MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chương I: Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội.
I, Sự cần thiết khách quan và vai trò của BHXH.
1. Sự cần thiết khách quan của BHXH
2. Vai trò của BHXH
II, Sự ra đời và phát triển của BHXH
Bảo hiểm xã hội trên thế giới
Phạm vi đối tượng
Hệ thống các chế độ BHXH
Điều kiện hưởng, chế độ BHXH
Quỹ BHXH
Quản lý quỹ BHXH
Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của BHXH Việt Nam
Nguồn hình thành quy
35 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1415 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp chi bảo hiểm xã hội ở Công ty cổ phần Đại Cát Thành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
̃ BHXH ở Việt Nam
Hệ thống tổ chức quản lý quỹ BHXH qua các thời kỳ
Chương II: Thực trạng chi BHXH ở công ty CP Đại Cát Thành
I, Vài nét về công ty CP Đại Cát Thành
II, Tình hình chi BHXH ở công ty CP Đại Cát Thành
Những vấn đề chung về chi BHXH
Hoạt động chi BHXH
Những nguyên tắc trong chi BHXH
Quản lý đối tượng đối tượng được hưởng chế độ BHXH
Quản lý mô hình chi trả và phương thức chi trả cho các chế độ BHXH
Quản lý kinh phí chi trả BHXH
Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm duy trì nâng cao hoạt động thu chi quỹ BHXH
I, Kiến nghị về hoàn thiện, đổi mới hoạt động quản lý thu BHXH.
II, Kiến nghị về hoàn thiện, đổi mới hoạt động quản lý chi BHXH
1, Hoàn thiện phương thức quản lý chi BHXH
2, Hoàn thiện phương thức quản lý chi hoạt động bộ máy quản lý
3, Hoàn thiện công tác quản lý chi cho hoạt động khác
4, Một số kiến nghị khác
KẾT LUẬN
Lời mở đầu
Ngày nay, bảo hiểm xã hội là một chính sách xã hội đặc biệt quan trọng được các nước chú trọng phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của mình pháp luật hóa hệ thống pháp luật của nhà nước. ở nước ta, bảo hiểm xã hội là một chính sách xã hội lớn của đảng và nhà nước, được quy định trong hiến pháp, trong văn kiện của đảng và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện nhằm từng bước mở rộng và nâng cao việc đảm bảo vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người lao động ốm đau, thai sản, tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động, chết, gặp rủi ro hoặc các khó khăn khác. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo hiểm xã hội càng trở lên quan trọng trong việc góp phần đảm bảo công bằng xã hội và phát triển xã hội một cách bền vững.
Kết cấu báo cáo ngoài lời mở đầu gồm những phần sau:
Phần I: báo cáo chung
Phần II: báo cáo thực tập
Phần III: kết luận
Hiểu rõ được tầm quan trọng của bảo hiểm xã hội nên rất nhiều cá nhân, doanh nghiệp dã tham gia bảo hiểm xã hội. công ty cp Đại Cát Thành đã triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội của nhà nước. xét thấy:” thực trạng chi bảo hiểm xã hội” là vấn đề còn khá phức tạp. đó cũng là lý do để em chọn đề tài này và hoàn thành xong bài báo cáo. Do trình độ còn hạn chế và thời gian để nghiên cứu đề tài lớn này nên còn rất nhiều chỗ sai sót. Kính mong được sự góp ý của các thầy cô để bài luận văn của em được hoàn thiện hơn.
Sinh viên
Nguyễn Thị Thanh Hà
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ
HỘI VÀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂN XÃ HỘI
I- SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN VÀ VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI
1- Bản chất của bảo hiểm xã hội:
BHXH là sản phẩm tất yếu của một xã hội phát triển đến một trình độ nhất định về kinh tế và tổ chức xã hội. Bản chất của BHXH được thể hiện ra trên một số mặt cơ bản sau:
+ Về phương diện cá nhân, BHXH là một nhu cầu của con người.
