ thể của quá trình lưu chuyển hàng hoá và liên kết kinh tế với nước ngoài. Kinh tế đối ngoại là tổng thể các quan hệ kinh tế của nền kinh tế quốc dân với nước ngoài, là một bộ phận của quá trình tái sản xuất xã hội. Các quy luật của lưu thông hàng hoá bắt nguồn từ các quy luật hoạt động bên trong và bên ngoài ngoài nước đó, do vậy, cần phải có quan điểm hệ thống và toàn diện trong nghiên cứu. Mặt khác, quá trình hình thành và phát triển các quan hệ buôn bán gắn liền với những hoàn cảnh lịch sử nhất định, do đó phải có quan điểm lịch sử khi nghiên cứu các vấn đề của kinh tế đối ngoại.
Như vậy, nội dung gói gọn trong bài viết này là trình bày những quan điểm, đáng giá, nhận xét của em về thực trạng và giải pháp để phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ở Việt Nam hiện nay.
Phần II- Nội dung
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về lý luận
1. Thế nào là kinh tế đối ngoại
Ta có thể hiểu một cách nôm na, kinh tế đối ngoại là việc mua, bán hàng hoá và dịch vụ qua biên giới quốc gia hay nói cách khác là nó như chiếc cầu nối giữa cung và cầu hàng hoá, dịch vụ của thị trường trong và ngoài nước về số lượng, chất lượng và thời gian sản xuất.
Điều kiện để kinh tế đối ngoại sinh ra, tồn tại và phát triển là: có sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ kèm theo đó là sự suất hiện của tư bản thương nghiệp; có sự ra đời của Nhà nước và sự phát triển của phân công lao động quốc tế giữa các nước.
Ngoài ra, ta còn phải hiểu thế nào là kinh tế quốc tế, thế nào là toàn cầu hoá?
Kinh tế quốc tế là sự trao đổi, buôn bán hàng hoá, dịch vụ trên phạm vi tào thế giới, trong đó thể hiện mối quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau, hay giữa các khu vực với nhau.
Còn toàn cầu hoá là quá trình liên kết ngày một rộng lớn giữa các nước và thể hiện là mối quan hệ bình đẳng về kinh tế giữa các nước trên thế giới với nhau.
Trên đây là một số khái niệm cơ bản ta cần nắm rõ để có thể nghiên cứu những lý luận khác.
2. Tại sao nước ta phải mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại
Vài trò và tác dụng của nó, trong điều kiện nước ta hiện nay, kinh tế đối ngoại có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy Đảng và Nhà nước luôn luôn coi trọng lĩnh vực này và nhấn mạnh: "Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế cũng như sự nghiệp phát triển khoa học kỹ thuật và công nghiệp hoá của nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại " (văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI).
Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế đặt ra yêu cầu đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Thực vậy, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới không chỉ cho phép Việt Nam thu được vốn mà dựa vào đó Việt Nam nắm bắt được những công nghệ kỹ thuật và quản lý tiên tiến, từng bước tạo ra một đội ngũ công nhân có trình độ phù hợp cho việc phát triển nền công nghiệp hiện đại trong thời đại ngày nay.
Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó đặc biệt là năm thách thức sau đây:
Thứ nhất, tiềm lực vật chất của Việt Nam còn yếu, nguồn nhân lực nói chung có trình độ thấp và có kỹ năng không cao, điều này kiến cho việc tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế gặp nhiều bất cập. Khó khăn này thể hiện ở chổ năng lực tiếp nhận công nghệ yếu, khó phát huy lợi thế của nước đi sau trong việc tiếp nhận các nguồn lực có sẵn từ bên ngoài để năng cao cơ sở hạ tầng kỹ thuật; dẫn đến nguy cơ Việt Nam có thể trở thành "bãi rác" của các công nghệ lạc hậu.
Thứ hai, sức cạnh tranh, đặc biệt là của các sản phẩm công nghiệp Việt Nam quá thấp, do đó Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc củng cố và phát triển các thị trường mới trong điều kiện nhiều nước đang phát triển cuàng chọn chiến lược tăng cường hướng về xuất khẩu nên Việt Nam sẽ bị áp lực cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa; việc mở cửa thị trường nội địa theo AFTA, WTO có thể biến Việt Nam thành thị trường tieu thụ sản phẩm nước ngoài nếu các doanh nghiệp trong nước không bám giữ được.
