LỜI NÓI ĐẦU
Đối với bất kỳ một quốc gia nào thì thuế cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng và chiếm phần lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước. Việc thực thi một số chính sách thuế có hiệu quả sẽ đảm bảo ổn định cho nguồn thu này và từ đó tạo điều kiện để mở rộng sản xuất và phát triển kinh tế xã hội, đất nước. ở Việt Nam theo thống kê của Tổng cục thuế thì 80% đến 90% ngân sách Nhà nước là thu từ thuế nên cần phải có phương pháp, chính sách hợp lý nhằm đảm bảo sự công bằng cho các đối tượng
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3013 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp chống thất thu thuế giá trị gia tăng tại thị xã Phúc Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có liên quan như Nhà nước, DTNT, và toàn thể nhân dân nói chung.
Ta thấy rằng luật thuế GTGT sau gần 10 năm đưa vào sử dụng thay thế cho thuế doanh thu đã phát huy được những mặt tích cực, như là khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu và đầu tư, thúc đẩy hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp, tạo nguồn thu lớn và ổn định cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên bên cạch những mặt tích cực, những thành quả đã đạt được thì việc áp dụng, thực thi luật thuế GTGT vẫn còn nhiều bất cập, số vụ vi phạm luật thuế GTGT ngày càng tăng với số tiền chiếm dụng ngày càng lớn. Tình trạng này làm đau đầu các nhà quản lý nói riêng và xã hội nói chung, có những kẻ đã lợi dụng những kẽ hở trong luật và trong quản lý của nhà nước ta để bòn rút tiền từ ngân sách nhà nước và đút túi cá nhân mình.
Nảy sinh từ các vấn đề đã được nêu ở trên thì sự cần thiết trong việc nghiên cứu các mặt trái của việc thực thi thuế GTGT và đưa ra các biện pháp để giảm thiểu những vấn đề đó là hết sức cần thiết. Xuất phát từ những điều đó tôi đã mạnh dạn tham gia nghiên cứu đề tài: “ Thực trạng và giải pháp chống thất thu thuế GTGT tại thị xã Phúc Yên”.
Tên của đề tài là: “Thực trạng và giải pháp chống thất thu thuế GTGT tại thị xã Phúc Yên” nhưng trên thực tế tôi nghiên cứu tình hình áp dụng thuế GTGT nói chung là trên cả nước, sau đó lấy ví dụ cụ thể là tại thị xã Phúc Yên. Để từ đó đưa ra các giải pháp hạn chế tình hình thất thu thuế, trong phần giải pháp sẽ có cả những quan điểm và chính sách của nhà nước, cùng với những giải pháp và phương hướng hoạt động cụ thể của chi cục thuế thị xã Phúc Yên.
Cụ thể bài viết trong phần nội dung sẽ bao gồm 3 chương.
- Chương 1: Cơ sở lý luận về chống thất thu thuế GTGT
Chương này sẽ đi sâu vào các quy định cơ bản của thuế GTGT như thuế GTGT là gì, đối tượng nộp thuế, thuế suất, cách tính, vai trò của thuế GTGT,…Ngoài ra là phần cơ sở lý luận của thất thu thuế nói chung.
- Chương 2: Thực trạng thất thu thuế GTGT
Chương này sẽ đưa ra các hình thức thất thu thuế GTGT một cách cụ thể, sau đó là tình hình áp dụng thuế GTGT trên cả nước nói chung và ở thị xã Phúc Yên nói riêng. Cuối cùng là đưa ra một vài nguyên nhân của vấn đề.
- Chương 3: Một số biện pháp hạn chế tình hình thất thu thuế GTGT ở thị xã Phúc Yên
Trong đó có quan điểm của nhà nước về chống thất thu thuế nói chung và phương hướng hoạt động và các biện pháp cụ thể của chi cục thuế thị xã Phúc Yên.
Từ những trình bày ở trên đưa ra :
* Mục tiêu nghiên cứu:
- Xem xét quá trình và tình hình áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam một vài năm gần đây, từ đó nghiên cứu thực trạng thất thu thuế cả về lý luận lẫn thực tiễn.
- Nghiên cứu tình hình thu và thất thu thuế GTGT tại địa bàn thực tập, nâng cao khả năng nghiên cứu trên thực tế và áp dụng tại một địa điểm cụ thể.
- Tìm hiểu các chính sách, quan điểm của nhà nước về chống thất thu thuế, cũng như xem xét các giải pháp cụ thể của một địa phương.
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Đối tượng là thuế GTGT, cụ thể là tình trạng thất thu thuế GTGT
- Phạm vi không gian: trên cả nước nói chung và ở thị xã Phúc Yên nói riêng
- Phạm vi thời gian: kể từ khi luật thuế GTGT được đưa vào áp dụng, nhưng chủ yếu tập trung vào các năm gần đây, từ năm 2005.
* Phương pháp nghiên cứu: Để đánh giá đúng thực trạng thất thu thuế để từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp người viết sử dụng phương pháp luật của chủ nghĩa Mác- Lênin, chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với biện pháp so sánh, đối chiếu, phân tích dựa trên số liệu, tài liệu sẵn có và nối tư duy thực chứng.
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHỐNG
THẤT THU THUẾ GTGT
1.1, Nội dung cơ bản về thuế GTGT
1.1.1, Các điều khoản cơ bản về thuế GTGT
Điều 1. Thuế giá trị gia tăng
Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Điều 2. Đối tượng chịu thuế
Đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam ( bao gồm cả hàng hóa, dịch vụ mua của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài ), trừ các đối tượng không chịu thuế GTGT được nêu ở điều 4.
Điều 3. Đối tượng nộp thuế
Người nộp thuế GTGT là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT ( sau đây gọi là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế GTGT ( sau đây gọi là người nhập khẩu).
Điều 4. Đối tượng không chịu thuế
Hàng hoá, dịch vụ dưới đây không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng:
- Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của các tổ chức, cá nhân tự sản xuất và bán ra.
- Sản phẩm muối ( là sản phẩm mà thành phần chính có công thức hóa học là NaCl.
- Hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt không phải nộp thuế giá trị gia tăng ở khâu đã chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Chuyển quyền sử dụng đất thuộc diện chịu thuế chuyển quyền sử dụng đất.
- Nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước do Nhà nước bán cho người đang thuê.
- Dịch vụ tín dụng, quỹ đầu tư.
- Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh, bảo hiểm vật nuôi, cây trồng và các loại bảo hiểm không nhằm mục đích kinh doanh.
- Dịch vụ y tế, dịch vụ thú y, bao gồm dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, phòng bệnh cho người và vật nuôi, dịch vụ sinh đẻ có kế hoạch, dịch vụ điều dưỡng sức khỏe, phục hồi chức năng cho người bệnh. Dịch vụ y tế bao gồm cả vận chuyển người bệnh, dịch vụ cho thuê phòng bệnh, giường bệnh của cơ sở y tế; xét nghiệm, chiếu, chụp, máu và chế phẩm máu dùng cho người bệnh.
- Dạy học, dạy nghề.
- Phát sóng truyền thanh, truyền hình theo chương trình bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
- In, xuất bản và phát hành báo, tạp chí, bản tinh chuyên ngành, sách chính trị, sách giáo khoa, giáo trình, sách văn bản pháp luật, sách in bằng tiếng dân tộc thiểu số, tranh ảnh, áp phích tuyên truyền cổ động, in tiền.
Dịch vụ phục vụ công cộng về vệ sinh, thoát nước đường phố và khu dân cư, duy trì vườn thú, vườn hoa, công viên, cây xanh đường phố, chiếu sáng công cộng, phục vụ tang lễ v…v…( chi tiết tham khảo tại Luật thuế GTGT ngày 3 tháng 6 năm 2008, Nghị định Chính Phủ số 123/2008/NĐ-CP, Thông tư của Bộ Tài Chính số 129/2008/TT-BTC)
Điều 5. Nghĩa vụ và trách nhiệm thực hiện luật thuế GTGT
1. Cơ sở kinh doanh và người nhập khẩu có nghĩa vụ nộp thuế đầy đủ, đúng hạn theo quy định của luật này.
2. Cơ quan thuế trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện đúng các quy định của luật này.
3. Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình giám sát, phối hợp với cơ quan thuế trong việc thi hành luật thuế GTGT.
4. Công dân Việt Nam có trách nhiệm giúp cơ quan thuế, cán bộ thuế trong việc thi hành luật này.
1.1.2, Cách tính thuế GTGT
a, Căn cứ tính thuế
* Giá tính thuế:
Giá tính thuế GTGT được quy định như sau:
1. Đối với hàng hoá, dịch vụ là giá bán chưa có thuế GTGT.
2. Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu.
3. Đối với hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, sử dụng nội bộ, biếu tặng là giá tính thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh các hoạt động này.
4. Đối với hoạt động cho thuê tài sản là số tiền thuê thu từng kỳ.
5. Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp là giá bán của hàng hóa tính theo giá bán trả 1 lần không tính theo số tiền trả từng kỳ.
6. Đối với gia công hàng hoá là giá gia công.
7. Đối với hàng hoá, dịch vụ khác là giá do chính phủ quy định
Giá tính thuế GTGT đối với hàng hóa, dịch vụ bao gồm cả khoản phụ thu và phí thu thêm mà cơ sở kinh doanh được hưởng. Trường hợp đối tượng nộp thuế có doanh số mua, bán bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam theo tỷ giá chính thức do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm phát sinh doanh số để xác định giá tính thuế.
