Lời nói đầu
Lúa gạo là lương thực chính liên quan mật thiết đến cuộc sống hàng ngày của người dân Việt Nam. Thiếu gạo sinh ra đói kém, đói kém là tác nhân ảnh hưởng đến an ninh chính trị, xã hội rối ren. Nhận thức được vấn đề này Đảng và Chính Phủ rất chú trọng đến ngành lúa gạo coi đó là ngành trọng điểm trong chương trình phát triển kinh tế của nước ta. Sự chú trọng đến lĩnh vực lúa gạo của Chính phủ đã đưa đến một kết quả là: Từ một nước thiếu lương thực, hàng năm phải nhập khẩu trên dưới m
67 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1512 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu gạo Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột triệu tấn, năm 1989 Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu lúa gạo lớn trở lại, đứng vào hàng thứ 3, thứ 4, năm1997 vươn lên hàng thứ 2 của những nước xuất khẩu gạo trên thế giới. Có thể nói đây là một bứoc ngoặt trong công cuộc đổi mới nền kinh tế của nước ta.
Song, hiện nay trước xu hướng quốc tế hoá, hội nhập các nền kinh tế. Tình hình sản xuất và kinh doanh lúa gạo trên thế giới đang phải đối đầu với những thách thức lớn: thị trường bất ổn định, sản lượng xuất khẩu tăng giảm không đều, xu hướng cạnh tranh của các nước mới xuất khẩu ngày càng ác liệt, thị trường nhập khẩu biến động không ngừng... Hơn nữa, gạo của ta lại không có mấy lợi thế trong cạnh tranh do chất lượng còn thấp và chưa có uy tín đối với bạn hàng. Chính điều này đã làm cho giá biến động thường xuyên theo chiều hướng đi xuống gây khó khăn cho cả người sản xuất lẫn người xuất khẩu.
Xuất phát từ những bức xúc của thực tế và trong phạm vi kiến thức của mình em chọn đề tài: Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu gạo Việt Nam” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
* Mục đích nghiên cứu của đề tài.
- Góp phần làm rõ vai trò của sản xuất và xuất khẩu lúa gạo đối với nền kinh tế quốc dân.
- Đánh giá thực trạng của sản xuất và xuất khẩu gạo Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả cho xuất khẩu gạo Việt Nam
* Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phân tích tổng hợp kinh tế.
- Phương pháp phân tích chính sách.
Bố cục chuyên đề gồm các phần:
- Lời nói đầu.
Chương I: Cơ sở lí luận về xuất khẩu nông sản.
Chương II: Thực trạng lúa gạo xuất khẩu của Việt Nam.
Chương III: Những giải pháp chủ yếu cho xuất khẩu gạo Việt Nam.
Kết luận và kiến nghị.
Chương I
Cơ Sở Lý Luận về xuất khẩu Nông Sản
I. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu nông sản
1. Khái niệm về xuất khẩu
Xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với mỗi quốc gia hay đối với cả hai quốc gia.
Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán hàng hoá và trao đổi hàng hoá. Khi xuất khẩu phát triển và việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi, hoạt động này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới quốc gia hoặc khu chế xuất trong nước. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác lợi thế của từng vùng, từng quốc gia trong phân phối lao động quốc tế. Hoạt động xuất khẩu phát triển cả về chiều rộng, cả về chiều sâu.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị công nghệ cao. Tất cả hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia vào hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rộng cả về không gian lẫn thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, song nó cũng có thể kéo dài hàng năm, nó có thể diền ra trên phạm vi quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau.
2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu.
Với mục tiêu đa dạng hoá các hình thức kinh doanh, chiết khấu nhằm phân tán và chia rẽ rủi ro, các doanh nghiệp thương mại có thể lựa chọn nhiều hình thức xuất khẩu.
+ Xuất khẩu trực tiếp:
Là việc xuất khẩu các loại hàng hoá và dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoăc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng ngoài thông qua các tổ chức của mình. Xuất khẩu trực tiếp có thể làm tăng thêm rủi ro trong kinh doanh song lại có những ưu điểm nổi bật là giảm bớt các chi phí trung gian do đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng và thị trường nước ngoài, biết được nhu cầu của khách hàng và tình hình bán hàng ở đó nên có thể thay đổi sản phẩm và những điều kiện bán hàng trong điều kiện cần thiết.
+ Xuất khẩu gia công uỷ thác.
Đây là hình thức kinh doanh mà trong đó đơn vị ngoại thương đứng ra nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm do xí nghiệp gia công sau đó thu hồi thành phẩm để xuất cho bên nước ngoài. Đơn vị được hưởng phí uỷ thác theo thoả thuận với các xí nghiệp sản xuất. Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp thương mại không cần bỏ vốn vào kinh doanh nhưng vẫn thu được lợi nhuận, rủi ró it hơn, việc thanh toán chắc chắn hơn. Tuy nhiên đòi hỏi phải tiến hành nhiều công việc, nhiều thủ tục nhập khẩu, các cán bộ kinh doanh phải có kinh nghiệm và nghiệp vụ cả trong quá trình giám sát và kiểm tra việc gia công.
+ Xuất khẩu uỷ thác.
Đây là hình thức kinh doanh trong đó đơn vị ngoại thương đóng vai trò là người trung gian thay cho các đơn vị sản xuất điều hành kí kết hoạt động mua bán ngoại thương, tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá cho nhà sản xuất và qua đó thu được một số tiền nhất định. Ưu điểm của hình thức này là mức độ rủi ro thấp, đặc biệt là không cần vốn vào kinh doanh, tạo được việc làm cho người lao động đồng thời cũng thu được một khoản lợi nhuận đáng kể. Ngoài ra trách nhiệm trong việc tranh chấp lại thuộc về người sản xuất.
+Buôn bán đối lưu.
Đây là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán cũng là người mua và lượng hàng hoá mang ra trao đổi có giá trị tương đương. Mục đích sản xuất ở đây không phải thu về một khoản ngoại tệ mà là nhằm mục đích có một lượng hàng hoá có giá thị tương đương với lô hàng nhập. Lợi ích của buôn bán đối lưu là nhằm tránh rủi ro về sự biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối. Mặt khác, các bên còn có lợi khi không có đủ ngoại tệ thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình. Có nhiều hình thức buôn bán đối lưu như: hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ, mua đối lưu... Ngoài ra còn có các hình thức xuất khẩu khác như: xuất khẩu tại chỗ, gia công quốc tế, tái nhập tạm xuất và xuất khẩu theo nghị định thư...
3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu.
+Đối với nền kinh tế quốc dân.
Là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế, xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như trên toàn cầu.
Xuất khẩu là một trong những nhân tố cơ bản để thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia. Các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế đều chỉ ra rằng để tăng trưởng và phát triển kinh tế mỗi quốc gia đều phải có 4 điều kiện: nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn và kỹ thuật công nghệ. Trong giai đoạn hiện nay, hầu hết các nước đang phát triển đều thiếu vốn và công nghệ nhưng lao động thì rất dồi dào. Với sự mất cân đối về nguồn lực đầu vào làm thế nào để các quốc gia có thể tăng trưởng và phát triển được? Để giải quyết được vấn đề này, họ buộc phải nhập từ bên ngoài những yếu tố mà trong nước chưa thoả mãn được. Để nhập được những yếu tố đó thì phải có nguồn ngoại tệ, mà nguồn ngoại tệ này chủ yếu thu được từ các hoạt động xuất khẩu, xuất khẩu là hoạt động chính, tạo tiền đề cho nhập khẩu. Từ đó ta có thể đánh giá vai trò của xuất khẩu ở 4 khía cạnh :
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. ở các nước kém phát triển, một trong những vật cản chính đối với tăng trưởng kinh tế là thiếu nguồn vốn trong quá trình phát triển. Có nhiều cách khác nhau để huy động nguồn ngoại tệ nhưng chỉ bằng hoạt động xuất khẩu thì nguồn vốn mới ổn định và thường xuyên bền vững.
Xuất khẩu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu, thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với hoạt động sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thứ nhất: Chỉ xuất khẩu những sản phẩm thừa so với nhu cầu tiêu thụ nội địa, trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ vào sự dư thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong phạm vi nhỏ và tăng trưởng chậm, do đó các ngành sản xuất không có cơ hội phát triển.
Thứ hai : Coi thị trường thế giới là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan điểm này có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu và thúc đẩy sản xuất phát triển cụ thể:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành có liên quan phát triển theo.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia, ngoại thương cho phép một nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với một lượng lớn hơn nhiều lần khả năng sản xuất của quốc gia đó.
Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn và thu hút công nghệ kỹ thuật mới từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nội địa, tạo năng lực sản xuất mới.
Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia.
Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn viêc làm, cải thiện đời sống của nhân dân. Mỗi năm sản xuất hàng xuất khẩu đã thu hút được hàng triệu lao động, tạo ra thu nhập ổn định cho họ.
Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu ngày càng phát triển đa dạng và phong phú của nhân dân.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ đối ngoại có sự tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động chủ yếu, là hình thức ban đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại, thúc đẩy các mối quan hệ khác như : Bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế... phát triển theo.
+Đối với doanh nghiệp.
Ngày nay với xu hướng vươn ra thị trường thế giới là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp. Thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về chất lượng và giá cả. Tuy nhiên, để có thể đứng vững, doanh nghiệp luôn phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh.
4. Vai trò của sản xuất và xuất khẩu lúa gạo.
a. Vai trò của sản xuất lúa gạo.
Lúa gạo là loại lương thực chính được sử dụng để nuôi sống con người trên hành tinh. Đây là loại dinh dưỡng chiếm vị trí quan trọng trong khẩu phần ăn hàng ngày của con người, bất kể tuổi tác, giới tính và dân tộc. Theo tổng kết của FAO, trong tổng số năng lượng được cung cấp từ khẩu phần ăn hàng ngày thì năng lượng từ gạo cung cấp chiềm 50% đến 60% ở các nước đang phát triển và từ 20% đến 30% ở các nước phát triển. Trên thực tế, sự biến động nhu cầu gạo theo đầu người ở các nước đang phát triển giảm nhưng ở các nước đang phát triển lại tăng lên chút ít. Hơn nữa, do dân số thế giới không ngừng tăng nên nhu cầu về lúa gạo không những giảm mà còn tăng lên. Theo thống kê thì khu vực Châu á tiêu thụ trên 90% tổng lượng gạo tiêu thụ toàn cầu. Các nước tiêu thụ gạo nhiều nhất là Trung Quốc, ấn Độ và Inđonesia, tiếp đó là Negieria và Ai Cập là hai nước tiêu thụ gạo lớn của Châu Phi. Trong tổng tiêu dùng gạo thì gạo làm thức ăn trong khẩu phần ăn hàng ngày của người dân chiếm từ 90% đến 93%, dùng cho chăn nuôi khoảng 5%, dùng cho chế biến từ 3% đến 5%. Hiện nay, người dân trong nước cũng như trên thế giới có mức sống ngày càng cao. Nhu cầu của họ không chỉ dừng lại ở mức đủ gạo để ăn mà là đòi hỏi những loại gạo cao sản. Chính vì vậy, để xuất khẩu gạo ổn định và hiệu quả cao thì sản xuất trước tiên phải có dư thừa ngoài việc cho tiêu dùng trong nước thì cần đảm bảo đáp ứng đủ tiêu chuẩn lúa gạo cho xuất khẩu. Hơn nữa, khi có sự tập trung cho xuất khẩu sẽ thu hút được nhiều đơn vị kinh doanh, cơ quan nhà nước, hợp tác xã, trang trại, hộ gia đình cùng tham gia vào sản xuất vì họ biết rằng sản phẩm xuất khẩu sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn là bán sản phẩm trong nước và sản phẩm của họ tiêu dùng nhanh và nhiều hơn. Từ việc thu hút được các thành phần kinh tế cùng tham gia vào sản xuất lúa gạo để xuất khẩu thì chất lượng gạo xuất khẩu sẽ tăng lên, giá sẽ cạnh tranh hơn, gạo của chúng ta sẽ phát huy được lợi thế so sánh so với gạo của các quốc gia khác và tất nhiên hiệu quả xuất khẩu sẽ tăng lên.
Ngày nay, trước nhu cầu khắt khe của thị trường thế giới, để xuất khẩu có hiệu quả thực sự thì chúng ta phải coi chất lượng gạo là yếu tố quan trọng, là mục tiêu mà sản xuất hướng tới có như vậy mới có sự kết hợp đồng bộ giữa người dân, nhà khoa học và nhà xuất khẩu.
b. Vai trò, ý nghĩa của xuất khẩu gạo.
