LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Mở cửa hội nhập kinh tế và khu vực đất nước ta gặp phải nhiều thách thức, khó khăn song nó cũng tạo cơ hội lớn cho sự phát triển. Qúa trình CNH, HĐH đất nước diễn ra với tốc độ nhanh, đã và đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế từ nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp. Dưới sự tác động CNH, HĐH nhanh như vậy tất yếu sẽ đẩy mạnh quá trình ĐTH. Một khi Đô thị hoá diễn ra trước hết là ở các trung tâm kinh tế, các khu công nghiệp sau đó lan tỏa đến khu vực k
92 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1410 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình đô thị hoá nông thôn ở huyện Kinh Môn tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hác như nông thôn.
Hiện nay, ở nước ta ĐTH diễn ra rất nhanh và mạnh mẽ, ĐTH có tác động tích cực đến phát triển văn hoá xã hội và là kết quả tất yếu của CNH, HĐH. Lúc này cơ sở vật chất được nâng cấp và xây dựng hiện đại tạo môi trường tốt cho tất cả các ngành kinh tế tăng trưởng, phát triển. Do vậy ĐTH là điều kiện thuận lợi cho tất cả thành viên trong xã hội đặc biệt là người dân nông thôn có cơ hội tiếpcận nhanh với thị trường nên giảm được khả năng sản phẩm không tiêu thụ được hoặc tiêu thụ với giá thấp mang lại hiệu quả kém. Từ đây người nông dân tiếp xúc nền sản xuất hàng hoá để đáp ứng yêu cầu khó khăn đặt ra trong bối cảnh kinh tế có nhiều thay đổi.
Kinh Môn là huyện đang ngày càng đổi mới tốc độ tăng trưởng các ngành công nghiệp nhanh. Cho nên quá trình ĐTH nông thôn được diễn ra trên địa bàn huyện là điều tất nhiên. Tuy vậy quá trình ĐTH đã làm gia tăng tình trạng thất nghiệp gây khó khăn trong giải quyết việc làm, cùng với xu hướng giải phóng lao động khỏi nông nghiệp, nông thôn. Một thực tế cho thấy lực lượng lao động được giải phóng khỏi nông nghiệp lại chưa có đủ điều kiện và năng lực cần thiết để ngay lập tức chuyển sang hoạt động sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ. Điều này đòi hỏi cần sớm nhận thức và hành động trong lĩnh vực đào tạo nghề để trang bị kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động nhất là lao động trẻ giúp họ có đủ điều kiện lẫn năng lực cần thiết chuyển đổi nghề nghiệp phù hợp nhất.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc tìm kiếm việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình ĐTH nông thôn của huyện, em đã nghiên cứu làm chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: “Thực trạng và giải pháp chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình ĐTH nông thôn ở huyện Kinh Môn tỉnh Hải Dương”.
2. Mục đích nghiên cứu
Chuyên đề phân tích, đánh giá tình hình thực trạng về chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình ĐTH nông thôn ở huyện Kinh Môn từ đó đề ra phương hướng, giải pháp để chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Xoay quanh các vấn đề chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động ở tất cả các xã, thị trấn trong phạm vi toàn huyện Kinh Môn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài tìm hiểu việc chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trên cơ sở xem xét và đánh giá các biểu hiện của ĐTH nông thôn như: chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp, chuyển dịch lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang công nghiệp,…
- Về không gian: Đề tài được thực hiện trong phạm vi toàn huyện Kinh Môn
- Về thời gian: Số liệu phục vụ đề tài được thu thập qua 3 mốc thời gian 2000, 2003 và 2006
3.3. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
* Phương pháp thu thập số liệu
Để thấy rõ được thực trạng và giải pháp chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình ĐTH nông thôn ở huyện Kinh Môn, em đã thu thập những tài liệu, số liệu về dân số, lao động, chuyển dịch đất đai, cơ sở hạ tầng, cơ cấu kinh tế,… qua 3 mốc thời gian 2000 – 2003 – 2006.
- Thu thập tài liệu thứ cấp: thông qua lý luận về đô thị, đô thị hóa, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động,… những tài liệu đã được công bố thông qua báo, tạp chí, sách, thông tin internet,,..với phương pháp tìm đọc, sao chép, trích dẫn
- Thu thập tài liệu sơ cấp: Điều tra, phỏng vấn trực tiếp các hộ, người lao động sản xuất kinh doanh, những người đã, đang và chưa chuyển đổi nghề nghiệp; cán bộ phụ trách tình hình lao động, việc làm ở các phòng ban trong huyện. Từ đó ghi chép lại để tính toán những chỉ tiêu phục vụ nghiên cứu đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê mô tả: Dựa vào số liệu thống kê mô tả sự biến động, xu hướng phát triển của hiện tượng kinh tế - xã hội để rút ra kết luận cần thiết phục vụ cho nghiên cứu và ứng dụng vào thực tế.
- Phương pháp phân tích kinh tế: Thu thập, tổng hợp và phân tích số liệu, vận dụng các số tương đối, tuyệt đối, bình quân để tính toán các chỉ tiêu heo thời gian nhằm làm rõ tình hình chuyển đổi nghề nghiệp của người lao động, diễn biến ĐTH nông thôn ở huyện. Ở đây phương pháp này cho thấy xu hướng chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động từ ngành nông nghiệp sang các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ - thương mại.
- Phương pháp so sánh: So sánh các chỉ tiêu với nhau về thời gian giữa các năm trong cùng một địa điểm để thấy rõ nội dung của một chỉ tiêu kinh tế nào đó.
4. Bố cục chuyên đề
Đề tài gồm có 3 phần : Ngoài phần mở đầu và kết luận báo cáo gồm:
Phần I- Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình đô thị hoá nông thôn.
Phần II- Thực trạng chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình đô thị hoá ở huyện Kinh Môn Hải Dương
Phần III- Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình đô thị hoá nông thôn ở huyện Kinh Môn tỉnh Hải Dương.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ của Ts. Vũ Thị Minh và các bác, anh chị trong phòng NN& PTNT huyện Kinh Môn đã tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành đề tài của mình. Trong quá trình nghiên cứu em không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và bạn bè để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Bùi Hồng Hoa
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN ĐỔI NGHỀ NGHIỆP CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH
ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN.
1.1. Một số vấn đề về chuyển đổi nghề nghiệp cho lao động trong qúa trình Đô thị hoá nông thôn
1.1.1. Khái niệm, vai trò và đặc trưng của Đô thị hoá.
1.1.1.1. Khái niệm Đô thị hoá
* Đô thị
Hiện nay đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về đô thị và sau đây là một số khái niệm:
- Đô thị là nơi tập trung dân cư, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, sống và làm việc theo kiểu thành thị. (Giáo trình kinh tế đô thị - ĐH kiến trúc HN).
- Theo nghị định số 72-2001/NĐCP ngày 25/10/2001 của chính phủ, đô thị bao gồm các thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập.
- Theo thông tư số 31/TTLĐ ngày 20/11/1990 của liên bộ xây dựng và ban tổ chức cán bộ chính phủ, đô thị là điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có cơ sở hạ tầng thích hợp, là trung tâm tổng hợp hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước, của một miền lãnh thổ, một tỉnh, một huyện hay một vùng trong tỉnh.
Như vậy, khái niệm Đô thị mang tính tương đối do sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế xã hội. Nhưng nói chung có thể hiểu Đô thị là điểm tập trung dân cư với quy mô lớn và mật độ cao, lao động chủ yếu là lao động phi nông nghiệp đồng thời nó được thống nhất trên hai tiêu chuẩn cơ bản là những thành phố, thị xã, thị trấn có dân số từ 2000 người trở lên và trong đó có trên 60% dân số phi nông nghiệp.
* Đô thị hoá
Thuật ngữ “Đô thị hoá” được sử dụng nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng và trong sách vở, nhưng chưa có một khái niệm chung duy nhất. Bởi ĐTH trong quá trình phát triển chứa đựng nhiều biểu hiện khác nhau. Do đó tuỳ những mục đích nghiên cứu khác nhau và theo sự nhìn nhận của từng cá nhân tổ chức mà người ta đưa ra những quan niệm về đô thị hoá, sau đây là một số khái niệm:
- Trên quan điểm một vùng: Đô thị hoá là một quá trình hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị.
- Trên quan điểm kinh tế quốc dân: Đô thị hoá là quá trình biến đổi về sự phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành và phát triển các hình thức, điều kiện sống theo kiểu đô thị, đồng thời đó là việc phát triển các đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hoá các cơ sở vật chất đã có và hình thành nên các đô thị mới.
- Theo quan điểm dân số: Đô thị hoá là quá trình đa dạng hoá về mặt kinh tế - xã hội, dân số, địa lý dựa trên cơ sở các hình thức phân công lao động theo lãnh thổ.
Đô thị hoá cũng được hiểu là sự quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức sống đô thị của các nhóm dân cư. Khi kết thúc thời kỳ quá độ thì các điều kiện tác động đến đô thị hoá cũng thay đổi và lúc này xã hội phát triển với các điều kiện mới tập trung nhất là sự thay đổi cơ cấu dân cư, cơ cấu lao động và kéo theo nhiều vấn đề bất cập khác phải quan tâm giải quyết.
Trên đây là một số cách hiểu ở những khía cạnh khác nhau về đô thị hoá song dù cớ tiếp cận thế nào đi chăng nữa thì ta cần phải hiểu đúng về nó, tránh xảy ra nhầm lẫn giữa đô thị hoá thật sự với đô thị hoá giả tạo.
Đô thị hoá giả tạo là sự phát triển thành phố do tăng quá mức dân cư đô thị và do dân cư từ các vùng khác đến đặc biệt là nông thôn…dẫn đến tình trạng thất nghiệp, thiếu nhà ở, ô nhiễm môi trường, giảm chất lượng cuộc sống…
Tuy nhiên, trong các loại đô thị hoá thì đô thị hoá nông thôn là xu hướng có tính bền vững và mang tính quy luật, đang được sự quan tâm nhiều nhất. Thực chất đó là quá trình từng phần nông thôn chuyển hoá thành thành thị. Trong quá trình này lối sống thành phố được phổ biến cho nông thôn trên nhiều phương diện: phong cách sinh hoạt, cách sống, hình thức nhà ở, …
Tóm lại, qua những khái niệm trên có thể thấy đô thị hoá mang tính lịch sử và xã hội, nó gắn liền sự biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội của đô thị và nông thôn. Đô thị hoá là vấn đề lớn được rất nhiều cá nhân, tổ chức quan tâm. Cũng giống như nhiều lĩnh vực khác, ĐTH là hiện tượng tất yếu và khách quan. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nhất là công nghệ thông tin phát triển đã tạo thêm tiền đề vững chắc đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ.
Nói chung các khái niệm trên đều thể hiện được những đặc trưng quan trọng của quá trình đô thị hoá là quá trình biến đổi về cơ cấu dân số từ nông thôn thành đô thị và phân bổ lực lượng sản xuất, bố trí dân cư hình thành, phát triển các lối sống đô thị bên cạnh đó biến đổi lao động từ lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp.
1.1.1.2. Vai trò của Đô thị hoá nông thôn
ĐTH có vai trò thúc đẩy tốc độ CNH - HĐH đất nước và ngược lại CNH - HĐH tạo điều kiện để tiến hành quá trình ĐTH. Sự nghiệp CNH - HĐH muốn thực hiện thành công cần phải chuyển đổi căn bản cơ cấu kinh tế sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp với kỹ thuật cao hơn, thay đổi cơ cấu lao động. Trước hết khi ĐTH diễn ra có sự tập trung cao các điểm dân cư ,kết hợp xây dựng đồng bộ và khoa học các cơ quan, xí nghiệp và các trung tâm thương mại, dịch vụ. Khi đó, việc sử dụng lao động vào sản xuất dần nhiều hơn và trình độ tay nghề của công nhân được nâng cao nhưng cũng dẫn đến một lượng không nhỏ người lao động bị mất việc làm.
ĐTH là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân có vai trò thúc đẩy kinh tế xã hội của cả nước. ĐTH có vai trò to lớn trong việc tạo ra thu nhập quốc dân, góp phần tháo gỡ những vấn đề khó khăn trước mắt của xã hội nhất là về lao động - việc làm. Mặc dù nhà nước thường xuyên đưa ra các chính sách nhằm giải quyết việc làm cho người dân nhưng tỷ lệ thất nghiệp còn khá cao. Nếu như vấn đề này không quan tâm đúng mức, có giải pháp phù hợp thì đây sẽ là nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh mầm mống tệ nạn xã hội vô cùng nghiêm trọng.