* Thuế suất:
1. Mức thuế suất 0%: đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, vận tải quốc tế, những hàng hóa, dịch vụ thuộc diện không chịu thuế GTGT được quy định tại Điều 5 luật thuế GTGT( đã trình bày ở trên ) khi xuất khẩu, trừ các hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật( chi tiết xin tham khảo Nghị định 123/2008/NĐ/-CP).
2. Mức thuế suất 5% :
Nước sạch phục vụ sản xuất sinh hoạt;
Phân bón, quặng để sản xuất phân bón, thuốc phòng trừ sâu bệnh và chất kích thích tăng trưởng vật nuôi, cây trồng;
Thức ăn gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi khác;
Dịch vụ đào đắp, nạo vét kênh, mương, ao, hồ phục vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho câu trồng, sơ chế, bảo quản sản phẩm nông nghiệp;
Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản chưa qua chế biến, trừ sản phẩm quy định tại khoản 1 Điều 4 ở trên;
Mủ cao su sơ chế, nhựa thông sơ chế, lưới, dây giềng và sợi để đan lưới đánh cá;
Thực phẩm tươi sống, lâm sản chưa qua chế biến, trừ gỗ, măng và sản phẩm quy định tại khoản 1 điều 4 ở trên;
Đường, phụ phẩm trong sản xuất đường, bao gồm gỉ đường, bã mía, bã bùn;
Sản phẩm bằng đay, cói, tre, nứa, lá, rơm, vỏ dừa,…các sản phẩm thủ công khác sản xuất bằng nguyên liệu tận dụng từ nông nghiệp, bông sơ chế, giấy in báo;
Máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm máy cày, máy bừa, máy cấy, máy gieo hạt, máy tuốt lúa, máy gặt, máy gặt đập liên hợp, may thu hoạnh sản phẩm nông nghiệp,…;
Thiết bị, dụng cụ y tế, bông băng vệ sinh y tế, thuốc phòng bệnh, chữa bệnh, sản phẩm hóa dược, dược liệu là nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh;
Giáo cụ dùng để giảng dạy và học tập, bao gồm các mô hình, hình vẽ, bảng, phấn, thước kẻ, compa,…;
Hoạt động văn hóa, triển lãm, thể dục, thể thao, biểu diễn nghệ thuật, sản xuất phim, nhập khẩu, phát hành và chiếu phim;
Đồ chơi trẻ em, sách các loại trừ sách quy định tại khoản 15 điều 5 nói trên;
Dịch vụ khoa học, công nghệ theo quy định của Luật khoa học và công nghệ;
3.Mức thuế suất 10% :
Được xác định theo phương pháp loại trừ, áp dụng đối với các hàng hóa, dịch vụ không thuộc diện áp dụng các mức thuế suất 0%, 5%.
b, Phương pháp tính thuế
* Phương pháp khấu trừ thuế:
Số thuế phải nộp bằng thuế GTGT đầu ra trừ thuế GTGT đầu vào.
Thuế GTGT đầu ra bằng giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ bán ra nhân với thuế suất.
Thuế GTGT đầu vào bằng tổng số thuế GTGT đã thanh toán được ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hóa, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT hàng hoá nhập khẩu.
Phương pháp khấu trừ thuế áp dụng đối với cơ sở kinh doanh thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật về kế toán, hóa đơn, chứng từ và đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.
* Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT
Số thuế phải nộp bằng GTGT của hàng hoá, dịch vụ nhân với thuế suất thuế GTGT.
- Giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ bằng giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ bán ra trừ giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ mua vào. ệnh và chất kích thích tăng trưởng vật nuôi, cây trồng;
eo quy định của pháp
- Cơ sở kinh doanh bán hàng hóa, dịch vụ có đầy đủ hóa đơn, chứng từ theo chế độ quy định, xác định được đúng doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ nhưng không có đủ hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ đầu vào thì giá trị gia tăng được xác định bằng doanh thu nhân với tỷ lệ (% ) giá trị gia tăng tính trên doanh thu.
Tỷ lệ (% ) GTGT tính trên doanh thu làm căn cứ xác định GTGT được quy định như sau :
+ Thương mại ( phân phối, cung cấp hàng hóa) : 10%;
+ Dịch vụ, xây dựng ( trừ xây dựng có bao thầu nguyên liệu): 50%;
+ Sản xuất, vận tải, dịch vụ có gắn với hàng hóa, xây dựng có bao thầu nguyên vật liệu: 30%.
- Hoạt động kinh doanh, hộ kinh doanh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật thì nộp thuế GTGT theo phương pháp khoán thuế.
Những đối tượng áp dụng phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT:
- Cơ sở kinh doanh, cá nhân, hộ kinh doanh, không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam không theo Luật Đầu tư và các tổ chức khác không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật.
- Hoạt động kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý.
c, Khấu trừ và hoàn thuế GTGT
* Khấu trừ thuế GTGT:
Thuế GTGT mang bản chất liên hoàn vì vậy thuế GTGT đã được nộp ở giai đoạn trước sẽ được khấu trừ ở giai đoạn sau thông qua cơ chế giá cả khi thực hiện hành vi mua bán trao đổi sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ. Việc khấu trừ thuế đã nộp ở giai đoạn trước gọi là khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
Thuế GTGT đầu vào là tổng số thuế GTGT trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hoá nhập khẩu. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì khấu trừ thuế được thực hiện theo những nguyên tắc nhất định:
- Chỉ khấu trừ thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng vào sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT, cơ sở kinh doanh phải hạch toán riêng thuế đầu vào được khấu trừ và không được khấu trừ, trường hợp không hạch toán riêng thì số thuế đầu vào được khấu trừ theo phương pháp phân bổ dựa trên tỷ lệ doanh số chịu thuế so với tổng doanh số bán ra tại doanh nghiệp.
- Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hành hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT thì không được khấu trừ, trừ một số trường hợp theo quy định.
- Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong tháng nào thì được kê khai khấu trừ trong tháng đó không phân biệt đã được xuất dùng hay chưa.
- Cơ sở mua vật tư hàng hoá không có hoá đơn chứng từ hoặc có hoá đơn nhưng không ghi riêng số thuế GTGT ngoài giá bán thì không được khấu trừ, trừ một số trường hợp có quy định riêng.
- Thuế đầu vào của TSCĐ được kê khai khấu trừ như đối với vật tư, hàng hoá khác. Nếu số thuế khấu trừ phát sinh lớn cơ sở được tính khấu trừ dần. Sau 3 tháng mà số thuế khấu trừ vẫn còn thì doanh nghiệp có thể đề nghị cơ quan thuế xét hoàn thuế.
* Hoàn thuế GTGT:
Do thuế GTGT “thu hộ” của doanh nghiệp bán hàng là thuế GTGT “trả hộ” của doanh nghiệp mua hàng nên việc hoàn thuế GTGT của một doanh nghiệp có liên quan đến việc nộp thuế của doanh nghiệp khác. Vì vậy, có thể nói việc hoàn thuế GTGT diễn ra trên phạm vi rộng, bao hàm nhiều mối quan hệ phức tạp và có sự liên hoàn giữa các đối tượng nộp thuế. Chính tính phức tạp của vấn đề cùng với sự mới mẻ của nghiệp vụ hoàn thuế GTGT cộng thêm sự chắp vá của các văn bản pháp luật về hoàn thuế GTGT khiến cho vấn đề hoàn thuế GTGT là một vấn đề nổi cộm lớn trong quá trình thực hiện luật thuế GTGT hiện nay.
Theo quy định của điều 16 luật thuế GTGT thì đối tượng được xét hoàn thuế GTGT trong các trường hợp sau:
- Cơ sở kinh doanh 3 tháng liên tục trở lên có số luỹ kế số thuế đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế đầu ra. Số thuế được hoàn là số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết của thời gian xin hoàn thuế.
Ví dụ: Doanh nghiệp A kê khai thuế GTGT có số thuế GTGT đầu ra, đầu vào như sau:
ĐVT: triệu đồng
Tháng kê khai thuế
Thuế đầu vào được khấu trừ trong tháng
Thuế đầu ra phát sinh trong tháng
Thuế phải nộp
Luỹ kế số thuế đầu vào chưa được khấu trừ
Tháng 12/2000
200
100
-100
-100
Tháng 1/2001
300
350
+50
-50
Tháng 2/2001
300
200
-100
-150
Doanh nghiệp A có luỹ kế 3 tháng liên tục số thuế đầu vào lớn hơn đầu ra. Doanh nghiệp A thuộc đối tượng được hoàn thuế GTGT với số thuế là 150 triệu đồng.
- Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá xuất khẩu nếu có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ từ 200 triệu trở lên thì được xét duyệt hoàn thuế theo tháng, hoặc chuyến hàng.
- Đối với cơ sở kinh doanh mới thành lập, đầu tư mới đã đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế nhưng chưa có phát sinh doanh thu bán hàng để tính thuế GTGT đầu ra, nếu thời gian đầu tư từ một năm trở lên được xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Số thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn có giá trị lớn từ 200 triệu trở lên thì được xét hoàn thuế từng quý.
- Cơ sở kinh doanh đang hoạt động thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ có dự án đầu tư cơ sở sản xuất mới thành lập tại địa bàn khác với tỉnh, thành phố nơi đóng trụ sở chính, đang trong giai đoạn đầu tư chưa đi vào hoạt động, chưa đăng ký kinh doanh, chưa đăng ký thuế, nếu có số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư từ 200 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT.
- Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sát nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản có thuế GTGT nộp thừa, cơ sở có quyền đề nghị cơ quan hoàn thuế hoàn lại số thuế nộp thừa.