Thứ ba, do tri thức và trình độ kinh doanh của dân ta còn thấp, cộng với hệ thống tài chính và ngân hàng còn yếu kém nên còn thụ động và thao túng. Từ kinh nghiệm và các nước đang phát triển trong khu vực cho thấy, nguy cơ lệ thuộc vào các tổ chức tài chính nước ngoài và quốc tế là một thực tế.
Thứ tư, hệ thống thông tin - viễn thông toàn cầu hoá với tư cách là một thứ quyền lực siêu hạng đang phát triển nhanh có thể gây ra tác động tiêu cực trực tiếp đến án ninh kinh tế, văn hoá xã hội, theo hướng rối loại làm lợi cho các thế thực bên ngoài. Vấn đề là kiểm soát việc tự do hoá thông tin, truyền thống như thế nào để không từ bỏ lợi ích tận dụng khai thác nó mà vẫn hạn chế tối đa nguy hại có thể gây ra.
Thứ năm, trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ yếu là với các quốc gia có tiềm lực mạnh, có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực như muốn kìm hãm thậm chí gây sức ép, buộc Việt Nam phải thay đổi những vấn đề có tính nguyên tắc như định hướng, mục tiêu, mục đích phát triển. Ví dụ: mục đích chính của các công ty xuyên quốc gia là lợi nhuận, còn đối với Việt Nam thì vấn đề có lợi nhuận vẫn chưa đủ, mà mục đích chính là vì "dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Trong rất nhiều trường hợp, quan hệ kinh tế đã giúp tạo ra lợi nhuận, nhưng không công bằng, một số tầng lớp dân cư được hưởng lợi nhưng lại làm cho nước nhà nghèo đi.
Bên cạnh đó những thách thức nêu trên, Việt Nam cũng đã tận dụng được nhiều cơ hội trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Đó là:
Thứ nhất, với quan điểm và nguyên tắc rõ rằng, Việt Nam chủ động đẩy nhanh quá trình hội nhập. Từ nhận thức này, trong những năm qua Việt Nam đã có bước chuyển đổi lớn trong chính sách phát triển kinh tế đối ngoại. Các chính sách này đều theo hướng tự do hoá, tất nhiên ở các tầng lớp khác nhau phụ thuộc vào thực lực cụ thể của mỗi lĩnh vực.
Thứ hai, tham gia tào cầu hoá chính là nhằm tranh thủ những điều kiện quốc tế để khai thác các tiềm năng nước nhà, phục vụ cho việc nâng cao đời sống nhân dân. Việt Nam là quốc giá có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Với nguồn tài nguyên phong phú không chỉ tạo điều kiện cho việc phát triển các ngành công nghiệp khai thác chế biến mà còn là sức thu hút đối với các Công ty nước ngoài. Trên cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có, Việt Nam có thể xác lập cơ cấu ngành kinh tế với những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu thị trường thế giới.
Thứ ba, trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang quá độ sang nền kinh tế trí tuệ, khoa học công nghệ phát triển mạnh trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, chi phối mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội nhưng cũng không thể thay thế vai trò của nguồn lực lao động. Hơn nữa, nguồn lực lao động còn là nhân tố sáng tạo công nghệ thiết bị và sử dụng chúng trong quá trình phát triển kinh tế.
Trên thực tế nhiều Công ty nước ngoài ở Việt Nam, một trong những lý do quan trọng tận dụng nguồn lao động dồi dào, rẻ và có khả năng tiếp thu công nghệ mới ở Việt Nam. Theo đánh giá của các Công ty Nhật khi phân tích thế môi trường kinh doanh của các quốc gia ASEAN, Việt Nam đứng thứ 7 trong tổng số quốc gia, lớn hơn Lào, Campuchia, Myanma. Tuy vậy nếu xét riêng về yêu nguồn lực, lợi thế của Việt Nam không thua kém Thái Lan, thậm chí còn vượt cả Indônêxia và Singapore. Chỉ số HDI (Huma Development Index) của Việt Nam tuy chưa so với thế giới, mới chỉ đạt 0,56, song nếu so với các quốc gia có thu nhập tương ứng thì Việt Nam lại thuộc nhóm cao hơn.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội cho nguồn lực của nước ta khai thông, giao lưu với thế giới bên ngoài. Việt Nam đã xuất khẩu lao động qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu và nhập khẩu lao động kỹ thuật cao công nghệ mới rất cần thiết. Như vậy với lợi thế nhất định về nguồn lao động cho phép lựa chọn dạng hình phù hợp tham gia vào hội nhập và quá trình hội nhập đã tạo điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn lao động ở Việt Nam.