BHXH nhằm bảo đảm tính mạng của con người, giữ cho cuộc sống ổn định, an toàn, tránh được nghèo đói sa sút, khi bị mất những nguồn thu nhập trong cuộc sống. Đó chính là nhu cầu về BHXH, và cũng là nhu cầu tự nhiên trong hệ thống các nhu cầu về cuộc sống của con người. Điều này suất phát từ nhu cầu cần thiết để đảm bảo tiêu chuẩn hay giá trị cho một cuộc sống tối thiểu. Theo nhà nghiên cứu tâm lý và hành vi của con người(Abraham Maslow) nhu cầu BHXH nằm trong nhóm các nhu cầu ở bậc thiết yếu cùng với các nhu cầu về điều kiện sinh tồn khác là cơm ăn, áo mặc và các điều kiện sinh hoạt khác như nhà ở, đi lại ở mức tối thiểu. Và BHXH cần được đảm bảo trước khi thỏa mãn các nhu cầu xã hội khác rộng hơn trong đời sống của con người như các nhu cầu về quan hệ trong xã hội khác, về địa vị xã hội…
BHXH thực sự là một trong những nhu cầu bức thiết. Các Mác đã từng viết “ Vì nhiều rủi ro khác nhau nên phải dành một số thặng dư nhất định cho quỹ bảo hiểm xã hội để đảm bảo mở rộng theo kiểu lũy tiến quá trình tái sản suất ở mức độ cần thiết, phù hợp với sự phát triển của nhu cầu và tình hình tăng dân số”. BHXH thỏa mãn nhu các nhu cầu về đảm bảo cuộc sống như đã trình bày ở trên còn là cần thiết để tái sản suất sức lao động, một trong những tiền đề quan trong nhất cho quá trình tái sản suất xã hội.
+ Dưới góc độ kinh tế:
BHXH là một phạm trù kinh tế tổng hợp. Trong đó: đối với những người hưởng chế độ của BHXH, thì đó là sự bảo đảm thu nhập, bảo đảm cuộc sống khi họ ở trong điều kiện khó khăn do bị giảm hay mất khả năng lao động mà bị giảm hay mất thu nhập. Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hoạt động của BHXH mang nội quy của quá trình phân phối và quá trình phân phối lại một lần thu nhập trong dân cư thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH, một quỹ tiền tệ tập trung có quy mô rất lớn và ngày càng tăng lên.
Khi có sự phát triển của thị trường tài chính và nếu được quản lý và sử dụng tốt, quỹ BHXH còn có khả năng sinh lợi qua các hoạt động đầu tư hợp pháp khác nhau. Việc sử dụng quỹ để đầu tư sinh lời được thấy rõ trong các nước có nền kinh tế và thị trường phát triển. Hiện tại BHXH Việt Nam đã bắt đầu thực hiện hoạt động này như dùng quỹ BHXH để mua trái phiếu kho bạc nhà nước. Trong tương lai việc sử dụng quỹ này vào các hoạt động đầu tư cũng sẽ được mở rộng ra với nhiều hình thức khác nhau.
+ Về phương diện chính trị:
BHXH là sự liên kết giữa những người lao động khác nhau trong xã hội cùng vì lợi ích chung của cộng đồng, trong đó có các cá nhân tham gia BHXH. BHXH cũng phản ánh bản chất của một chế độ xã hội nhất định. Đối với quốc gia đây còn là những hoạt động thể hiện thái độ trách nhiệm của chính phủ đối với người dân trong xã hội trong rất nhiều nước sự không ổn định hay khủng hoảng của hệ thống BHXH đều có tác động đến hệ thống chính trị của các nước đó. Chính vì vậy mà các chính sách BHXH nằm trong hệ thống chung của các chính sách về kinh tế, xã hội và là một trong những bộ phận hữu cơ trong hệ thống các chính sách quản lý đất nước của quốc gia.
+ Về mặt xã hội:
BHXH được xem như là một loạt các hoạt động mang tính xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho người dân và làm lành mạnh xã hội. Thông qua đó mà bảo vệ và phát triển nguồn lao động, xã hội, mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế, ổn định trật tự xã hội nói chung. BHXH mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc vì lợi ích của con người trong những hoàn cảnh gặp khó khăn, vì an sinh xã hội và có ý nghĩa xã hội rất lâu dài.
Như vậy, tổ chức vận hành một hệ thống BHXH phải đứng trên quan điểm tổng thể toàn diện. BHXH không thể tách khỏi một thể chế chính trị nhất định và chỉ dựa trên cơ sở nền tảng kinh tế cụ thể. BHXH không phải là loại hình bảo hiểm cá nhân hay cá nhân tự bảo hiểm mà đó là sự bảo hiểm đặt trong những ràng buộc giữa những con người với nhau trong những mối quan hệ nhất định trong cộng đồng, mặc dù xuất phát điểm bao giờ cũng là các nhu cầu của mỗi con người.