- Đối với các dự án sử dụng vốn ODA không hoàn lại: chủ chương trình, dự án hoặc tổ chức Việt Nam sử dụng tiền viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại của tổ chức cá nhân nước ngoài để mua hàng hoá tại Việt Nam thì được hoàn lại tiền thuế GTGT đã ghi trên hoá đơn GTGT khi mua hàng.
1.1.3, Vai trò của thuế GTGT
- Đóng góp nguồn thu vào ngân sách nhà nước:
Thuế GTGT cũng là một loại thuế vì vậy vai trò chung nhất của nó là đóng góp vào nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Thuế giá trị gia tăng thuộc loại thuế gián thu và được áp dụng rộng rãi đối với mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm hàng hoá hoặc được cung ứng dịch vụ, nên tạo được nguồn thu lớn và tương đối ổn định cho ngân sách nhà nước.
Thu ngân sách nhà nước & thu thuế GTGT từ năm 2001 đến năm 2003
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Thu ngân sách nhà nước
Thu thuế VAT
% thu VAT
2001
103.888
13.952
13,43%
2002
105.200
15.465
14,70%
2003
123.700
19.238
15,56%
Theo Bộ Tài chính, tỷ lệ đóng góp của thuế GTGT vào ngân sách tăng liên tục trong bảy năm, từ mức 13,43% năm 2001 lên 22,1% năm 2007. Chính sự gia tăng của số thu thuế GTGT đã bù đắp cho sự sụt giảm thuế xuất nhập khẩu do các cam kết về giảm thuế khi Việt Nam gia nhập WTO. Theo WB, năng suất thuế GTGT (năng suất thuế được định nghĩa bằng điểm phần trăm GDP trong thu nhập chia cho điểm phần trăm thuế suất cơ bản) của Việt Nam gần bằng 0,6, cao hơn mức trung bình của các quốc gia công nghiệp.
-Thuế trị gia tăng đã góp phần ổn định giá cả, mở rộng lưu thông hàng hoá:
Luật thuế doanh thu quy định doanh thu phát sinh là cơ sở để thực hiện chế độ thu nộp thuế. Do đó Nhà nước đánh thuế trên toàn bộ doanh thu phát sinh cuả sản phẩm qua mỗi lần chuyển dịch từ khâu sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Nếu các sản phẩm, hàng hoá chịu thuế càng qua nhiều khâu thì số thuế Nhà nước thu cũng tăng thêm qua các khâu nên việc áp dụng thuế doanh thu dẫn đến tình trạng thuế thu trùng lặp đối với phần doanh thu đã chịu thuế ở công đoạn trước. Ðiều đó mang tính bất hợp lý, tác động tiêu cực đến sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với tính ưu điểm cuả thuế giá trị gia tăng là Nhà nước chỉ thu thuế đối với phần giá trị tăng thêm cuả các sản phẩm ở từng khâu sản xuất, lưu thông mà không thu thuế đối với toàn bộ doanh thu phát sinh như mô hình thuế doanh thu. Nếu như không có các sự kiện biến động về tài chính, tiền tệ, sản xuất và lưu thông giảm sút, yếu kém, kinh tế suy thoái và các nguyên nhân khác tác động thì việc áp dụng thuế giá trị gia tăng thay cho thuế doanh thu sẽ không ảnh hưởng gì đến giá cả các sản phẩm tiêu dùng, mà trái lại giá cả càng hợp lý hơn, chính xác hơn vì tránh được thuế chồng lên thuế.
Theo nghiên cứu và thống kê cuả ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) thì phần lớn các nước trong đó có cả Việt Nam sau khi áp dụng thuế giá trị gia tăng, giá cả các loại hàng hoá, dịch vụ đều không thay đổi hay chỉ thay đổi một tỷ lệ không đáng kể và mức sản xuất cuả các doanh nghiệp, mức tiêu dùng cuả dân chúng không sút giảm, hay chỉ sút giảm một tỷ lệ nhỏ trong thời gian đầu, kể cả các trường hợp tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng.
- Góp phần khuyến khích xuất khẩu và bảo hộ sản xuất trong nước, sắp xếp lại cơ cấu kinh tế:
Theo qui định của Luật thuế GTGT hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% tức là được hoàn toàn bộ số thuế GTGT đã nộp ở đầu vào, việc hoàn thuế GTGT đầu vào thực chất là nhà nước trợ giá cho hàng xuất khẩu nên đã giúp doanh nghiệp tập trung được nguồn hàng để xuất khẩu và có điều kiện cạnh tranh với hàng hoá trên thị trường quốc tế.
- Thuế GTGT góp phần thúc đẩy công tác quản lý của doanh nghiệp:
Thuế GTGT góp phần đến công tác quản lý của doanh nghiệp tạo điều kiện cho cơ quan Nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, tăng cường công tác hạch toán, kế toán và thúc đẩy việc mua bán có hoá đơn GTGT ở các doanh nghiệp. Do yêu cầu của việc kê khai thuế GTGT, khấu trừ thuế GTGT đầu vào, tính đúng thu nhập của doanh nghiệp nên những người làm công tác quản lý kinh doanh đã bắt đầu trú trọng đến công tác mở sổ kế toán, ghi chép, quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ. Thông qua việc chấp hành công tác kế toán, hoá đơn chứng từ của các doanh nghiệp, qua việc kê khai thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế đã giúp cơ quan chức năng và cơ quan thuế từng bước nắm được tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Việc khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện đại hoá, chuyên môn hoá sản xuất, tăng cường đầu tư mua sắm trang thiết bị mới để hạ giá thành sản phẩm.
1.2, Cơ sở lý luận về thất thu thuế
1.2.1, Khái niệm thất thu thuế:
Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu của các nhà kinh doanh là lợi nhuận, chính vì vậy để đạt được lợi ích cục bộ tối đa, họ luôn tìm cách giảm chi phí kinh doanh của mình, trong đó bao gồm cả khoản đóng góp cho nhà nước. Như vậy trong bản chất của thuế luôn tồn tại mâu thuẫn giữa lợi ích của nhà nước và người kinh doanh chính vì thế tình trạng thất thu thuế là điều không thể tránh khỏi.
Vậy thất thu thuế là gì? Thất thu thuế được hiểu là hiện tượng trong đó những khoản tiền từ những tổ chức, cá nhân có tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, hay có những điều kiện cơ sở vật chất nhất định so với khả năng của họ cần phải được động viên vào NSNN, song vì những lý do xuất phát từ phía nhà nước, cơ quan thuế hay đối tượng nộp thuế mà những khoản tiền đó không được nộp vào NSNN.
1.2.2, Nguyên nhân và các dạng thất thu thuế:
Quan hệ pháp luật thuế là mối quan hệ lợi ích giữa một bên là Nhà nước và một bên là đối tượng nộp thuế. Việc xử lý hài hòa mối quan hệ này là hết sức khó khăn và phức tạp đối với các nhà hoạch định chính sách thuế. Về căn bản một chính sách thuế hợp lý thì phải đảm bảo được lợi ích của Nhà nước, vừa phải được sự đồng tình của quần chúng nhân dân. Thất thu thuế nảy sinh từ việc giải quyết mối quan hệ này.
Thất thu thuế có hai dạng chính:
* Thất thu thuế tiềm năng: Có thể hiểu là những khoản tiền thuộc khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế đáng lẽ ra phải được bồi dưỡng, khai thác, động viên kịp thời vào NSNN những chưa được Nhà nước quy định trong luật thuế.
Có thể nhận thấy, hiện tượng thất thu thuế tiềm năng luôn tồn tại trong nền kinh tế. Bởi vì, nền kinh tế luôn vận động và thay đổi, trong khi đó, chính sách thuế lại hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà nước và tương đối ổn định. Dó đó luôn có sự lệch pha nhau giữa chính sách thuế và các hoạt động kinh tế.
* Thất thu thuế thực: Chính là những khoản phải thu vào NSNN đã được quy định trong luật nhưng thực tế lại chưa được thực thi hoặc thực thi nhưng kết quả nhỏ hơn kết quả phải đạt được.
Thất thu thuế thực lại chia ra làm hai dạng:
+ Thuất thu thuế do nợ đọng:
Như chúng ta đã biết, trong quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp thường diễn ra tình trạng chiếm dụng vốn. Bất kỳ một nhà kinh doanh nào cũng muốn tiền vốn chiếm dụng lớn nhất, và chính vì vậy họ chây ỳ, dây dưa trong quá trình nộp thuế. Khi họ càng chiếm dụng được thời gian dài thì họ càng được sinh lãi lớn trên những khoản tiền đó. Vì vậy mà sinh ra nợ đọng thuế. Thất thu từ nợ đọng thuế chính là số tiền thuế mà ĐTNT phải nộp trong kỳ tính thuế nhưng hết hạn nộp thuế vẫn chưa nộp cho cơ quan thuế hoặc số thuế nộp thiếu.
+ Thất thu do gian lận thuế:
Gian lận thuế là hành vi cố ý vi phạm pháp luật, thực hiện các hành vi, thủ đoạn gian dối nhằm thu lợi bất chính bằng cách chiếm đoạt tiền thuế của nhà nước.
* Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất thu thuế.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng thất thu thuế, trong đó có các nguyên nhân khách quan và chủ quan xuất phát từ đối tượng nộp thuế, từ cơ quan thuế, từ bản thân chính sách của nhà nước. Việc tìm ra nguyên nhân của tình trạng thất thu thuế là hết sức quan trọng và cần thiết để có căn cứ nghiên cứu, đề ra các biện pháp hữu hiệu, thiết thực nhằm khắc phục tình trạng này.