Thứ tư, Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện hoà bình, chính trị - xã hội ổn định. Đây là cơ hội rất quan trọng để tập trung phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, chính trị xã hội ổn định là bộ lọc quan trọng trong quá trình giao lưu hội nhập, hơn nữa nó đảm bảo vai trò định hướng trong hội nhập quốc tế.
Đảm bảo không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ nền kinh tế nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng. Hiểu đúng bản chất của hiệu quả kinh tế đối ngoại cũng như mục tiêu đảm bảo hiệu quả kinh tế của mỗi thời kỳ, là vấn đề có ý nghĩa thiết thực không những về lý luận thống nhất quan niệm về bản chất của hiệu quả kinh tế đối ngoại mà còn rất cần thiết cho hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực này. Hiểu đúng bản chất hiệu quả kinh tế đối ngoại chính là xác định yêu cầu đối với việc đề ra mục tiêu và biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Như vậy mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại là góp phần thúc đẩy tăng nhanh năng suất lao động xã hội qua đó tạo thêm nguồn tích luỹ cho sản xuất và nâng cao mức sống ở trong nước.
Chúng ta thực hiện mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại phải dựa trên những nguyên tắc và hình thức cơ bản của kinh tế đối ngoại.
3. Những nguyên tắc và hình thức cơ bản của kinh tế đối ngoại
Không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển kinh tế mà lại không tham gia vào phân công lao động quốc tế và trao đổi hàng hoá với nước ngoài. Nền kinh tế đối ngoại không chỉ là nhân tố bổ sung cho kinh tế trong nước mà kinh tế trong nước phải thích nghi với lựa chọn phân công lao động quốc tế. Do vậy, phải khai thác được mọi lợi thế của hoàn cảnh chủ quan trong nước phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế. Mặt khác phải tính toán lợi thế tương đối có được nhờ tham gia vào buôn bán và phân công lao động quốc tế. Do đó nói đến kinh tế đối ngoại là nói đến khả năng liên kết kinh tế, hội nhập với kinh tế khu vực vầ quốc tế đòi hỏi khả năng xử lý thành công mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau.
Những nỗi bật lên, đó là nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, nó chi phối các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Hình thức cơ bản của kinh tế đối ngoại là xuất khẩu và nhập khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho nước ngoài. Nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá và dịch vụ của nước ngoài.
Trên đây là những vấn đề lý luận mà chúng ta cần phải nắm rõ để có thể đi vào nghiên cứu thực trạng và các giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại từ nay đến hết năm 2020.
Chương II: Thực trạng và giải pháp
Sự phát triển kinh tế đối ngoại nước ta trong thời gian vừa qua đã có ý nghĩa hết sức quan trọng, thậm chí là quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế của nước ta. Nước ta đã đã đạt được nhiều thành tựu cả về tăng trưởng xuất nhập khẩu, thu hút vốn nước ngoài và phát triển du lịch. Tuy nhiên còn rất nhiều vấn đề nan giải mà chúng ta phải quan tâm.
1. Thực trạng
Kinh tế đối ngoại đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong cả thập kỷ 90, mặc dù có sự giảm sút tốc độ từ năm 1999
Lý do cho sự tăng tưởng cao của các lĩnh vực kinh tế đối ngoai trên có thể là tương đối rõ, những lý do cho sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế đối ngoại trong những năm gần đây còn có thể có những ý kiến khác nhau. Đóng là có lý do khách quan do suy giảm kinh tế toàn cầu và khu vực, do giá hàng xuất khẩu của ta giảm nghiêm trọng... Tuy nhiên, Trung quốc cũng chịu tác động bởi những hoàn cảnh khách quan bên ngoài như nước ta nhưng cả giá trị xuất khẩu lẫn FDI vào Trung Quốc trong vài năm nay vẫn có mức tăng trưởng cao. Do vậy, việc giảm tăng trưởng của cả giá trị xuất khẩu lẫn FDI vào nước ta trong thời gian qua không chỉ do nguyên nhân khách quan, mà có thể lại do những nguyên nhân chủ quan là chính
Trước hết, đó là tình trạng bảo hệ mậu dịch không giảm đáng kể mà còn gia tăng.