Thực chất quá trình ĐTH nông thôn ở nước ta đang diễn ra khá phân tán dẫn đến việc di cư từ nông thôn ra thành thị còn khá nhiều, khoảng cách giữa nông thôn và thành thị lại ngày càng xa hơn. Nhưng ĐTH nông thôn cũng đã tạo ra sự đa dạng các ngành nghề kinh doanh, hình thành nhiều nghề mới trên địa bàn nông thôn và là cơ sở thiết yếu trong việc khôi phục ngành nghề truyền thống, từ đó hình thành nhiều nghề mới trên địa bàn nông thôn, tạo việc làm cho người lao động, tác động tích cực đến thu nhập và đời sống của người dân.
Theo số liệu thống kê năm 2006, kết quả quá trình mở rộng và phát triển đô thị đã đóng góp tỷ trọng lớn (40%) thu nhập quốc dân, 36% ngân sách nhà nước, tỷ lệ dân cư, lao động giữa thành thị và nông thôn lần lượt là 20/80 và 23/27 Như vậy đóng góp của đô thị vào ngân sách chiếm tỷ trọng khá cao.
1.1.1.3. Đặc trưng của Đô thị hoá
Do có mối quan hệ rất khăng khít giữa các vấn đề kinh tế - xã hội, văn hoá, không gian nên quá trình đô thị hoá ở mỗi nước diễn ra rất khác nhau, giữa các nước phát triển đến nước đang phát triển; giữa các nước Châu Á, Châu Âu và Châu Mỹ. Còn trong mỗi một xã hội với phương thức tổ chức sản xuất riêng, với trình độ phát triển lực lượng sản xuất nhất định, nền văn hoá đặc thù thì quá trình ĐTH cũng lại mang sắc thái riêng. Chính vì vậy trong mỗi quốc gia, mỗi một vùng, ĐTH có những đặc điểm riêng biệt.
Xét trong một quốc gia ĐTH làm biến đổi sâu sắc kinh tế - xã hội đô thị và nông thôn. Tuy nhiên, sự phát triển của đô thị lại có đặc trưng khác hẳn so với nông thôn. Do đó để thấy rõ đặc trưng của thành thị cần so sánh nông thôn và đô thị.
So với nông thôn, đô thị là vùng có dân cư chủ yếu làm nghề phi nông nghiệp, có cơ sở hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội, trình độ tiếp cận thị trường, trình độ sản xuất… cao hơn. Nhưng ở những đô thị hiện đại thì vẫn còn tồn tại một số ngành nông nghiệp với các loại sản phẩm cao cấp, có giá trị kinh tế cao như: hoa sinh vật cảnh, các loại rau, thủy đặc sản cao cấp… đó chính là sắc thái đặc trưng mới đặt ra yêu cầu cho sự phát triển đô thị.
Giữa nông thôn và đô thị ngoài khác nhau về đặc điểm nghề nghiệp còn khác nhau về mặt tự nhiên, kinh tế - xã hội. Đô thị là nơi có điều kiện kinh tế phát triển hơn cá vùng khác của đất nước, có thu nhập và đời sống, trình độ văn hoá, khoa học và công nghệ cao hơn hẳn nông thôn, là vùng phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ và là trung tâm kinh tế, văn hoá, chính trị. Cho nên ở mức độ nào đó trình độ dân cư, tự do và công bằng xã hội sẽ cao hơn nông thôn.
Đô thị có cơ sở hạ tầng hiện đại, dù đã hoàn chỉnh, đồng bộ hay chưa hoàn chỉnh, đồng bộ thì nó đều có một qui hoạch chung cho tương lai. Nói đến đô thị la nói đến những tiện nghi: hệ thống điện nước, giao thông, viễn thông…Do vậy đây cũng là yếu tố quan trọng để phân biệt nông thôn và đô thị.
Qua sự so sánh giữa đô thị với nông thôn ở trên có thể thấy các đặc trưng cụ thể của ĐTH như sau:
- ĐTH mang tính xã hội và lịch sử, là sự phát triển, mở rộng về qui mô, số lượng diện tích các đô thị hiện có trên cơ sở hình thành các khu đô thị mới nhằm nâng cao vai trò của đô thị trong khu vực để hình thành các chùm đô thị. Đó cũng là hình thức khá phổ biến đối với các đô thị ở Việt Nam trong quá trình hình thành và phát triển khi tiềm lực kinh tế còn nhiều hạn chế. ĐTH theo chiều rộng được xem là việc hình thành các khu đô thị mới, các quận, phường mới và là sự mở đường của quan hệ sản xuất nhằm tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Việc hình thành các khu các khu đô thị mới, các quận, phường mới đó sẽ dẫn đến dân số và diện tích đô thị tăng lên một cách nhanh chóng. Hiện nay người ta hay đề cập đến ĐTH nông thôn đó không phải là quá trình biến đổi nông thôn thành đô thị mà thực chất là quá trình phát triển nông thôn về kinh tế - xã hội, từ đó hình thành lối sống đô thị ở nông thôn. Đây là xu hướng tăng trưởng ĐTH theo hướng bền vững.
- ĐTH gắn liền sự biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội của đô thị và nông thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng và dịch vụ. Hiện đại hoá, nâng cao trình độ các đô thị hiện có là quá trình thường xuyên, không thể thiếu của quá trình tăng trưởng và phát triển. Do vậy quá trình ĐTH làm mở rộng địa bàn đô thị, tăng cường kết cấu hạ tầng đô thị, kinh tế phát triển nâng cao đời sống nhân dân đô thị. Tuy nhiên, quá trình này cũng đòi hỏi phải điều tiết, tận dụng tối đa những tiềm năng sẵn có và hoạt động có hiệu quả cao trên cơ sở hiện đại hoá trong mọi lĩnh vực. Như vậy, ĐTH không thể tách rời chế độ kinh tế - xã hội.
Phương hướng và điều kiện phát triển của quá trình ĐTH phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Ở các nước phát triển, đặc trưng ĐTH là sự phát triển các nhân tố chiều sâu. ĐTH nâng cao đời sống, việc làm và công bằng xã hội, xóa dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Đối với nước đang phát triển, như Việt Nam, ĐTH đặc trưng cho sự bùng nổ dân số, còn việc phát triển công nghiệp, công bằng, việc làm… lại tỏ ra yếu kém. Sự phát triển chênh lệch về kinh tế - xã hội mất cân đối và độc quyền xảy ra làm cho mâu thuẫn giữa thành thị và nông thôn trở nên sâu sắc.
1.1.2. Tính tất yếu của đô thị hoá.
Thực tiễn hiện nay trên thế giới cho thấy những nước có nền kinh tế phát triển đều trải qua quá trình CNH đất nước. Đó là quá trình hình thành và phát triển hệ thống cơ sở vật chất của các ngành kinh tế quốc dân mà trước hết là các ngành công nghiệp, đồng thời đó cũng là quá trình xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội trên phạm vi cả nước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, yêu cầu nâng cao đời sống mọi mặt của dân cư. Cho nên CNH sẽ dẫn tới sự biến đổi cơ cấu kinh tế là điều không thể tránh khỏi, từ nông nghiệp giữ một vai trò chủ yếu sẽ chuyển sang công nghiệp, dịch vụ và cùng với nó là sự chuyển dịch cơ bản cơ cấu về lao động theo ngành. Kéo theo quá trình này đó là sự tập trung dân cư tại các khu công nghiệp, các vùng kinh tế hình thành nên các trung tâm công nghiệp, các khu đô thị.
Như vậy, sự hình thành và phát triển các đô thị có bắt nguồn từ sự tác động của quá trình CNH và diễn ra song song với quá trình CNH. Kết quả của CNH này tất yếu gắn liền với sự hình thành các cơ sở, các khu công nghiệp, thương mại, dịch vụ và các khu dân cư mới. Điều đó dẫn tới hình thành các khu đô thị mới hoặc sự mở rộng quy mô các khu đô thị đã có. Như thế đã khẳng định ĐTH là quá trình mang tính tất yếu và phổ biến của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển.
Tuy nhiên do tác động khác nhau của điều kiện chủ quan và khách quan mà ở các nước khác nhau thì quá trình ĐTH diễn ra không giống nhau. Đối với các nước phát triển, ĐTH diễn ra chủ yếu theo chiều sâu, chất lượng cuộc sống đô thị ngày càng hoàn thiện. Còn đối với các nước đang phát triển, ĐTH tượng trưng cho sự bùng nổ về dân số. Sự gia tăng dân số không dựa trên sự phát triển công nghiệp và phát triển kinh tế. Trong thời gian gần đây tốc độ ĐTH ở các nước đang phát triển là rất cao. Việt Nam là nước đang trong quá trình phát triển, kinh tế đang dần chuyển sang nền kinh tế hiện đại thì CNH, HĐH nhất là CNH,HĐH nông thôn càng được đầu tư phát triển. Nhờ vậy mà quá trình ĐTH nông thôn cũng diễn ra với tốc độ khá nhanh, làm biến đổi bộ mặt kinh tế, văn hoá và xã hội của đất nước.
ĐTH nông thôn là một quá trình phát triển tất yếu của mỗi một quốc gia, đặc biệt đối với nước ta là nước đang trong giai đoạn đầu của công cuộc CNH đất nước. Qúa trình ĐTH nông thôn đã biến nền sản xuất nông nghiệp độc canh trở thành nền sản xuất hàng hoá đa ngành nghề, nâng cao khả năng cạnh tranh. Lối sống thành phố đã du nhập vào nông thôn rất nhanh, tác động lớn tới cuộc sống, phong tục, tập quán thôn quê với những giá trị văn hóa truyền thống lâu đời. Điều đó thực sự làm thay đổi toàn bộ đời sống của người nông dân, xoá dần khoảng cách giữa nông thôn và thành thị.
Qua sự phân tích trên cho thấy, quá trình ĐTH diễn ra là một tất yếu khách quan đối với mỗi nước, dù là nước đang phát triển hay nước đã phát triển.
1.1.3. Tác động của đô thị hoá đến lao động - việc làm
Qúa trình ĐTH dù diễn ra theo hình thức mở rộng quy mô diện tích đô thị hay nâng cao trình độ các đô thị hiện có đều dẫn đến những tác động không nhỏ đối với người lao động và việc làm. ĐTH làm chuyển dịch cơ cấu lao động, việc làm từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, dịch vụ; từ khu vực kinh tế nhà nước sang khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Đây là dòng dịch chuyển lao động, việc làm tất yếu trong quá trình ĐTH. Do đó cần phải đánh giá những ảnh hưởng của ĐTH đến lao động, việc làm để phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực.
1.1.3.1. Tác động đến người lao động
ĐTH mở rộng diện tích đô thị làm giảm quỹ đất canh tác nông nghiệp để phục vụ cho việc phát triển đô thị; phát triển cơ sở hạ tầng; xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, dịch vụ; các công trình công cộng; các khu dân cư mới. Điều này khiến cho một bộ phận người nông dân không còn đất để sản xuất, vì vậy họ phải chuyển sang hoạt động phi nông nghiệp. Cho nên dẫn tới tình trạng dư thừa lao động đặc biệt là lao động nông nghiệp gây ra khó khăn trong giải quyết việc làm. Bởi vì trình độ lao động nông nghiệp rất thấp, lao động chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ lớn, trong khi các khu đô thị hoá lại chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ nên số lao động nông nghiệp khi tham gia chưa thể đáp ứng ngay được yêu cầu của các ngành này.
ĐTH còn góp phần nâng cao giá trị do lao động tạo ra. Vì cùng với quá trình ĐTH thì quá trình CNH, HĐH cũng phát triển mạnh mẽ do đó các thành tựu về khoa học kỹ thuật ngày càng tiên tiến hiện đại hơn sẽ được áp dụng rộng rãi vào đời sống sản xuất nhờ thế năng suất lao động cũng như trình độ người lao động tăng lên. Đồng thời ở các vùng đô thị sự phát triển kinh tế - xã hội, cơ sở vật chất, kỹ thuật hạ tầng giúp cho con người có nhiều điều kiện thuận lợi để học tập, trao đổi thông tin nâng cao trình độ. Song chính sự phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ lại đòi hỏi người lao động phải có kỹ năng và trình độ tay nghề cao hơn để sử dụng máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại phục vụ cho sản xuất. Do đó người lao động càng phải nhạy bén trong tiếp cận thành tựu kỹ thuật mới để nắm bắt và sử dụng cho sự phát triển đi lên.
Nói tóm lại, những tác động kể trên của quá trình ĐTH đã dẫn đến hiện tượng dư thừa lao động gây ra khá nhiều rắc rối trong quản lý sử dụng, nhưng nó lại tạo tiền đề cao năng suất lao động, nâng cao trình độ của người lao động và giá trị lao động tạo ra.
1.1.3.2. Tác động đến việc làm
ĐTH ảnh hưởng đến việc làm theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Theo hướng tích cực ĐTH sẽ tạo ra điều kiện giúp người lao động chuyển đổi cơ cấu việc làm từ thuần nông với thu nhập thấp sang việc làm mới ổn định và thu nhập cao. Song việc chuyển đổi này cần có những điều kiện nhất định như việc người lao động phải được đào tạo để có trình độ chuyên môn kỹ thuật thích ứng với những công việc mới. Về hướng tiêu cực ĐTH tác động đến việc làm và thu nhập của người lao động nhất là lao động nông nghiệp do sự mất đất sản xuất nông nghiệp. Vì thế ĐTH càng tăng thì đất canh tác nói riêng càng bị thu hẹp.