Gạo là sản phẩm tối cần thiết cho con người, vì vậy nhu cầu về gạo là thường xuyên liên tục và không thể thiếu được. Sản xuất lúa gạo là một nội dung không cơ bản trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước. Tuy nhiên sản xuất lúa gạo phục vụ tốt nhu cầu của dân cư không phải do ý muốn chủ quan của các nhà hoạch định chiến lược mà phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố tự nhiên, điều kiện kinh tế của mỗi nước mà quan trọng là điều kiện về thời tiết, khí hậu, đất đai. Trên thế giới, do sự phân bố không đều về đất đai và thời tiết khí hậu cho nên có những nước có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho việc sản xuất lúa gạo nhưng cũng có những nước điều kiện tự nhiên không cho phép sản xuất lúa gạo hoặc nếu có sản xuất thì năng xuất và chất lượng rất kém. Mặt khác, do trình độ phát triển kinh tế không đều, những nước có lợi thế về mặt tự nhiên cho sản xuất lúa gạo lại đa phần là những nước có nền công nghiệp kém phát triển, những nước này lại rất cần ngoại tệ để nhập vật tư máy móc để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để có ngoại tệ, con đường duy nhất là xuất khẩu mà lúa gạo là một trong những sản phẩm xuất khẩu chính của nước này. Chính vì vậy, đẩy mạnh xuất khẩu lúa gạo có vai trò rất quan trọng đối với các nước xuất khẩu nói chung và Việt Nam nói riêng. Điều đó thể hiện ở các mặt sau:
Xuất khẩu gạo là giải pháp quan trọng tạo nguồn ngoại tệ mạnh phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế. Như đã nói ở trên, những nước có nền sản xuất lúa nước từ lâu đời đa phần là những nước nông nghiệp và công nghiệp kém phát triển, muốn đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế phải thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế. Để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế phải có vốn, có thiết bị máy móc và công nghệ sản xuất tiên tiến. Trong điều kiện kinh tế chưa phát triển muốn có thiết bị máy móc, công nghệ tiên tiến cần phải có ngoại tệ, xuất khẩu nông sản là một trong các giải pháp tạo nguồn ngoại tệ mạnh ở nhiều nước đặc biệt là xuất khẩu gạo. ở Việt Nam vai trò của xuất khẩu gạo lại càng được khẳng định bởi lẽ chỉ trong vòng 12 năm ( 1989 - 2000) Việt Nam đã xuất khẩu được gần 29,5 triệu tấn gạo với kim ngạch gần 6670 triệu USD, kim ngạch xuất khẩu gạo tăng đã góp phần không nhỏ vào việc thu ngoại tệ cho đất nước nhằm đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xuất khẩu gạo không những góp phần cải thiện cán cân thương mại mà còn là điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại. Xuất khẩu gạo sẽ kéo theo sự phát triển sản xuất lúa theo hướng chuyên môn hoá, phát triển của nghành chế tạo máy nông nghiệp, công nghiệp chế biến bảo quản, hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển để đáp ứng việc đẩy mạnh xuất khẩu. Như vậy, xuất khẩu gạo đã tạo điều kiện cho các nghành liên quan phát triển theo, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi cho sự tăng trưởng và phát triển của đất nước.
Xuất khẩu gạo góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Cơ sở kinh tế của xu hướng đó là lợi ích của các tác nhân khi tham gia vào quá trình đó thường lớn hơn khi không tham gia vào giao thương quốc tế, trong đó các nước xuất khẩu thì tìm cách khai thác về lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, lao động rẻ... để phát triển kinh tế còn nhóm các nước nhập khẩu lại tìm cách xuất khẩu tư bản, tìm môi trường đầu tư có lợi về mặt tài chính. Xuất khẩu gạo trong những năm qua của chúng ta còn rất nhiều hạn chế mà các hạn chế đó lại xuất phát từ chính bản thân xản phẩm lúa gạo. Sự hạn chế trong chất lượng gạo đã làm cho hiệu quả xuất khẩu gạo của chúng ta chưa xứng đáng vơí tiềm năng vốn có cuả nó.
Xuất khẩu gạo giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này hoàn thiện hơn, năng động hơn bởi lẽ chỉ có sự luôn đổi mới thì mới làm cho doanh nghiệp đứng vững được trước sự cạnh tranh gay gắt của thị trường thế giới.
III. Một số lý thuyết về lợi thế trong thương mại quốc tế các sản phẩm nông nghiệp .
1. Lợi thế so sánh.
Thương mại quốc tế có từ lâu đời và có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình phát triển. Các quốc gia cũng như cá nhân không thể tồn tại riêng rẽ mà có mối quan hệ với nhau. Mỗi quốc gia đều có những nguồn lực và khả năng sản xuất giới hạn. Trao đổi buôn bán quốc tế cho phép quốc gia mở rộng khả năng tiêu dùng vượt quá đường giới hạn khả năng sản xuất, vấn đề đặt ra cho mỗi quốc gia là phải chọn mặt hàng, phân bổ nguồn lực một cách hợp lý để sử dụng tốt nhất, tiết kiệm và có hiệu quả nhất các nguồn lực sẵn có. Để giải quyết vấn đề này các nhà kinh tế học đã đưa ra nhiều lý thuyết tiêu biểu như: lý thuyết tuyệt đối của A.smith, lý thuyết về lợi thế tương đối của David - Ricardo, lý thuyết H - O hay lý thuyết về các nguồn lực sản xuất vốn có của E.Hecksher và B.ohlin ... đã vạch ra những cơ sở lý luận cơ bản, đến nay vẫn được coi là nền tảng của thương mại quốc tế.
A.Smith đã chứng minh rằng trong quá trình trao đổi dựa trên cơ sở chuyên môn hoá sẽ không cần tước đoạt lẫn nhau mà vẫn tăng lợi ích cho các bên tham gia vào thương mại quốc tế.
Giả sử hai nước A và B cùng chi ra 200 giờ lao động để sản xuất mỗi loại sản phẩm gạo hoặc than và có kết quả như sau:
Nước A sản xuất được 100 tấn gạo hoặc 200 tấn than.
Nước B sản xuất được 80 tấn gạo hoặc 400 tấn than.
Nếu không có giao thương quốc tế thì sức sản xuất chung của hai nước là 180 tấn gạo hoặc 600 tấn than. Nếu có giao thương nước B sẽ chuyên môn hoá sản xuất than còn nước A sẽ chuyên môn noá sản xuất gạo lúc đó sức sản xuất chung của cả hai nước sẽ là 200 tấn gạo hoặc 800 tấn than. Như vậy, trao đổi trên cơ sở chuyên môn hoá theo lợi thế tuyệt đối đã làm tăng sức sản xuất chung của xã hội. Đó chính là cơ sở kinh tế để có thể tăng thêm lợi ích của các tác nhân tham gia vào quá trình giao thương quốc tế mà không cần có sự tước đoạt lẫn nhau như các nhà chủ nghĩa trọng thương đã khẳng định.
Nhưng vấn đề sẽ phức tạp hơn nếu nước A có lợi thế so với nước B không chỉ ở ngành sản xuất gạo mà cả ở ngành sản xuất than. Chính David-Ricardo đã thành công trong việc sử lý trường hợp này. Theo ông, một nước tỏ ra kém hiệu quả hơn một nước khác trong việc sản xuất tất cả các mặt hàng thì vẫn tồn tại cơ sở dẫn dến chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi cụ thể, quốc gia thứ nhất sẽ tập trung vào sản xuất và suất khẩu mặt hàng có mức bất lợi tuyệt đối nhỏ hơn và nhập khẩu mặt hàng có mức bất lợi tuyệt đối lớn hơn. Có thể tóm tắt nguyên lý lợi thế tương đối của David-Ricardo thông qua ví dụ sau:
Giả sử hai nước A và B cùng chi ra 200 giờ lao động và được kết quả như sau:
Gạo
Than
Tên nước
Kết quả sản xuất (tấn)
So với đối tác (lần)
Kết quả sản xuất (tấn)
So với đối tác (lần)
Nước A
Nước B
100
80
1,25
0,8
400
200
2
0,5
Theo nguyên lý của David-Ricardo thì nước A nên chuyên môn hoá sản xuất than còn nước B nên chọn sản phẩm gạo để chuyên môn hoá sản xuất khi đó sức sản xuất chung của hai nước sẽ là 180 tấn gạo hoặc 800 tấn than so với không có chuyên môn hoá sản xuất thì gạo bị giảm đi 20 tấn còn than tăng lên 200 tấn. Nếu quy đổi 200 tấn than theo tỉ lệ trao đổi hiện hành thì lượng than tăng thêm đó tương đương với 40 tấn gạo do vậy, sức sản xuất chung vẫn tăng thêm 20 tấn gạo so với không có chuyên môn hoá.
Như vậy, thương mại trên cơ sở chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm có lợi thế tương đối cũng làm tăng thêm lợi ích cho xã hội. Lý thuyết về lợi thế so sánh đã được xây dựng trên một loạt các giả thyết được dơn giản hoá như chỉ có hai nước sản xuất hàng hoá, nhân tố sản xuất duy nhất là lao động có thể di chuyển tự do trong nước nhưng không thể dịch chuyển giữa các nước, chi phí sản xuất không đổi, công nghệ không đổi, thương mại hoàn toàn tự do. Do vậy, mặc dù quy luật của lợi thế so sánh là nguyên lý cơ bản quan trọng của kinh tế học nhưng vẫn còn hạn chế vì nó chủ yếu dựa vào lý luận giá trị lao động và cho rằng lao động là yếu tố đầu vào duy nhất. Trong thực tế lao động không phải là đồng nhất, những ngành khác nhau sẽ có cơ cấu lao động khác nhau, mức lương khác nhau... hơn nữa đầu vào của sản xuất còn bao gồm: đất, vốn, khoa hoc công nghệ... Để khắc phục những hạn chế này hai nhà kinh tế học Thụy Điển: Eli Hecksher và B.Ohlin đã phát triển lý thuyết lợi thế so sánh thêm một bước bằng việc đưa ra mô hình H - O để trình bày lý thuyết ưu đãi về các nguồn lực sản xuất vốn có. Lý thuyết này đã giải thích hiện tượng thương mại quốc tế là do trong nền kinh tế mở, các yếu tố đầu vào của sản xuất là hàng hoá, mỗi nước đều hướng đến chuyên môn hoá các ngành sản xuất mà cho phép sử dụng nhiều yếu tố sản xuất thuận lợi nhất đối với nước đó. Nguyên lý H - O được phát biểu: “Một quốc gia sẽ xuất khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất ra cần cử dụng nnhiều yếu tố rẻ và tương đối sẵn có và nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất ra nó cần nhiều yếu tố đắt và tương đối khan hiếm”. Nói cách khác theo nguyên lý H - O, một số nước có lợi thế so sánh hơn trong việc sản xuất những sản phẩm hàng hoá đó đã sử dụng nhiều yếu tố sản xuất được ưu đãi hơn so với các nước khác. Chính sự ưu đãi tự nhiên của các yếu tố sản xuất này (vốn, lao động, tái nguyên...) đã khiến một số nước có chi phí cơ hội thấp hơn khi sản xuất những sản phẩm hàng hoá đó.
Lý thuyết về lợi thế còn được các nhà kinh tế học khác như Wolfgang Stolper, Paul.A.Samuelsen, Jame William... tiếp tục nghiên cứu, mở rộng và phát triển hơn để khẳng định những tư tưởng khoa học và giá trị thực tiễn to lớn của nó. Tuy còn những hạn chế về lý luận trước thực tiễn phát triển phức tạp của hoạt động thương mại quốc tế ngày nay, song các lý thuyết về lợi thế vẫn đang là qui luật chi phối động thái phát triển của thương mại quốc tế. Với xu hướng thương mại hoá quốc tế, các quốc gia đều mở rộng quan hệ buôn bán và trao đổi hàng hoá dịch vụ với nhau, nhằm phát huy lợi thế so sánh của mình về các nguồn lực sản xuất vốn có để thu được lợi ích thương mại cao nhất, trên cơ sở đó thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế cho đất nước.
2. Lợi thế cạnh tranh.
Ngày nay, trước xu thế hội nhập và tự do hoá thương mại nó như một tiền đề thúc đẩy kinh tế phát triển kinh tế nhưng nó cũng như là một thách thức về sự cạnh tranh giữa các nền kinh tế. Về nguyên lý, lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối được xem xét và đánh giá bởi các yếu tố tự nhiên và kinh tế, nó thuần tuý ở dạng tiềm năng. Đối với một nước, tiềm năng về tự nhiên được ví như rừng vàng biển bạc nhưng vẫn bị nghèo đói nếu như không có giải pháp hữu hiệu để khai thác các tiềm năng đó. Vì vậy, các tiềm năng cần được đặt trong mối quan hệ với các vấn đề chính trị đặc biệt là môi trường và chính sách kinh tế. Chỉ trên cơ sở khai thác một cách các điều kiện về tự nhiên, kinh tế xã hội mới tạo ra lợi thế có sức mạnh tổng hợp cao trong sản xuất và xuất khẩu. Đó là lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, lợi thế so sánh không thể tồn tại lâu dài mà có sự chuyển hoá thay đổi qua các giai đoạn. Việc xác định lợi thế cạnh tranh đã xem xét tới khía cạnh trí tuệ trong khai thác các tiềm năng tự nhiên, kinh tế đó là các yếu tố lao động có như vậy mới có các giải pháp chủ động khai thác lợi thế và tiềm lực của nền kinh tế trong sản xuất và xuất khẩu.
Như vậy, lợi thế cạnh tranh là sự biểu hiện tính trội của mặt hàng đó về chất lượng và cơ chế vận hành của nó trên thị trường tạo nên sức hấp dẫn và thuận tiện cho khách hàng trong quá trình sử dụng. Nét đặc trưng của lợi thế cạnh tranh được thể hiện trên các mặt: chất lượng sản phẩm, giá sản phẩm, khối lượng sản phẩm và thời gian giao hàng, tính chất và sự khác biệt về sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của nước này so với dịch vụ hàng hoá của nước khác trong việc thoả mãn nhu cầu của khách hàng ngoài ra còn có hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô và cơ chế vận hành tạo môi trường thương mại. Lợi thế cạnh tranh còn bao gồm chi phí cơ hội và năng xuất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt, đạt tiêu chuẩn quốc tế và thị hiếu tiêu dùng trên các thị trường cụ thể, nguồn cung cấp phải ổn định, môi trường thương mại thông thoáng, thuận lợi. Do vậy lợi thế cạnh tranh và những nội dung mang tính giải pháp về chiến lược và sách lược của một đất nước trong quá trình sản xuất trao đổi và thương mại lợi thế cạnh tranh chính là nghệ thuật phát huy những lợi thế sẵn có của chính mình để tạo thành ưu thế của hàng hoá trong cạnh tranh.
3. Điều kiện vận dụng thuyết lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh.
Thuyết lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh có ý nghĩa hết sức thiết thực đối với sản xuất và xuất khẩu. Tuy nhiên, muốn lợi dụng các thuyết về lợi thế cần phải có những điều kiện nhất định:
Một là: Lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh được vận dụng trong điều kiện của ngoại thương vì vậy đối với một nước muốn khai thác lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh trước tiên phải có nền sản xuất hang hoá theo hướng xuất khẩu. Đây là điều kiện tiền đề đồng thời là điều kiện cơ bẩn của vận dụng nguyên lý về lợi thế.