Nguyên nhân của thất thu thuế:
- Thất thu thuế do trong chính sách chế độ còn nhiều kẻ hở, chưa bao quát được hết các nguồn thu, một số qui định chưa cụ thể, rõ ràng có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau hoặc cách xác định thuế phức tạp và thuế xuất cao là nguyên nhân thúc đẩy đối tượng nộp thuế trốn thuế hoặc liên kết với nhau tạo ra các hoạt động kinh tế giả để được giảm thuế phải nộp hay được hưởng lợi từ thuế. Nếu thuế suất được đưa ra một mức hợp lý được xác định trên căn cứ khoa học sẽ đem lại số thu cao nhất. Ngoài ra trong nền kinh tế thị trường hết sức sôi động, thay đổi từng giờ từng phút, trong khi đó chính sách lại phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí chủ quan của Nhà nước và tương đối ổn định. Do vậy, luôn có sự lệch pha giữa chính sách thuế và các hoạt động kinh tế.
- Thất thu thuế do trình độ quản lý của cơ quan thuế yếu và tổ chức bộ máy chưa khoa học dẫn tới việc vận dụng sai luật thuế hoặc không thể phát hiện ra những mâu thuẫn, gian lận trong sổ sách, chứng từ kế toán, trong tờ khai nộp thuế hoặc do một số cán bộ bị tha hóa biến chất đã móc ngoặc với đối tượng nộp thuế và tạo điều kiện hể họ thực hiện hành vi trốn thuế.
- Thất thu do ý thức chấp hành luật thuế của người nộp thuế: Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu phấn đấu của các nhà kinh doanh là lợi nhuận tối đa. Do vậy, họ luôn tìm các để tăng lợi nhuận và giảm thiểu chi phí trong hoạt động sản xuấ kinh doanh của mình. Với việc cho rằng nộp thuế cho Nhà nước đã làm giảm đi quyền lợi vật chất mà lẽ ra họ được hưởng. Cho nên vì lợi ích trước mắt và riêng của mình họ luôn có tư tưởng và hành động không tuân thủ pháp luật về thuế, tìm mọi cách để không phải nộp thuế hoặc nộp thuế với mức thấp nhất so với nghĩa vụ phải nộp theo quy định trong các luật thuế.
1.2.3. Ảnh hưởng của thất thu thuế:
Qua tìm hiểu nguyên nhân thất thu thuế chúng ta có thể thấy rằng thất thu thuế có ảnh hưởng lớn tới mọi mặt tài chính, kinh tế, xã hội của đất nước. Nghiên cứu ảnh hưởng của thất thu thuế đối với những lĩnh vực trên sẽ cho thấy được sự cần thiết phải tăng cường chống thất thu thuế.
a, Về mặt tài chính:
Đảm bảo nguồn thu cho NSNN là yêu cầu đầu tiên đối với bất kỳ hệ thống thuế nào ở tất cả các nước. Thu từ thuế luôn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu nguồn thu của NSNN trung bình từ 80-90%.
Với vai trò quan trọng như vậy, tình trạng thất thu thuế tất yếu sẽ dẫn đến ảnh hưởng trực tiếp làm giảm nguồn thu NSNN. Thu ngân sách nhà nước không đủ sẽ ảnh hưởng tới kế hoạch chi tiêu của Chính phủ, làm cho vai trò quản lý, điều hành của nhà nước thông qua chi NSNN sẽ kéo theo một loạt hậu quả nghiêm trọng khác đối với đời sống kinh tế, xã hội như: gây ra lạm phát, giá cả biến động ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và tiêu dùng trong nước.
b, Về mặt kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là cơ sở tồn tại và phát triển của thuế. Và ngược lại, thuế được Nhà nước sử dụng làm công cụ để kích thích nền kinh tế phát triển. Thất thu thuế làm giảm số thu NSNN đã gây không ít khó khăn cho nhà nước trong việc thực hiện các nhu cầu đầu tư và phát triển kinh tế đồng thời làm giảm vai trò của thuế là công cụ kích thích phát triển, bảo hộ nền sản xuất nội địa. Thất thu thuế còn gây hậu quả xấu trong việc tạo nên một cơ cấu kinh tế không hợp lý: Những ngành nghề không thật sự cần thiết nhưng do trốn lậu thuế, thu được lợi nhuận cao thì phát triển mạnh; còn những ngành nghề cần thiết, không trốn lậu thuế, lợi nhuận không cao thì lại phát triển chậm. Tình trạng đó ảnh hưởng không tốt đến yêu cầu cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, giữa các thành phần kinh tế.
c, Về mặt xã hội:
Một trong những mục tiêu quan trọng nhất của thuế là góp phần thực hiện công bằng xã hội trong động viên đóng góp. Tình trạng thất thu thuế sẽ tạo điều kiện cho những hoạt động sản xuất kinh doanh trái pháp luật, ảnh hưởng không tốt đến việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của những người kinh doanh chính đáng. Thất thu thuế ảnh hưởng đến trật tự xã hội, vi phạm pháp luật ngày càng tăng, những người trốn thuế lậu thì xem thường luật pháp, coi nhẹ kỷ cương phép nước; còn những người chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế với NSNN, thì ngày càng mất lòng tin vào chính sách, chế độ, pháp luật về thuế và có thể gây ra phản ứng tiêu cực của những đối tượng này. Như vậy, thất thu thuế có tác động xấu tới mục tiêu thực hiện công bằng trong chính sách thuế.
Chính vì vậy, chống thất thu thuế là một yêu cầu tất yếu khách quan, nhằm đảm bảo ổn định và tăng thu ngân sách Nhà nước, giúp Nhà nước thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Đồng thời chống thất thu thuế hiệu quả sẽ giúp cho mỗi quốc gia trong việc tạo ra môi trường kinh tế, xã hội ổn định thúc đẩy sản xuất phát triển.
Chương 2. THỰC TRANG THẤT THU THUẾ GTGT
2.1,Tình hình thất thu thuế GTGT ở Việt Nam
2.1.1, Các hình thức thất thu thuế GTGT:
a, Thất thu do nợ đọng:
Như đã nói ở trên thất thu do nợ đọng chính là số tiền thuế mà ĐTNT phải nộp trong kỳ tính thuế nhưng hết hạn nộp thuế vẫn chưa nộp cho cơ quan thuế hoặc số thuế nộp thiếu.
Đối với thuế GTGT nợ đọng thuế thể hiện ở một số trường hợp như:
- Do người nợ thuế có năng lực trả nợ nhưng không thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của mình( hay còn gọi là chây ỳ).
- Là những khoản nợ do DN lâm vào tình trạng khó khăn khách quan như gặp thiên tai, dịch họa mà không đủ khả năng nộp kịp thời, thì luật cũng cho phép sẽ xem xét để gia hạn nợ và lên lộ trình trả nợ phù hợp với năng lực của họ.
- Đối với các khoản nợ mà hiện tại đối tượng nộp thuế đang khiếu nại chưa đồng tình với mức phải._. nộp thì sẽ xem xét để giải quyết khiếu nại và sau khi giải quyết khiếu nại thì tổ chức đôn đốc thu vào cho NSNN.
b, Thất thu do gian lận thuế:
- Một số dạng trốn thuế:
+ Một số đơn vị( nhất là Công ty TNHH, DNTN, các chi nhánh cửa hàng thuộc DNNN) lợi dụng chủ trương thông thoáng về cấp đăng ký kinh doanh để thành lập doanh nghiệp nhưng không đăng ký thuế, có nhiều trường hợp đã tiêu thụ hàng hóa nhưng không kê khai nộp thuế.
+ Thuế GTGT đầu vào đã được khấu trừ ở kỳ trước, nhưng kỳ sau lại kê khai để khấu trừ tiếp. Hay một cơ sở kinh doanh đăng ký nhiều chi nhánh khác nhau nhằm mục đích hoàn thuế ở nhiều nơi với cùng một bộ hồ sơ chứng từ.
+ Không hạch toán rõ ràng, doanh số của từng loại hàng hóa, dịch vụ chịu thuế suất GTGT khác nhau ở những công ty kinh doanh nhiều loại mặt hàng. Doanh nghiệp thường kê khai hoạt động mua với mặt hàng có thuế suất cao để được khấu trừ nhiều, hoặc đưa vào bán loại có thuế suất GTGT thấp để nộp ít thuế. Một số đơn vị lại kê khai tổn thất, mất mát, hư hỏng không đúng thực tế để giảm thuế GTGT phải nộp.
+ Về phương pháp tính thuế cũng bị lợi dụng. Đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thường thông đồng và sử dụng hóa đơn bán hàng của đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp( nhất là các hộ nộp thuế khoán) để hợp thức hóa chứng từ thuế đầu vào đưa khấu trừ thuế. Để quản lý chặt chẽ, cần tăng cường quản lý đối với hộ kinh doanh cá thể trong việc sử dụng hóa đơn bán hàng, nếu phát hiện đột biến về doanh số cao hơn nhiều so với mức khoán, phải kịp thời điều chỉnh và ấn định mức thuế sát thực.
- Một số hình thức sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để gian lận thuế:
Trong điều kiện thực hiện thuế GTGT, hoá đơn, chứng từ là cơ sở để kiểm tra thuế GTGT, là căn cứ xác định thuế GTGT được khấu trừ, miễn giảm, phải nộp hay được hoàn lại trong kỳ. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hoá đơn, chứng từ ở cả khâu mua và khâu bán vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu của nhà nước và tự kiểm soát ở khâu lập chứng từ đối với cơ quan chức năng trong việc tính số thuế phải nộp nói riêng và đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước nói chung. Tuy nhiên cũng chính vì những nguyên nhân này mà đã có “vô số” những vụ vi phạm liên quan đến vấn đề hóa đơn chứng từ, với một số dạng chủ yếu sau:
+ Dạng thứ nhất: là hóa đơn in giả hoàn toàn. Nhìn bề ngoài thì loại hoá đơn này giống như hoá đơn GTGT do Bộ tài chính phát hành và chỉ có thể phát hiện bằng máy soi nghiệp vụ còn người mua và người bán hàng không dễ phát hiện. Có những trường hợp mua phải hàng lậu và được cấp hoá đơn giả nhưng khi phát hiện thì người bán hàng đã biến mất nên vừa thiếu cơ sở để áp dụng trách nhiệm pháp lý vừa không được quyền khấu trừ thuế.