Mức thuế suất nhập khẩu bình quân đã được giảm từ trên 16% xuống còn trên 13% trong thời gian 1996 - 1998, nhưng đã tănglên tới 16% vào năm 1001. khung thuế nhiều và nhiều mặt hàng nhập khẩu còn chịu mức thuế cao; chỉ có 20% số dòng thuế được áp dụng mức thuế 5%. Việc hoàn thuế cho các hàng hoá nhập để xuất có quá nhiều thủ tục phức tạp phiền hà và kém hiệu lực. Các biện pháp phi thuế quan nhằm bảo hộ mậu dịch vẫn còn được áp dụng đối với nhiều lĩnh vực, đặc biệt là sự quản lý của các bộ chuyên ngành. Hàng rào bảo hộ mậu dịch cao này tưởng như chỉ có tác dụng ngăn chặn các dòng hàng nhập khẩu, nhưng trên thực tế chúng đã tác động tiêu cực tới toàn bộ hoạt động kinh tế đối ngoại. Vì khi đánh thuế cao vào các hàng hoá nhập khẩu, giá bán của chúng và các hàng hoá liên quan ở trong nước đã tăng lên. Các nhà xuất khẩu phải sử dụng các hàng hoá giá cao này, công nhân viên của họ cũng phải tiêu dùng các hàng hoá nhập khẩu giá cao, mà mức cao giá này ước tính vào khoảng 20 - 100% tuỳ theo mặt hàng. Do vậy đã đẩy chi phí của các hàng xuất khẩu tăng lên, giảm khả năng cạnh tranh của chúng và tác động xuấu đến xuất khẩu. Hàng rào bảo hộ mậu dịch cao chỉ khuyến khích sản xuất thay thế nhập khẩu, FDI cũng tự nhiên phải theo hướng này, trong khi thị trường nội địa của ta nhỏ bé và ngày càng bão hoà, do vậy FDI không tăng lên được và thậm chí đã chậm lại. Hàng rào bảo hộ còn ảnh hưởng xấu tới cả du lịch, vì giá cả tiêu dùng ở Việt nam cao, không hấp dẫn khách du lịch.
Thứ hai, chi phí sản xuất của ta nói chung còn cao so với các quốc gia khu vực, do vậy lợi thế cạnh tranh bị giảm thiểu.
Chi phí sản xuất đã phụ thuộc vào các yếu tố: thuế nhập khẩu, thuế doanh thu VAT, các phụ phí, tiền lương, giá các dịch vụ, công nghệ được sử dụng...
Thuế xuất khẩu, kể cả hàng rào phi thuế quản của nước ta hiện nay có lẽ ở vào hàng cao nhất khuvực, cao hơn cả Trung Quốc, trong khi mức thuế quan của nhiều quốc gia Đông á hiện chỉ còn khoảng 4 - 6%. Thuế doanh thu của ta ở mức 32%, cũng vào hàng cao nhất khu vực. Thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, phụ thu... đều ở mức cao . Thế thu nhập đối với người nước ngoài của ta hiện ở mức cao nhất trong khu vực, trong khi ở Indônêxia là 30%. Thái Lan là 37%, ở Trung Quốc là 45%. Mức thuế thu nhập cao này đã làm cho người nước ngoài không muốn làm việc ở Việt Nam.
Tính chung chi phí lao động của nước ta hiện nay tương tự với Inđônêxia, còn thấp hơn các nước ASEAN - 4, nhưng mức thấp này đã giảm dần.
Giá các dịch vụ như liên lạc, viễn thông, hàng không, diện, nước... đều ở mức cao: chi phí điện cao hơn 4 nước ASEAN: Xingapo, Ma laixia, Thái Lan, Indônêxia; giá nước cao hơn Philipin gà gần ngang với Malaixia, Thái Lan; chi phí liên lạc, viễn thông vào loại cao nhất khu vực; chi phí cả Trung Quốc.