Trong quá trình ĐTH các đô thị cũ được mở rộng, hình thành nhiều đô thị mới theo đó nhiều nhà máy xí nghiệp được xây dựng và phát triển, nhiều trung tâm thương mại dịch vụ được hình thành và tạo ra một số cơ hội kinh doanh, ngành nghề mới dẫn đến có số lượng lớn việc làm mới cho người lao động. Nhờ đó mà người dân có quyền lựa chọn nhiều hơn trong công việc, có điều kiện chuyển đổi cơ cấu Vốn đầu tư việc làm từ thuần nông sang việc khác thuận lợi, năng suất lao động cao, thu nhập tốt hơn. Nhưng cần thấy rằng số lượng việc làm tạo ra trong quá trình ĐTH thường nhỏ hơn nhu cầu việc làm phát sinh do quá trình này.
ĐTH không chỉ tác động đến việc làm mà còn tác động mạnh đến đời sống và thu nhập của người lao động. ĐTH tạo điều kiện để người dân nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống. Tuy nhiên điều này dẫn đến sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị càng lớn, tạo ra sức hấp dẫn người dân từ nông thôn đến thành thị và tất nhiên sẽ tạo ra một làn sóng di dân gây nên tình trạng quá tải, bùng nổ dân số. Hiện tượng này khiến cho trong một thời gian ngắn số người không có việc làm lớn, tỷ lệ thất nghiệp tại các đô thị cao, tạo sức ép giải quyết việc làm và làm cho sự chênh lệch trong thu nhập là điều không thể tránh khỏi. Nông nghiệp là ngành có thu nhập thấp, lao động nặng nhọc. Chính vì vậy sức hấp dẫn của nông nghiệp ngày càng giảm sút. Đó là tác động tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp cần phải lưu ý nhiều trong quá trình ĐTH.
Khi tập quá sinh hoạt, lối sống, phương thức kiếm sống thay đổi đã kéo theo các nhu cầu về giáo dục, y tế tăng lên. Song điều đó cũng lại làm cho vấn đề an ninh, tệ nạn xã hội và khoảng cách giàu nghèo trở nên khó kiểm soát hơn trong quá trình ĐTH. Điều đó đòi hỏi phải có sự quan tâm, lưu ý, có những giải pháp phối hợp tổng thể thường xuyên ở nhiều lĩnh vực, nhiều ngành và nhiều thành phần kinh tế trong xã hội để vấn đề nan giải này được giải quyết tốt nhất.
1.2. Sự cần thiết phải chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình đô thị hoá nông thôn
1.2.1. Chuyển đổi nghề nghiệp
Theo tác giả E.A.Klimov(1) thì: “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức lao động vật chất và tinh thần của cong người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội (do sự phân công lao động xã hội mà có), nó tạo ra cho con người khả năng sử dụng lao động của mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho việc tồn tại và phát triển”.
Nghề hay nghề nghiệp, Đại từ điển tiếng Việt(2),(1): E.A.Klimov, Nay đi học, mai làm gì?, ĐHSP HN, 1971 (bản dịch tiếng việt).
(2): Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại từ điển tiếng việt, NXB Văn hoá thông tin , 1998.
định nghĩa: “Nghề: công việc chuyên làm theo sự phân công của xã hội”. Từ điển tiếng Việt thì định nghĩa: “Nghề: công việc hàng ngày làm để sinh nhai”; “ Nghề nghiệp” là nghề làm để mưu sống”. Từ điển Larouse của Pháp định nghĩa: “ Nghề (Professio) là hoạt động thường ngày được thực hiện của con người nhằm tự tạo nguồn thu nhập cần thiết để tồn tại”. Theo giáo trình KTLD: “ Nghề nghiệp là hình thức phân công lao động, nó đòi hỏi lý thuyết kiến thức tổng hợp và thói quen thực hành để hoàn thành những công việc nhất định”.
Qua một số khái niệm được nêu trên, có thể hiểu nghề nghiệp như một dạng lao động vừa mang tính xã hội (do sự phân công xã hội), vừa mang tính cá nhân (do nhu cầu bản thân), trong đó con người với tư cách chủ thể hoạt động đòi hỏi để thoả mãn những nhu cầu nhất định của xã hội và cá nhân.
Như vậy, nghề nghiệp là một dạng lao động đòi hỏi ở con người một quá trình đào tạo, có những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, chuyên môn nhất định. Nhờ quá trình hoạt động nghề nghiệp con người có thể tạo ra các sản phẩm vật chất, tinh thần thoả mãn nhu cầu của bản thân mình và xã hội.
Con người khi xác định cho mình một hướng đi, một nghề nghiệp cụ thể thường dựa vào khả năng nhận thức của chính bản thân và sự tác động các đối tượng bên ngoài, để xem xét, so sánh, đánh giá những dạng khác nhau của lao động từ đó đi đến quyết định tốt lựa chọn nghề nghiệp của mình. Tất nhiên bất kỳ sự lựa chọn nào cũng không bao giờ được coi là tuyệt đối, bởi vậy nó còn bị giới hạn bởi rất nhiều điều kiện khác nhau như: kinh tế, chính trị, xã hội, …những điều kiện này dễ thay đổi theo thời gian. Một nghề nghiệp có thể phù hợp ở thời điểm này nhưng không có nghĩa trong thời điểm khác, hoặc nó vẫn tỏ ra còn phù hợp với tình hình kinh tế - chính trị - xã hội biến đổi từng ngày. Đây là lý do người ta không thể làm một nghề mãi mãi mà phải chuyển đổi từ nghề này sang nghề khác để thích hợp với xu hướng hay yêu cầu phát triển nói chung của xã hội.
Do tình hình các nghề và việc làm ngày nay thường xuyên thay đổi nên việc chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động đang là vấn đề được sự quan tâm chú ý của xã hội.
Từ sự nhìn nhận trên, có thể hiểu chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động là việc người lao động xem xét, lựa chọn lại nghề nghiệp của mình sao cho phù hợp hơn với đặc điểm, khả năng của bản thân và với yêu cầu đang thay đổi của xã hội.
1.2.2. Sự cần thiết phải chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động
Một điều rõ ràng mà chúng ta nhận thấy là quá trình ĐTH, CNH và HĐH diễn ra đã dẫn đến rất nhiều thay đổi ngay cả trong cuộc sống đời thường hàng ngày của mỗi người. Qúa trình này có ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đồng thời cũng tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao động. Vì vậy nếu xét dưới góc độ cá nhân người lao động, quá trình ĐTH sẽ khiến cho công việc, nghề nghiệp của họ có những thay đổi. Người lao động ở mọi trình độ đào tạo luôn mong muốn có một công việc ổn định phù hợp với khả năng lao động và có thu nhập đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, mức sống chung cho chính bản thân và cả gia đình họ. Thế nhưng do quá trình đô thị hóa mà người lao động nông thôn nhất là lao động nông nghiệp phải chuyển đổi nghề nghiệp thì mới có thể kiếm sống để tồn tại được.
Đồng thời, khi kinh tế phát triển kéo theo sự phát triển của tất cả các ngành sản xuất kinh doanh, làm cho các ngành này được nâng cấp đổi mới để đáp ứng thị trường cả trong nước và ngoài nước. Vì vậy nguồn nhân lực trong các ngành, lĩnh vực này đòi hỏi phải được đào tạo nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu yêu cầu. Do đó chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động là điều cần thiết giúp người lao động có được ngành nghề khác theo xu hướng tất yếu.
Đặc biệt ở nông thôn quá trình ĐTH đang diễn ra làm người nông dân bị mất một phần ruộng đất canh tác, họ rơi vào tình trạng thất nghiệp, không có việc làm. Cho nên việc chuyển đổi nghề nghiệp cho bộ phận người lao động này là rất cần thiết không thể không làm. Ngoài ra khi người lao động nông thôn bị mất đất mà không được chuyển đổi sang nghề nghiệp khác như nghề công nghiệp, thương mại, dịch vụ,… thì cuộc sống của họ càng trở nên khó khăn. Và lúc này vấn đề chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa về mặt xã hội. Cùng những trở ngại về kinh tế, tình trạng thất nghiệp là nguyên nhân của nhiều tệ nạn xã hội. Khi không có việc làm, không có thu nhập để tồn tại trong cuộc sống với nhiều cám dỗ như hiện nay thì một bộ phận người lao động nhất là lao động nông thôn do thời gian nhàn dỗi, thiếu việc làm cộng với trình độ lao động thấp không có khả năng tìm việc, chuyển đổi sang nghề phi nông nghiệp đã bị lôi kéo tham gia các hoạt động trái pháp luật, làm huỷ hoại bản thân và ảnh hưởng lợi ích của xã hội.
Chính vì tất cả điều trên càng cho thấy sự cần thiết phải chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động nhất là lao động nông thôn khi quá trình ĐTH nông thôn đang và sẽ diễn ra ._.ngày một nhanh hơn.
1.3. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động
Chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình ĐTH nông thôn bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác nhau. Sự biến động của các nhân tố này sẽ kéo theo thay đổi trong chuyển đổi nghề nghiệp. Sau đây là một số nhân tố ảnh hưởng đến việc chuyển đổi nghề nghịêp của người lao động trong quá trình đô thị hoá nông thôn:
1.3.1. Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế
Đây là nhân tố quan trọng liên quan đến khả năng tiếp cận và lựa chọn của người lao động trong quá trình tìm kiếm, tạo việc làm.Khi nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh sẽ tác động thúc đẩy nâng cao thu nhập, mức sống của người lao động và gia đình họ khiến bản thân người lao động có xu hướng thay đổi ngành nghề, chuyển đổi sang nghề có thu nhập, có môi trường làm việc tốt hơn. Ngoài ra, phát triển kinh tế còn ảnh hưởng đến người lao động trong việc phải nâng cao trình độ, khả năng thích ứng, khả năng hoà nhập,… vào thị trường lao động. Điều này dẫn đến một bộ phận người lao động có năng lực, nhạy bén với thời cuộc sẽ tìm kiếm việc làm để chuyển đổi nghề nghiệp của bản thân.
Bên cạnh đó sự phát triển kinh tế sẽ làm thay đổi cơ cấu kinh tế, tỷ trọng công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ cũng biến đổi theo nên đặt ra nhu cầu về lực lượng lao động mới ở cả số lượng lẫn chất lượng. Thể hiện ra bên ngoài là sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp, khu công nghiệp,… với thiết bị hiện đại, công nghệ sản xuất tiên tiến. Do đó tạo ra khối lượng lớn về việc làm nhất là việc làm phi nông nghiệp, nó đòi hỏi người lao động phải có một trình độ, khả năng nhất định nào đó. Xã hội càng phát triển càng được ứng dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật thì rất cần những người lao động giỏi, có trình độ tay nghề cao. Chính vì vậy để hội nhập nền kinh tế mới phát triển, tiếp cận và theo kịp sự phát triển của nhân loại phải có một đội ngũ những người lao động giỏi cả về khả năng, trình độ và chuyên môn.
1.3.2. Sự phát triển của khoa học công nghệ
Một trong đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế hiện đại là tốc độ phát triển công nghệ và sự đổi mới kiến thức của người lao động diễn ra nhanh chóng. Cho nên, người lao động phải tiếp tục học tập và được đào tạo suốt cuộc đời lao động của mình để theo kịp với tiến bộ đó. Đồng thời, cách mạng khoa học công nghệ dẫn đến sự xuất hiện của nhiều ngành nghề mới tác động không nhỏ đến đào chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay đang đặt ra những yêu cầu cao về trí tuệ của người lao động. Những nghề mới ra đời làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút thêm nhiều lao động nhưng lại khiến cho người lao động có những quyết định mới trong công việc. Người lao động không thể dậm chân tại chỗ mà phải biết tìm tòi, học hỏi để theo kịp tốc độ phát triển chóng mặt của thế giới.
Tất cả điều đó ảnh hưởng đến người lao động đặc biệt đối với số lượng lớn người lao động đang không có việc làm hay việc làm không phù hợp. Và như thế nó có tác động đến chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động.
1.3.3. Thị trường lao động
Thị trường lao động là yếu tố quan trọng giúp cho người lao động có thể tìm được một công việc đúng ngành, nghề. Song thị trường này luôn luôn biến động do quan hệ cung - cầu trên thị trường. Trong một thời điểm nào đó những ngành nghề mà cầu lớn hơn cung thì người ta lựa chọn để học và để chuyển đổi sang nghề đó, đây cũng chính là quyết định lựa chọn nghề nghiệp của người lao động và xu hướng chuyển đổi nghề nghiệp của họ. Như thế là thị trường lao động đã gián tiếp tác động vào việc chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động qua sự quyết định hướng đi cho nghề nghiệp của bản thân. Tuy nhiên nếu như mọi người đều đổ dồn vào một nghề mà không xem xét kỹ lưỡng trước khi đưa ra quyết định sẽ làm thị trường mất cân bằng thậm chí dư thừa, tức là cung lao động giờ lại lớn hơn cầu, việc chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động sẽ gặp khó khăn bởi số lượng lao động mà thị trường cần quá ít trong khi nhu cầu tìm việc cao.