+Dạng thứ hai: là hoá đơn thật do Bộ tài chính phát hành được bán cho một đơn vị nhất định nhưng tuồn ra thị trường mua bán một cách bất hợp pháp. Thủ đoạn này có thể thực hiện bằng cách bán hàng không xuất hoá đơn cho khách hàng sau đó dùng liên trống (lẽ ra phải cấp cho khách hàng) đem bán trên thị trường chợ đen. Hoặc bố cáo giải thể doanh nghiệp nhưng không thanh toán nộp lại hoá đơn và đem bán, hoặc lợi dụng cơ chế thông thoáng trong việc thành lập doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp, sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế, cấp mã số thuế và mua hóa đơn GTGT tại cơ quan thuế nhưng không tiến hành sản xuất kinh doanh mà sử dụng hóa đơn đem bán.
+Dạng thứ ba: cũng là dạng hoá đơn do Bộ tài chính phát hành được sử dụng khi mua bán hàng hoá nhưng ghi giá thanh toán không đồng nhất giữa 3 liên của 1 số hoá đơn, hoặc cố tình ghi sai mã số của người bán gây khó khăn cho sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan thuế. Với thủ đoạn này số thuế đầu ra thu được ở người bán thì ít mà số thuế đầu vào phải khấu trừ ở người mua thì nhiều.
+Dạng thứ tư: là cạo sửa hoá đơn mua hàng ghi số tiền cao hơn số thực tế để khấu trừ, hoàn thuế, thanh toán, quyết toán thuế.
+Dạng thứ năm: lập hóa đơn khống, tức thực tế không mua bán hàng hoá nhưng thông đồng với các đơn vị xuất khẩu để kê khai hoàn thuế GTGT hàng xuất khẩu, hoặc mua bán hoá đơn hàng dùng để kê khai khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào.
+Dạng thứ sáu: khi bán hàng hoá, dịch vụ việc lập giao hoá đơn cho khách hàng còn tuỳ tiện, không giao hoặc đòi nâng giá hàng khi giao hoặc giao hoá đơn không hợp pháp để trốn thuế. Đối với khách hàng khi mua hàng cho tổ chức hoặc cá nhân tiêu dùng thường không quan tâm đến việc đòi hoá đơn hợp pháp hoặc chủ động yêu cầu người bán lập hoá đơn.
- Về hoàn thuế :
Có đến 6 cách thức gian lận trong khâu hoàn thuế:
+Thứ nhất, tạo nguồn hàng khống, lập hợp đồng mua bán nội địa khống với phương thức thanh toán trực tiếp.
+Thứ hai, hợp thức hóa nguồn tiền mua hàng xuất khẩu bằng cách lập các hợp đồng vay khống, hoặc lập danh sách góp vốn kinh doanh bằng hợp đồng giả.
+Thứ ba, làm giả hợp đồng vận chuyển, thanh toán cước vận chuyển hàng hóa trong nội địa và ra cửa khẩu, tạo dựng hợp đồng mua bán ngoại thương và thanh toán giả.
+Thứ tư, quay vòng nhiều lần hàng xuất khẩu.
+Thứ năm, móc nối với cán bộ hải quan cửa khẩu xác nhận khống hồ sơ hoặc khai tăng giá và khối lượng hàng hóa.
+Thứ sáu, hình thành các đường dây với những chi nhánh, văn phòng hoặc thành lập các doanh nghiệp (DN) chỉ để làm dịch vụ hồ sơ hoàn thuế.
2.1.2, Tình hình thất thu thuế GTGT ở Việt Nam:
Thuế giá trị gia tăng có nguồn gốc từ thuế doanh thu và Pháp là nước đầu tiên trên thế giới ban hành Luật thuế giá trị gia tăng vào năm 1954. Khai sinh từ nước Pháp, thuế giá trị gia tăng đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Ngày nay, các quốc gia thuộc khối Liên minh Châu Âu, châu Phi, châu Mỹ La Tinh và một số quốc gia Châu Á trong đó có Việt Nam đã chính thức áp dụng thuế giá trị gia tăng. Các quốc gia khác cũng đang trong thời kỳ nghiên cứu loại thuế này. Tính đến nay đã có khoảng 130 quốc gia áp dụng thuế giá trị gia tăng.
Ở nước ta, tại kỳ họp lần thứ 11 Quốc hội khoá 9, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật thuế giá trị gia tăng ngày 10/05/1997 và có hiệu lực thi hành kề từ ngày 01-01-1999. Tiếp theo đó, để phù hợp hơn với tình hình thực tế, Quốc hội cũng đã thông qua Luật sửa đổi vào ngày 17/06/2003 và mới đây tại kỳ họp thứ 3. Quốc hội khóa XII ngày 03/06/2008 đã thông qua Luật thuế GTGT mới thay thế 2 luật trên và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009.
Như vậy đã qua mười năm thực hiện luật thuế GTGT, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể như tổng thu cho NSNN liên tục tăng qua các năm, khuyến khích xuất khẩu, góp phần ổn định giá cả, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế ở nước ta phù hợp với kinh tế thị trường tạo điều kiện mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới,…Song bên cạch những thành tựu đạt được kể từ khi được chính thức áp dụng cho đến nay thì tình trạng thất thu về thuế GTGT vẫn là vấn đề “muôn thuở” của các nhà quản lý cũng như của các cán bộ ngành thuế nói riêng.
Năm 2006 là năm đầu tiên công tác thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế được thực hiện theo quy định mới ( theo quyết định 1166/QD-TTC), thực hiện theo cơ chế tự khai, tự tính, tự nộp thuế. Theo báo cáo của các Cục thuế địa phương, toàn ngành thuế đã tiến hành thanh tra, kiểm tra đối với hơn 69.000 đối tượng nộp thuế các loại, bao gồm DNNN 2.682 đơn vị, DN có vốn đầu tư nước ngoài 1.346 đơn vị, DN tư nhân 28.764, hộ cá thể hơn 29.000 hộ và khoảng hơn 7.000 cơ sở khác. Qua kết quả thanh tra, kiểm tra số thuế được ghi nhận theo biên bản phải nộp rất lớn. Tổng số thuế ghi thu theo biên lai phải thu vào khoảng hơn 3.214 tỷ đồng, trong đó: có hơn 1.774 tỷ đồng là thuế nợ đọng (chiếm 55,2% số thuế ghi thu); số thuế truy thu thêm khoảng hơn 1.362 tỷ đồng (chiếm 42,4%); phạt hơn 77,5 tỷ đồng (chiếm 2,4%). Theo phân tích của tổng cục Thuế, trong số truy thu thêm (khoảng 1.362 tỷ đồng, thuế GTGT có số truy thu chiếm 19.7%, tức là 268,3 tỷ, thuế TNDN 36,8%, thuế thu nhập cá nhân chiếm khoảng 1,5%. Qua thanh tra kiểm tra số thuế GTGT truy thu là 268,3 tỷ, số tiền không phải là quá lớn, nhưng theo phân tích, đánh giá của tổng cục thuế cho thấy các DN vẫn chưa chấp hành đầy đủ và nghiêm chỉnh các quy định của luật thuế và luật kế toán, từ hạn chế về ý thức dẫn đến một số sai phạm. Các doanh nghiệp còn hiện tượng hạch toán doanh thu không đúng niên độ kế toán, doanh thu ghi trên hóa đơn thấp hơn giá thực tế thanh toán để giảm thuế GTGT đầu ra và giảm thu nhập chịu thuế. Một số áp sai thuế suất và tình trạng không phân bổ thuế GTGT với hàng không chịu thuế…
Giạn lận thuế GTGT không những là vấn đề của riêng nước ta mà là vấn đề của cả các nước khác trên thế giới. Đến một tỉnh nghèo nhu Cà Mau, hàng năm ngân sách Trung ương phải hỗ trợ hàng trăm tỷ đồng vậy mà trong năm 2006 cũng xảy ra các vụ mua bán hóa đơn GTGT lên đến hàng trăm tỷ đồng do Huỳnh Quốc Ngọc cầm đầu vụ án này, y cùng đồng bọn đã lập ra công ty ma chuyên buôn bán hóa đơn, với rất nhiều chi nhánh, chủ yếu ở tỉnh Cà Mau. Bên cạnh đó trong 2 năm 2005 và 2006 việc chăn nuôi tôm ở Cà Mau liên tục mất mùa vậy mà các công ty thu mua thủy sản trên địa bàn tỉnh vẫn liên tục mọc lên như nấm. Phần lớn các công ty này có “làm ăn” với công ty của Ngọc. Trong hai tháng (2 và 3-2005), các DNTN ở huyện Ngọc Hiển như Minh Thắng, Nguyễn Nil, Diệp Kiều Phương, Bảy Nhị, Trần Quốc Thắng và Thái Tân (huyện Phú Tân) được Cty TNHH Chí Hiếu (TP. Cần Thơ) - công ty “con” của Ngọc cung cấp hóa đơn thuế GTGT để khấu trừ khống số tiền 2,1 tỷ đồng.