Công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam khá lạc hậu so với các quốc gia khác trong khu vực. Ví dụ, xí nghiệp sản xuất xi măng Sai Mai do nước ngoài đầu tư sản xuất ở nước ta 1 tấn xi măng chi phí 12 USD, trong khi các xí nghiệp sản xuất xi măng của ta chi phí 26 USD
Chi phí sản xuất của ta cao như vậy, nên khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam bị giảm thiểu cả ở thị trường trong nước và nước ngoài.
Thứ ba, chính sách tiền tệ và tín dụng hỗ trợ hoạt động kinh tế đối ngoại yếu.
Tỷ giá giữa đồng Việt Nam với USD và các đồng tiền khác tuy đã được nhiều lần điều chỉnh kể từ 1996, nhưng hiện vẫn còn cao. Theo một số chuyên gia nước ngoài, mức cao này khoảng trên 10% và đã tác động tiêu cực đến hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường ASEAN, Nhật Bản và liên minh Châu Âu, trừ Trung Quốc và Mỹ, Việt Nam đông cao và chưa do thị trường đích thực xác định đã tác động xuấu không chỉ tới xuất khẩu mà cả với FDI và du lịch. Đồng tiền Việt Nam cho đến nay, chưa có thể chuyển đổi tự do. Trong khi tổng giá trị xuất khẩu của nước ta đã ngang bằng tổng GDP, thì đây là một vấn đề rất bất lợi. Buôn bán quốc tế lớn đến thế mà đồng tiền không chuyển đổi tự do được, có nghĩa là các nhà kinh doanh nhập khẩu của ta phải chịu các chi phí chuyển đổi tiền với thủ tục phiền hà và tốn kém thời gian. Đã thế họ còn phải chịu thiệt do quy định về kết hối ngoại tệ, tiền của họ thu được do xuất khẩu, khi nhập khẩu cần ngoại tệ lại phải xin phép ngân hàng cấp.
Ngoài ba nguyên nhân trên còn có thể có những nguyên nhân khác như: lao động Việt Nam ít được đào tạo, không lành nghề; thể chế hành chính luật pháp không minh bạch; bộ máy quản lý yếu kém và quan liêu tham nhũng và...
Sự phát triển vượt trội của khu vực kinh tế đối ngoại.
Kim ngạch xuất khẩu của nước ta năm 2001 đã đạt tới 31,2 tỷ USD, nghĩa là xấp xỉ với tổng giá trị GDI, trong đó giá trị xuất khẩu khoảng 15 tỷ. Trước thập kỷ 1990, tổng kim ngạch xuất khẩu so với GDI của nước ta chỉ vào khoảng 30%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP của Trung Quốc hiện nay cũng chỉ vào khoảng trên 30%. Các nước Xingapore, Malaixia, Thái Lan đã có tỷ trọng so sánh giữa giá trị xuất nhập khẩu và GDP cao hơn ta
Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đăng ký vào Việt Nam đến năm 2001 là 38,8 tỷ USD, tỷ trọng của vốn FDI được thực hiện trong tổng đầu tư xã hội vào khoảng 20% - 32%, nghĩa là năm cao nhất (1996) đã đạt tới trên 32% nhăm năm đạt thấp vào khoảng trên 20%, nếu tính cả các nguồn vốn nước ngoài khác như vốn ODA, và vốn vay thương mại thì nguồn vốn nước ngoài đã chiếm khoảng 50% tổng đầu tư xã hội vào giữa những năm 1990 (những năm say tỷ trọng này đã giảm).
Ngành du lịch Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể. Số khách đu lịch quốc tế vào Việt Nam đã tăng đều, năm 2001 đạt 2,3 triệu khách và hiện có hàng năm ngàn lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài đem lại nguồn thu nhập hàng tỷ USD hàng năm cho đất nước
Vấn đề đặt ra là một khi giá trị xuất khẩu xuấp xỉ bằng tổng GDP, vốn FDI và các nguồn vốn nước ngoài khác đã chiếm tới gần 50% tổng vốn đều tư xã hội, số khách du lịch vào Việt Nam lên tới 2,3 triệu người, thì các thể chế kinh tế nước ta không thể vẫn mang tính chất hướng nội như trước được. Đồng tiền Việt Nam không chuyển đổi được đã gây thiệt hại cho cả hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài và du lịch, người nước ngoài và cả người Việt Nam kinh doanh đối ngoại cũng sẽ nản lòng vì việc chuyển đổi ngoại tệ khó khăn, tốn kém. Các vấn đề về tỷ giá, thuế quan, hải quan, những quy chế về đầu tư nước ngoài, chính sách xuất nhập cảnh... cần phải được xem xét lại và đổi mới thích hợp với những điều kiện mới của khu vực kinh tế đối ngoại đã gia tăng vượt trội.