Hai là: Lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh luôn gắn liền với các yêu cầu mang tính xã hội, trong đó có vai trò quản lý kinh tế của nhà nước đóng vai trò quyết định. Vì vậy, điều kiện để vận dụng các thuyết lợi thế là có cơ chế quản lý năng động, các chính sách kinh tế mở tạo khả năng khai thác các tiềm năng tự nhiên tạo sức cạnh tranh của sản phẩm. Vì vậy, lợi thế cạnh tranh là mục tiêu cuối cùng của mỗi nước khi tham gia xuất khẩu.
Ba là: Muốn khai thác lợi thế cần phải đánh giá đầy đủ chúng, muốn vậy phải có các chuyên gia kinh tế sử dụng thành thạo các phương pháp đánh giá gắn liền với các hoạt động kinh tế thị trường, phải sử dụng các chuyên gia đó trong đánh giá và bố trí sản xuất, xuất khẩu.
Bốn là để đánh giá được các lợi thế phải có hệ thống thông tin với độ tin cậy cao, phản ánh chính xác số lượng, chất lượng các yếu tố để đáp ứng yêu cầu đó cần phải điều tra, khảo sát các điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội trong nước, nắm chắc các thông tin về thị trường thế giới.
4. Đánh giá chung về lợi thế cạnh tranh và những hạn chế trong xuất khẩu gạo của nước ta.
Lợi thế của Việt Nam đối với xuất khẩu gạo được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất: Việt Nam nằm trong vòng cung Châu á Thái Bình Dương đây là nơi diễn ra nhưng dòng giao lưu kinh tế sôi động. Hơn nữa, Việt Nam nằm trên các tuyến giao thông quan trọng và có hệ thống cảng biển rất thuận tiện. Đây chính là lợi thế so sánh của Việt Nam tạo ra môi trường kinh tế năng động, linh hoạt và giảm được chi phí vận chuyển.
Thứ hai: Nước ta có điều kiện khí hậu sinh thái khá phong phú và đa dạng được chia thành bảy vùng sinh thái khác nhau và mỗi vùng có một thế mạnh và lợi thế riêng trong sản xuất. Nước ta có hai vùng đồng bằng châu thổ vào loại phì nhiêu nhất thế giới, độ màu mỡ và thời tiết khí hậu mùa vụ cho phép ĐBSH và ĐBSCL sản xuất lúa quanh năm trên diện tích rộng và đa dạng chủng loại lúa, có thể nói đây là một lợi thế mà không phải quốc gia nào cũng có.
Thư ba: Chúng ta có nguồn lao động dồi dào lại có kinh nghiệm sản xuất lúa nước lâu đời. Hiện nay, chúng ta có 70% lao động nông nghiệp mà chủ yếu là sản xuất lúa gạo, hàng năm có khoảng 1 đến 1.2 triệu người bước vào tuổi lao động đây là một lợi thế về nguồn lực không chỉ về lượng mà cả về chất đối với ngành lúa gạo bởi lẽ họ có truyền thống thâm canh lúa nước từ lâu đời, đặc biệt giá công lao động lại thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Nếu chúng ta biết tận dụng lực lượng này vào các lĩnh vực khác nhau của ngành lúa gạo thì chúng ta không những tạo ra lượng lúa gạo có chất lượng cao mà giá thành còn rẻ.
Thứ tư: Đường lối chính sách của Đảng và nhà nước.
Từ khi thực hiện quá trình đổi mới đến nay ngành lúa gạo Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể với những bước tăng trưởng vượt bậc. Để có được thành tựu đó là nhờ những đổi mới trong chính sách của Đảng và nhà nước. Sự đổi mới này đã tạo ra một môi trường mới cho nền kinh tế nói chung và ngành kinh doanh lúa gạo nói riêng kết quả là xuất khẩu gạo của chúng ta đã vươn lên thứ hai thế giới sau Thái Lan điều đó càng khẳng định được rằng chúng ta đã biết tận dụng nguồn lực, khai thác tiềm năng để tạo ra sức cạnh tranh lớn của ngành lúa gạo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng còn rất nhiều hạn chế và những hạn chế này phần nào đã làm giảm lợi thế cạnh tranh trong sản phẩm lúa gạo của chúng ta cụ thể là:
- Ngành công nghiệp chế biến nói chung và chế biến lúa gạo nói riêng của chúng ta còn nhiều hạn chế. Những yếu kém về năng lực xay xát, bảo quản, chế biến đã làm cho lúa gạo của chúng ta kém chất lượng, không đủ tiêu chuẩn để đáp ứng các thị trường khó tính.
Doanh nghiệp Việt Nam còn non trẻ lại phải tham gia cạnh tranh với các tập đoàn đa quốc gia nhiều kinh nghiệm trong bối cảnh thị trường thế giới đã được phân chia ổn định. Bên cạnh đó, chúng ta còn nhiều yếu kém trong công tác tổ chức thông tin, tổ chức quản lý, trình độ tiếp thị.
Tổ chức thu mua còn thiếu chặt chẽ do thiếu sự hợp tác điều hành phối hợp giưa các doanh nghiệp dẫn đến tình trạng mạnh ai nấy làm, phân tán cục bộ, tranh mua tranh bán, hậu quả là giá mua hàng xuất khẩu trong nước bị đẩy lên cao và giá bán ở thị trường nước ngoài giảm.
IV. Đặc điểm của thị trường gạo.
1. Đặc điểm của thị trường gạo.
Thị trường là một phạm trù kinh tế gắn liền với sự ra đời, phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá, cũng như các thị trường khác thị trường gạo là một tập hợp các thoả thuận giữa người mua và người bán tuy nhiên gạo là sản phẩm thiết yếu và là sản phẩm của ngành nông nghiệp nên nó có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Thị trường gạo có tính thời vụ trong trao đổi, sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ, tính thời vụ được qui định bởi đặc điểm khí hậu sinh thái kết hợp với đặc điểm kỹ thuật của cây trồng. Lúa gạo cũng vậy, dó nó có tính thời vụ trong sản xuất nên nó cũng hình thành tính thời vụ trong trao đổi. Xuất khẩu gạo gắn liền với quá trình sản xuất, chế biến và điều hành lúa gạo của từng nước. Cứ sau thời điểm thu hoạch thì thị trường lúa gạo thế giới lại liên tục và sôi động hơn. Tuy nhiên, sự liên tục và sôi động đó diễn ra như thế nào và diễn ra._. trong bao lâu lại tuỳ thuộc vào khả dự trữ và điều hành gạo của từng nước. Chẳng hạn ở Mỹ do khả năng dự trữ, bảo quản của họ rất lớn nên có thể phân bổ dàn tải xuất khẩu ở khắp các tháng trong năm. Còn một số nước do khả năng dự trữ, bảo quản kém nên chỉ có thể xuất khẩu gạo vào những lúc ngay sau khi thu hoạch, có thể nói đây là một yếu điểm lớn cho các nước này bởi lẽ giá cả lúc trái vụ bao giờ cũng đắt hơn lúc chính vụ.
Thứ hai: Buôn bán giữa các Chính phủ là phương thức chủ yếu:
Gạo là loại hàng hoá có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người nên có thể nói nhu cầu về gạo có tính chất ổn định hơn các loại hàng công nghiệp. Mặt khác, vì yếu tố chính trị, Chính phủ nào cũng phải có chính sách giữ sự ổn định trong cung cấp lương thực nói chung và gạo nói riêng hay nói cách khác đó là sự đảm bảo an ninh lương thực Quốc gia. Do đó, buôn bán lương thực trên thị trường thế giới chủ yếu được ký kết giữa các Chính phủ với nhau thông qua các hiệp định hoặc hợp đồng có tính chất lâu dài và định lượng cụ thể hàng năm vào đầu các liên vụ. Do vậy, đại bộ phận lương thực lưu thông trên thế giới bị các hiệp định hoặc hợp đồng chính thức dài hạn chi phối.
Thứ ba: Chủ thể xuất khẩu và nhập khẩu gạo không ổn định.
Hàng năm, số lượng gạo cung cấp ra thị trường cùng với các chủ thể xuất khẩu và nhập khẩu là không ổn định, sự không ổn định này là do sự tác động của thời tiết khí hậu. Trong cùng một năm, diễn biết thời tiết khí hậu có thể tác động tích cực đến sản xuất lúa gạo của nước này nhưng cũng có thể tác động tiêu cực đến sản xuất lúa gạo của nước khác. Đối với các chủ thể xuất khẩu nếu như được sự tác động tích cực của thời tiết khí hậu đến sản xuất luá gạo thì lượng cung ra thị trường thế giới sẽ lớn và ngược lại nếu chịu sự tác động tiêu cực đến sản xuất lúa gạo thì không những chỉ là cung ra thị trường ít mà cũng có thể phải nhập khẩu. Còn đối với những nước nhập khẩu nếu như được sự hỗ trợ của thời tiết khí hậu thì năm đó họ sẽ nhập một lượng ít đi. Chẳng hạn như Inđonêsia năm 1998 phải nhập 6,081 triệu tấn gạo nhưng đến năm 2000 thời tiết thuận lợi cho sản xuất lúa nên lượng nhập của họ chỉ khoảng 2 triệu tấn.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến vấn đề an ninh lương thực, cùng với sự thuận hoà của thời tiết khí hậu đã khiến cho cầu về lúa gần như bão hoà và chính điêù này là một vấn đề đáng quan tâm với các Quốc gia xuất khẩu gạo nói chung và Việt Nam nói riêng.
Thứ tư: Các nước lớn đóng vai trò chi phối thị trường gạo thế giới:
Gạo là hàng hoá thiết yếu cho nên các nước đều trực tiếp có chính sách điều hành hoặc độc quyền, tập trung kinh doanh và coi trọng xây dựng dự trữ Quốc gia. Chính sách của Nhà nước tác động khá mạnh đến sản xuất, xuất khẩu và nhập khẩu gạo. Các nước lớn tác động trực tiếp, chi phối đến chiều hướng của thị trường gạo như: Mỹ, EU, Trung Quốc,... họ có thể điều tiết khối lượng mua vào hay bán ra trên thị trường Quốc tế và qua đó ảnh hưởng đến giá cả và các tác nhân tham gia thị trường.
Thứ năm: Trên thị trường, chủng loại gạo phong phú và có sự khác biệt về thị hiếu của mỗi nước.
Ngày nay, do có sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã đem lại những thành tựu to lớn cho ngành nông nghiệp nhất là những thành tựu về công nghệ sinh học, nhờ áp dụng các loại giống mới có năng suất, chất lượng cao mà đã tạo ra các loại gạo với nhiều chủng loại và mẫu mã khác nhau phù hợp với thị hiếu đa dạng của người tiêu dùng. Người tiêu dùng ở mỗi nước khác nhau thì có thị hiếu về gạo khác nhau. Có nước thích loại gạo ngon hạt dài, có nước lại thích loại gạo chất lượng trung bình nhưng hạt dài... Như vậy một loại gạo có thể được tiêu dùng ở nước này nhưng chưa chắc đã được chấp nhận ở nước khác. Do đó, để đáp ứng nhu cầu của thị trường cần phải phân loại gạo theo chất lượng, tâm lý tiêu dùng để có đối sách thích hợp với mỗi loại thị trường.
Những đặc điểm của thị trường gạo nói trên có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình kinh doanh xuất khẩu gạo do vậy cần phải tìm hiều và phân tích sâu sắc các đặc điểm đó.
2. Xu hướng của thị trường gạo thế giới
Cung:
Lúa gạo - sản phẩm của ngành nông nghiệp - đáp ứng nhu cầu tối cần thiết của con người. Do nhận thức được tầm quan trọng của lúa gạo, ngày nay hầu hết các quốc gia đều quan tâm đến lĩnh vực an ninh lương thực, trong đó họ đặc biệt cân đối vững chắc cung - cầu tạo sự ổn định cho nhu cầu trong nước. Hơn nữa, diễn biến thuận tiện của thời tiết khí hậu trong vài năm gần đây làm lượng lúa gạo trao đổi trên thị trường ngày càng nhiều, có rất nhiều Quốc gia dư thừa lúa gạo để xuất khẩu đặc biệt là các nước đang phát triển. Suốt nhiều thập niên qua, các nước đang phát triển vẫn thường xuyên chiếm khoảng trên 80% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới, Phần còn lại của các nước phát triển chiếm 20%. Theo phạm vi đại lục thì Châu á trong thời gian gần đây xuất khẩu lớn nhất chiếm tỷ trọng trung bình khoảng 75% thứ đến là Mỹ xuất khẩu gạo chiếm trung bình20%. Cả 3 Châu: Châu Âu, Châu đại Dương, Châu Phi chỉ chiếm khoảng 5% tổng xuất khẩu gạo thế giới.
Cầu:
Trước kia, do thiếu lương thực triền miên nên nhu cầu về gạo của con người rất đơn giản chỉ cần có gạo để ăn là được. Trước nhu cầu đó việc sản xuất gạo cũng thật đơn giản, những loại giống lúa nào ngắn ngày, cho năng suất cao đều được cho là giống tốt và được áp dụng rộng rãi còn đối với các giống lúa đặc sản truyền thống mặc dù có hương vị nhưng năng suất thấp nên việc bảo tồn hầu như bị coi nhẹ. Cùng với sự văn minh của xã hội hiện đại thì nhu cầu của con người cũng không ngừng được nâng lên. Nhu cầu của con người ngày nay không chỉ dừng lại ở mức đủ gạo để ăn mà đòi hỏi những loại gạo có chất lượng cao, những loại gạo tự nhiên. Sở dĩ có gạo "tự nhiên" bởi lẽ cùng với những thành tựu của khoa học kỹ thuật là những tác hại của lượng hoá chất còn tồn đọng trong sản phẩm. Nhiều công trình khoa học nghiên cứu đã phát hiện ra rằng tiêu dùng những loại gạo còn lưu một lượng hoá chất là vô cùng tác hại. Hơn nữa, những loại gạo được thâm canh theo phương pháp cổ truyền, tự nhiên, bao giờ cũng có hương vị đậm đà hơn các sản phẩm cùng loại mà việc sản xuất ra nó có sử dụng quá nhiều hoá chất. Chính điều đó đã dẫn đến một xu hướng có tính quy luật về nhu cầu gạo như hiện nay: cầu về số lượng gạo có xu hướng tăng chậm thậm chí giảm còn cầu về gạo chất lượng cao vẫn không ngừng tăng lên.