1.3.4. Ảnh hưởng của chính sách lao động - việc làm
Chính sách lao động - việc làm có tác động trực tiếp đến việc mở ra cơ hội để lực lượng lao động trong xã hội tiếp cận với việc làm. Đây cũng chính là giải pháp để hỗ trợ người lao động có cơ hội và điều kiện làm việc. Chính sách việc làm là một chính sách cơ bản của quốc gia góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Chính sách việc làm là nhân tố chủ quan có vai trò quan trọng quá trình tìm việc và chuyển đổi nghề nghiệp của người lao động. Nhờ có nó mà người lao động được tạo điều kiện thuận lợi để tìm kiếm việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp theo hướng tích cực. Nếu không có chính sách này hoặc chính sách không hợp lí sẽ dẫn đến ảnh hưởng không tốt cho xã hội nói chung và bản thân người lao động nói riêng, nhất là đối với lao động đang trong tình trạng thất nghiệp.
1.3.5. Nhân tố con người
Con người là nhân tố mang tính chủ quan tác động chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình ĐTH. Bản chất của ĐTH là sự thay đổi về phương thức sản xuất từ lạc hậu đến hiện đại. Vì thế trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ quyết định đến tốc độ và hướng phát triển của ĐTH. Sở dĩ ở những nơi có ĐTH sớm, tốc độ nhanh là do yếu tố con người quyết định.
Qúa trình ĐTH cùng với việc làm tăng dân số đô thị là sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và tăng việc làm. Trước hết là cơ cấu ngành nghề phải chuyển đổi sao cho phù hợp cơ cấu ngành nghề của kinh tế đô thị. Do đó việc này làm ảnh hưởng đến chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động. Với bản thân mỗi người cần cân nhắc trong hoạt động chọn nghề. Bởi vì muốn làm nghề gì trước hết tự bản thân mỗi người phải xác định xem có thích hợp nó hay không. Nếu như không thích hợp, không có khả năng thì không nên chọn vì rằng chúng ta không thể thay đổi nghề nghiệp một cách dễ dàng được. Hơn nữa, con người cũng không thể thích là chuyển đổi sang nghề khác ngay được
Như vậy, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình ĐTH nông thôn dù ít hay nhiều đều bị ảnh hưởng của chính bản thân mỗi người lao động. Nếu như người lao động quyết định và tìm mọi cách thực hiện thì việc chuyển sang một nghề mới sẽ có thể diễn ra, còn nếu họ không muốn và không buộc phải chuyển đổi thì dù thế nào đi chăng nữa việc chuyển đổi nghề nghiệp không tiến hành được.
Trên đây đã trình bày một số nhân tố chủ yếu tác động đến việc chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động. Song trong thực tế ở từng thời điểm khác nhau sẽ có những nhân tố thuận lợi và nhân tố hạn chế cản trở sự chuyển đổi. Đối với nhân tố thuận lợi cần khai thác, nhưng đối với nhân tố hạn chế phải có những giải pháp để khắc phục trên cơ sở nghiên cứu các cơ sở khoa học và thực tiễn. Vấn đề mấu chốt của việc chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động là tìm ra hướng chuyển đổi phù hợp đối với từng người, từng đối tượng lao động.
1.4. Xu hướng chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình đô thị hoá nông thôn.
Qúa trình ĐTH cùng CNH, HĐH đã làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi và đồng thời với đó là quá trình chuyển đổi cơ cấu lao động. Đây thực chất là quá trình giảm dần lao động nông nghiệp, tăng lao động các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ có năng suất lao động cao hơn. Chính điều này dẫn đến hiện tượng người lao động tìm kiếm và chuyển đổi sang nghề khác phù hợp với sự thay đổi không ngừng của xã hội.
Một khi kinh tế phát triển tất nhiên sẽ dẫn đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế, từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ kéo theo là sự thay đổi nhu cầu về lao động. Điều đó tác động tạo ra nhận thức và cách làm mới về chuyển đổi nghề nghiệp của người lao động. Lúc này muốn đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển, người lao động phải nhận thức vấn đề là ở chỗ làm sao tìm được một nghề phù hợp với sự phát triển không ngừng của xã hội. Điều đó cũng thể hiện xu hướng chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động từ nông nghiệp chuyển sang những nghề phi nông nghiệp.
1.5. Tác động Đô thị hoá đến việc chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động
ĐTH nông thôn có tác động cả tích cực và tiêu cực đến chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động cụ thể như sau:
1.5.1. Tác động tích cực
Qúa trình ĐTH làm chuyển dịch cơ cấu lao động tạo nhiều cơ hội cho người lao động phát huy năng lực của mình. Nhờ thế người lao động có thể chuyển sang nghề nghiệp mới có thu nhập cao hơn. ĐTH mang lại cho người dân một cái nhìn mới hợp thời hơn trong nền kinh tế thị trường. Người lao động đặc biệt là những người nông dân sẽ nghĩ đến phương thức sản xuất quy mô lớn - sản xuất hàng hoá để nâng cao mức sống của mình, từ đây tạo động lực phát triển cho xã hội. Muốn như vậy họ phải tự đào tạo mình, tìm hiểu và đưa kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất. Cho nên năng lực, trình độ của người lao động được nâng lên khiến việc chuyển đổi nghề nghiệp thuận lợi hơn.
ĐTH mở rộng diện tích đô thị, biến một vùng nông thôn thành đô thị, người dân có quyền lựa chọn nhiều hơn trong công việc, nhiều diện tích đất canh tác nông nghiệp biến thành đất đô thị để xây dựng nhà ở, đường xá, các công trình công cộng khác. Những người nông dân trước đây sống chủ yếu bằng nông nghiệp, dựa vào đất để sản xuất thì nay đất không còn. Bởi vậy họ phải tự tìm kiếm cho mình bằng công việc khác qua chuyển đổi nghề nghiệp để đảm bảo cuộc sống.
ĐTH là điều kiện để cho những kỹ thuật tiến bộ được đưa vào sản xuất nên đòi hỏi một lực lượng lao động có trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật cao. Do đó tự nó sẽ hướng một bộ phận lớn dân số vào chuyển đổi nghề nghiệp. Xu hướng này phần nào làm giảm tỷ lệ thất nghiệp trước mắt và tạo ra nguồn lao động chất lượng tốt thoả mãn đòi hỏi của nền sản xuất phát triển trong tương lai. Vì vậy, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động tập trung vào nghề có hàm lượng tri thức và khoa học công nghệ cao hơn.
Ngoài ra ĐTH cùng với CNH và HĐH là quá trình tạo ra cuộc cách mạng về phân công lao động xã hội, phát triển công nghiệp và dịch vụ, tạo thêm nhiều ngành nghề mới ở nông thôn. Đồng thời nhà nước và các tổ chức xã hội có điều kiện giúp đỡ nông dân về vốn, kỹ thuật công nghệ để tự tổ chức ngành nghề, tự tạo thêm nhiều việc làm khác. Với việc tạo thêm nhiều ngành nghề, nhiều khu vực công nghiệp trung tâm, những khu công nghiệp và dịch vụ ngay tại khu vực nông thôn này là nơi thu hút nhiều lao động vào làm việc, giải quyết vấn đề chuyển đổi nghề nghiệp.
Như vậy có thể thấy tác động tích cực của ĐTH đến việc chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động qua quy mô số lượng nghề nghiệp tăng, cơ hội lựa chọn nghề cũng nhiều hơn và dễ dàng hơn trước.
1.5.2. Tác động tiêu cực
ĐTH, CNH - HĐH trong nền kinh tế thị trường tất yếu tồn tại một bộ phận không có việc làm dẫn đến tình trạng thất nghiệp xảy ra và người thiếu việc làm này chủ yếu là lực lượng lao động trong nông nghiệp. Ngoài ra ĐTH còn rút bớt lượng lớn lao động nông nghiệp chuyển sang cụm, khu công nghiệp, các làng nghề. Điều này dẫn đến việc chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động gặp khó khăn bởi yêu cầu của công việc mới đòi hỏi khắt khe với nhiều tiêu chuẩn mà không dễ gì ai cũng có thể đáp ứng được.
Khi quá trình ĐTH tiếp cận đến các vùng nông thôn làm một phần diện tích đất nông nghiệp biến thành đất đô thị nên người nông dân không còn đất để sản xuất, vì vậy buộc họ phải tự tìm cho mình những công việc khác để kiếm sống. Cho nên, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động khó khăn, bởi số lượng người nông dân buộc phải chuyển đổi nghề tăng. Ngoài ra phần đông trong số họ vẫn chỉ biết làm nông nghiệp chưa được đào tạo một nghề nào khác vì thế rất khó cho họ khi chuyển đổi để kiếm được việc làm.
ĐTH góp phần tăng tình trạng thất nghiệp đã làm cho một bộ phận người lao động chưa tìm được việc làm mới, chưa chuyển đổi sang nghề nghiệp khác. Cho nên ĐTh dẫn đến hiện tượng trộm cướp, đánh bạc, chơi bời, nghiện hút,… gia tăng. Ngoài ra sự khác biệt về giàu nghèo giữa các đô thị, trong từng đô thị, giữa nông thôn và thành thị ngày càng trở nên sâu sắc hơn. Điều đó dẫn đến chênh lệch trong thu nhập là điều không thể tránh khỏi. Do đó đặt ra vấn đề khó khăn về chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động phải nhanh và hợp lý.
Tóm lại tất cả những tác động kể trên của ĐTH nông thôn đến việc chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động tại các vùng đô thị, một mặt có thể tạo việc làm, một mặt lại tăng tỷ lệ thất nghiệp. Vấn đề đặt ra cho mỗi vùng phải có chính sách thích hợp để giải quyết việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động.
1.6. Kinh nghiệm thực tế về chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình đô thị hoá nông thôn
1.6.1. Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới
1.6.1.1. Kinh nghiệm ở Trung Quốc
Trung Quốc là một nước nằm ngay cạnh Việt Nam, có nhiều đặc điểm tương đồng về văn hoá, con người và về quá trình CNH, HĐH đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Qúa trình ĐTH ở Trung Quốc đã được uỷ ban kế hoạch phát triển nhà nước hết sức quan tâm. Ngày 13/8/2001 Uỷ ban đã công bố chi tiết một chương trình ĐTH, sao cho đến năm 2010 dân cư thành thị chiếm khoảng 40 % dân số toàn quốc, đến năm 2020 tỷ lệ này sẽ là 60 %.
Vấn đề dư thừa lao động tại các đô thị, nhất là các đô thị lớn trong quá trình ĐTH đã được chính phủ Trung Quốc nhận thức rất sớm. Những năm qua mặc dù có tình trạng di cư đến các đô thị lớn nhưng với các biện pháp hữu hiệu, Trung Quốc đã đạt được những thành công nhất định. Họ đã nhận ra rằng các cơ quan chính phủ không thể giải quyết được mà không cần phải xã hội hoá công tác tạo việc làm tại các đô thị. Chính vì vậy, tại các đô thị Trung Quốc đã lập ra nhiều trung tâm xúc tiến việc làm tại các phường. Các trung tâm này hoạt động dưới sự giúp đỡ và giám sát chặt chẽ của chính quyền các đô thị.
Mặt khác, quá trình ĐTH, CNH và HĐH diễn ra nhanh làm diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp dẫn tới hàng triệu lao động nông thôn không có việc làm và thiếu việc làm ở mức nghiêm trọng. Trước tình hình đó, chính phủ Trung Quốc rất coi trọng công tác đào tạo nghề, dạy nghề phát triển nguồn nhân lực cho nông thôn để tạo việc làm cho lao động nông thôn ngay tại địa phương. Chính phủ có chính sách khuyến khích các cơ sở đào tạo nghề, dạy nghề tích cực đào tạo nhân lực chuyên môn kỹ thuật cho khu vực ĐTH để tạo điều kiện cho lao động nông thôn chuyển sang làm việc tại các doanh nghiệp, khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, các cụm kinh tế mở,…Vì vậy đào tạo cho lao động nông thôn để đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động trong các ngành mới ở các vùng ĐTH nhanh được chính phủ và chính quyền các địa phương rất quan tâm.