Kinh tế đối ngoại và đối nội thực chất chỉ là hai mặt của một nền kinh tế, vì vậy những thay đổi về kinh tế đối ngoại đòi hỏi kinh tế đối nội phải thay đổi. Chính sự tiến triển không kịp của kinh tế đối nội sẽ cản trở kinh tế đối ngoại phát triển và ngược lại. Nước ta đang ở thời điểm kinh tế đối nội không phát triển kịp, cả trở kinh tế đối ngoại - luật pháp thay đổi chậm, các Công ty chậm đổi mới và yếu kém, điều hành của bộ máy quản lý kém hiệu lực...
Đội ngũ các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh kinh tế đối ngoại đã tăng cả về số lượng và chất lượng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Trước những năm 1990 các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại chỉ có mấy trăm Công ty xuất nhập khẩu và du lịch quốc tế và tất cả đều là của quốc doanh. Nay đội ngũ doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại đã lên đến hàng nghìn gồm cả quốc doanh, tư nhân và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đó là một bước tiến to lớn cần phải khẳng định.
Đội ngũ các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại có một vai trò rất quan trọng, nếu không nói là quyết định đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Thực tế thế giới cho thấy các doanh nghiệp này hoạt động rất đa dạng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, từ sản xuất, thương mại dịch vụ đến bảo hiểm... Chính tính đa dạng này mới đảm bảo cho hoạt động kinh tế đối ngoại có hiệu quả. Một doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu muốn có hiệu quả cần phải vay mượn vốn nước ngoài (vì vốn trong nước không đủ và nhiều khi quá đắt), cần phải có dịch vụ tư vấn nước ngoài (vì tư vấn trong nước chưa đủ trình độ), cần phải chuyển đổi ngoại tệ, cần bảo hiểm rủi ro, cần thuê mướn chuyên gia, cần Marketing quốc tế... ở nước ta các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại thường mới ở hai lĩnh vực: sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu. ở các lĩnh vực khác ta chưa có, nhưng cũng chưa có, nhưng cũng chưa cho phép các Công ty nước ngoài hoạt động.
Hoạt động của các Công ty kinh doanh đối ngoại phải xuyên quốc gia, để có thể lợi dụng được những lợi thế so sánh của các nước. Công ty Honda của Nhật đã có chi nhánh ở nhiều nước, vì tại mỗi một nước đó Honda có thể tận dụng được lợi thế hoặc về tài nguyên, hoặc về lao động, hoặc về vị trí địa lý..., do vậy có thể giản thiểu các chi phí. Các Công ty hoạt động xuất khẩu của ta nói cung chưa hoạt động xuyên quốc gia, đã thế ta còn có chính sách nội địa hoá bắt buộc, ép các Công ty nước ngoài phải sản xuất càng nhiều các linh kiện ở Việt Nam càng tốt. Chính sách này đã triệt tiêu mất lợi thế hoạt động của các Công ty xuyên quốc gia. Vì các Công ty này chỉ muốn lợi dụng lao động rẻ và vị trí thuận lợi của Việt Nam để lắp ráp rồi xuất vào Đông Nam á. Nếu ta ép họ phải sản xuất những thứ linh kiện mà nước ta không có lợi thế, do vậy là đi ngược lại lợi ích của họ. Kinh nghiệm của nhiều nước Châu á cho thấy để có một đội ngũ các Công ty hoạt động xuyên quốc gia cần nhiều thời gian. Bước đi đầu tiên là thu hút các Công ty xuyên quốc gia nước ngoài vào hoạt động ở nước ta, biến họ thành các Công ty của ta. Những Công ty này chính là hình mẫu để các Công ty của ta đi theo và phát triển. Nước ta đi theo hướng này, nhưng chúng ta mới chỉ cho phép họ xuất nhập khẩu những gì họ đã đăng ký kinh doanh. Trong thời gian tới phải cho họ hoạt động toàn diện hơn.