2- Sự cần thiết khách quan và vai trò của BHXH
2.1- Sự cần thiết khách quan:
Như chúng ta đã biết, con người tồn tại và phát triển được, trước hết phải ăn, mặc, ở, đi lại… để thỏa mãn nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải làm ra những sản phẩm để phục vụ những nhu cầu đó. Khi sản phẩm tạo ra hàng ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng hoàn thiện và văn minh hơn. Nghĩa là, việc thỏa mãn những nhu cầu sinh sống phát triển của con người phụ thuộc vào khả năng lao động của chính họ. Nhưng con người ai cũng có quá trình sinh ra, trưởng thành, già rồi chết. Khi còn nhỏ chưa thể lao động được thì chắc chắn phải dựa vào những người đã trưởng thành nuôi dưỡng. Khi trưởng thành thì phải lao động để tự nuôi sống mìnhvà những người phụ thuộc. Nhưng trong thực tế không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn, bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất đi thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác như bất ngờ bị ốm đau, tai nạn lao động mất khả năng nuôi dưỡng hoặc khi già khả năng lao động và khả năng phục vụ đều suy giảm.
Khi lâm vào hoàn cảnh đó, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi. Trái lại, có cái tăng lên, thậm trí có thể xuất hiện thêm nhu cầu mới, như khi ốm đau cần phải chữa bệnh, khi sinh đẻ có nhu cầu bồi dưỡng cho người mẹ hoặc đứa con…và hàng loạt các nhu cầu khác. Bởi vậy muốn tồn tại con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau, một trong những cách đó là “ bảo hiểm xã hội”.
Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm khả năng lao động hay bị mất việc làm. Bảo hiểm xã hội còn là một chính sách xã hội cần thiết của Nhà nước đối với người lao động và các thành viên trong gia đình họ. Bởi vậy BHXH tồn tại khách quan và là nhu cầu cần thiết đối với người lao động, đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay
Vì vậy quá trình hình thành và phát triển của BHXH luôn là một tất yếu khách quan trong đời sống kinh tế xã hội trên mọi quốc gia nhằm đảm bảo cho cuộc sống của người lao động khi họ gặp rủi ro, làm cho họ yên tâm công tác, lao động sản xuất cống hiến cho xã hội.
Ngày nay mọi người lao động trong xã hội đều thấy cần thiết phải tham gia BHXH. BHXH đã trở thành nhu cầu, quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu, quyền lợi của người lao động, được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi của con người trong Tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948. “tất cả mọi người với tư cách là thành viên trong xã hội và có quyền hưởng Bảo hiểm xã hội”.
2.2- Vai trò của bảo hiểm xã hội:
Quá tình hình thành và sự phát triển BHXH cho chúng ta thấy rõ BHXH không chỉ có vai trò to lớn đối với đới sống của người lao động, đảm bảo thu nhập của người lao động khi mất việc làm, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà thông qua đó trật tự xã hội được đảm bảo, tạo điều kiện thúc đẩy xã hội phát triển công bằng văn minh hơn.
Trong điều kiện kinh tế thị trường với nhiều biến động không ngừng, BHXH tồn tại, hoạt động và phát triển dựa trên mối quan hệ rằng buộc chặt chẽ giữa người sử dụng lao động với người lao động thông qua bên thứ ba- tổ chức BHXH chuyên trách dưới sự bảo trợ đặc biệt của Nhà nước. Trong mối quan hệ đó:
- Về phía người sử dụng lao động: mặc dù phải đóng góp một phần vào quỹ BHXH nhưng họ không phải chi ra những khoản tiền lớn khi những người lao động gặp những rủi ro nêu trên.
- Về phía người lao động: BHXH đặt chỗ dựa về mặt tâm lý cho họ, giúp họ yên tâm trong công tác từ đó nâng cao hiệu quả công việc, hạn chế được tình hình ngừng trệ sản xuất kinh doanh, giảm thiện hại cho người sử dụng lao động.