Lực lượng lao động nông thôn dư thừa đã gây nhiều khó khăn trong công tác giải quyết việc làm cho người lao động. Trung Quốc đã tìm các biện pháp nhằm giảm sức ép về việc làm đô thị, đó là:
- Phát triển các xí nghiệp địa phương để thu hút việc làm, giảm sức ép đô thị. Nhờ thúc đẩy phát triển các xí nghiệp (doanh nghiệp) địa phương nên Trung Quốc đã giải quyết một phần việc làm cho người lao động. Các chính sách khuyến khích đầu tư của nhà nước đã thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp địa phương, tạo ra rất nhiều cơ hội việc làm cho lực lượng lao động ở nông thôn. Khuyến khích xây dựng các doanh nghiệp địa phương là một trong những giải pháp quan trọng của Trung Quốc nhằm giải quyết việc làm nông thôn góp phần giúp người lao động chuyển đổi nghề nghiệp thuận lợi.
- Xây dựng các đô thị quy mô vừa và nhỏ để giảm bớt lao động nhập cư vaò các thành phố lớn: Sự phát triển các đô thị nhỏ ở vùng nông thôn cùng với CNH nông thôn là một giải pháp tốt để thu hút lao động dư thừa. Các đô thị mới được thành lập sẽ thúc đẩy nhu cầu về phát triển công nghiệp nông thôn. Trong các đô thị nhỏ sẽ có nhiều cơ hội việc làm hơn bởi các đô thị này có dân số thấp. Những ngành công nghiệp mới có khả năng thu hút nhiều lao động. Người nông dân có kỹ năng sẽ có cơ hội tham gia các ngành công nghiệp và dịch vụ mà không phải tham gia sản xuất nông nghiệp. Cho nên các đô thị nhỏ dễ tìm được việc làm hơn so với đô thị lớn.
Tóm lại, Trung Quốc đã thực hiện nhiều chính sách trong quá trình ĐTH như: chính sách kiểm soát dòng di chuyển lao động đến các thành phố lớn; chính sách phát triển các loại đô thị vừa và nhỏ ở nông thôn để phát triển ngành nghề công nghiệp, dịch vụ, thúc đẩy đào tạo, dạy nghề cho người lao động và chính sách khuyến khích doanh nghiệp nông thôn hợp tác với các doanh nghiệp nhà nước để đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật đáp ứng nhu cầu đổi mớí lao động ;… nên đã đem lại hiệu quả tốt.
1.6.1.2. Kinh nghiệm ở một số nước ASEAN
Trong giai đoạn CNH, HĐH, ĐTH mạnh mẽ ở các nước ASEAN (1970-1980) lao động dôi dư trong nông nghiệp rất lớn. CNH, HĐH thúc đẩy phát triển mạnh các ngành như công nghiệp điện tử, viễn thông, diệt may cao cấp, giầy da, chế biến nông sản xuất khẩu,… Để đáp ứng nhu cầu phát triển các ngành này, chính phủ các nước ASEAN đã chuyển sang chiến lược tăng tốc cho giáo dục. Một số nước đã mớ rộng giáo dục nghề, giáo dục kỹ thuật ngay trong bậc trung học.
Ở Malaixia, chính phủ đã xây dựng quỹ phát triển nguồn nhân lực (HRDF) và dùng để trợ giúp đào tạo, dạy nghề đối với các ngành nghề có nhu cầu lớn về lao động kỹ thuật, đào tạo lao động nông thôn để chuyển dịch từ khu vực nông nghiệp năng suất lao động thấp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ có năng suất lao động cao hơn trong quá trình ĐTH và đầu tư nâng cao năng lực, chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo nghề. Ngoài ra, chính phủ khuyến khích hệ thống cơ sở đào tạo nghề tư nhân thu hút đào tạo nhân lực nông thôn phục vụ các chương trình phát triển các ngành nghề mới như: chế tạo, lắp ráp, sửa chữa ô tô, điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin, vận tải, quảng cáo,… Cho nên giáo dục đào tạo nâng cao dân trí và dạy nghề cho người lao động ở nông thôn được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nông thôn.
Ở Singapo mặc dù là nước nhỏ, đa số lao động hoạt động trong ngành dịch vụ nhưng chính phủ đã tích cực triển khai chương trình phát triển nguồn nhân lực, xây dựng quỹ phát triển kỹ năng (SDF) và chương trình tái phát triển kỹ năng (SRP) để đào tạo, nâng cao kỹ năng cho người lao động. Đặc biệt, người lao động nông thôn được nâng cao trình độ và nhận được chứng chỉ nghề, khi cần thiết họ có thể chuyển đổi nghề nghiệp hoặc tìm việc trên thị trường lao động.
Một số nước ASEAN như Thái Lan, Singapo có dịch vụ du lịch rất phát triển kể cả ở nông thôn (du lịch sinh thái, văn hoá,...), trong đó vai trò của công ty du lịch rất quan trọng đối với đào tạo nghiệp vụ du lịch cho lao động nông thôn, đảm bảo phát triển và thực hiện các dịch vụ này mang tính văn minh và hiệu quả. Đối với một số vùng ngoại ô thủ đô của nhiều nước ASEAN, phần lớn lao động nông thôn đã chuyển sang các hoạt động dịch vụ.
Trong chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nông thôn, chính phủ các nước Philipin, Thái Lan,…rất chú trọng đào tạo nghề phục vụ cho xuất khẩu lao động. Hàng năm, xuất khẩu lao động đã giải quyết được hàng trăm nghìn việc làm cho lao động nông thôn của các nước này, tạo điều kiện cho quá trình ĐTH được thuận lợi, đặc biệt ở vùng ngoại ô các thành phố lớn và các thành phố mới xây dựng, thành phố đang phát triển quy mô. Đồng thời khi trở về nước nhờ tay nghề được nâng cao, tư duy kinh tế rộng mở hơn và có một số vốn trong tay nên khả năng tạo việc làm và tìm việc làm của những người lao động này là rất lớn.
1.6.2. Kinh nghiệm của một số địa phương ở Việt Nam
* Bài học ở thành phố Đà Nẵng
Tốc độ đô thị hoá diễn ra nhanh chóng biến đổi Đà Nẵng trở thành một thành phố trẻ, năng động với 7 quận, huyện chứa gần 800 ngàn dân, trong đó, 86,2% cư dân đô thị sống trong các khu phố văn minh. Một trong những thành công lớn nhất của Đà Nẵng là đẩy mạnh hiện đại hóa, đô thị hóa gắn liền với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, trong đó có công tác hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm cho người lao động.
Bài học kinh nghiệm rút ra từ công tác hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm cho người lao động trong quá trình đô thị hoá thành phố Đà Nẵng là:
Thứ nhất, đi đôi với chính sách giải toả, đền bù, bố trí tái định cư thoả đáng, hợp lý là chính sách hỗ trợ chuyển đổi ngành, nghề, giải quyết việc làm cho lao động. Các chính sách này đều được hoạch định cùng lúc từ quy hoạch, phê duyệt phương án đến tổ chức di dời, bố trí tái định cư, ổn định cuộc sống. Thậm chí đối với một số địa bàn phức tạp, việc làm, đời sống của nhân dân còn khó khăn, chủ yếu phụ thuộc vào mảnh vườn, miếng ruộng, chính sách chuyển đổi ngành, nghề, giải quyết việc làm cho lao động được tính trước khi tiến hành phương án di dời, giải toả.
Thứ hai, chính sách hỗ trợ chuyển đổi ngành, nghề, giải quyết việc làm chỉ áp dụng vào nhóm lao động yếu thế, thật sự khó khăn trong chuyển đổi ngành nghề, tìm kiếm việc làm sau di dời giải toả. Họ là những người lớn tuổi, khó có điều kiện đi học nghề, hộ gia đình đông con, thuộc hộ nghèo, gia đình chính sách, bộ đội xuất ngũ. Bên cạnh đó, phải coi trọng công tác điều tra, khảo sát, phân loại đối tượng để có chính sách phù hợp, chỉ hỗ trợ gián tiếp, không hỗ trợ trực tiếp bằng tiền và được quản lý qua một đầu mối duy nhất là Sở Lao động - Thương binh và Xã hội. Đối với lao động đã lớn tuổi, các hội đoàn thể địa phương có trách nhiệm hướng dẫn cách làm ăn trên diện tích đất còn lại, lập dự án vay vốn ưu đãi từ quỹ hỗ trợ việc làm, hình thành các vùng chuyên canh rau sạch, trồng hoa, cây cảnh đối với con em họ đến tuổi lao động, tổ chức đào tạo nghề miễn phí, hỗ trợ tiền ăn trưa trong thời gian học nghề; nếu còn đi học phổ thông thì thực hiện miễn, giảm học phí.
Thứ ba, tạo “vết dầu loang” trong giải quyết việc làm. Thực ra, sức ép về việc làm nói chung là lớn, nhưng riêng đối với lao động di dời, giải toả là không lớn. Vấn đề đặt ra là chất lượng, cơ cấu của lao động bị mất đất, di dời, giải toả không đáp ứng yêu cầu của xã hội, thị trường lao động. Xác định giải quyết việc làm cho đối tượng này là giải quyết vấn đề xã hội chứ không phải kinh tế. Do vậy, trong thời qua, việc ban hành các chính sách thu hút đầu tư, mở mang ngành nghề, doanh nghiệp, củng cố, nâng cao chất lượng dạy nghề trên địa bàn; hỗ trợ doanh nghiệp tiếp nhận lao động vào đào tạo nghề và giải quyết việc làm... đã mở cơ hội lớn cho lao động bị mất đất được giải quyết việc làm và tự giải quyết việc làm.
Thứ tư, tôn trọng nguyên tắc thị trường trong giải quyết việc làm cho số lao động mất đất. Việc tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp là do quan hệ cung - cầu, doanh nghiệp tự quyết định theo nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình cũng như yêu cầu trình độ tay nghề của người lao động. Trong khi đó, lao động bị mất đất, di dời, giải toả chưa đáp ứng được yêu cầu. Do vậy, phải tăng cường tuyên truyền để doanh nghiệp nhận lao động mất đất vào kèm cặp nghề, giải quyết việc làm dài hạn qua một số chính sách hỗ trợ.
Thứ năm, lồng nghép đối tượng bị thu hồi đất, di dời, giải toả vào hầu hết chiến lược, quy hoạch, chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của các cấp, các ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị, xã hội, các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố trong từng thời kỳ, xem đó là đối tượng ưu tiên hưởng lợi, như đầu tư, thuế, nhà ở tái định cư, điện, nước, giáo dục, y tế, hộ khẩu, hộ tịch. Ưu tiên tuyển dụng, xuất khẩu lao động, được cung cấp thông tin thị trường lao động và giới thiệu việc làm tại sàn giao dịch việc làm thành phố...
Thứ sáu, có cơ chế quản lý mạnh, chặt chẽ nhưng không “cầm tay chỉ việc”. Nghĩa là tăng cường quản lý Nhà nước, xây dựng chính sách theo hướng mở, linh hoạt, đẩy mạnh tuyên truyền chính sách để người lao động bị mất đất không ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước mà chủ động tạo việc làm cho mình và cho người khác.
Thứ bảy, nhiệm vụ hàng đầu mà chính quyền thành phố Đà Nẵng xác định khi thu hồi đất là thực hiện công tác tái định cư cho dân. Giải toả nơi ở cũ là có nơi ở mới ngay, “an cư” rồi mới “lạc nghiệp”.
Thứ tám, trong tất cả các giải pháp, biện pháp, chính sách hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm cho lao động mất đất ở thành phố thì giải pháp về tín dụng được xem là hiệu quả nhất, tác động nhất. Thành phố chủ trương tạo các nguồn vốn, tạo lập các quỹ tập trung cho vay ưu đãi, tạo điều kiện cho người dân có vốn ban đầu kinh doanh kinh tế hộ, buôn bán nhỏ. Người dân được tín chấp hoặc thế chấp để vay vốn và được các hội, đoàn thể hướng dẫn cách làm ăn, bảo toàn đồng vốn. Mô hình ngân hàng cho vay, hội đoàn thể đứng ra tín chấp và hướng dẫn cách làm ăn đã thật sự đem lại hiệu quả lớn, nhiều hộ di dời giải toả đã thoát nghèo, tự tạo việc làm ổn định.
* Kinh nghiệm ở Huyện Từ Liêm, Hà Nội
Từ Liêm là một huyện có tốc độ DDTH vào loại nhanh nhất của Thủ đô Hà Nội. ĐTH đã và đang tạo ra sự chuyển biến rất sâu sắc về cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và phát triển theo hướng tiến bộ. Tuy nhiên, vấn đề ĐTH ở Từ Liêm đã dẫn đến một lượng lớn đất nông nghiệp bị thu hồi để xây dựng cơ sở hạ tầng, các khu công nghiệp, khu chế xuất,… điều đó đẩy người dân đến chỗ thất nghiệp và thiếu việc làm. Trước tình hình này, huyện đã tích cực tìm nhiều biện pháp nhằm giải quyết việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động. Kinh nghiệm và bài học được rút ra như sau:
Một là: Gắn quy hoạch đô thị với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của vùng và địa phương. Giải quyết việc làm tăng thu nhập cho người lao động nhất là đối với những hộ nông dân bị thu hồi đất phục vụ ĐTH, đảm bảo tăng trưởng kinh tế trong hiện tại và phát triển bền vững trong tương lại.