Giá:
Nhìn chung, giá lúa gạo thế giới gần đây có xu hướng giảm xuống nguyên nhân của sự giảm giá này là do nhu cầu về gạo tương đối ổn định trong khi đó cung ngày càng tăng lên.
Đứng trước xu hướng của thị trường gạo thế giới, Việt Nam với cương vị là một nước xuất khẩu. Biện pháp thức thời đưa ra đối với ngành lúa gạo để đáp ứng tình hình hiện nay trước tiên là chất lượng lúa gạo và thị trường tiêu thụ. Nếu chúng ta giải quyết được 2 vấn đề này thì có nghĩa là chúng ta đã có lối đi cho ngành lúa gạo Việt Nam.
V. Một số nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo.
1. Sự biến động của thị trường.
Thị trường là phạm trù kinh tế gắn liền sản xuất và tiêu dùng, ở đâu có sản xuất, lưu thông hàng hoá thì ở đó có thị trường. Để nắm vững các qui luật vận động của thị trường nhằm xử lý các tình huống trong kinh doanh - nhất thiết chúng ta phải nghiên cứu thị trường. Chúng ta nghiên cứu sự tác động của thị trường thế giới đến xuất khẩu gạo của Việt Nam qua hai vấn đề:
Thứ nhất: Dung lượng của mặt hàng gạo trên thị trường
Đó là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định và trong một thời gian nhất định. Chúng ta nghiên cứu dung lượng thị trường gạo để xác định nhu cầu thật của thị trường thế giới. Xác định được xu hướng biến động của nhu cầu và đặc điểm nhu cầu của từng vùng, từng khu vực. Cùng với việc nắm bắt nhu cầu về gạo, chúng ta phải nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường thế giới diễn ra như thế nào. Hiện nay, những nước nào có khả năng cung cấp mặt hàng này, tiềm năng cung cấp trong tương lai ra sao. Tuỳ đó mà ta đưa ra đối sách giữ vững sản lượng cố định hay ta sẽ tăng sản lượng xuất khẩu. Như chúng ta biết gạo là một sản phẩm thiết yếu rất cần thiết cho cuộc sống nhưng nhu cầu nhập tăng lên cầu về gạo của mỗi cá nhân là giảm xuống song cầu của toàn xã hội vẫn tăng lên. Nguyên nhân là khi thu nhập tăng thì người ta tiêu dùng gạo trực tiếp ít đi nhưng người ta sẽ tiêu dùng những sản phẩm được chế biến từ gạo tăng lên. Đồng thời nhu cầu tăng lên do dân số thế giới tăng lên. Vậy khi chúng ta thực hiện chiến lược xuất khẩu sản phẩm, ta phải lấy cơ sở xuất khẩu là do nhu cầu, khi có nhu cầu mới xuất hiện cung. Đánh giá tương đối về dung lượng thị trường sẽ cho phép xác định nhu cầu và khả năng cung cấp gạo cho thị trường.
Thứ hai: Sự biến động của giá gạo.
Giá gạo xuất khẩu được coi là giá tổng hợp trong đó bao gồm: chi phí sản xuất, bao bì, vận chuyển, thu mua... Cũng như các mặt hàng khác giá gạo biến động rất phức tạp bởi nó bị chi phối bởi nhiều yếu tố như cung, cầu, cạnh tranh... hơn nữa gạo là sản phẩm thiết yếu nên một sự biến động nhỏ của cung hoặc cầu đều làm giá thay đổi.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây cầu về gạo tương đối bão hoà, cung về gạo ngày càng lớn (Chính phủ các nước đều chú ý đến an ninh lương thực và thời tiết rất thuận hoà cho việc phát triển sản xuất lúa gạo) dẫu đến giá gạo trên thị trường thế giới rất thấp, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống người nông dân nhất là những vùng chuyên trồng lúa. Để khắc phục tình trạng này, Chính phủ cần quan tâm hơn nữa đến những biện pháp để hỗ trợ nông dân trồng lúa và những doanh nghiệp xuất khẩu lúa gạo.
2. Thị hiếu người tiêu dùng.
Tuỳ theo mức sống, tập quán, việc tiêu thụ gạo ở các nước, các khu vực trong những thời gian nhất định có những yêu cầu khác nhau. Thông thường, gạo đánh bóng và xát trắng được ưa chuộng hơn. Tuy vậy có những vùng nông thôn người ta lại ưa loại gạo xát không kỹ chứa nhiều vitamin và ngày nay trên thế giới thì xu hướng thiên về gạo ngon hạt dài. Từ những khác nhau về thị hiếu đó thì ta thấy rằng khi thâm nhập vào một thị trường nào đó trước hết chúng ta cần phải tìm hiểu thị hiếu của họ, xem họ cần loại gạo nào từ đó mới cung ứng có như vậy thì mới nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo.
3. Chất lượng gạo xuất khẩu.
Chất lượng gạo là một trong những yếu tố quyết định tới sự cạnh tranh trên thị trường, đồng thời nó cải thiện được hiệu quả xuất khẩu. Chất lượng gạo xuất khẩu cần được hiểu một cách rộng hơn với ý nghĩa là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thoả mãn nhu cầu của gạo xuất khẩu về qui cách, phẩm chất, kiểu dáng, sở thích, tập quán tiêu dùng. Chất lượng gạo không phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó giống kỹ thuật canh tác và bảo quản chế biến là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng gạo.
Giống:
Đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng gạo bởi lẽ giống tốt thì bản thân nó đã đảm bảo các chỉ tiêu:
+ Khả năng chống chọi với điều kiện tự nhiên.
+ Cho phép sinh trưởng và phát triển mạnh.
+ Tạo ra sản phẩm với năng suất, chất lượng cao, mẫu mã đẹp.
+ Có khả năng hạn chế các loại sâu bệnh.
Để có thể tạo ra chất lượng giống tốt thì Đảng và Nhà nước cùng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cần có sự đầu tư thích đáng vào lĩnh vực nghiên cứu giống cây trồng, lĩnh vực công nghệ ghen, bên cạnh đó cần tranh thủ trình độ khoa học tiên tiến của các nước trên thế giới như là vấn đề chuyển giao công nghệ, vấn đề nghiên cứu ứng dụng...
Kỹ thuật canh tác.
Là tổng thể các biện pháp bao gồm các khâu: gieo cấy, chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh. Đây là các nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa, việc thực hiện đúng qui trình kỹ thuật là vô cùng quan trọng đối với việc tạo ra một loại gạo phẩm chất cao. Chẳng hạn trong khâu phòng trừ sâu bệnh nếu không phòng trừ đúng lúc, đúng chỗ rất có thể sẽ để lại những dư âm của thuốc hoá học trong sản phẩm và đây cũng là vấn đề cần lưu ý cho những người sản xuất lúa gạo đặc biệt là trong thời đại ngày nay - thời đại của hoá chất và thuốc hoá học do kiến thức về khoa học kỹ thuật ít, người nông dân chỉ cần biết loại thuốc đó có phòng trừ sâu bệnh hay không mà không hề quan tâm tới ảnh hưởng của nó đến sản phẩm như thế nào để khắc phục những hạn chế đó, việc thành lập các tổ đội khuyến nông bổ sung những kiến thức về kỹ thuật canh tác cho bà con nông dân hiện nay là việc làm rất cần thiết.
Công nghệ sau thu hoạch: Đây là khâu cuối cùng ảnh hưởng tới chất lượng lúa gạo bao gồm: phơi sấy, xay xát, bao gói và kỹ thuật bảo quản. Mỗi một công đoạn thực hiện là một lần làm thay đổi chất lượng hạt gạo. Sự thay đổi này là tăng lên khi công đoạn đó được thực hiện đúng qui trình và sự thay đối đó là giảm đi khi công đoạn đó không đúng qui trình kỹ thuật. Xét một cách cụ thể hơn:
Với khâu phơi sấy: Đây là một công đoạn làm giảm độ ẩm của lúa gạo khi mới gặt về. Độ ẩm đảm bảo của hạt thóc và 14% do vậy trong quá trình phơi sấy thóc có độ ẩm lơn hơn 14% thì khi cho vào kho bảo quản loại thóc này thường dễ bị nảymầm điều này cũng đồng nghĩa với hạt gạo làm ra sẽ dễ biến màn và bạc bụng không đảm bảo tiêu chuẩn cho gạo xuất khẩu. Hơn nữa, bản thân quá trình sấy khô lúa gạo nếu không đúng qui trình tức là cho máy sấy một khối lượng lúa gạo quá lớn hoặc một lượng nhiệt quá cao sẽ dẫn đến việc tạo ra một lượng lúa gạo có độ ẩm không đều và nhiều hạt vỡ.
Với kho bảo quản.
Sở dĩ lúa gạo có kho bản quản bởi lẽ nó là sản phẩm của ngành nông nghiệp, do nó có tính thời vụ trong sản xuất nên nó cũng có tính thời vụ trong trao đổi. Bất kỳ một Quốc gia nào có lúa gạo thì đều có kho bảo quản. Kho bảo quản là một hệ thống các kho từ kho bảo quản ở các chợ thu mua, kho bảo quản ở nơi tập trung xay xát và kho bảo quản ở các cảng giao hàng. Việc xây dựng hệ thống các kho một cách hiện đại, bảo đảm và yêu cầu cần thiết đặt ra đối với mọi quốc gia đặc biệt là các quốc gia xuất khẩu lúa gạo bởi lẽ có như vậy thì mới tạo nên sự thuận lợi trong hoạt động kinh doanh, điều hoà thị trường, thiết lập ổn định dự trữ quốc gia và cung cấp ra thị trường thế giới theo đúng tiến độ giao hàng.
Với chế biến.
Kỹ thuật xay xát được đánh giá theo chất lượng hạt gạo nguyên đạt được. Tuy nhiên, lượng hạt nguyên cao hay thấp còn tuỳ thuộc vào kỹ thuật xay xát và giống lúa. Thị hiếu tiêu dùng quyết định tới cách chế biến như thế nào. Có nhiều nước ưa chuộng gạo xát trắng, không còn phôi và lớp cám ngoài cùng, có nhiều nước lại ưa chuộng loại gạo hấp chứa nhiều vitamin và có giá trị dinh dưỡng cao. Việc chế biến sao cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng cũng đồng nghĩa với chất lượng hạt gạo được nâng lên để đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng.
4. Cơ chế chính sách đốivới xuất khẩu.
Cơ chế quản lý, chính sách kinh tế và các quan hệ đối ngoại là các yếu tố rất nhạy cảm, tác động trực tiếp nền kinh tế nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng.
Sự tác đồng của cơ chế chính sách đến xuất khẩu gạo theo 2 hướng: kìm hãm xuất khẩu nếu chính sách đó không phù hợp và thúc đẩy xuất khẩu nếu chính sách đó không phù hợp.
Đối với xuất khẩu gạo, các chính sách tác động mạnh mẽ nhất là:
Chính sách đầu tư.
Chính sách vốn tín dụng.
Chính sách bảo hiểm và trợ giá.
Chính sách Marketing.
Hơn nữa, xuất khẩu gạo là hoạt động buôn bán vượt ra ngoài phạm vi một quốc gia thông qua mối quan hệ thương mại có tổ chức từ lâu trong ra bên ngoài nhằm thu được lợi ích ngoại vi lớn hơn. Vì vậy các quan hệ kinh tế đối ngoại có ảnh hưởng mạnh mẽ tới xuất khẩu gạo. Đối với một nước, các cơ quan kinh tế đối ngoại cởi mở cho phép tìm kiếm được nhiều bạn hàng để xuất khẩu. Các bạn hàng ở những nước có trình độ phát triển kinh tế và điều kiện khác nhau yêu cầu chủng loại gạo và chất lượng gạo khác nhau. Sự biến động các ngoại tệ mạnh tạo ra sự thay đổi của tỷ giá hối đoái cũng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu gạo. Đặc biệt với Việt Nam đến năm 2003, hiệp định thương mại tự do các nước Đông Nam á có hiệu lực hàng rào thuế quan bị xoá bỏ - Đây không chỉ là nhân tố ảnh hưởng đơn thuần mà là thách thức lớn cho xuất khẩu gạo của nước ta. Trước thực tế đó, yêu cầu đặt ra cho Chính phủ Việt Nam hiện nay là cần có một chính sách hợp lý trong điều hành xuất khẩu gạo cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu, có thể giảm thuế quan, trợ cấp vận chuyển, cho vay ưu đãi để thu mua thóc của nông dân đồng thời khi giá giảm có thể trợ giúp họ bằng quĩ bình ổn... Qui định móc giá trần, giá sàn để đảm bảo lợi ích người sản xuất và người tiêu dùng. Theo dõi tình hình cung cầu nước ngoài để cung cấp thông tin cho doanh nghiệp xuất khẩu cũng như điều chỉnh chính sách kịp thời. Nhà nước có thể có thể giúp đỡ doanh nghiệp tìm kiếm thị trường thông qua việc ký kết hợp đồng liên Chính phủ, đặt nền tảng vững chắc cho xuất khẩu. Nhà nước cần xác định một tỷ giá hối đoái hợp lý để tạo ra sức cạnh tranh cho gạo xuất khẩu. Vì tỷ giá hối đoái là đòn bẩy để điều tiết cung cầu. Tỷ giá hối đoái thấp sẽ có tác dụng khuyến khích nhập khẩu nhưng tỷ giá hối đoái cao sẽ bất lợi cho nhập khẩu nhưng lại khuyến khích xuất khẩu. Vì khi đó hàng xuất khẩu sẽ có giá tương đối thấp.
Nói tóm lại, trước xu thế vận động và phát triển không ngừng của xã hội, khoa học công nghệ ngày càng hiện đại cùng với đó là nhu cầu tiêu dùng của con người ngày càng được nâng cao, ngành sản xuất lúa gạo cũng phải thay đổi để đáp ứng kịp thời nhu cầu đó. Vì vậy, một chính sách cho ngành lúa gạo khi đưa ra không chỉ đúng, phù hợp mà còn phải kịp thời nữa.