Do được cung cấp hóa đơn thuế GTGT khống nhằm chiếm dụng tiền hoàn thuế quá dễ dàng, một số DNTN Cà Mau thi nhau mua bán hóa đơn. Số tiền mỗi DNTN xuất khống hóa đơn được phát hiện lên đến hàng tỷ đồng. Trung bình, số tiền DNTN các huyện, TP ở tỉnh Cà Mau mua bán hóa đơn lên đến hàng trăm tỷ. Tại TP. Cà Mau, kiểm tra 31 Cty, DNTN số tiền vi phạm phát hiện là 24 tỷ đồng. Các DNTN như Quang Đăng 2,5 tỷ đồng, Chí Tân 2 gần 3,5 tỷ đồng, Nguyễn Thanh Tâm 1,3 tỷ đồng, Hòa Thuận gần 2,5 tỷ đồng... Huyện nghèo như U Minh chỉ 7 DNTN thu mua thủy hải sản ôm gọn 23 tỷ đồng. Huyện mới thành lập như Phú Tân cũng tròm trèm 10 tỷ... Đứng đầu là huyện Ngọc Hiển, số tiền sai phạm lên đến gần 32 tỷ đồng. DNTN Trung Nghĩa ở huyện Thới Bình quan hệ rộng chiếm đoạt gần 4,3 tỷ đồng. Qua kiểm tra, 135 DNTN trên địa bàn tỉnh Cà Mau có dấu hiệu sử dụng hóa đơn của các doanh nghiệp ngoài tỉnh để được khấu trừ đầu vào chiếm đoạt gần 160 tỷ đồng.
Bên cạnh đó các doanh nghiệp “ma” trong và ngoài tỉnh còn “đồng lòng” với nhau nhằm dễ dàng rút tiền Nhà nước, một số DNTN trên địa bàn tỉnh Cà Mau câu kết với doanh nghiệp “ma” từ TPHCM đến các tỉnh ĐBS Cửu Long.
Nhờ sự liên kết “đồng lòng” này, một “đại gia” chuyên cung cấp hóa đơn đã đứng ra bắt mối “lưu hành” hòng được chung chi. Cá nhân hám lợi nên trở thành trợ thủ đắc lực.
Trong tháng 7-2005, DNTN Trần Văn Khởi (huyện Đầm Dơi) được DNTN Tân Hữu Nghị (quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ) cung cấp hóa đơn thuế GTGT số tiền gần 1,3 tỷ đồng. Tương tự như vậy, trong tháng 1 và 2-2005, các DNTN Huỳnh Minh Đầy, Tạ Minh Hoàng, Nguyễn Nil và Bảy Nhị được Cty TNHH An Thành Lợi, TP. Cần Thơ cung cấp hóa đơn 1,3 tỷ đồng... Đến khi xác minh, một số DNTN cung cấp hóa đơn không kinh doanh mua bán, bỏ trốn khỏi địa phương hoặc cơ quan công an địa phương đang thụ lý. Không ít cán bộ kiểm tra phải dở cười dở khóc khi đi xác minh những DNTN cung cấp hóa đơn. Lần theo địa chỉ ghi trong hóa đơn thì gặp mảnh đất trống không hay một căn nhà rao bán. Cty Xuân Trường Khang địa chỉ đăng ký kinh doanh đường Hoàng Hoa Thám, phường 13, quận Tân Bình, TPHCM không kinh doanh mua bán nhưng vẫn cung cấp hóa đơn thuế GTGT cho DNTN Phương Tùng (huyện Ngọc Hiển) hơn nửa tỷ đồng.
Theo nhận định của lãnh đạo tỉnh Cà Mau, thực trạng mua bán hóa đơn thuế GTGT vẫn phức tạp. Một số cơ quan liên quan vào cuộc nhưng để tiến hành xử lý đã gặp không ít khó khăn. Với cách lý giải trên, chẳng lẽ hàng trăm tỷ đồng thuế GTGT hoàn khống được “chìm xuồng” hoặc bị xử lý hết sức nhẹ nhàng, tiền thất thu Nhà nước thu hồi nhỏ giọt?
Trước thực trạng mua bán hóa đơn thuế GTGT của các DNTN thu mua tôm nguyên liệu, tháng 5-2006 UBND tỉnh Cà Mau đã chỉ đạo Cục thuế phối hợp với Công an tỉnh Cà Mau tiến hành xác minh làm rõ. Đến nay, Cục thuế đã chuyển qua Công an tỉnh Cà Mau xem xét xử lý 51 DNTN mua bán hóa đơn thuế GTGT chiếm đoạt hơn 20 tỷ đồng.
Cà Mau là một tỉnh nghèo, khuyến khích DNTN thành lập để phát triển kinh tế địa phương là điều cần thiết. Nhưng không vì thế lại thờ ơ với những kẻ lợi dụng chủ trương, chính sách thu lợi bất chính.
Ngày 10-12-2008, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.Cần Thơ đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án gian lận thuế giá trị gia tăng (GTGT) đến Viện kiểm sát nhân dân thành phố đề nghị truy tố 14 vị “giám đốc”. Theo nhận định 14 vị giám đốc này đã thực hiện các vụ mua bán hóa đơn lớn nhất từ trước đến nay.
Điển hình trong đó có một số vụ như: trình độ mới hết lớp 5 nhưng Võ Thành Nhân SN (1977, ngụ Trà Ôn, Vĩnh Long) luôn nuôi mộng trở thành giám đốc thu về tiền tỷ. Tuy nhiên, trình độ không, nghề nghiệp cũng không, năm 2005 Nhân thành lập Doanh nghiệp tư nhân Phúc Hảo để mua bán hóa đơn thuế GTGT. Theo kết quả điều tra: quá trình hoạt động từ tháng 12-2005 đến 25-4-2007, Nhân đã mua 3 quyển hóa đơn (50 số/quyển, loại 3 liên), tổng cộng 150 số, mua tại Chi cục Thuế huyện Trà Ôn, Vĩnh Long với doanh số hàng hóa kê khai mua vào là 15.438,487 trđ, thuế GTGT là 1.245,566 trđ; doanh số kê khai dịch vụ bán ra là 18.007,141 trđ thuế GTGT là 1.228,923 trđ. Thực tế quá trình làm ăn do bị thua lỗ nên Nhân đã mua hóa đơn GTGT của các công ty: Phương Thuận, Đất Mũi, An Phát, Tuấn Sơn, Phan Nguyên, Hoa Nam Việt để kê khai khống hàng hóa mua vào nhằm mục đích bán hóa đơn GTGT của DNTN Phúc Hảo thu lợi bất chính.
Trong số 150 số hóa đơn của DNTN Phúc Hảo, Nhân chỉ sử dụng 44 số hóa đơn để xuất cho các đơn vị mà Nhân có làm ăn mua, bán hàng hóa thật số còn lại Nhân đã cùng với Nguyễn Văn Triết (SN 1965, ngụ Long Xuyên, An Giang) xuất bán khống 86 số hóa đơn với doanh số xuất bán khống là 14.021,748trđ, gây thiệt hại về thuế GTGT là 1.008,013trđ, còn 20 số hóa đơn bị hư do viết sai số liệu.
Theo lời khai của Nhân thì để bán được hóa đơn của DNTN Phúc Hảo, Nhân đã mua các hóa đơn khống để kê khai hàng hóa mua vào với giá trung bình là 0,8% và bán ra với giá từ 1,6% đến 2% trên doanh số xuất khống ghi trên hóa đơn. Như vậy tổng số tiền Nhân đã thu lợi từ việc bán hóa đơn của DNTN Phúc Hảo sau khi trừ tiền mua hóa đơn đầu vào, trung bình còn thu lợi khoảng 0,8% trên doanh số xuất khống với số tiền là 112,173trđ. Sau khi bán hết các hóa đơn của DNTN Phúc Hảo, Nhân lại tiếp tục cấu kết với một số đối tượng tại TP.Hồ Chí Minh và TP.Cần Thơ tổ chức mua bán hóa đơn GTGT bán cho các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh.
Trong đó có Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Ngọc do Nguyễn Văn Nơi (SN 1961, ngụ quận Ninh Kiều, TP.Cần Thơ) làm giám đốc, Nguyễn Ngọc Thọ, phó giám đốc. Để bán được các hóa đơn GTGT của Công ty Hoàng Ngọc, Thọ đã cấu kết với Võ Thành Nhân, Trần Lê Khoa để Nhân mua hóa đơn của Nguyễn Văn Châu là giám đốc Công ty Trang Minh Châu, tại TP.Hồ Chí Minh và hóa đơn của DNTN TMXD Tuấn Sơn, Công ty TNHH TMDV Nguyễn Anh kê khai khống hàng hóa mua vào với doanh số kê khai đầu vào là 40.107,220 trđ, thuế GTGT là 2.548,286 trđ. Bán khống 140 số hóa đơn cho các doanh nghiệp trong và ngoài TP.Cần Thơ với doanh số 39.097,517 trđ, thuế GTGT là 2.568,144 trđ.
Trong các hóa đơn của Công ty TNHH Hoàng Ngọc thì Võ Thành Nhân cùng Trần Lê Khoa trực tiếp bán khống là 89 số hóa đơn với doanh số xuất bán khống 29.122,843 trđ, gây thiệt hại về thuế 1.940,015 trđ. Cứ thế chỉ trong thời gian ngắn, các đối tượng câu kết với nhau thành lập doanh nghiệp chỉ để mua bán hóa đơn.