- Đối với nhà nước: BHXH là một chính sách lớn của mỗi quốc gia. Vì thực hiện BHXH góp phần ổn định xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Thực hiện BHXH sẽ hình thành quỹ tiền tệ tập trung có thể đầu tư một phần vào các hoạt động kinh tế để sinh lời, tăng thêm nguồn thu cho quỹ BHXH. Do việc chi trả không phải lúc nào cũng diễn ra thường xuyên, cho nên Nhà nước có thể đầu tư trở lại để bảo toàn quỹ. Mặt khác, BHXH giúp cho Nhà nước điều tiết và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Như vậy, tổ chức thực hiện BHXH đưa lại lợi ích cho cả ba bên:
+ Người lao động
+ Người sử dụng lao động.
+ Nhà nước và xã hội.
Do đó cả ba bên đều có mối quan hệ với BHXH. Cùng với tiến trình phát triển của xã hội, BHXH ngày càng trở thành một nhu cầu thường xuyên, tự nhiên, chính đáng của người lao động. Nó cần phải được đáp ứng như hàng loạt nhu cầu thiết yếu khác của con người, nó là một bộ phận cấu thành trong hệ thống chính sách kinh tế- xã hội của quốc gia.BHXH không những đóng một vai trò thiết yếu về mặt xã hội mà còn mang một ý nghĩa kinh tế- chính trị to lớn. Tính kinh tế được thể hiện: BHXH phải tính tính toán thu-chi và hiệu quả hoạt động ( nhưng khác với kinh doanh kiếm lời). BHXH có ý nghĩa chính trị thông qua tính ưu việt, trình độ văn minh của một thể chế chính trị của một quốc gia, của một nhà nước được thể hiện. Ngoài những ý nghĩa trên BHXH còn mang tính nhân đạo, tính nhân văn cao cả, nó thực hiện theo quy luật “lấy số đông bù cho số ít”tức là lấy sự đóng góp nhỏ của số đông chu cấp cho số ít mà vì lý do nào đó ( bị ốm, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…) họ bị giảm đi hoặc mất thu nhập hay gặp rủi ro trong cuộc sống bình thường.
Vai trò của BHXH trong nền kinh tế xã hội nói chung còn được thể hiện:
- Tạo tâm lý ổn định, yên tâm hơn trong sản xuất làm cho năng suất lao động cá nhân và xã hội không ngừng tăng lên.
- Đối với giới chủ mạnh dạn mở rộng quy mô sản xuất, thuê mướn nhân công từ đó làm cho sản xuất của họ phát triển…
- BHXH góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế cho đất nước trên cơ sở quỹ BHXH khi ở thời kỳ nhàn rỗi có thể đầu tư cho sản xuất tức là để đóng góp một phần đáng kể cho việc phát triển nền kinh tế.
Từ những vấn đề đã được trình bày ở trên chúng ta có thể khẳng định rằng BHXH là một vấn đề rất cần thiết khách quan của tất cả các quốc gia trên thế giới hiện nay. Đồng thời BHXH cũng có vai trò hết sức quan trọng trong tất cả các lĩnh vực kinh tế- chính trị- xã hội.
II- NỘI DUNG BẢO HIỂM XÃ HỘI.
1-Bảo hiểm xã hội trên thế giới.
Cùng với sự phát triển kinh tế- xã hội, BHXH đã có những bước tiến đáng kích lệ và ngày càng trở nên thiết yếu đối với người lao động, nhu cầu đó phải được đáp ứng như nhu cầu cơm ăn, áo mặc hàng ngày của hầu hết những người lao động nói chung trong xã hội. Hơn nữa sự phát triển của BHXH gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản suất trên thế giới .Những nước có nền sản xuất phát triển, khoa học công nghệ đã dần dần đi vào đời sống sản xuất, cụ thể là các nước tư bản chủ nghĩa ở châu Âu và châu Mỹ, BHXH ra đời sớm và nổi rõ nhất từ thời kỳ bắt đầu công nghiệp hóa, trong xã hội xuất hiện tầng lớp làm công ăn lương.
BHXH trở nên rất phong phú và đa dạng được áp dụng rộng rãi trên 160 quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên do điều kiện kinh tế- xã hội ở mỗi quốc gia khác nhau, do đó BHXH cũng có những điểm khác nhau. Nhưng vấn đề duy nhất cơ bản mà nhà nước nào cũng phải giải quyết khi xây dựng hệ thống BHXH của mình đó là.
1.1-Phạm vi đối tượng.