Hai là: Cụ thể hoá chương trình giải quyết việc làm cho những hộ nông dân bị thu hồi đất do ĐTH. Trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng diện tích đất thu hồi, số lượng lao động bị thất nghiệp, đặc điểm của những lao dộng này…, từ đó đề ra chương trình giải quyết việc làm, đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động phù hợp hiệu quả.
Ba là: Công tác đào tạo nghề cho nông dân phải đi trước một bước, trước khi thu hồi đất canh tác. Đa dạng hoá ngành nghề đào tạo, hình thức đào tạo chuyên môn kỹ thuật, đào tạo lại để nâng cao chất lượng nguồn lao dộng địa phương. Nhà nước trích lại một khoản để tạo một phần kinh phí nhất định (đền bù gián tiếp) đào tạo nghề, giao cho Trung tâm hướng nghiệp, dạy nghề của huyện để họ có trách nhiệm tuyển lao động ở các xã có thu hồi đất, từ đó đào tạo nghề cho đúng đối tượng, giới tính, độ tuổi. Như vậy đã thực sự phát huy hiệu quả tiền đền bù cho người dân trong hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm hay chuyển đổi nghề nghiệp.
Bốn là: Tạo mọi điều kiện thuận lợi về vốn, đất đai, ưu đãi thuế,…khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động và tạo điều kiện tốt trong chuyển đổi nghề nghiệp.
Năm là: Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, hỗ trợ thêm vốn phục vụ xuất khẩu lao động, khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trực tiếp về địa phương tuyển dụng hoặc thông tin đầy đủ, kịp thời cho địa phương về chỉ tiêu, tiêu chuẩn tuyển dụng.
Sáu là: Phát triển và mở rộng mạnh mẽ các hình thức dịch vụ giới thiệu việc làm, đào tạo nghề… đưa thông tin nhanh nhất từ nhà tuyển dụng đến người lao động.
Bảy là: Hỗ trợ hơn nữa về vốn, miễn giảm thuế, tạo điều kiện về bằng để mọi cơ sở có điều kiện đẩy mạnh sản xuất kinh doanh. Tạo sự tin cậy giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với các doanh nghiệp đóng trên địa bàn không chỉ bằng giáo dục, thuyết phục mà bằng các chính sách, biện pháp cụ thể.
1.6.3. Kinh nghiệm được rút ra cho các địa phương trong nước
Từ kinh nghiệm thực tế về giải quyết việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình ĐTH một số nước và một số vùng địa phương ở nước ta có thể rút ra bài học chủ yếu để xem xét và vận dụng như sau:
- Cần phải có chính sách hiệu quả phát triển hệ thống đào tạo nghề tại các vùng nông thôn trọng điểm, có tốc độ CNH, ĐTH nhanh để tạo khả năng chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động. Các nghề đào tạo phải gắn với nhu cầu của thị trường lao động, với sự phát triển của các ngành nghề công nghiệp, dịch vụ tại các địa phương. Điều này mới tạo điều kiện tốt hơn cho người lao động nông nghiệp chuyển đổi sang nghề phi nông nghiệp. Khi đào tạo nghề phải tập trung cả vào đào tạo nghề ban đầu, đào tạo lại và đào tạo nâng cao để đáp ứng kịp thời sự đổi mới.
- Cần có nhiều hình thức đào tạo nghề hiệu quả đối với người lao động nông thôn nên phải có sự lựa chọn cho thích hợp với từng thời điểm, từng địa phương. Đào tạo lao động tại các trường, cơ sở đào tạo, dạy nghề chính quy của nhà nước và tư nhân mở tại địa phương; đào tạo tại các trung tâm, cơ sở dạy nghề của các công ty; đào tạo nghề ngay trong các trường học phổ thông; đào tạo kèm cặp tại công ty.
Đối với Việt Nam thì việc khôi phục và phát triển các làng nghề thủ công truyền thống cũng như phát triển các nghề mới là vấn đề rất quan trọng. Nó không chỉ giúp giải quyết công ăn, việc làm trước mắt cho người lao động mà còn gián tiếp giải quyết các vấn đề xã hội khác nảy sinh nhất là trong quá trình ĐTH. Muốn khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống thực sự có hiệu quả trước hết phải có sự hỗ trợ tích cực của nhà nước. Đó là sự hỗ trợ bằng việc ban hành những qui định pháp chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, đồng thời hỗ trợ về tài chính, tiếp cận nguồn vốn, tạo nền tảng và động lực cho sự phát triển của làng nghề. Trong các làng nghề cần chú ý tăng cường việc đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hoá, trình độ tay nghề của người lao động và áp dụng công nghệ mới, hiện đại để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường,... Đồng thời thành lập các tổ chức, hiệp hội làng nghề và phát huy vai trò của nó trong việc hỗ trợ các vấn đề vốn, tiêu thụ sản phẩm, đào tạo tay nghề.
- Muốn phát triển bền vững và cân đối nền kinh tế, giải quyết được vấn đề việc làm đô thị, phải đầu tư có hiệu quả khu vực nông thôn, thu hẹp khoảng cách đô thị và nông thôn, tức là phải giải quyết việc làm tại chỗ cho người nông dân để hạn chế dòng di dân và tận dụng tiềm năng tài nguyên, khoáng sản còn chưa được khai thác thích hợ._.hặt chẽ với vấn đề tạo dựng nghề nghiệp mới, phải tính đến đặc điểm phát triển ngành nghề của khu vực. Do đó trong tổ chức thực hiện cần có sự quan tâm, trợ giúp tích cực của cả người dân và chính quyền.
3.1.1.2. Chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động cần phù hợp quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động
ĐTH một mặt tạo thêm công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, mặt khác khi quá trình ĐTH diễn ra sẽ làm cho một số lượng lớn lao động thất nghiệp, nhất là đối với lao động đang sản xuất nông nghiệp bởi họ không còn đất canh tác. Như vậy ĐTH không chỉ có mặt tích cực mà còn có mặt tiêu cực tác động đến vấn đề việc làm. Trong điều kiện dân số đông, thất nghiệp nhiều, cơ hội việc làm đã từng bước tạo ra nhiều cơ hội chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động. Tuy nhỉên khi tiến hành chuyển đổi nghề nghiệp hay tìm kiếm việc làm cần phải chú ý xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động thì mới đem lại hiệu quả cao trong chuyển đổi.
Đặc trưng của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự phát triển nhanh chóng của khu vực công nghiệp, dịch vụ và sự phát triển theo chiều sâu của ngành nông nghiệp. Do đó đòi hỏi người lao động phải đáp ứng được yêu cầu mới về số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề. Có như vậy thì giải quyết việc làm, đào tạo, dạy nghề và chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động mới đúng hướng, đạt kết quả cao và đặc biệt phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động đang ngày một thay đổi trong quá trình ĐTH nông thôn.
3.1.1.3. Chuyển đổi nghề nghiệp, giải quyết việc làm đối với người lao động trên địa bàn Huyện cần đặc biệt ưu tiên theo hướng tạo việc làm tại chỗ và tự tạo việc làm nhằm khai thác lợi thế của địa phương.
Quan điểm này cho thấy người lao động có thể giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho bản thân ngay chính tại nơi mình đang sinh sống không cần di cư đến nơi khác. Điều này còn cho thấy tính chủ động cao của người lao động trong giải quyết vấn đề việc làm. Ở đây người lao động có thể phát triển các ngành nghề truyền thống, tiểu thủ công nghiệp,… những ngành nghề có lợi thế của của địa phương mình nhằm khai thác tốt nguồn nội lực sẵn có, tăng thu nhập và ổn định đời sống.
Ngoài ra khi tạo việc làm tại chỗ và tự tạo việc làm sẽ tạo thuận lợi tốt về vốn, năng động, dễ chuyển đổi từ việc này sang việc khác hơn mà không cần mất nhiều tiền của và công sức như việc giải quyết việc làm bằng cách khác. Một thực trạng hiện nay còn cho thấy các ngành nghề truyền thống đang dần có xu hướng giảm sút thậm chí nhiều làng nghề đã mất đi, điều đó là do chúng ta chưa có sự quan tâm, đầu tư phù hợp. Cho nên để chuyển đổi nghề nghiệp, giải quyết việc làm theo hướng trên cần phải có sự quan tâm, hỗ trợ và có những chính sách khuyến khích sản xuất để duy trì, phát triển được các ngành nghề truyền thống này nhằm tạo ra thêm khối lượng việc làm tại chỗ cho người lao động giúp họ nâng cao đời sống.
Như vậy khi vận dụng quan điểm này sẽ đem lại nhiều thuận lợi hơn, tránh được phần nào khó khăn phát sinh không đáng có trong quá trình giải quyết việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động.
3.1.1.4. Trong việc giải quyết việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa chính quyền và người dân
Để tạo hiệu quả cao khi giải quyết việc làm cũng như chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động chắc chắn phải có sự kết hợp cùng hành động giữa người dân với chính quyền địa phương và Nhà Nước. Thông qua những chủ trương và biện pháp thích hợp cả chính quyền lẫn người lao động đều hành động một cách đồng bộ, nhờ đó tạo sức mạnh tổng hợp giải quyết tốt vấn đề.
Chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động cần phải đặc biệt chú ý gắn kết với chương trình phát triển kinh tế - xã hội, chương trình việc làm và chính sách xã hội để đảm bảo sự chuyển đổi phù hợp. Như vậy giúp người lao động nhanh chóng ổn định công việc và đời sống, nâng cao khả năng tìm được việc làm trong hiện tại và tương lai, đồng thời làm giảm tỷ lệ thất nghiệp thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá nông thôn.
3.1.1.5. Chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình đô thị hoá nông thôn không thể tách khỏi chiến lược tạo việc làm và sự chuyển dịch cơ cấu lao động
Theo sự phát triển của đô thị hoá thì việc diện tích đát canh tác thu hẹp là điều tất nhiên. Do đó gây ra tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn cũng khá cao. Bởi vậy cần nhận thức hiện trạng thiếu việc làm và thu nhập thấp của người lao động để nhanh chóng tìm kiếm phương thức thích hợp cho họ giải quyết việc làm.Ở một chừng mực nào đó, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động là một hình thức giải quyết việc làm. Thế nên việc chuyển đổi nghề nghiệp này cần có sự phù hợp với chiến lược tạo việc làm và sự chuyển dịch cơ cấu lao động nhằm tránh tình trạng bất hợp lý về ngành nghề sau khi chuyển đổi. Một khi quá trình đô thị hoá nông thôn diễn ra làm chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng lao động công nghiệp, dịch vụ và giảm lao động nông nghiệp thì khi chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động cũng phải xem xét hướng chuyển đổi sang ngành nghề phi nông nghiệp. Đây là điều cần thiết không thể tách dời khi chuyển đổi nghề nghiệp nhất là trong quá trình đô thị hoá nông thôn trên dịa bàn huyện Kinh Môn.
3.1.2. Định hướng chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình đô thị hoá nông thôn ở Kinh Môn
Dựa vào những định hướng phát triển kinh tế xã hội của huyện,các chương trình giải quyết việc làm giai đoạn 2006-2010 và thực trạng lao động của huyện, cần tập trung vào một số phương hướng chủ yếu sau để chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động:
- Hỗ trợ giải quyết việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động
Cho vay vốn hỗ trợ giải quyết việc để tạo ra sự kích thích người lao động đầu tư sản xuất tự tạo việc làm cho bản thân và cho người lao động khác. Đồng thời các trung tâm dịch vụ việc làm tổ chức cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm đăng ký. Với các cơ sở dạy nghề cần tổ chức các hoạt động tư vấn việc làm, tư vấn nghề nghiệp cho người lao động, cung cấp thông tin thị trường. Đồng thời đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm sau khi đào tạo. Cần thực hiện công tác điều tra lao động việc làm nhằm nắm được thông tin về biến động lao động, việc làm, cơ cấu, tỷ lệ lao động,… để đánh giá thực trạng lao động việc làm, chất lượng, số lượng nguồn lao động và kết quả đạt được của công tác giải quyết việc làm hàng năm.
- Phát triển kinh tế xã hội nhất là các ngành nghề có lợi thế của huyện để tạo thêm cơ hội việc làm mới cho người lao động
Thông qua các chính sách và cơ chế hợp lý để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế, tạo điều kiện thông thoáng thu hút nhiều đầu tư để người lao động có thể phát triển sản xuất. Bên cạnh đó cũng cần tạo cơ chế thu hút nguồn lực tài chính của tất cả người dân trong huyện.
Giải quyết việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động theo hướng phân công lại lao động, xem xét trình độ học vấn, sức khoẻ,… để phát huy hiệu quả nguồn lực lao động, chủ động nắm bắt sao cho theo kịp nhịp độ thay đổi của thị trường. Phải ưu tiên những ngành đang có lợi thế và có thể phát triển tốt trong tương lai, ưu tiên ngành đòi hỏi kỹ thuật tiên tiến, lao động lành nghề, chứa đựng hàm lượng chất xám, tiến bộ khoa học kỹ thuật cao.