Theo Cơ quan điều tra, doanh số khống từ việc mua bán hóa đơn được kê khống lên đến hơn 155 tỷ đồng, tổng thiệt hại về tiền thuế GTGT hơn 10 tỷ đồng. Trong đó, Nhân thu lợi gần nửa tỷ.
Qua quá trình điều tra vụ án, cơ quan điều tra đã chứng minh một số doanh nghiệp kinh doanh các lĩnh vực xây dựng, san lấp, vận tải hàng hóa trong thời gian hoạt động, thi công các công trình do mua hàng hóa trôi nổi (chủ yếu là cát san lấp và vật liệu xây dựng) không có hóa đơn chứng từ nên đã mua hóa đơn GTGT của Võ Thành Nhân và đồng bọn để kê khai khấu trừ thuế GTGT nhằm chiếm đoạt tiền thuế gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước.
Trong đó có DNTN Minh Anh do Nguyễn Khoa Nghĩa (SN 1978, ngụ TP.Cần Thơ) làm giám đốc với ngành nghề kinh doanh xây dựng dân dụng, công nghiệp, cầu đường, thủy lợi, san lấp mặt bằng...Trụ sở đặt tại tổ 6B khu vực Thới Nhựt, phường An Bình, quận Ninh Kiều, TP.Cần Thơ. Trong thời gian từ năm 2006 đến thời gian bị phát hiện DNTN Minh Anh do Nghĩa làm giám đốc đã ký hợp đồng thi công các công trình như san lấp Quốc lộ 1A tại Bạc Liêu, san lấp mặt bằng tuyến Hỏa Lựu thuộc huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang thuộc gói thầu 9A, 9B... qua đó Nghĩa đã mua hàng hóa của các phương tiện đến bán trôi nổi không có hóa đơn chủ yếu nguồn hàng là cát san lấp do khai thác trái phép, sau đó đã mua 4 hóa đơn GTGT của các đối tượng trên gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước số tiền 836,721 trđ. Ngoài ra trong vụ án này còn rất nhiều DNTN khác có “làm ăn” với Nhân.
Không những thế điều đáng buồn là trong các vụ gian lận thuế GTGT còn có sự tiếp tay của các cán bộ nhà nước, các Đảng viên và cả các cán bộ ngành thuế, ngày 17-11- 2008, Viện KSND tối cao đã tiến hành triển khai quyết định cách chức viện trưởng Viện KSND tỉnh Cà Mau đối với ông Trần Công Lộc. Tháng 5-2008, ông Trần Công Lộc bị tạm đình chỉ chức vụ. Ban thường vụ Tỉnh ủy Cà Mau đã cách chức bí thư cán sự Đảng và khai trừ ra khỏi Đảng đối với ông Trần Công Lộc. Sai phạm của ông Trần Công Lộc là không trung thực khai báo tài sản, cố ý bỏ lọt tội phạm trong vụ án gian lận thuế giá trị gia tăng ở Công ty Camimex…Và mới gần đây là vụ án hai cán bộ Cục thuế Tây Ninh chiếm đoạt hàng tỷ đồng, ngày 4-12-2008, Cơ quan An ninh điều tra, Công an tỉnh Tây Ninh xác nhận, bắt tạm giam đối với Nguyễn Văn Thạc, 45 tuổi, Chi cục phó Chi cục thuế huyện Tân Biên và Hồ Thị Thu, 38 tuổi, cán bộ phòng Quản lý doanh nghiệp số 2 về hành vi “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng”.
Thạc trước đây là Phó phòng Quản lý doanh nghiệp số 2, Cục thuế Tây Ninh, được giao nhiệm vụ cùng Thu kiểm tra hồ sơ hoàn thuế giá trị gia tăng của Công ty TNHH Nhật Tân. Thay vì phải xuống cơ sở để kiểm tra, xác minh thực tế hóa đơn đầu vào, nhưng Thạc và Thu chỉ kiểm tra qua loa hồ sơ do Công ty Nhật Tân cấp rồi đề nghị cho hoàn thuế, tạo điều kiện cho Công ty Nhật Tân chiếm đoạt trái phép tiền hoàn thuế của Nhà nước.
Quá trình điều tra về hành vi gian lận thuế giá trị gia tăng của Công ty TNHH Nhật Tân, Cơ quan an ninh điều tra xác định Thạc và Thu đã giúp công ty này chiếm đoạt gần 2,6 tỷ đồng.
Cũng liên quan đến vụ án này, trước đó hai anh em Trương Hoàng Dũng và Trương Thành Niên là Giám đốc, Phó giám đốc Công ty TNHH Nhật Tân bị bắt tạm giam hồi tháng 4 về hành vi gian lận, làm giả hóa đơn chứng từ xuất khẩu hàng hóa để moi tiền thuế VAT của Nhà nước.
Về vấn đề hoàn thuế, đây đã từng là vấn đề nổi cộm trong những năm đầu thực hiện luật thuế GTGT, số vụ gian lận về hoàn thuế tăng nhanh cả về số lượng lẫn quy mô trong các năm từ năm đầu tiên áp dụng luật thuế GTGT cho đến năm 2002. Cụ thể như biểu đồ sau:
Biểu đồ về số vụ lừa đảo hoàn thuế qua các năm
Nhìn vào biểu đồ ta thấy tình trạng gian lận về hoàn thuế tăng lên với tốc độ khá nhanh từ 4 vụ năm 1999 đến 17 vụ năm 2000, 64 vụ năm 2001 và 46 vụ với 6 tháng đầu năm 2002 đã được phát hiện. Tuy nhiên theo nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Nguyễn Văn Ninh thì vấn đề trên giờ chỉ còn là “quá khứ” bởi vì không có vụ gian lận hoàn thuế GTGT mới nào xuất hiện trong năm 2003, theo nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Nguyễn Văn Ninh trong cuộc trao đổi với báo chí bên lề Hội nghị sơ kết phối hợp giữa Tổng cục Thuế và Tổng cục Cảnh sát về chống tội phạm thuế tổ chức tại Hà Nội ngày 7-9-2007, ông Ninh cho rằng: “Những vụ gian lận lớn với tính chất nghiêm trọng và mang tính hình sự không còn thấy xuất hiện trong năm qua, một kết quả đáng mừng cho ngành thuế. Trước đó, những loại tội phạm phổ biến như thành lập công ty "ma", mua bán hóa đơn lòng vòng, khai khống đầu vào để khấu trừ đầu ra... liên tục xảy ra với qui mô và tính chất nghiêm trọng. Tất cả những hành vi này nhằm mục đích hoàn thuế VAT bất hợp pháp. Chuyện 1.600 doanh nghiệp ma đã thành lập để mua hóa đơn, hay 130 doanh nghiệp khai khống để hoàn thuế bất hợp pháp, và nổi cộm như vụ Hợp tác xã Vạn Lợi ở An Giang rút của nhà nước trên 26 tỉ đồng... chỉ còn là quá khứ.” Tuy nhiên đứng trước những nhận định khả quan đó chúng ta cũng không được chủ quan, coi thường với loại hình tội phạm này, vẫn luôn phải đề cao cảnh giác.
Ngoài ra trong các vụ thất thu thuế cũng phải kể đến trách nhiệm của các cơ quan thuế, đầu năm 2009, Thanh tra Chính phủ (TTCP) công bố số tiền sai phạm tại Tổng cục Thuế, Cục Thuế Hà Nội và TPHCM lên tới 11.000 tỉ đồng. Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế phản ứng về con số này. Khi đó, Tổng TTCP Trần Văn Truyền khẳng định con số sai phạm trên thực tế còn lớn, do thanh tra chưa có điều kiện làm rõ. Mới đây, tổng hợp kết quả thanh tra trên diện rộng của 100 đoàn thanh tra tại 63 địa phương, ngành thanh tra phát hiện thêm gần 4.200 tỉ đồng thuế bị thất thu. TTCP cảnh báo Tổng cục Thuế và một số cục thuế địa phương đã ban hành một số văn bản không đúng quy định pháp luật, gây thất thu số tiền thuế lớn cho ngân sách hơn 373 tỉ đồng (trong đó bao gồm thuế TNDN và thuế GTGT). Cụ thể, hướng dẫn miễn, giảm thuế TNDN không đúng quy định, làm thất thu 229 tỉ đồng; cho Công ty CP KCN Tân Tạo hưởng thuế ưu đãi trái pháp luật hơn 3,6 tỉ đồng; cho Công ty Amata không nộp thuế TNDN làm thất thu 28,4 tỉ đồng; hướng dẫn không đúng quy định về thuế GTGT đối với hoạt động dịch vụ cung cấp suất ăn công nghiệp cho DN ở KCX làm thất thu 4,4 tỉ đồng; cho phép kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hóa đơn chứng từ quá thời hạn kê khai, dẫn đến khấu trừ hoặc hoàn thuế sai hơn 11,6 tỉ đồng cho 61 DN; xóa nợ thuế và các khoản phải nộp chưa đúng quy định hơn 82,5 tỉ đồng...