VI. Kinh nghiệm xuất khẩu gạo của Thái Lan - Bài học rút ra cho Việt Nam.
1. Kinh nghiệm của Thái Lan.
Thái Lan là quốc gia thuộc khối ASEAN, diện tích tự nhiên 514.000km2, diện tích canh tác nông nghiệp chiếm 23,1%, dân số 60,4triệu người, diện tích canh tác bình quân đầu người gấp 4 lần so với Việt Nam. Cách đây 25 năm Thái Lan là nước nông nghiệp lạc hậu, nhưng hiện nay là nước phát triển trong khu vực, có mức bình quân thu nhập/đầu người gấp 10 lần Việt Nam. Đặc biệt là mặt hàng gạo. Thái Lan là nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới từ nhiều năm nay, có được thành tựu đó là nhờ sự đổi mới trong chính sách và sự đầu tư thực sự của Chính phủ Thái Lan đến nay nông nghiệp nông thôn, tiềm năng sản xuất lúa của Thái Lan (về diện tích, điều kiện khí hậu tương đối với Việt Nam, song kim ngạch sản xuất gạo của Thái Lan vượt xa chúng ta.). Một trong những thành công của Thái Lan là có yếu tố thuận lợi trong thị trường tiêu thụ và những yếu tố thuận lợi đó lại được xác lập từ chính khâu sản xuất và chế biến lúa gạo. Thật vậy, Thái Lan rất chú trọng phát triển ngành lúa gạo từ việc duy trì các giống có chất lượng gạo ngon, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng thế giới (về độ dẻo, độ mịn, độ dài và độ bóng của hạt). Đến đầu tư các trang thiết bị dây truyền công nghệ chế biến hiện đại thoả mãn các yêu cầu theo chất lượng EU, Mỹ, Nhật. Ngoài ra, Thái Lan còn có các biện pháp khuyến khích xuất khẩu gạo từ nhiều năm nay như: bỏ chế độ hạn ngạch, không thu thuế xuất khẩu, tạo tín dụng thuận tiện cho các nhà kinh doanh vay vốn ngân hàng với lãi suất ưu đãi, Nhà nước hỗ trợ xuất khẩu khi cần thiết, can thiệp để ký những hợp đồng lớn với những chính sách hỗ trợ cần thiết, Thái Lan đã nâng cao khả năng cạnh tranh và vị thế trên thị trường Quốc tế trong xuất khẩu nông sản nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng.
2. Bài học cho Việt Nam.
- Thực hiện qui hoạch vùng chuyên canh lúa xuất khẩu, phát huy lợi thế so sánh trong sản xuất lúa gạo Việt Nam.
- Đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, công nghệ chế biến và kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.
- Sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô để can thiệp gián tiếp và điều tiết sản xuất gạo có hiệu qủa.
- Tăng cường đổi mới hệ thống tiếp, phát triển các kênh sản xuất - xuất khẩu, coi trọng chữ tín để mở rộng và tạo lập thị trường.
- Thực thi các chính sách nhằm hỗ trợ sản xuất gạo như: Hướng dẫn giá xuất khẩu, Nhà nước trực tiếp tìm kiếm thị trường đàm phán với Chính phủ các nước nhập khẩu để ký các hiệp định mua bán gạo nhằm giúp các doanh nghiệp tiêu thụ gạo có lợi nhất. Nhà nước cho các nhà xuất khẩu gạo vay vốn với lãi xuất thấp để mua gạo xuất khẩu, Nhà nước giảm thuế sản xuất, thậm chí trợ giá sản xuất trong những điều kiện cần thiết để giúp các Nhà xuất khẩu cạnh tranh được và chiếm lĩnh thị trường.
Chương II
Thực trạng lúa gạo xuất khẩu của Việt Nam.
I. thị trường lúa gạo thế giới.
1. Đặc điểm tổng quát của thị trường lúa gạo thế giới.
Có thể nói thị trường lúa gạo thế giới là thị trường rộng khắp, hầu hết các khu vực trên thế giới đều nhập khẩu gạo đặc biệt là các nước đang phát triển nhập trên 50% sản lượng gạo, giao dịch trên thị trường thế giới. Dựa vào đặc điểm địa lý, văn hoá, kinh tế thị trường gạo thế giới có thể chia tương đối thành những khu vực sau:
Bắc Mỹ:
Gạo không chỉ là thực phẩm chủ yếu cho mọi người mà còn làm chất phụ gia cho công nghiệp chế biến thực phẩm. Gạo được tiêu dùng ở cộng đồng Châu á tại Bắc Mỹ nhưng chủng loại rất đa dạng: Hạt gạo dài, tròn, trong,...gạo lức, gạo trắng, gạo đồ, gạo pastima, gạo thơm,...
Khu vực Bắc Mỹ sản xuất khoảng 8 - 10 triệu tấn lúa (chủ yếu là Hoa Kỳ) xuất khẩu khoảng 3,1 - 4,3 triệu tấn, nhập khẩu khoảng 0,7 - 0,9 triệu tấn chiếm 3% - 4,42% thị trường thế giới. Đây là thị trường có sức mua cao, đòi hỏi chất lượng cao. Gạo bán lẻ được đóng gói bao nhỏ (1 kg, 2kg, 5kg và 25kg) mẫu mã đẹp. Qui chế kiểm dịch thực vật khắt khe, gạo Việt Nam có thể vào được thị trường này.
Bắc Mỹ còn là thị trường nhập khẩu tái xuất thông qua các chương trình viện trợ thực phẩm cho các nước khác.
Châu Mỹ La Tinh:
Được hình thành bởi các đảo lớn vùng biển Caribe và những lãnh thổ thuộc Anh, Pháp, Hà Lan, Bồ Đào Nha ở phía Nam. Châu Mỹ mang đậm nét văn hoá La tinh Châu Âu. Các nước vùng núi thì nghèo hơn, đa số là dân da đỏ và người lai. Khu vực này sản xuất được 20,9 - 22 triệu tấn lúa, xuất khẩu 1,2 - 1,5 triệu tấn, nhập khẩu khoảng 2,3 - 3,1 triệu tấn gạo chiếm khoảng 11 - 13% thị trường thế giới. Gạo được xem là lương thực chính của các nước như: Brazin, Peru, Cuba, Mexico,... Sức mua không cao như Bắc Mỹ, phẩm lượng trung bình (10% tấn) hạt gạo dài. Các tiêu chuẩn về mẫu mã và bao bì thông thường theo yêu cầu hàng chuyến, cho các nhà phân phối trong nước định đoạt. Quy chế kiểm dịch không khắt khe, nhưng đôi khi bất hợp lý (Mexico tuyên bố cấm nhập gạo của Việt Nam, Thái Lan năm 1993 viện cớ phát hiện côn trùng độc hại thực tế là những nhân nhượng về thị trường dành cho Hoa Kỳ trong NAFTA).
Châu Âu:
Những biến cố chính trị mới thập niên 80 đã thay đổi hoàn toàn có cấu kinh tế của các nước này. Sức mua của người tiêu thụ bị sụt giảm thảm hại mặc dù nhu cầu về lương thực rất cao. Năm 1995, các nước này sản xuất được 1,8 - 2 triệu tấn lúa, nhập khẩu 0,75 - 0,95 triệu tấn chiếm từ 3,2 đến 4,78% thị trường thế giới. Đây là khu vực có tiềm năng tiêu thụ gạo, khó khăn về ngoại tệ. Nhưng giới kinh doanh tin rằng đây là những nước không thể thanh toán bằng tiền mặt nên phương thức đổi hàng hoặc đối lưu hai chiều luôn được xem là thích hợp nếu không có những hình thức tài trợ khác. Vì sức mua của người tiêu thụ thấp nên chất lượng đòi hỏi không cao, loại gạo 25% tấm thường được ưa chuộng.
Châu Phi:
Châu Phi nằm cách biệt với Bắc Phi bởi Sahara. Nơi đây được mô tả là lục địa buồn thảm. Chi phí quân sự cao hơn thực phẩm, đất đai bạc màu, sa mạc hoá (0,5 ha/ngày) nạn đói thường xuyên xảy ra. Gạo là thức ăn chính của dân chúng. Dân đông, nhu cầu lớn nhưng việc mua gạo gặp khó khăn đôi khi có thể vì cán cân thanh toán nên chủ yếu dựa vào chương trình viện trợ của Liên hiệp quốc. Nếu kinh doanh thì phải đổi hàng hoặc qua tài trợ. Khu vực này sản xuất được 10,5 - 11 triệu tấn gạo/năm, nhập khẩu khoảng 3,2 - 4,2 triệu tấn/năm chiếm khoảng 15 - 20% thị trường thế giới. Gạo phẩm cấp thấp (30 - 35%tấn) được ưa chuộng vì giá rẻ, số lượng mua được nhiều. Đây cũng là thị trường có nhiều rủi ro vào bậc nhất trên thế giới.
Châu á
Đặc điểm nổi bật là đông dân, là thị trường lý tưởng cho gạo, vì gạo là loại thực phẩm chính của dân Châu á. Sự năng động của một số Quốc gia là nhân tố quan trọng cho tương lai của lục địa này, Sức mạnh công nghiệp tài chính của Nhật Bản, sự tăng trưởng kinh tế cao của Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore,...
Châu á là khu vực sản xuất và tiêu thụ gạo lớn nhất thế giới, tập trung những nước xuất khẩu gạo lớn như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Pakistan, ấn độ, Bangladesh. Mọi sự tăng hay giảm khối lượng xuất khẩu của các nước này đều có ảnh hưởng quyết định đến giá cả thế giới. Về thị trường có sức mua khác nhau:
Phẩm chất cao 100% Grade B hoặc 5% tấn ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Malaysia, phẩm cấp thấp 25% - 35% tấn như Philippine và Inđônesia. Các nước Châu á rất coi trọng mặt hàng gạo vì mọi sự thâm hụt đều có thể gây ra đột biến cho Quốc gia gây bất ổn định về chính trị, xã hội nên việc mua bán, xuất nhập khẩu gạo thường được Chính phủ quản lý thông qua một công ty kinh doanh của nhà nước quản lý. Thị trường nhỏ điều tiết, dự đoán vì nó gần như không phải là thị trường tự do, Chính phủ can thiệp thường xuyên, đôi khi giá cả biến động mạnh như một quốc gia tiêu thụ bị mất mùa, tham gia vào thị trường thế giới với một nhu cầu quá lớn trong một thời gian ngắn, gây nên sự sáo trộn cung - cầu. Hàng năm toàn bộ Châu á (trừ Trung Đông) sản xuất được 336,4 - 350 triệu tấn gạo, xuất khẩu được trên 16 triệu tấn gạo, nhập khẩu từ 4,6 triệu tấn (1997) - 13,3 triệu tấn (1998). Chiếm 24 - 48,6% thị trường thế giới.
Trung Đông
Thế giới ả Rập là một trong những khu vực nhậy cảm của thế giới, tinh thần hồi giáo xuất hiện khắp nơi. Nguồn lợi chính từ vàng đen, nó thừa hưởng 2/3 trữ lượng vàng đen của thế giới nhưng đồng thời cũng là khu vực có nhiều xung đột thuộc loại bậc nhất, chi phí quân sự cao hơn thực phẩm; vì vậy, một số nước như Iran, Irắc vẫn gặp khó khăn về ngoại tệ, ví dụ như trong việc hoán đổi giữa đồng Riel (Iran) và USD. Vì vậy việc thanh toán tiền hàng rất khó khăn bị tù hoãn, đôi khi rắc rối. Gạo là một trong những thực phẩm chủ yếu hàng ngày. Chất lượng yêu cầu cao, thường là gạo 5% tấn. Hàng năm, khu vực này sản xuất được khoảng 2,9 - 3,2 triệu tấn gạo chủ yếu của Iran và Thổ Nhĩ Kỳ. Nhập khoảng 2,8 - 3,6 triệu tấn gạo chiếm 10,3 - 19% thị trường thế giới.
Bắc Phi
Còn gọi là Bắc Phi Maghreb có nghĩa là “mặt trời lặng”. Những khó khăn nghiêm trọng ở đây chủ yếu xuất phát từ những dị biệt giữa những Quốc gia vùng này. Sự bất ổn định chính trị của Algerva và sự chống đối mạnh mẽ của người hồi giáo. Gạo được xem là một thức ăn thông dụng của dân chúng. Hàng năm, khu vực này sản xuất được 4,4 - 15,4 triệu tấn (chủ yếu là Ai cập và Marốc). Xuất khẩu được 0,2 triệu tấn gạo (Aicập) nhập khẩu khoảng 0,1 triệu tấn gạo chiếm 0,48% thị trường thế giới.
Chất lượng trung bình khá (10 - 15% tấn) thị trường tiêu thụ nhỏ, buôn bán đổi hàng được coi là phương thức ưa chuộng.
Châu Đại Dương
Châu Đại Dương được hình thành bởi úc Châu và các quần đảo Melannesie, Menornese, Polynesie hầu hết thuộc Anh, Pháp và Hoa Kỳ. Các quần đảo Anh điều độc lập, đây là thị trường gạo nhỏ bé. Gạo không phải là thực phẩm chủ yếu nhưng lại là phần phụ gia đáng kể cho công nghiệp thức ăn. Hàng năm, khu vực này sản xuất được 1 - 1,38 triệu tấn ( chủ yếu là úc), xuất khẩu được 0,6 triệu tấn gạo, lượng nhập khẩu 0,19 - 0,2 triệu tấn gạo/năm. Mức tiêu thụ đầu người rất nhỏ.
2. Những khó khăn đặt ra cho thị trường lúa gạo thế giới
Thị trường lúa gạo là một trong những thị trường ngũ cốc quan trọng của thế giới. Năm 1995 cả thế giới xuất khẩu 21 triệu tấn, năm 1998 cả thế giới xuất khẩu 27,42 triệu tấn, năm 2001 dự kiến cả thế giới sẽ xuất khẩu khoảng 23,3 - 23,4 triệu tấn. Thực tế thị trường lúa gạo thế giới hiện nay đang gặp phải hai vấn đề khó khăn.