- Thực hiện giải quyết những ảnh hưởng không tốt và phát huy ảnh hưởng tích cực của ĐTH đến người lao động
Để giải quyết những ảnh hưởng của ĐTH đến người lao động cần phải huy động tất cả các nguồn lực của xã hội cùng tham gia. Trước hết Nhà Nước và các cấp, ngành có liên quan cần ban hành chính sách xã hội tạo điều kiện thuận lợi để tạo việc làm, khuyến khích người lao động chuyển đổi nghề nghiệp. Sau đó là bản thân người lao động phải tự tìm phương hướng và cách làm cho mình sao cho tận dụng tốt nhất điều kiện thuận lợi có thể có. Tuy nhiên phải lưu ý rằng để người lao động tìm được việc làm hay chuyển đổi nghề nghiệp phải có phương hướng và biện pháp cụ thể đến từng đối tượng.
3.2. Giải pháp chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình đô thị hoá
Hiện nay tình hình đô thị hoá nông thôn đang diễn ra khá mạnh làm cho tình hình dân số - lao động và giải quyết việc làm trong huyện gặp nhiều khó khăn. Mặc dù hàng năm huyện đã giải quyết được một số lượng lớn công việc cho người lao động nhưng chưa thể đáp ứng nhu cầu việc làm càng tăng. Đặc biệt đối với lao động nông nghiệp, sau khi huyện tiến hành phát triển đô thị làm một bộ phận nông dân mất đất, buộc phải chuyển sang hoạt động trong lĩnh vực phi nông nghiệp. Còn một số lượng nông dân chỉ bị giảm diện tích đất canh tác vẫn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nhưng mức thu nhập lại thấp. Số lao động chuyển sang nghành nghề khác chưa nhiều và chưa thích ứng với công việc mới một phần do trình độ, năng lực còn hạn chế, phần khác do số lượng việc làm chưa nhiều. Vì vậy xuất phát từ tình trên cùng với mục tiêu, phương hướng những năm tới của huyện ta có thể đưa ra một số biện pháp sau để góp phần giải quyết việc làm, nâng cao hiệu quả việc chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động.
3.2.1. Giải pháp đào tạo nghề tạo thuận lợi trong chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động
Trong giai đoạn tới khi tiến trình đô thị hoá diễn ra trên khắp địa bàn huyện thì việc chuyển đổi một bộ phận lớn lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ là rất cần thiết và tất yếu đối với Kinh Môn. Tuy nhiên để thực hiện được việc chuyển đổi nghề nghiệp cần phải có những chính sách đào tạo thích hợp đối với đội ngũ lao động. Đào tạo phải đi trước một bức và phải chú ý việc đào tạo ngoài để đáp ứng nhu cầu trước mắt còn để phục vụ quá trình lâu dài gắn với quá trình CNH - HĐH và ĐTH nông thôn. Thực tế ở huyện Kinh Môn cho thấy rằng lao động thất nghiệp nhiều mà yêu cầu về trình độ chuyên môn và nghề nghiệp của các ngành nghề lại cao, lao động qua đào tạo không nhiều. Điều này làm cho số lượng lao động kiếm được việc làm, chuyển đổi được sang nghề khác chưa cao. Hơn thế nữa, trong qúa trình ĐTH số lượng lao động không có việc làm ngày càng nhiều. Để giải quyết việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp cho số lao động này đòi hỏi phải đào tạo họ các kỹ năng chuyên môn cần thiết cho công việc. Vì vậy huyện cần có giải pháp về đào tạo hợp lý cho từng đối tượng lao động.
Để thực hiện mục tiêu đào tạo nghề trong từng giai đoạn đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu đê tăng cường củng cố đầu tư cho công tác đào tạo và dạy nghề gắn với việc làm ở huyện.
Hiện nay, trên địa bàn huyện chưa có cơ sở công lập nào đào tạo nghề, chưa có trung tâm dạy nghề. Do đó huyện cần tăng cường đâu tư cho công tác đào tạo nghề thông qua một số biện pháp chủ yếu sau:
- Tổ chức dạy nghề cho thanh niên nông thôn tại các cơ sở dạy nghề của các trường dạy nghề, các trung tâm dịch vụ việc làm và các đơn vị dạy nghề trên địa bàn tỉnh.
- Tổ chức dạy nghề, truyền nghề ở các làng nghề truyền thống, các khu công nghiệp tập trung, các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất như may mặc, mộc, nề, cơ khí, điện tử…
- Đề nghị tỉnh cần đầu tư vốn, đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị, phương tiện dạy nghề cho các cơ sở dạy nghề. Đồng thời hỗ trợ các làng nghề truyền thống để đủ năng lực dạy nghề cho lao động.
- Huyện cần nghiên cứu và mở các lớp đào tạo nghề ngắn hạn và dài hạn phù hợp với hoàn cảnh của người lao động, nhất là phù hợp với trình độ chuyên môn và khả năng phát triển trên địa bàn. Uỷ ban nhân dân Huyện cần có phương án đầu tư để xây dựng một trung tâm dạy nghề và hướng nghiệp cho người lao động trong những năm tới.
Giáo dục định hướng nghề nghiệp cho học sinh để sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở, tuỳ từng điều kiện năng lực trình độ và điều kiện kinh tế mà chọn nghề học, cấp học cho phù hợp. Nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 30% năm 2006 lên 40% năm 2010.
3.2.2. Tập trung thực hiện một số chương trình phát triển kinh tế trọng điểm, tạo việc làm, thu hút nhiều lao động để chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động.
3.2.2.1. Thực hiện chương trình phát triển công nghiệp – xây dựng và đầu tư xây dựng các khu công nghiệp vừa và nhỏ.
Mục tiêu của chương trình này là: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH đảm bảo kinh tế tăng trưởng 11 %. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp từ 16,8 % - 18 %. Khuyến khích tạo mọi điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư, ưu tiên những ngành công nghiệp sạch, giải quyết việc làm và thu hút nhiều lao động.
Phát triển mạnh và đa dạng ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp ngoài quốc doanh, công nghiệp chế biến nông sản, khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn, làng nghề truyền thống. Tiếp tục đầu tư có hiệu quả các dự án và 4 cụm công nghiệp. Phát triển thêm những cụm công nghiệp mới, nghề mới và làng nghề mới tạo điều kiện thu hút lao động vào làm việc. Đây cũng là hướng tốt tạo thuận lợi để chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động nông nghiệp sang nghề mới phù hợp, nâng cao mức thu nhập.
Công bố quy hoạch tổng thể và kế hoạch sử dụng lao động của các cụm công nghiệp đến cơ quan chức năng, các xã, thị trấn nằm trong qui hoạch và các cơ sở đào tạo nghề để cơ quan sử dụng lao động, người lao động và chính quyền địa phương, cơ sở đào tạo nghề có các giải pháp giải quyết việc làm, đào tạo nghề, chuẩn bị nguồn nhân lực đủ điều kiện để chuyển đổi nghề nghiệp vào làm việc trong các cụm công nghiệp để người lao động không bị hẫng hụt khi bị thu hồi đất.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế của huyện để chuyển dần số lao động nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp có hiệu quả cao hơn thì việc mở rộng các cụm công nghiệp luôn đóng vai trò chủ chốt. Bên cạnh đó cần tập trung phát triển các làng nghề trồng dâu nuôi tằm. Phần lao động nông nghiệp còn lại sẽ định hướng cho họ tăng thu nhập bằng việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, áp dụng kỹ thuật tiến bộ trong sản xuất, hướng mạnh sản phẩm ra thị trường.
Ngoài ra, Huyện cần có chính sách khuyến khích đầu tư phát triển xây dựng các khu công nghiệp vừa và nhỏ để các ngành nghề thủ công nghiệp có điều kiện phát triển tạo thuận lợi thu hút lao động vào làm việc từ đó chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động.
3.2.2.2. Thực hiên chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn
Xây dựng quy hoạch phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, mở rộng thâm canh tăng vụ, lựa chọn những tiến bộ kỹ thuật, những công nghệ mới áp dụng vào sản xuất tạo bức đột phá trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Phát triển công nghiệp chế biến nông sản từ sơ chế đến tinh chế nhằm nâng cao giá trị sản phẩm và đáp ứng thị trường nhằm nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn, nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp. Do đó cũng tạo cơ hội cho người lao động nông nghiệp phát triển sản xuất nâng cao hiệu quả, chất lượng cuộc sống.
Bên cạnh đó cần đẩy mạnh đào tạo nghề và truyền nghề gắn với giải quyết việc làm cho lao động khu vực nông thôn để số lao động này chuyển sang sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Phấn đấu khu vực nông nghiệp sẽ giải quyết lượng việc làm mới lớn.
3.2.2.3. Phát triển các ngành dịch vụ
Kinh Môn với thuộc vùng núi đá vôi với nhiều hang động kỳ thú. Nơi đây có tiềm năng về du lịch nhưng lại chưa được khai thác. Cần đẩy mạnh phát triển du lịch, tốc dộ tăng trưởng từ 10 – 12,5 %/ năm trở lên. Đồng thời khuyến khích phát triển nhanh các ngành dịch vụ đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống, đặc biệt là dịch vụ du lịch vận tải, dịch vụ giải trí. Mở rộng liên kết giữa các thành phần kinh tế để tăng khả năng mua bán hàng hoá, đa dạng hoá các loại hình kinh doanh. Từ đây người lao động có thêm khả năng tìm việc và tạo việc làm mới, chuyển đổi nghề nghiệp thuận lợi.
Để thúc đẩy sự phát triển hơn nữa ngành du lịch Huyện cần phát triển các ngành kinh tế du lịch, xây dựng các chương trình du lịch hấp dẫn, gắn hoạt động du lịch với tổ chức lễ hội và tham quan để hu hút khách du lịch, tạo nhiều việc làm. Đầu tư khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch văn hoá lịch sử đền Cao – An Phụ - tượng đài Trần Hưng Đạo – hang Động Kính Chủ - hang động khu Nhị Chiểu. Bên cạnh đó đẩy nhanh dịch vụ vận tải hàng hoá và hành khách, đảm bảo yêu cầu vận tải hàng hoá và hành khách.
Phải xây dựng quy hoạch tổng thể để phát triển các chợ, trao đổi và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Hình thành các khu du lịch bên cạnh các khu công nghiệp để giải quyết việc làm cho số lao động sau khi bàn giao đất không đủ điều kiện vào làm ở các doanh nghiệp có thể chuyển đổi nghề sang làm dịch vụ. Phấn đấu các hoạt động dịch vụ sẽ giải quyết việc làm mới cho hàng trăm lao động không có việc làm hay thay đổi việc làm.
3.2.3. Tạo điều kiện phát triển các làng nghề truyền thống và các nghề mới ở địa bàn Huyện
Làng nghề truyền thống có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp CNH-HĐH của đất nước nói chung và của từng địa phương nói riêng. Kinh Môn cũng vậy việc phát triển các làng nghề truyền thống mang một ý nghĩa hết sức to lớn đối với giải quyết việc làm cho người lao động khi quá trình ĐTH nông thôn diễn ra càng mạnh.
Theo kinh nghiệm của các nước và các tỉnh trong nước ta cho thấy, phát triển làng nghề truyền thống cùng với phát triển ngành nghề phi nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là một trong các hướng chủ yếu để lao động nông nghiệp có thể chuyển đổi nghề nghiệp kiếm được một công việc tốt. Tuy nhiên để phát triển các làng nghề truyền thống ở huyện Kinh Môn cần phải tập trung hơn nữa vào huy động vốn hỗ trợ cho làng nghề truyền thống phát triển, triển khai thực hiện tốt các chính sách phát triển nghề và xây dựng làng nghề như chính sách đất đai, chính sách tài chính, chính sách khuyến khích phát triển dạy nghề,…cho phù hợp với điều kiện thuận lợi vốn có trên địa bàn.
3.2.4. Phát triển hệ thống dịch vụ tư vấn, giới thiệu việc làm và thông tin thị trường lao động
Đẩy mạnh phát triển hệ thống tư vấn, giới thiệu việc làm cho người lao động là rất cần thiết đối với không chỉ người lao động mà với các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị, cơ sở sản xuất,… bởi như vậy mới tạo ra sức mạnh tổng hợp trong giải quyết việc làm. Người lao động sẽ có cơ hội thuận lợi trong việc tiếp cận nhanh với thông tin thị trường lao động về tình hình sử dụng lao động, nhu cầu tuyển lao động trong từng ngành nghề, từ đó người lao động nắm bắt được thị trường đang cần gì và thiếu gì để thay đổi và tìm cách thích hợp đáp ứng yêu cầu đó như việc chuyển đổi sang nghề nghiệp khác. Đối với người tuyển dụng việc này cũng hết sức quan trọng, nó sẽ giúp họ tìm được lực lượng lao động tốt đảm bảo yêu cầu một cách nhanh chóng hơn.