Các Công ty kinh doanh đối ngoại của các quốc gia hiện nay đều là những Công ty xuyên quốc gia hiện nay đều là những Công ty xuyên quốc gia tư nhân, hoặc cổ phần có tiềm năng to lớn về cả kinh tế, kỹ thuật, nhân lực, thị trường... Trong khi các Công ty kinh doanh đối ngoai của ta cho đến nay chủ yếu vẫn là các Công ty quốc doanh liên doanh với nước ngoài. Các Công ty tư nhân và nhất là tư nhân 100% vốn nước ngoài còn bị phân biệt đối xử trong hoạt động kinh tế đối ngoại, mặc dù gần đây Nhà nước ta đã cho phép khu vực tư nhân được hoạt động xuất nhập khẩu và liên doanh liên kết với nước ngoài.
Có thể nói là nếu các Công ty hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta vẫn chủ yếu là các Công ty quốc doanh, không hoạt động xuyên quốc gia, không đa dạng hoá các hoạt động... thì lợi thế so sánh của các Công ty này trên thị trường quốc tế chắc chắn sẽ khó tránh khỏi thua kém các Công ty xuyên quốc gia của các nước khác.
2. Giải pháp
Các quan hệ bên trong nền kinh tế hiện tại là quan hệ thị trường, còn các quan hệ phi thị trường thì rất ít và có lẽ chỉ tồn tại trong viện trợ ODA, viện trợ không hoàn lại, tài trợ của các loại quỹ tư nhân... Tính chất thị trường đậm nét của các quan hệ kinh tế quốc tế đã quy định các quan hệ kinh tế đối ngoại của mọi quốc gia trước hết phải tuân thủ các nguyên tắc của thị trường: Sản xuất lưu không phải theo cung cầu của thị trường thế giới: tỷ giá giữa các đồng tiền cũng do thị trường thế giới quy định, giá cả của các hàng hoá và dịch vụ lưu thông trên thị trường thế giới là giá cả thị trường thế giới; giá chứng khoán, công trái, cũng phải do thị trường quy định. Các quan hệ kinh tế bên trong của một quốc gia hiện có thể do các chính phủa quốc gia điều tiết, có khi khá chặt chẽ, nhưng những quan hệ kinh tế quốc tế hiện chịu sự điều tuết của các chính phủ một cách rất hạn chế, chúng có một không gian rộng rãi hơn để tự do vận động.
Thực tế của thế giới cho thấy, các quan hệ kinh tế đối ngoại của một quốc gia càng vận động theo các nguyên tắc của thị trường nền kinh tế của quốc gia ấy càng có thể tham gia sâu rộng và có hiệu quả vào quá trình hội nhập toàn cầu. Thực tế của các nước ASEAN và Đông á đã cho thấy điều đó: giá cả trong nước càng sát với giá thị trường thế giới, người tiêu dùng trong nước được hưởng lợi do mua hàng không phải chịu thuế nhập khẩu cao, các lợi thế cạnh tranh của quốc giá được phát huy: tỷ giá thị trường đã đảm bảo mức giá của đồng tiền quốc gia phù hợp với giá thực tế, tạo điều kiện đảm bảo sức cạnh tranh của nền kinh tế: giá chứng khoán, cổ phiếu có tính thị trường quốc tế đã tạo điều kiện khai thông dòng vốn quốc tế đi tới mọi vùng trong nước...
Do vậy, ta cần có một lộ trình chủ động và tích cực để chuyển các quan hệ kinh tế đối ngoại vận động theo các nguyên tắc của thị trường, nếu năm 2006 ta thực hiện đầy đủ các cam kết với AFTA và các cam kết chủ yếu trong Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, nếu 2004 nước ta được gia nhập WTO, thì lộ trình chuyển các quác hệ kinh tế đối ngoại nước ta vận động đầy đủ theo các nguyên tắc của thị trường cũng không thể vượt quá 2006. Vì những cam kết quốc tế này buộc nước ta phải xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và hạ thấp thuế quan xuống vào khoảng 5 - 10%, thừa nhận rộng rãi các quyền kinh doanh của các Công ty nước ngoài tại nước ta trên nhiều lĩnh vực kể cả dịch vụ. Trong tình hình đó, nếu giá hàng hoá và dịch vụ nước ta không theo sát giá thế giới, tỷ giá vẫn không do thị trường định, đồng Việt Nam vẫn không chuyển đổi được, thị trường vốn chưa khai thông với thị trường thế gới, các chủ kinh doanh của ta vẫn không đủ các quyền lao động ... thì nền kinh tế nước ta sẽ hội nhập vào nền kinh tế thế giới với những khiếm khuyết và hạn chế to lớn, làm giảm thiểu vị thế cạnh tranh so với các nền kinh tế trong khu vực.