Theo hội nghị quốc tế về an toàn lao động của tổ chức lao động quốc tế (ILO) quy định BHXH là một hệ thống gồm 3 tầng:
+ Tầng 1: Là tầng cơ sở để áp dụng cho một thành viên trong xã hội, trong đó chủ yếu là người nghèo và người có thu nhập thấp. Vì vậy, tầng lớp này gọi là “tầng lưới an toàn”
+ Tầng 2: Dành cho các đối tượng có công ăn việc làm, đây là đối tượng bắt buộc gồm công viên chức nhà nước, người lao động ở các thành phần kinh tế.
+ Tầng 3: Là tầng BHXH tự nguyện hay còn gọi là bổ xung.
Tất cả các nước thực hiện BHXH đều được xác định phạm vi đối tượng BHXH dựa vào thu nhập của người lao động làm công ăn lương. Ban đầu tập trung vào công nhân viên chức Nhà nước, tiếp đến cho người lao động ở các thành phần kinh tế khác.
Hiện nay, một số nước ban hành chế độ BHXH cho tất cả mội tầng người tham gia, một số nước khác lại có chế độ BHXH riêng cho đối tượng viên chức Nhà nước.
1.2- Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội
Tháng 8 năm 1995 Hội nghị hàng năm của (ILO) đã thông qua Công ước 102 về quy định phạm vi tối thiểu về đảm bảo xã hội gồm 9 chế độ:
+ Chăm sóc y tế
+ Trợ cấp thất nghiệp
+ Trợ cấp gia đình
+ Trợ cấp sinh đẻ
+ Trợ cấp tai nạn và bệnh nghề nghiệp
+ Trợ cấp ốm đau
+ Trợ cấp tuổi già
+ Trợ cấp khi tàn phế
+ Trợ cấp cho người còn sống
Trong đó (ILO) đã khuyến cáo mỗi nước tùy theo điều kiện kinh tế- xã hội phải thực hiện ít nhất 1 trong năm điều lệ sau:
+ Trợ cấp thất nghiệp
+ Trợ cấp gia đình
+ Trợ cấp tai nạn và bệnh nghề nghiệp
+ Trợ cấp tuổi già
+ Trợ cấp cho người còn sống
Số liệu sau đây cho biết chế độ mà các nước thực hiên qua một số năm như sau:
Bảng 1: tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội ở một số nước trên Thế giới
Năm
1940
1949
1958
1967
1981
1993
Số nước thực hiện BHXH nói chung
57
58
80
120
139
163
- Số nước thực hiện chế độ: tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp
24
57
77
117
136
155
- số nước thực hiện chế độ: hưu trí, tàn tận, tử tuất
33
44
56
92
127
155
- số nước thực hiện chế độ ốm đau, thai sản
57
36
59
65
79
102
- Số nước thực hiện chế độ: trợ cấp gia đình
7
27
38
62
67
82
- số nước thực hiện chế độ: trợ cấp thất nghiệp
21
22
26
34
37
63
Qua số liệu bảng 1 chúng ta thấy được ngày càng có nhiều nước thực hiện hoạt động BHXH với số lượng các chế độ ngày càng tăng trong đó số nước thực hiện chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cũng như chế độ hưu trí, tử tuất phát triển khá nhanh dù dưới hình thức này hay dưới hình thức khác trong hệ thống BHXH hầu như tất cả các nước đều trang bị cho mình dạng trợ cấp này.
Hơn nữa số nước đã thiết lập chế độ bảo trợ cho người lao động trong trường hợp ốm đau, thai sản. Song chi có 1\4 số nước thực hiện chế độ trợ cấp thất nghiệp, chế độ này chỉ thấy ở những nước công nghiệp phát triển và có nền kinh tế thị trường.
1.3- Điều kiện hưởng- Mức hưởng bảo hiểm xã hội:
Điều kiện chung để hưởng các chế độ BHXH ở các nước là phải tham gia đóng góp phí BHXH, với chế độ hưu trí thời gian đóng góp bắt buộc của các nước lao động từ 15 năm đến 37,5 năm, ngoài ra còn kèm theo điều kiện tuổi đời và tuổi thọ bình quân của quốc gia. Mức hưởng BHXH nói chung là thấp hơn mức lương đang làm việc.
1.4- Qũy bảo hiểm xã hội:
* Nguồn thu:
+ Tiền đóng(phí BHXH) của chủ và người thợ.