Cần hướng dẫn cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm đăng ký tìm việc tại các trung tâm dịch vụ việc làm của Tỉnh. Cung cấp các dịch vụ việc làm miễn phí cho người thất nghiệp qua tư vấn lựa chọn việc làm, nơi làm việc, tư vấn chọn nghề học, nơi học nghề,…và cung cấp dịch vụ việc làm cho người sử dụng lao động theo hợp đồng.
Như vậy để phát triển hệ thống tư vấn và giới thiệu việc làm hàng năm huyện cần tổ chức điều tra khảo sát tình hình lao động và giải quyết việc làm với quy mô lớn để thu thập thông tin, phân tích, đánh giá, tổng hợp số liệu chính xác cung cấp cho thị trường lao động. Đồng thời kết hợp giữa các doanh nghiệp, khu công nghiệp và cơ quan quản lý lao động huyện về kế hoạch sử dụng lao động về số lượng lao động cần tuyển, ngành nghề, trình độ, thời gian tuyển.
3.2.5. Khuyến khích tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh
Để góp phần giải quyết việc làm, tăng thêm chỗ làm việc mới tạo điều kiện người lao động chuyển đổi nghề nghiệp cần phải khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh là điều cần thiết để có thể phát triển sản xuất và dịch vụ, thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế công nghiệp - thương mại, dịch vụ - nông nghiệp; hình thành nhiều khu công nghiệp, khu đô thị, khu vui chơi giải trí. Nhờ đó góp phần tạo lượng công việc lớn giúp giải quyết việc làm tăng thêm chỗ làm việc mới cho người lao động. Tuy nhiên để giải quyết việc làm thực hiện việc chuyển đổi nghề nghiệp tốt thì trong thời gian tới cần đẩy mạnh sản xuất, mở rộng thị trường, phát triển kinh tế quốc doanh.
Huyện cần có chính sách thuận lợi khuyến khích và giúp đỡ các cơ sở sản xuất kinh doanh tiểu thủ công nghiệp tự tìm cách phát triển thông qua đổi mới công nghê, nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với thị trường, đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của thị trường. Nhanh chóng xây dựng và phát triển hệ thống doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn. Đồng thời tạo thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế có năng lực, điều kiện được phát huy khả năng của mình tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhất là đối với các ngành có thế mạnh ở Kinh Môn.
3.2.6. Giải pháp từ phía người lao động
Trong quá trình ĐTH nông thôn muốn chuyển đổi nghề nghiệp được cho người lao động không thể chỉ trông chờ vào biện pháp, cơ chế, chính sách của nhà nước mà phải đặc biệt chú ý đến giải pháp ở chính bản thân người dân đặc biệt ở người lao động thiếu việc làm. Bởi chỉ khi bản thân người lao động chủ động, tự tìm mọi cách để chuyển đổi nghề nghiệp thì mới đạt được kết quả như mong đợi.
Trước hết người lao động khi tìm kiếm việc làm cần phải theo chủ trương, chính sách giải quyết việc làm của các cấp chính quyền từ trên xuống. Từ đó người lao động chủ động nắm bắt tình hình biến động thị trường lao động cả về số lượng công việc lẫn yêu cầu công việc để xem xét khả năng của mình có phù hợp, có đáp ứng nhu cầu đó hay không. Qua đây người lao động cũng phải tự tìm cách thích hợp nhất nâng cao khả năng của mình thông qua phương thức đào tạo tốt, phù hợp với điều kiện của bản thân để làm được những công việc mới, mang lại hiệu quả tôt đáp ứng được đòi hỏi khác nhau của mỗi công việc.
Ngày nay cơ hội việc làm đang được mở rộng rất nhiều cho mọi người nhất là khi quá trình ĐTH diễn ra mạnh mẽ, song vấn đề là người lao động có đáp ứng được những công việc đó hay không mới là điều quan trọng để họ có thể chuyển đổi nghề nghiệp được. Cho nên, người lao động ngoài việc phải chủ động học hỏi kinh nghiệm, chuyên môn kỹ thuật, còn phải thay đổi ngay trong chính những tư tưởng, nhận thức về một số nghề nghiệp nào đó tránh suy nghĩ tiêu cực không thông thoáng, hiểu sai lệch.
Ngoài ra khi người lao động có sự trợ giúp về vốn để chuyển đổi nghề nghiệp, họ phải biết sử dụng hợp lý vào tìm cách kiếm được việc làm, chuyển sang nghề mới. Song cần tránh hiện tượng một số người lao động có điều kiện về vốn mà không biết sử dụng làm gì để mang lại hiệu quả mà đem dùng vào mục đích tiêu dùng, mua sắm trước mắt. Như vậy muốn làm tốt điều này để chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động thì bản thân chính từng người lao động phải nhận thấy được tầm quan trọng của việc chuyển đổi về lâu dài sẽ tìm kiếm nghề mới đảm bảo cuộc sống sinh của họ.
Do đất nông nghiệp bị thu hồi phục vụ ĐTH làm cho người nông dân phải lâm vào tình trạng thất nghiệp, họ không biết mình sẽ phải làm gì để kiếm sống. Cho nên người nông dân sẽ bị thụ động trong quá trình chuyển đổi nghề nghiệp. Mặt khác khi đất nông nghiệp bị thu hồi người dân còn được đền bù một lượng tiền tương đối đã góp phần tạo điều kiện để các hộ tiến hành chuyển đổi ngành nghề sản xuất, đầu tư tạo việc làm hoặc đầu tư cho giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên một thực tế cho thấy người dân đã không sử dụng số tiền đền bù này một cách hợp lý, có mục đích, mà họ lại đem sử dụng xây dựng nhà cửa, chi tiêu hàng ngày, ăn uống, giải trí,…
Sau đó đối với những người lao động đã chuyển đổi nghề nghiệp thành công cần phải giúp đỡ người chưa hoặc đang trong quá trình chuyển đổi bằng chính kinh nghiệm thực tế của mình, giúp người lao động đó học hỏi ngay bằng minh chứng thực tế thì họ sẽ có định hướng và cách làm đúng đắn mang lại hiệu quả cao.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
* Kết luận
Chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình ĐTH nông thôn ở huyện Kinh Môn là một nội dung trong giải quyết việc làm, phát triển lực lượng lao động nói chung của huyện. Vì vậy đây là nội dung cụ thể cần làm tốt đến tất cả lực lượng lao động đặc biệt là lao động nông nghiệp.
Qua nghiên cứu cho thấy ĐTH ở Kinh Môn đang trên đà phát triển mạnh. Trên mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá-xã hội đều có những chuyển biến tích cực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế các năm vừa qua luôn đạt rất cao. Đặc biệt là cơ cấu ngành công nghiệp, xây dựng đã chiếm tỷ trọng tới 39,37 %, dịch vụ chiếm 22,24 %, lao động vào ngành này không ngừng tăng. Tuy nhiên khả năng thu hút lao động nông nghiệp sang hoạt động các ngành nghề phi nông nghiệp còn nhiều khó khăn và hạn chế. Lao động có tay nghề, có kỹ năng được đào tạo trong các lĩnh vực còn quá thấp, đặc biệt là khu vực nông thôn, khiến người lao động không hoặc khó có cơ hội chuyển nghề, tìm việc làm mới.
Như vậy, chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm mới cho lao động trong quá trình ĐTH nông thôn huyện Kinh Môn là vấn đề xã hội có tính thời sự, đặt ra thường xuyên, lâu dài cho chính quyền các cấp khi thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội và phát triển nguồn nhân lực.
* Một số kiến nghị
Trong thời gian tới quá trình đô thị hoá trên địa bàn huyện chắc chắn sẽ diễn ra nhanh và mạnh. Nó sẽ có những tác động lớn đến việc làm của người dân. Cho nên vấn đề giải quyết việc làm trong đó có việc chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động sẽ trở thành mối quan tâm của toàn thể xã hội không riêng gì người lao động. Vì vậy qua quá trình nghiên cứu thực trạng cùng những giải pháp về việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động huyện Kinh Môn, em xin được đưa ra một số kiến nghị sau:
+ Mở rộng hệ thống giáo dục đào tạo đến từng người dân và có phương hướng phát triển các cơ sở đào tạo nghề cho người lao động
+ Tạo môi trường thuận lợi hơn nữa để thu hút đầu tư trong và ngoài huyện phát triển các ngành sản xuất kinh doanh, phát huy mạnh các làng nghề truyền thống tạo ngành nghề mới thu hút lao động.
+ Khuyến khích tạo mọi điều kiện cho người lao động có khả năng phát huy năng lực của mình trên tất cả các lĩnh vực.
+ Cần có sự nghiên cứu, dự báo nhu cầu việc làm đối với từng ngành nghề trên thị trường lao động và cung cấp thông tin đến tận người dân, giúp họ định hướng và tìm được việc làm phù hợp.
+ Cần có chính sách bồi dưỡng đào tạo cho người lao động để có đủ kiến thức, năng lực làm việc trong ngành nghề mới.
+ Huyện phải có chính sách hiệu quả phát triển hệ thống đào tạo nghề nhưng phải gắn việc đào tạo đó với nhu cầu thị trường lao động, với sự phát triển của các ngành nghề công nghiệp, dịch vụ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Nguyễn Đình Hương, “Giáo trình kinh tế đô thị”, ĐHKTQD – NXBGD
2. PGS.TS. Nguyễn Tiệp, “Nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành trong quá trình đô thị hoá trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Nxb LĐXH.
3. Lê Du Phong, Nguyễn Văn Áng, Hoàng Văn Hoa, “Ảnh hưởng của đô thị hoá đến nông thôn ngoại thành Hà Nội. Thực trạng và giải pháp”, Hv chính trị quốc gia.
4. Các báo cáo về lao động, việc làm huyện Kinh Môn từ năm 2000-2006 của ban chỉ đạo điều tra lao động việc làm huyện.
5. Các nghị quyết của HĐND Huyện Kinh Môn
6. Dự báo qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Kinh Môn
7. Đề án xây dựng các cơ sở dạy nghề gắn với giải quyết việc làm giai đoạn 2006 – 2010 của huyện Kinh Môn
8. Chương trình giải quyết việc làm huyện Kinh Môn giai đoạn 2006 – 2010.
9. Bài “ Thị trấn Sao Đỏ phát triển kinh tế đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá ”
10. Nhận thức sai lầm về đô thị hoá. Lao động.com.vn 2/8/2004.
11. Thông tin ở các trang web trên internet
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH – HĐH
CNH
ĐTH
CN – XD
TM – DV
NN
SL
CC
PTTH
PTCS
KS – NH
HTX
TTTN
Công nghiệp hóa – Hiện đại hoá
Công nghiệp hoá
Đô thị hoá
Công nghiệp - Xây dựng
Thương Mại - Dịch vụ
Nông nghiệp
Số lượng
Cơ cấu
Phổ thông trung học
Phổ thông cơ sở
Khách sạn - Nhà hàng
Hợp tác xã
Tiểu thủ công nghiệp
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tình hình đất đai huyện Kinh Môn 33
Bảng 2.2: Tỷ lệ tăng dân số huyện Kinh Môn 34
Bảng 2.3: Cơ cấu kinh tế của huyện Kinh Môn 37
Bảng 2.4: Cơ cấu đất đai của huyện Kinh Môn trong tiến trình ĐTH 41
Bảng 2.5: Dân số và mật độ dân số huyện Kinh Môn 42
Bảng 2.6: Cơ cấu lao động huyện Kinh Môn giai đoạn 2000-2006 43
Biểu 2.7: Tình hình đầu tư cho các ngành kinh tế, xã hội của huyện 45
Bảng 2.8: Cơ cấu ngành nghề của huyện Kinh Môn 47
Bảng 2.9: Các cơ sở thương mại dịch vụ của huyện Kinh Môn 49
Bảng 2.10. Tình hình thất nghiệp trên địa bàn huyện giai đoạn 2000-2006 55
Bảng 2.11. Một số chỉ tiêu về chất lượng lao động của huyện 55
Bảng 2.12: Biểu động lao động trong các ngành nghề ở huyện Kinh Môn 59
Biểu 2.13. Số hộ tham gia một số ngành nghề của huyện Kinh Môn 61
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan toàn bộ nội dung của chuyên đề thực tập tốt nghiệp “Thực trạng và giải pháp chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động trong quá trình ĐTH nông thôn ở huyện Kinh Môn tỉnh Hải Dương ” này là do tôi tự viết dưới sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn TS. Vũ Thị Minh, trên cơ sở nghiên cứu, thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu đã được xuất bản, từ các phương tiện thông tin đại chúng, các trang web chính thức và các văn bản liên quan khác. Nội dung chuyên đề đảm bảo phản ánh đúng thực tế và không sao chép từ bất cứ đề tài sẵn có nào.
Tôi xin cam đoan nội dung trên hoàn toàn là sự thực và xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Hà nội, tháng 4 năm 2007
Sinh viên
Bùi Hồng Hoa
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
Hà Nội, ngày tháng năm 2007
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32102.doc