Bảo hộ mậu dịch và phát triển kinh tế đối ngoại.
Có quan điểm cho rằng có thể thực thi chính sách bảo hộ mậu dịch, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút các nguồn vốn nước ngoài. Thực tế thế giới cho thấy đã không có quốc gia nào thực hiện thành công chính sách này. Một nguyên tắc gần như phổ biến trong các quan hệ quốc tế hiện nay là: một quốc gia muố mở cửa thị trường nước khác thì đồng thời phải mở cửa thị trường nước mình. Các nước phát triển đến cuối thập kỷ 1990 đã mở cửa nền kinh tế của họ ở mức rất cao: thuế quan trung bình chỉ còn khoảng 2 - 4% hàng rào phi thuế quan bị bãi bỏ về cơ bản. Nếu một nước nào đó muốn đặt mức thuế quan bị bãi bỏ về cơ bản. Nếu một nước nào đó muốn đặt mức thuế quan cao cho một sản phẩm nhập khẩu, lập tức sẽ bị các đối tác kiện ra WTO và có thể bị trả đũa. Việc Mỹ 2002 đơn phương tăng thuế nhập khẩu thép lên 30% là một ví dụ.
Bảo hộ mậu dịch trên thực tế đã chó hại cho sự phát triển kinh tế đối ngoại: Việc tăng giá các sản phẩm trong nước đã làm tăng chi phí đối với cả sản xuất xuất khẩu cũng như phục vụ nhu cầu trong nước: che chở cho các doanh nghiệp trong nước sản xuất kém hiệu quả mở rộng sản xuất - chống lại các giải pháp hội nhập quốc tế: khuyến khích xu hướng thay thế nhập khẩu khẩu - giảm thiểu cơ hội mở rộng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài...
Song có quan điểm cho rằng các nước kém phát triển cần một lộ trình bảo hộ mậu dịch để tham gia có hiệu quả vào hội nhập quốc tế; lộ trình này càng dài càng tốt, vì các doanh nghiệp trong nước càng có nhiều thời gian trưởng thành để đua tranh trên thương trường quốc tế. Đúng là các nước kém phát triển cần có một lộ trình hội nhập quốc tế, nhưng lộ trình này không phải là một lộ trình gia tăng chính sách bảo hộ mậu dịch để rồi xoá bỏ nó, mà là một lộ trình bãi bỏ dần các hàng rào bảo hộ. Thường lộ trình này kéo dài 2 - 5 năm, tuỳ theo từng ngành kinh tế kỹ thuật. Xét về hiệu quả kinh tế thuần tuý, thì không cần đến lộ trình này, lý thuyết kinh tế học hiện đại và thực tế hàng chục năm qua đã chứng minh cho luận điểm này. nhưng xét về mặt chính trị và xã hội, thì lại cần cón một lộ trình như vậy để đổi mới cơ cấu sản xuất, giải quyết tình trạng thất nghiệp, đào tạo lại nghề nghiệp, giữ ổn định xã hội... Một Nhà nước càng có năng lực giải quyết tốt các vấn đề trên, thì lộ trình hội nhập quốc trế càng được rút ngắn và ngược lại.
Có người lo ngại rằng việc giảm thuế nhập khẩu sẽ làm giảm muốn thu ngân sách. Thực tế của thế giới cho thấy ở những quốc gia giảm thuế nhập khẩu, nguồn thu ngân sách không những không giảm mà còn tăng, do diện thu thuế tăng, do tình trạng trốn lậu thuế, tham nhũng giảm...
Dựa vào những phân tích trên đây, nước ta cần có một lộ trình hội nhập quốc tế chủ động và tích cực phù hợp với thực tế. Lộ trình này một mặt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cho nước tự vươn lên, mặt khác dùng sức ép của việc giảm dần hàng rào bảo hộ để buộc các doanh nghiệp phải vươn lên, nếu không sẽ bị đào thải. Thực tế lịch sử cho thấy doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp tư nhân, không mấy khi tự đổi mới ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35490.doc