+ Mức cung và mức cầu:
Có khuynh hướng luôn biến động mạnh do sản xuất phải phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên.
Biểu 1 : Diễn biến tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới chia theo vùng lãnh thổ
ĐVT: 1000 tấn
Niêm vụ
Khu vực
1998/1999
1999/2000
Bắc Mỹ
Mỹ la tinh
EU
Tây Âu
Trung Đông
Bắc Phi
Nam á
8.941
21.720
2.607
60
3.282
4.166
169.377
10.034
20.392
2.722
62
2.965
4.769
171.372
Nguồn:Tạp chí thị trường giá cả.
Biểu 2 : Tình hình tiêu thụ lúa gạo trên thế giới chia theo vùng lãnh thổ
ĐVT: 1000 tấn
Tiêu dùng
1999
2000
Bắc Mỹ
Mỹ la tinh
EU
Tây Âu
Trung Đông
Bắc Phi
Nam á
4.670
14.153
2.005
252
5.393
2.907
108.815
4.516
14.528
2.051
260
5.485
3.081
111.000
Nguồn: Tạp chí thị trường giá cả.
Vấn đề tài chính:
Trong những năm gần đây, ngoài các chủ thể xuất khẩu truyền thống và lớn như: Thái Lan, Việt Nam và Mỹ còn có các chủ thể xuất khẩu khác như: Pakistan, Mianma, ấn Độ và Trung Quốc. Hàng năm các nước này cung cấp ra thị trường thế giới khoảng 2 triệu tấn gạo. Nhìn chung, mục đích của tất cả các quốc gia tham gia xuất khẩu gạo hiện nay là tăng nguồn thu ngoại tệ. Chính vì vậy, càng có nhiều nước xuất khẩu gạo lại càng có sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Các chủ thể xuất khẩu tìm mọi biện pháp, mọi khía cạnh để có thể xuất được lượng gạo của mình càng nhiều càng tốt. Để tăng mức độ cạnh tranh, các nước xuất khẩu truyền thống có nguồn tài chính dồi dào đã trợ giá cho nông dân và xuất khẩu dưới hình thức tín dụng thương mại có ưu thế hơn. Chẳng hạn, mùa thu năm 1990, Thái Lan đã bán gạo cho Liên xô cũ với giá 235 USD/tấn (giá FOP) nếu trả trong vòng 2 năm, giá 205 USD/tấn nếu trả ngay. Chính phủ Thái Lan cũng tổ chức nâng đỡ thị trường nội địa và cuối năm 1990 nhà nước đã mua được khoảng 200000 tấn lúa của nông dân với giá nâng đỡ. Đến năm 1999, Chính Phủ Thái Lan thực hiện bán gạo số lượng lớn cho Iran với hình thức tín dụng thương mại 2 năm. Trong khi đó, tình hình nhập khẩu của các nước trên thế giới biến động thất thường và dao động ở mức 20,4 - 23 triệu tấn/năm và một số nước có nhu cầu nhập khẩu gạo thì lại gặp khó khăn về mặt tài chính như Châu Phi và Irắc. Vài năm gần đây, để đẩy mạnh xuất khẩu Việt Nam cũng đã áp dụng phương thức bán hàng theo phương thức bán hàng theo kiểu tín dụng trả chậm nhưng do số tiền của 2 vạn tấn gạo bán trả chậm trước đây bạn chưa trả được (cả vốn lẫn lãi khoảng 9 triệu USD) nên việc có gạo xuất sang Bắc Triều Tiên hay không vẫn còn phải xem xét. Nhìn chung._.cho Nhà nước và không đảm bảo cho lợi ích cả người sản xuất. Những tiêu cực thường biểu hiện là:
- Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều thủ tục rườm rà mặc dù đã có sự điều chỉnh nhiều lần.
- Cạnh tranh nội bộ giữa các doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài tạo cơ hội cho khách hàng gây áp lực ép giá.
- Tìm cách để bán gạo dưới mức giá chỉ đạo bằng cách nâng giá hàng nhập khẩu (Phân bón, xăng dầu...) hoặc hoàn lại một phần tièn hàng cho khách hàng dưới nhiều hình thức tinh vi. Cơ chế quản lý là một trong những vấn đề lớn cần được tiếp tục nghiên cứu sửa đổi và ổn định dần nhằm phục vụ tốt hơn cho việc xuất khẩu gạo.
Chương III
Những giải pháp chủ yếu cho xuất khẩu gạo Việt Nam.
I. Phương hướng và mục tiêu cho xuất khẩu gạo Việt Nam trong những năm tới.
1. Phương hướng.
Gạo là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của nước ta. Mặc dù khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế vẫn được duy trì nhưng khả năng cạnh tranh về giá của ngành lúa gạo đang bị suy giảm. Điều đó đòi hỏi phải có những phương hướng đúng đắn cho ngành lúa gạo trong thời gian tới.
Thứ nhất:
Xuất khẩu gạo cần phát triển theo hướng đa dạng tiêu thụ có nghĩa là bất kỳ một thị trường nào nếu có nhu cầu thì ta đều có thể đáp ứng. Tuy nhiên, trong các thị trường đó thì ta chú ý tới thị trường có giá trị cao, số lượng cao coi đó là thị trường chiến lược cần phải chiếm đoạt ngay, càng nhiều càng tốt, giữ vững để thu lợi nhuận lớn và lâu dài. Với những thị trường không ổn định thì cần coi đó là những thị trường thời cơ phải có những chính sách thích hợp để sẵn sàng chiếm lĩnh khi có cơ hội .
Thứ hai:
Cần nâng cao tỷ trọng gạo chất lượng cao trong cơ cấu gạo xuất khẩu, chú ý phát triển xuất khẩu các loại gạo đặc sản truyền thống phấn đấu năm 2010 tỷ trọng gạo đặc sản đạt 10% trong tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Mục tiêu tăng chất lượng gạo sẽ đảm bảo tăng kim ngạch xuất khẩu và nâng cao hơn nữa vị thế của Việt Nam trên thị trường gạo thế giới.
Thứ ba:
Cần duy trì sản lượng xuất khẩu hợp lý điều đó có nghĩa là việc xuất khẩu đươc khối lượng nhiều không còn quan trọng nữa mà quan trọng hơn là xuất khẩu lượng gạo đó với giá bao nhiêu và hiệu quả như thế nào ?
Trước đây, do ta chưa nghiên cứu kỹ về thị trường gạo nước ngoài nên ta xuất khẩu rất ồ ạt mặc dù xuất được một khối lượng lớn nhưng kim ngạch xuất khẩu đem lại rất thấp do bán gạo ồ ạt với giá thấp. Do đó để nâng cao hơn nữa hiệu quả xuất khẩu thì ta phải nghiên cứu đồng bộ: thị trường, chất lượng gạo, đàm phán kí kết hợp đồng từ đó đưa ra một khối lượng xuất khẩu hợp lý tránh tình trạng bị ép giá do lượng cung gạo quá dư thừa như hiện nay .
Thứ tư:
Đa dạng hoá các hình thức, tổ chức tham gia xuất khẩu gạo để đáp ứng nhu cầu ở mọi nơi, mọi qui mô lớn hay nhỏ. Như vậy, trong tổ chức và cơ chế quản lý vĩ mô cần vừa có cơ chế cứng, vừa có cơ chế mềm để cơ chế này hoạt đông linh hoạt, thích ứng kip thời với những biến động của thị trường. Do đó cần có sự phân chia, phân cấp thị trường cho các loai hình tổ chức xuất khẩu gạo một cách hợp lý tránh hiện tượng tranh giành khách hàng và bị khách hàng ép giá.
2. Mục tiêu.
Mục tiêu cho xuất khẩu gạo những năm tới vẫn phải đảm bảo : "tiêu thụ hết lúa hàng hoá với giá có lợi cho nông dân, đảm bảo bình ổn giá thị trường trong nước và xuất khẩu có hiệu quả". Duy trì mức xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo mỗi năm nhưng tăng hiệu quả xuất khẩu bằng cách tăng kim ngạch xuất khẩu đạt 1,5 tỷ USD vào năm 2005.
II. Những giải pháp chủ yếu cho xuất khẩu gạo của Việt Nam .
1. Giải pháp cho sản phẩm .
Hoàn thiện công tác phân vùng quy hoạch, xây dựng vùng lúa phẩm cấp gạo cao.
Hiện nay, Bộ NN và PTNT đã triển khai đầu tư xây dựng vùng lúa phẩm chất gạo cao có tổng diện tích 1,3 triệu ha trong đó ở ĐBSCL 1triệu ha có khả năng cung cấp 3,5 đến 4 triệu tấn gạo phẩm cấp cao cho xuất khẩu. Diện tích canh tác lúa phẩm cấp gạo cao dự kiến phân theo tỉnh: Long An 68.000 ha, Tiền giang 55.000 ha, Bến tre 20.000 ha, đồng Tháp 120.000 ha, Vĩnh Long 80000 ha, Trà Vinh 50.000 ha, An Giang157.000 ha, Kiên Giang100.000 ha, Cần Thơ 140.000 ha, Sóc Trăng 120.000 ha, Bạc Liêu 60.000 ha và Cà Mau 50.000 ha. ở ĐBSH gồm 0,3 triệu ha, diện tích canh tác lúa phẩm cấp cao dự kiến chủ yếu ở các tỉnh: Thái Bình, Nam Hà và Hải Dương.
Để các vùng dự kiến thực sự phát huy hiệu quả khi đi vào sản xuất theo quy hoạch, ngay từ bây giờ chúng ta cần có phương án rà soát, bổ sung quy hoạch vùng nông- lâm nghiệp của tỉnh cũng như phương án quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 ở cả 3 cấp (tỉnh, huyện, xã) theo nghị định của quốc hội và Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ. ở những vùng này cần ưu tiên đầu tư đồng bộ hệ thống thuỷ lợi, giao thông nhằm tạo đièu kiện thuận lợi cho việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, ổn định sản xuất, người trồng lúa yên tâm đầu tư thâm canh. Đồng thời, chú trọng phát triển mạng lưới nhà máy chế biến lúa gạo kết hợp với kho chứa nằm ngay trong vùng để có thể thu mua hết và chế biến kịp thời. Giữa vùng sản xuất với các đơn vị xuất khẩu gạo, các viện nghiên cứu nông nghiệp, các trung tâm khuyến nông các tỉnh, huyện phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giúp người sản xuất lúa có đủ vốn, giống tốt, vật tư đầu vào, kỹ thuật canh tác và tiêu thụ sản phẩm. Với các hộ nông dân, cần khuyến khích và tạo điều kiện cho họ hình thành các Hợp tác xã dịch vụ, đảm bảo cung ứng kịp thời, nhanh chóng các dịch vụ nông nghiệp cũng như tiêu thụ lúa với khối lượng lớn.
b. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu sản xuất cung ứng và ứng dụng các giống lúa có chất lượng gạo cao.
Giống là yếu tố hàng đầu góp phần cải thiện phẩm chất gạo và làm gia tăng năng suất lúa. ở ĐBSCL hiện đang sử dụng khoảng 50 giống lúa cao sản ngắn ngày trong đó có 10 giống có phẩm chất gạo đáp ứng nhu cầu xuất khẩu: loại gạo hạt dài, trong, không bạc bụng, cơm mềm. Các giống này hiện nay chiếm khoảng 30% đến 40% diện tích gieo trồng các giống ngắn ngày ở ĐBSCL. ở ĐBSH có chủng loại giống rất phong phú với khoảng 80 giống lúa trong đó có 44 giống lúa mới được Bộ NN và PTNT công nhận và đưa vào sản xuất. Trong đó các giống lúa hiện đang trồng ở ĐBSH có từ 15%-20% là các giống có năng suất cao, chất lượng gạo cao đáp ứng đươc nhu cầu xuất khẩu. Mục tiêu từ nay đến năm 2005 phấn đấu sử dụng các giống lúa có phẩm cấp gạo cao đạt trên 50% diện tích gieo trồng lúa toàn quốc. Để mục tiêu này thành hiện thực, công tác nghiên cứu cần tập trung vào việc phục tráng các giống lúa có phẩm cấp gạo cao đang được nông dân sử dụng như: IR64, OM 997, Tép hành, Tài Nguyên, Nàng Hương…ngoài ra sẽ tập trung nghiên cứu tạo ra các giống lúa thơm đặc thù của Việt Nam có khả năng cạnh tranh với gạo Thơm Thái Lan trên thị trường thế giới.
Với hệ thống sản xuất và cung ứng hạt giống lúa của các địa phương (tỉnh, huyện ) phần lớn là rất mỏng không đáp ứng được nhu cẫu sản xuất. Cần phải tổ chức lại hệ thông sản xuất và cung ứng hạt giống lúa cho phù hợp với đặc điểm thị trường hiện nay trong đó cần chú trọng vai trò cuả các hộ tư nhân (các hộ nhân giống, và các hộ bán lẻ vật tư nông nghiệp...). Họ sẽ là người tự đầu tư sản xuất tiếp cận trực tiếp với nông dân, hiểu rõ được các yêu cầu về chủng loại giống, thời điểm cần giống của nông dân. Do đó, Nhà nước một mặt cần có chính sách khuyến khích tư nhân tham gia vào hệ thống sản xuất, chế biến, khuyến thị và cung ứng hạt giống lúa, mặt khác có sự phân công rành mạch vai trò của các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân này trong từng khâu của hệ thống nhằm đảm bảo cung cấp đủ giống có chất lượng tốt cho nông dân. Đối với cấp huyện và cấp xã: Đơn vị quản lý nông nghiệp và trạm khuyến nông xúc tiến hình thành mạng lưới các hộ hoặc tổ nhân giống vừa để trình diễn các giống mới, vừa sản xuất đủ giống để cung ứng cho nông dân. Nhà nước cần phải có biện pháp hỗ trợ thiết thực về kỹ thuật, tài chính, khuyến nông để giúp các hộ và tổ sản xuất giống xác lập và mở rộng thị trường, sản xuất được hạt giống đạt tiêu chuẩn chất lượng và giá thành không cao, giá bán vừa phải và lợi nhuận thu được của người sản xuất giống là thoả đáng. Với các đơn vị nghiên cứu và công ty giống cây trồng trung ương chịu trách nhiệm sản xuất hạt giống luá nguyên chủng để cung cấp ra các tỉnh theo kế hoạch và đơn đặt hàng của các tỉnh. Hạt giống lúa nguyên chủng cần được hỗ trợ về giá để giảm nhẹ chi phí cho khâu nhân giống kế tiếp về sau.