Qua quá trình thanh tra, kiểm tra của TTCP cũng cho thấy thất thu thuế từ các vi phạm pháp luật về hóa đơn vẫn là vấn đề lớn và nghiêm trọng. Cơ quan thanh tra phát hiện 151 DN sử dụng 5.101 hóa đơn của các đơn vị đã bỏ trốn; với giá trị dịch vụ, hàng hóa ghi trên hóa đơn là 281,4 tỉ đồng, thuế GTGT hơn 18,7 tỉ đồng. Trong đó, một số DN kê khai 2 lần đối với một hóa đơn với giá trị ghi trên hóa đơn hơn 103 tỉ đồng. Tất cả những trường hợp này đều chưa được Cục Thuế phát hiện, xử lý. Kiểm tra hồ sơ 48 DN khác, TTCP phát hiện số tiền phải truy thu do kê khai thiếu hoặc trốn thuế gần 3.740 tỉ đồng. Trong đó, một số DN có dấu hiệu trốn thuế với thủ đoạn tinh vi; có trường hợp ngang nhiên trốn số tiền lớn. TTCP kiến nghị Bộ Tài chính chỉ đạo thu hồi lại số tiền này cho ngân sách (Theo nguồn báo điện tử của Bộ Văn hóa, Thể thao và du lịch, phát hành tại địa chỉ
Từ một vài phân tích và ví dụ nêu trên chúng ta thấy rằng sau 10 năm thực hiện luật thuế GTGT mặc dù chúng ta đã lỗ lực rất nhiều, chúng ta đã từng đẩy lùi được rất nhiều vụ án nghiêm trọng, nhưng các hình thức gian lận thuế GTGT, tình trạng thất thu thuế GTGT vẫn tồn tại. Đòi hỏi sự cố gắng không ngừng trong công cuộc chống thất thoát thuế GTGT cho nhà nước.
Trên đây em đã đưa ra một cách khái quát về tình trạng thuất thu thuế trên cả nước, đây không phải là vấn đề của riêng ai, hay của từng địa phương. Ở phần sau em xin nêu ra tình hình thất thu thuế tại thị xã Phúc Yên, nơi em thực tập.
2.2, Tình hình thất thu thuế GTGT ở thị xã Phúc Yên
2.2.1, Giới thiệu một số nét về tình hình kinh tế, xã hội của thị xã Phúc Yên:
a, Vị trí đìa lý:
Thị xã Phúc Yên với diện tích chỉ khoảng 12.010,22 (HA) chiếm 2,73 tỷ lệ phần trăm diện tích trong toàn tỉnh Vĩnh Phúc. Nhưng Thị xã có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế. Trung tâm của thị xã nằm trên đường quốc lộ 2 và là đầu mối tiếp giáp của tỉnh Vĩnh Phúc với Thành phố Hà Nội, cụ thể với ranh giới tiếp giáp như sau:
Phía Tây giáp Huyện Mê Linh ( thuộc TỉnhVĩnh Phúc Cũ )
Phía Nam giáp với Thị xã Đông Anh - Hà Nội
Phía Đông giáp Thị xã Sóc Sơn - Hà Nội
Phía Bắc giáp Huyện Bình Xuyên – Vĩnh Phúc
Từ vị trí địa lý thuận lợi trên Thị xã Phúc Yên có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế nên số thu hàng năm của Chi cục thuế thị xã Phúc Yên chỉ đứng sau Chi cục thuế Thành phố Vĩnh Yên trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc quản lý.
b, Tình hình kinh tế, xã hội tại thị xã:
Với diện tích nhỏ hẹp hơn so với các huyện, thị khác trong tỉnh thì dân số của Thị xã Phúc Yên cũng chỉ vào khoảng 88.650 người (Theo số liệu dân số tính đến quý 3/2007 tại Cục Thống kê tỉnh). Nên ngành tập trung phát triển mũi nhọn chủ yếu của Thị xã cũng theo chiến lược của tỉnh là tập trung vào phát triển công nghiệp và dịch vụ để thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Một số thành tựu kinh tế- xã hội của thị xã Phúc Yên năm 2008
- Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn đạt 6.564 tỷ đồng,chiếm 71% tổng thu ngân sách của tỉnh, bằng 118,6% so với dự toán và bằng 152,66% so với cùng kỳ;
- Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 26.423 tỷ đồng ( theo giá cố định 1994) tăng 21,1% so với cùng kỳ và đạt chỉ tiêu kế hoạch năm;
- Giá trị sản xuất ngành xây dựng đạt 199 tỷ đồng ( theo giá cố định năm 1994), đạt 57% kế hoạch năm và bằng 72% so với cùng kỳ;
- Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản thực hiện 102 tỷ đồng (theo giá cố định năm1994) ,đạt 103,3% so với kế hoạch, tăng 5% so với cùng kỳ;
- Doanh thu về dịch vụ bán lẻ hàng hóa- du lịch thực hiện 954 tỷ đồng, đạt 95% kế hoạch, tăng 16,3% so với cùng kỳ, trong dó doanh thu ngành du lịch ước đạt 11,5 tỷ đồng, bằng 100% so với cùng kỳ và đạt 90% kế hoạch;
- Nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển giáo dục trên địa bàn là 6,178 tỷ đồng;
- Các mặt như văn hóa xã hội- thể thao tiếp tục phát triển. Trong năm, toàn thị xã phát triển thêm được 2.624 thuê bao, vượt 12% kế hoạch, đạt bình quân 23 máy/100dân. Chất lượng giáo dục đại trà và mũi nhọn chuyển biến tích cực. Toàn thị xã đã có 19/44 trường học, 7/10 trạm y tế đạt chuẩn Quốc gia;
- Giải quyết việc làm cho 2.367 lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 45,2% tăng 12,2% so với năm 2007;
- Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 5,24%, giảm 0,65% so với 2007, vượt 0,15% so với mục tiêu đề ra;
- Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi còn 16%, giảm 0,5%so với năm 2007;
Theo thống kê của Chi cục thuế TX thì tính đến hết năm 2008, trên toàn TX số hộ kinh doanh nộp thuế theo hình thức khoán là 10.711 lượt hộ, trong đó có 49 hộ mới được đưa vào quản lý thu thuế trong năm 2008; số hộ nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT là 29 hộ, trong đó hộ kế toán 2 sổ là 17 hộ, hộ kế toán 6 sổ là 12 hộ, có 6 hộ kinh doanh nộp thuế theo phương thức khấu trừ. Trong năm 2008 toàn TX có 293 DN đang hoạt động, 3 DN bỏ chốn do làm ăn thua lỗ, 56 DN bị giải thể và phá sản, 12 DN xin nghỉ kinh doanh, số DN đã đăng ký kinh doanh nhưng chưa hoạt động là 39 DN.
2.2.2, Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của Chi cục thuế TX Phúc Yên:
Chi cục thuế thị xã Phúc Yên là một đơn vị hành chính sự nghiệp nằm trên địa bàn thị xã Phúc Yên thuộc cục Thuế tỉnh Vĩnh Phúc, Chi cục thuế Thị Xã đã được thành lập.
Căn cứ Nghị định số: 153/2003/NĐ-CP ngày 09/12/2003 của Chính phủ về việc thành lập thị trấn Phúc Yên và huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
Căn cứ Quyết định số: 218/2003/QĐ-CP ngày 28/10/2003 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của tổng cục thuế trực thuộc Bộ Tài Chính.
Chi cục thuế thị xã Phúc Yên được thành lập theo Quyết định số: 04/2004/QĐ/BTC ngày 05 tháng 01 năm 2004 của Bộ Tài Chính.
Trụ sở của chi cục thuế thị xã Phúc Yên được đặt tại trung tâm của thị xã, và nằm trên đường quốc lộ 2, gần các cơ quan quan trọng của thị xã như: Kho bạc nhà nước, Viên kiểm sát nhân dân, Công an...nên rất thuận lợi cho công tác thu nộp thuế trên địa bàn.
Chi cục thuế Phúc Yên được chia làm 12 đội. Gồm 58 cán bô.
- Các bộ phận văn phòng giúp cho Chi cục trưởng Chi cục thuế là tổ.
- Các bộ phận giúp Chi cục trưởng Chi cục thuế quản lý thu thuế các tổ chức (nếu có), cá nhân nộp thuế trên địa bàn xã, phường được phân công (bao gồm: Các hộ kinh doanh dịch vụ, hộ nộp thuế nhà đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế tài nguyên,...) là đội. Đội có 2 loại đội:
- Quản lý theo vùng, miền là đội liên phường, xã hiện có 5 đội.
- Quản lý theo nhóm đối tượng hoặc sắc thuế: Có 2 đội là Quản lý nợ và cưỡng chế thu nợ và đội Trước bạ và thu khác.
2.2.3, Công tác tổ chức thu thuế GTGT ở thị xã Phúc Yên:
* Vai trò của Chi cục thuế và các cơ quan, tổ chức có liên quan khác trong công tác thu thuế:
- Chi cục thuế trực tiếp quản lý thuế đối với các tổ chức, cá nhân nộp thuế trong địa bàn TX, cụ thể là tiến hành thu thuế, cấp mã số thuế, quản lý hồ sơ kê khai thuế, phát hiện ngăn chặn và xử phạt các vụ gian lận thuế,…
- Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân TX: Chỉ đạo các cơ quan có liên quan tại địa phương như: phòng Tài chính- Kế hoạch, phòng Tài nguyên- Môi trường, phòng Kinh tế- Nông nghiệp,…phối hợp với cơ quan thuế lập dự toán thu Ngân sách và tổ chức thực hiện nhiệm vụ thu NSNN nhà nước trên địa bàn.
- Hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị xã: là cơ quan tư vấn giúp cho cơ quan thuế xác định mức thuế của các hộ, gia đình, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán trên địa bàn, bảo đảm đúng pháp luật, dân chủ, công khai, công bằng. Thống kê hộ, gia đình, cá nhân kinh doanh mới phát sinh hoạt động kinh doanh, hay là thay đổi quy mô. Phối hợp với cơ quan thuế trong việc thực hiện cưỡng chế đối với các hộ, cá nhân kinh doanh chây ỳ, không nộp thuế. Phối hợp với cơ quan thuế để tuyên truyền, phổ biến các điều luật, pháp lệnh về thuế tới các hộ kinh doanh, cá nhân ki._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31955.doc