Với hộ nông dân: cần khuyến khích sử dụng giống mới. Hiện có khoảng 90 loại hạt giống do dân tự để có chất lượng thấp, nhiều hộ sử dụng cùng một loại giống cho trên 5-6 vụ đây là nguyên nhân chính làm giảm năng xuất và chất lượng lúa đồng thời giống bị thoái hoá nhanh.
c. Nâng cao phẩm cấp lúa sau thu hoạch.
Công nghệ sau thu hoạch là một trong những yếu tố quyết định chất lượng gạo từ đó ảnh hưởng đến giá cả và khả năng cạnh tranh của mặt hàng này trên thị trường. Chính vì vậy việc cải tiến công nghệ sau thu hoạch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao giá trị cũng như hiệu quả xuất khẩu.
Hiện nay, sau thu hoạch có ba khâu ảnh hưởng lớn đến chất lượng gạo và tổn thất gạo nhiều nhất là các khâu: xay xát, phơi sấy và bảo quản. Để cải thiện chất lượng lúa gạo cần tập trung vào việc khắc phục những nguyên nhân gạo gây ra từ ba khâu đó.
+ Khâu phơi sấy:
Cần tập trung đầu tư nâng cao năng lực phơi sấy cho các đơn vị quốc doanh, đảm bảo tăng khả năng thu mua lúa trong dân kể cả trường hợp mua lúa ướt. Nhà nước cần có chính sách mở rộng tín dụng dài hạn để dân có vốn đầu tư cho việc tu bổ, sửa chữa và xây dựng hệ thống sân phơi mới hoặc các kiểu máy lớn đi liền với nhà máy xay nhưng chi phí cho xấy lúa vẫn còn cao. Vì vậy bên cạnh việc đầu tư nâng cấp hệ thống sân phơi hiện có của nông hộ cần phảt triển khai nhân rộng và hoàn thiện một số mô hình thiết bị sấy phù hợp với đặc điểm từng vùng sử dụng nhiên liệu tại chỗ như: rơm, rạ, than củi để giảm giá thành mà vẫn đảm bảo chất lượng cao.
+Với bảo quản:
Công nghệ bảo quản và hệ thống kho dự trữ có vị trí quan trọng trong việc giữ bảo quản trong việc chống nấm mốc, hạn chế những ảnh hưởng của điều kiện thời tiết khí hậu nước ta nhất là trong mùa mưa lũ. Nhận thức được vấn đề này thì vấn đề cấp bách cần giải quyết hiện nay là sắp xếp lại hệ thống kho dự trữ cho phù hợp với sản lượnglúa hàng hoá của từng vùng, thanh lý loại bỏ những kho không đạt tiêu chuẩn đặc biệt là những kho dự trữ để xuất khẩu. Bên cạnh đó cần bổ sung những kho trạm mới đạt tiêu chuẩn ở nơi trọng điểm tạo điều kiện thuận lợi cho việc cất trữ và bảo quản lúa gạo nhằm cung cấp cho thị trường nội địa và phục vụ xuất khẩu, áp dụng công nghệ bảo quản mát thóc gạo (nhiệt độ từ 15-160C) ở một số cụm kho dự trữ quốc gia hiện đại có như vậy mới đảm bảo số lượng và chất lượng cho gạo xuất khẩu .
+Với xay xát.
Để nâng cao chất lượng và tỷ lệ thu hồi gạo cũng như giảm tổn thất trong xay xát cần tập trung cải tạo, nâng cấp đối với hệ thống xay xát hiện có, xây dựng thêm hệ thống xay xát, đánh bóng, tách hạt màu để nâng cao phẩm cấp hạt gạo đặc biệt là ở các vùng chuyên canh xuất khẩu nằm trong quy hoạch. Cần bổ xung vào thiết bị hiện có những dây truyền thiết bị hiện đại để phục vụ tốt nhất nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Tuy nhiên, để thực hiện được những điều trên cần phải có được một lượng vốn rất lớn. Theo dự tính của Vụ NN và PTNT, để đầu tư cải tạo đồng bộ cơ sở hạ tầng các vùng lúa hàng hoá cần đầu tư khỏang 800 triệu đến 1,2 tỷ USD trong đó cho công nghiệp chế biến và hệ thống kho dự trữ gạo từ 100 đến 200 triệu USD. Nguồn vốn đầu tư này bên cạnh là vốn của Nhà nước cần kết hợp với nguồn vốn của địa phương và một số công ty liên doanh đầu tư nước ngoài. Với việc đầu tư này tin chắc trong những năm tới Việt Nam sẽ tạo ra hiệu quả cao trong chất lượng gạo xuất khẩu. Gạo sẽ đảm bảo các tiêu chuẩn ít gẫy, độ ẩm hợp lí... từ đó sẽ có giá xuất khẩu cao tạo ra xu hướng theo kịp giá gạo xuất khẩu Thái Lan.
2. Giải pháp về thị trường .
a. Hoàn thiện hệ thống thông tin về tình hình mặt hàng gạo trên thế giới.
Hiện nay, việc tiếp cận thông tin của các tổ chức và các doanh nghiệp về thị trường gạo thế giới còn rất hạn chế, thông tin không đầy đủ, thiếu chính xác, mất tính thời sự. Để khắc phụ điều đó trước mắt chúng ta phải thành lập các cơ quan xúc tiến thương mại Việt Nam ở nước ngoài và điều chỉnh hoạt động của nó theo đúng nghĩa là cơ quan xúc tiến thương mại. Hiện tại chúng ta có một vài trung tâm ở nước ngoài nhưng chỉ làm chức năng trưng bày, giới thiệu hàng hóa Việt Nam chứ chưa triển khai đầy đủ nhiệm vụ xúc tiến thương mại. Việc sớm hình thành các tổ chức của Nhà nước ta ở nước ngoài là rất cần thiết. Các tổ chức có thể coi là văn phòng, trung tâm có nhiệm vụ hỗ trợ cho doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh nói chung và doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh lúa gạo nói riêng bằng cách tìm kiếm, cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, đối tác cho các doanh nghiệp và cũng có thể trao đổi, chắp nối cho các doanh nghiệp tìm đế làm ăn với nhau. Tuy nhiên, để đảm bảo cho hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp thì đây sẽ không phải là cơ quan kinh doanh bởi nếu không thì sẽ có lúc nghiệp vụ hỗ trợ sẽ không được thực hiện. Chính vì vậy cơ quan này cần phải được Nhà nước cấp kinh phí cho hoạt động. Nó cũng có thể thu kinh phí từ các hoạt động hỗ trợ song không nhằm mục đích kinh doanh. Các tổ chức này khi có được thông tin thì cần cập nhật nhanh cho các doanh nghiệp những thông tin cần thiết, đồng thời các cơ quan điều hành cũng cần ra các quyết định vĩ mô kịp thời nhằm điều chỉnh quan hệ cung cầu, giá cả cho phù hợp với yêu cầu thị trường nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao cho ngành kinh doanh lúa gạo.
b. Nâng cao hơn nữa uy tín trên thị trường gạo thế giới.
Trong những năm qua, ngành kinh doanh lúa gạo của ta đã khẳng định được uy tín của mình trên thị trường gạo thế giới song bên cạnh những cái đã đạt được thì vẫn tồn tại những bất cập lớn như: cung cấp gạo không đúng hợp đồng đã kí kết, thường vi phạm chất lượng và thời gian giao hàng... để khắc phục những bất cập đó nhằm nâng cao uy tín của kinh doanh gạo Việt Nam trên thương trường quốc tế thì trước mắt chúng ta phải thức hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất:
Cần chủ động chân hàng để có thể đàm phán và thực hiện nhanh các hợp động đã kí kết, nhất là trong khâu giao hàng. Hiện nay, tâm lí khách hàng nước ngoài chưa thật sự tin tưởng vào khả năng thự hiện hợp đồng của nhiều doanh nghiệp Việt Nam và cũng rất ngại thời gian giao hàng tại cảng bị kéo dài. Để chủ động chân hàng cần tăng cường dự trữ kinh doanh, kết hợp dự trữ kinh doanh xuất khẩu gạo với dự trữ quốc gia.
Thứ hai:
Không ngừng đầu tư, nghiên cứu để tạo ra các giống lúa có chất lượng cao, khôi phục các giống lúa đặc sản truyền thống. Đầu tư thoả đáng cho việc xây dựng đồng bộ hệ thống chế biến, giao thông vận chuyển, cảng khẩu, hệ thống thiết bị bốc xếp tại các bến bãi đầu mối. Điều này có ý nghĩa lớn trong việc rút ngắn thời gian bốc xếp gạo xuất khẩu, giảm hao hụt về số lượng và chất lượng, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao uy tín của ngành kinh doanh lúa gạo của ta trên thị trường thế giới.
Thứ ba:
Cải tiến việc kiểm tra chất lượng gạo xuất khẩu.
Để đảm bảo uy tín chất lượng gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế cần phải kiểm tra chất lượng gạo xuất khẩu tránh tình trạng gian lận, giao hàng không đúng phẩm cấp so với mẫu mã của hợp đồng. Muốn vậy, đề nghị Chính Phủ ban hành những văn bản pháp lý cụ thể về việc kiểm tra chất lượng gạo xuất khẩu, kèm theo bảng tiêu chuẩn gạo Việt Nam qui định rõ trong chế tài, xử lý nghiêm khắc các trường hợp cố ý gian lận làm giảm uy tín chất lượng gạo Việt Nam gây thiệt hại cho nền kinh tế, cũng có thể áp dụng hình thức xử phạt bằng tiền tuỳ theo mức độ nghiêm trọng của những hậu quả gây ra. Riêng đối với doanh nghiệp vi phạm lặp đi lặp lai nhiều lần thì cần phải rút giấy phép không cho tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo. Đối với các đơn vị làm dịch vụ kiểm phẩm nếu thông đồng bao che cho sự gian lận đó cũng bị xử lý nghiêm ngặt như các doanh nghiệp .
c. Củng cố và tăng cường vị trí vốn có ở các thị trường truyền thống, tích cực mở rộng và tạo thế đứng trên các thị trường mới.
Đối với ngành kinh doanh lúa gạo thị trường là nhân tố quyết định đặc biệt là thị trường cho gạo xuất khẩu. Tính chất quyết định lại càng đươc khẳng định hơn trong giai đoạn hiện nay khi mà hầu như tất cả các nước đều đã đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia. Để củng cố được vị trí ở các thị trường truyền thống, mở rộng và tạo thế đứng ở các thị trường mới cần tập trung xử lý các vấn đề sau:
Đàm phán, ký kết, thoả thuận song phương và đa phương, tăng khối lượng và giá trị hàng Việt Nam vào thị trường các nước, đây chỉ là điều kiện ban đầu mang tính pháp lý tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh của mình xâm nhập vào thị trường các nước, việc thị trường có chấp nhận gạo của ta hay không còn phụ thuộc vào chất lượng và thị hiếu của người tiêu dùng tuy nhiên đây là điều kiện tiền đề rất quan trọng .
Xử lí các vướng mắc trong quan hệ với các nước thuộc thị trường truyền thống, việc xuất khẩu gạo trả nợ là một trong các giải pháp mang tính chiến lược cho ngành lúa gạo nhất là trong điều kiện hiện nay. Tất nhiên, nếu nhà nước ký kết xuất khẩu theo hiệp định trả nợ sẽ gặp những khó khăn nhưng xét về lâu dài thì đây là một đòi hỏi cấp bách. Hơn nữa, đối với những bạn hàng đã nhiều năm gắn bó, mua gạo lâu dài của ta, buôn bán có tín nhiệm thì cần thực hiện các chính sách ưu tiên chẳng hạn như: Có thể cùng điều kiện thương mại ta ưu tiên bán hàng cho những đối tượng này bằng những chính sách ưu đãi về giá. Đối với thị trường mới thì ta cần tạo lập dần uy tín của gạo Việt Nam trong thị trường đó.
3. Hoàn thiện hệ thống kinh doanh lúa gạo và cơ chế điều hành xuất khẩu.
Trong những năm qua, ngành lúa gạo đã đạt được những thành tựu đáng khâm phục,những thành tựu đó được xây dựng từ những đổi mới trong cơ chế, chính sách của Nhà nước đã giúp cho các đơn vị sản xuất và kinh doanh lúa gạo có môi trường thông thoáng hơn để thực hiện mục tiêu kinh doanh của mình. Tuy nhiên, để hoàn thiện hơn nữa cho năm 2001 và những năm tiếp theo chúng ta cần tập trung vào giải quyết các vấn đề sau:
+Với mạng lưới kinh doanh lúa gạo: Cần khuyến khích mọi thành phần kinh tế cùng tham gia vào mạng lưới này. Tuy nhiên, các đơn vị xuất khẩu phải là các đơn vị có tiềm lực, có mạng lưới thu mua trực tiếp tới hộ nông dân. Chỉ sử dụng tư thương ở những nơi, những khâu cần thiết, tìm cách hạn chế mặt tiêu cực của tư thương, ngăn chặn tình trạng tư thương nước ngoài núp bóng thương lái trong nước chen vào chi phối thị trường làm ảnh hưởng xấu đến việc xuất khẩu của ta.
+Với cơ chế điều hành: Thành lập quỹ điều hành xuất khẩu gạo lấy từ các nguồn: thu tiền phạt từ các đơn vị vi phạm xuất khẩu gạo kém chất lượng, trích nộp lợi nhuận của các đơn vị đầu mối tương ứng trên số lượng gạo xuất khẩu theo hiệp định hoặc hợp đồng chính phủ ký kết. Mục đích sử dụng quĩ để đảm bảo tài chính cho các biện pháp cơ bản nhằm khuếch trương xuất khẩu gạo, thực hiện trợ cấp trợ giá, trợ vốn cho nông dân, cho các nhà xay xát và các đơn vị tham gia lưu thông lúa gạo, giải quyết trợ vốn cho các nhà xuất khẩu gạo có khả năng bán hàng trả chậm, tạo điều kiện tăng lượng xuất và nâng cao giá gạo xuất khẩu, mua lúa tạm trữ để điều chỉnh thị trường nội địa khỏi biến động giá cả. Hơn nữa, để khuyến khích các doanh nghiệp mua lúa gạo hàng hoá trong thời vụ thu hoạch rộ, đưa vào tạm trữ tạo chân hàng xuất khẩu ổn định thì Nhà nước phải có sự bảo hộ thiết thực đối với các doanh nghiệp được giao chỉ tiêu mua lúa gạo tạm trữ tránh tình trạng như hiện nay, doanh nghiệp không mua đủ số tạm trữ theo chỉ tiêu Nhà nước giao bởi vì nếu mua đủ chỉ tiêu thì doanh nghiệp không có lãi thậm chí còn lỗ mà cái lỗ đó thì vẫn đang được xem xét giải quyết chứ chưa được giải quyết một cách cụ thể. Việc chỉ định doanh nghiệp đại diện giao dịch ký hợp đồng theo hiệp định của Chính Phủ và tham gia đấu thầu là cần thiết vì các hợp đồng theo hiệp định Chính Phủ thầu thường được giá cao, khối lượng lớn giúp cho doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá và có cơ sở để đấu tranh giá cả với khách hàng khác. Trong thời gian ký hợp đồng hoặc dự đấu thầu, các doanh nghiệp khác không được chào bán trực tiếp hoặc gián tiếp vào các thị trường trên. Để thực hiện dân chủ công khai tạo sự đoàn kết nhất trí giữa các hội viên thì trước khi giao dịch kí hợp đồng hoặc dự thầu doanh nghiệp được làm đại diện phải thống nhất với tổ điều hành xuất khẩu gạo và Ban chấp hành hiệp hội về giá chào bán, khối lượng và thời gian giao hàng. Khi ký được hợp đồng, doanh nghiệp phải lập kế hoạch phân chia thực hiện lịch giao hàng thông qua Ban chấp hành hiệp hội và tổ điều hành.
4. Hoàn thiện các chính sách của Nhà nước.
Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước trong những năm qua đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi mở đường cho ngành kinh doanh lúa gạo tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, bước vào giai đoạn mới cần đổi mới và hoàn thiện hơn các chính sách nhằm phát huy hơn nữa các nguồn lực cho sản xuất và xuất khẩu .
a. Chính sách đầu tư.
Nhà nước cần đặc biệt quan tâm đầu tư đồng bộ vào quá trình: sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo cụ thể là các nội dung:
+ Chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng nhất là giao thông, thuỷ lợi, cơ sở chế biến đảm bảo cho việc sản xuất lúa xuất khẩu.
+ Đầu tư cho công tác nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ trong đó chú ý đầu tư nghiên cứu và phục hồi các giống lúa đặc sản truyền thống, các địa phương tăng cường chuyển giao tiến bộ đến hộ nông dân.
+ Đầu tư nâng cấp các cơ sở bảo quản chế biến, thay mới những thiết bị đã cũ và lạc hậu nhằm đảm bảo chất lượng gạo theo yêu cầu của thị trường gạo thế giới.
b. Chính sách tín dụng.
Ngoài vốn vay ngắn hạn, cần có nguồn vốn vay dài hạn và trung hạn để giúp nông dân đầu tư cơ sở vật chất, đầu tư chiều sâu, mở rộng qui mô sản xuất lúa gạo xuất khẩu. Trong thời gian tới, chính sách tín dụng cho sản xuất và xuất khẩu cần đổi mới theo hướng: Tăng cường tín dụng ưu đãi hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu gạo.
+ Trong khâu sản xuất :
Phần đông những người trồng lúa ở nước ta thuộc loại nghèo thường xuyên thiếu vốn sản xuất. Trong điều kiện hiện nay, để có sản phẩm lúa gạo xuất khẩu thì trong quá trình trồng trọt, chế biến phải tuân thủ đúng qui trình kỹ thuật và các yêu cầu ngặt nghèo đặc biệt là các loại gạo đặc sản chất lượng cao, nó đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Do những đặc thù riêng trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nên hỗ trợ vốn cho nông dân cần được tiến hành dưới hình thức tín dụng với lãi suất thấp. Để đảm bảo cho vay kịp thời cho nông dân cần cải tiến hệ thống ngân hàng nông nghiệp thương mai về thủ tục cho vay, nâng cao trrình độ nghiệp vụ. Bên cạnh đó mở rộng các hình thức tín dụng thương mại cho nông dân vay qua các công ty lương thực, các tổ chức kinh doanh xuất khẩu gạo góp phần taọ liên kết thương mại vừa đảm bảo vốn cho nông dân sản xuất, vừa đảm bảo tiêu thụ sản phẩm của nông dân lại vừa đảm bảo chân hàng cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo.
+ Trong xuất khẩu.
Để thúc đẩy xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh gạo xuất khẩu nhà nước cần có chính sách tín dụng thích hợp tạo điều kiện cho vay đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo để có khả năng chủ động dự trữ gạo, chờ cơ hội giá thế giới lên mới có lợi cho xuất khẩu. Dùng quỹ hỗ trợ doanh nghiệp khi được phép xuất khẩu trả chậm để giữ vững thị trường khi nước nhập khẩu gặp khó khăn trong thanh toán hoặc hỗ trợ mở ra thị trường mới. Ngoài ra nhà nước cần thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng để trợ giúp cho các doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu, khuyến khích thành lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu để trợ giúp khi giá thị trường thế giới biến động thất thường.
c. Chính cách bảo hiểm và trợ giá.
Bảo hiểm và trợ giá cho ngành lúa gạo hiện nay là việc làm rất cần thiết và thiết thực. Do mang đặc điểm của ngành sản xuất nông nghiệp nên ngành lúa gạo thường gặp những rủi ro trong sản xuất cũng như trong xuất khẩu. Những rủi ro này là do những điều kiện khách quan mang lại. Một sự biến đông của thị trường một sự đổi thay của thời tiết khí hậu đều kéo theo một sự rủi ro lớn. Ví dụ trận lụt tháng 8/1971 đã làm cho 2,8 triệu hộ ở vùng ĐBSH bị ngập lụt và làm ngập 200.000 ha lúa màu. Để bảo hiểm cho sản xuất và xuất khẩu lúa gạo trước những biến động của các điều kiện tự nhiên và sự biến động của thị trường cần lập quỹ bảo hiểm từ trung ương đến địa phương theo phương thức nhà nước và nông dân cùng đóng góp, xây dựng quỹ với tỷ lệ thích hợp. Người sản xuất sẽ được bồi thường thiệt hại nếu như gặp thiên tai, dịch bệnh. Các tổ chức xuất khẩu sẽ được bảo hộ nếu như có những biến động theo chiều hướng xấu của thị trường. Những năm tới nhà nước cẫn mở rộng hơn nữa các hình thức bảo hiểm đẻ người nông dân yên tâm đầu tư cho sản xuất phục vụ tốt chương trình xuất khẩu. Không những vậy, nhà nước cần công bố giá sàn thu mua ngay từ đầu vụ, cam kết mua hết thóc nông dân bán ra một cách kịp thời, thuận tiện và đúng với giá sàn khi giá thị trường thấp hơn.
* Kết luận và kiến nghị.
Trong những năm qua, xuất khẩu gạo của Việt nam đã gặt hái được những thành tựu đáng kể từ một nước thiếu ăn nay đã trở thành nước xuất khẩu thứ hai thế giới và đã đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước. Trong tương lai, nhờ có lợi thế về tự nhiên, nguồn nhân lực... Việt nam đang còn có nhiều triển vọng cho sản xuất cũng như xuất khẩu. Tuy nhiên hiện nay, chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức lớn, với sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường thế giới, đòi hỏi phải có những đổi mới để củng cố và nâng cao vị thế của mình, đưa sản xuất, xuất khẩu Việt nam vươn tới những tầm cao mới .
Qua phân tích những vấn đề lý luận, thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu gạo bước đầu em có những kiến nghị sau:
Thứ nhất:
Nhà nước cần thông qua các chính sách, văn bản của mình để thúc đẩy việc qui hoạch vùng sản xuất lúa xuất khẩu nhanh chóng và có hiệu qủa. Toàn bộ vùng lúa xuất khẩu phải được nhà nước cung cấp giống và tiến hành sản xuất theo một lịch trình cụ thể tránh tình trạng khi thu hoạch thửa chín quá, thửa thì chưa kịp chín.
Thứ hai:
Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa nông dân, nhà khoa học, nhà xuất khẩu dưới sự lãnh đạo của cơ quan chức năng nhà nước nhằm đưa nhanh tỷ lệ khoa học công nghệ vào sản phẩm, khôi phục lại các giống có chất lượng cao, đặc sản nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu tiêu dùng của thị trường thế giới. Cụ thể:
Doanh nghiệp xuất khẩu cho phép xuất khẩu trả chậm khi nước nhập khó khăn về tài chính. Nhà nước thông qua ngân hàng tiếp tục cho vay với lãi suất hỗ trợ từ quỹ hỗ trợ cụ thể.
Nông dân vay vốn ngân hàng thông qua các tổ chức xuất khẩu với lãi xuất từ 1,2 % đến 1,4% và trả nợ vay theo kiểu đến vụ thu hoạch các tổ chức xuất khẩu trực tiếp thu gom thóc từ các hộ này và thanh toán khấu trừ nợ một cách hợp lí để đảm bảo mức lãi khoảng 20% đối với người dân.
Đối với việc đầu tư cải tạo, nâng cấp xây dựng hệ thống công nghệ sau thu hoạch góp phần giảm thất thoát thì đề nghị chính phủ có những chính sách khuyến khích hơn nữa để càng hiện đại càng hiệu quả, cố gắng mức lãi suất cho vay vào lĩnh vực này tối đa là 1,2%.
Đối với vùng sản xuất lúa đặc sản, nhà nước phải cam kết bao tiêu toàn bộ sản phẩm với giá cao gấp 3 đến 3,5 lần so với giá gạo bình thường.
Thứ ba:
Nhà nước cần tiếp tục các biện pháp tiếp thị xuất khẩu gạo như: cung cấp dữ liệu tiếp cận thông tin giá cả, sản lượng, chủng loại gạo xuất khẩu trong nước cho các bạn hàng, đồng thời giúp cho các nhà xuất khẩu trong nước tiếp cận với thị trường thế giới, đảm bảo ổn định và tín nhiệm trong các chính sách có liên quan để giúp các bạn hàng yên tâm khi làm ăn lâu dài với ta, giúp doanh nghiệp thực hiện tốt các hợp đồng đã ký kết với bạn hàng nước ngoài. Nhà nước cho phép thực hiện cơ chế thưởng xuất khẩu theo đầu tấn nhất là các đơn vị tìm kiếm mở rộng được thị trường mới. Tăng cường đàm phán với các nước nhằm mở rộng hình thức trả nợ bằng gạo. Hơn nữa, bản thân các doanh nghiệp phải nâng cao hơn nữa tính chủ động trong kinh doanh tích cực tìm kiếm cơ hội để mở rộng thị trường và bạn hàng thông qua nhiều hình thức linh hoạt và hấp dẫn.
Thứ tư:
Xét về lâu dài cần phải chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn. Toàn bộ lúa vụ ba sẽ được chuyển sang gieo trồng các loại cây như: Cây có dầu, cây đậu tương. Những phần đất ven biển, đất trũng được chuyển sang nuôi tôm cá, đất ven đô và đất chưa chủ động tưới tiêu sẽ được chuyển sang trồng cây ăn quả và cây khác có hiệu quả hơn. Mặc dù đây không phải là giải pháp trực tiếp tác động đến xuất khẩu gạo nhưng nó là giải pháp mang tính chiến lược góp phần không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp và ổn định cung gạo trên thị trường.
Trên đây là những nhận thức của em về thị trường tiêu thụ cho ngành lúa gạo. Mặc dù vấn đề không mới nhưng vô cùng bức xúc và phức tạp, nó liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế xã hội chứ không chỉ đơn thuần là vấn đề thị trường. Vì vậy trong khuôn khổ của một đề tài tốt nghiệp em mới chỉ đề cập tới một số vấn đề lý luận và những nội dung mang tính khái quát cần phải bổ sung thêm. Do nhận thức còn hạn chế nên chuyên đề không tránh khỏi nhiều thiếu xót. Rất mong các thầy cô giáo cùng các bạn đóng góp ý kiến để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Mục lục
Trang
Tài liệu tham khảo.
1. Luận án " Những giải pháp thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu nông sản ở Đồng Bằng Sông Hồng - Hoàng Văn Phấn".
2. Báo cáo tổng kết về tiêu thụ lúa gạo năm 2000. Vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn.
3.Tạp chí thị trường - giá cả. Số 6 ,7 năm 2000.
4. Báo nông nghiệp Việt Nam số 10 năm 2001.
5. Giáo trình kinh tế nông nghiệp. TS. Vũ Đình Thắng và PGS. TS. Phạm Kim Sang (Chủ biên). NXB Nông nghiệp .
6. Kinh doanh gạo trên thế giới. Trung tâm thông tin thương mại, Hà Nội 1998
7. Lúa gạo Việt nam - Nguyên nhân của kỳ tích TS. Nguyễn Tiến Thoả - NXB Nông nghiệp.
8. Báo cáo điều tra, đánh giá hiệu quả kinh tế của sản xuất lúa gạo. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn . Việc kinh tế nông nghiệp.
9. Tạp chí Thời báo Kinh tế số đặc biệt năm 2000 .
10. Tạp chí Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm số 5 - 2000
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- X0137.doc