+ Tiền trợ cấp từ ngân sách nhà nước
+ Tiền sinh lời từ các hoạt động đầu tư
+ Ttiên phạt do đóng bảo hiểm xã hội chậm
+ Tiền thu từ các khoản thuế do nhà nước quy định
Tỷ lệ và phương thức đóng góp vào quỹ BHXH phụ thuộc vào việc xây dựng các chế độ BHXH của từng Nhà nước, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước bao gồm các dạng:
+ Mức đóng theo phần trăm(%) mức lương của người lao động
+ Theo một mức quy định (quy định cứng)
+ Theo mức thu nhập thực thế của người lao động
+ Theo mức tối đa
* các khoản chi:
- Các khoản chi về BHXH của các nước thường bao gồm:
+ Chi trả trợ cấp về BHXH ngắn hạn: y tế, ốm đau, thai sản
+ Chi trả trợ cấp BHXH dài hạn: Hưu trí, mất sức lao động, tử tuất…
+ Trợ cấp thương tật lao động, mất sức lao động tạm thời hay vĩnh viễn, trợ cấp người ăn theo.
+ Chi để đầu tư sinh lời và chi phí quản lý.
1.5- Quản lý quỹ bảo hiểm xã hội:
Hầu hết các nước đều giao cho bộ lao động và xã hội quản lý, Nhà nước thống nhất đối với hệ thống BHXH. Bộ tài chính giám sát về hoạt động tài chính, Bộ y tế giám sát phần chăm sóc phần y tế trong hoạt động đó, hoạt động nghiệp vụ về BHXH thường có một hệ thống riêng
2- Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
- Các chế độ BHXH bao gồm 6 loại trợ cấp:
+ Chế độ trợ cấp ốm đau
+ Chế độ trợ cấp hưu trí
+ Chế độ trợ cấp tử tuất
+ Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
+ Chế độ trợ cấp thai sản
+ Chế độ trợ cấp mất sức lao động
Đáng chú ý là đến lúc này quỹ BHXH được chính thức thành lập, là quỹ thuộc ngân sách Nhà nước. Các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước chỉ nộp một tỷ lệ phần trăm(%) so với tổng quỹ lương của công nhân viên chức và công nhân viên chức không phải đóng góp phí BHXH.
Trong loại hình BHXH bắt buộc thì người sử dụng lao động cũng phải đóng góp phí BHXH nhân danh những người lao động sử dụng quỹ BHXH được nhà nước hỗ trợ thêm; quy định lại 5 chế độ BHXH là: ốm đau (ngoài bảo hiểm y tế), tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu trí và tử tuất. Xóa bỏ trợ cấp mát sức lao động vốn đã bộc lộ nhiều tiêu cực và bất hợp lý; thống nhất hóa hệ thống BHXH trong cả nước.
- Nguồn hình thành quỹ BHXH ở Việt Nam
BHXH là một chính sách của Đảng và nhà nước đối với người lao động và cộng đồng. Sự ra đời và phát triển của các chế độ BHXH gắn liền với sự ra đời và phát triển của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước đây và Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ngày nay. Chính sách BHXH và việc tổ chức thực hiện nó trong những năm trước đây đã thực sự là nguồn động viên cổ vũ công nhân viên chức yên tâm phấn khởi lao động sản xuất góp phần xây dựng Chủ Nghĩ Xã Hội ở Miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước.
Đối với các quỹ ngân sách, Nhà nước chủ trương tiếp tục bao cấp với các quy có ý nghĩa sống còn về an ninh quốc gia, giảm dần trợ cấp các quỹ dành cho y tế, giáo dục. Các quỹ thuộc ngân sách Nhà nước buộc phải tách ra thực hiện chế độ tự đảm bảo thu- chi và nhà nước hỗ trợ một phần khi gặp khó khăn không thể khắc phục được hoặc để giải quyết những vấn đề là hậu quả của quá khứ. Qũy BHXH thuộc diện này.
- Các chế độ BHXH bao gồm:
+ Chế độ trợ cấp ốm đau
+ Chế độ trợ cấp thai sản
+ Chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
+ Chế độ hưu trí và chế độ trợ cấp tử tuất
Về đối tượng BHXH điều lệ quy định gồm có
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên, hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên.
- Người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế khác tại Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
- Người lao động làm viếc cho các tổ chức liên doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc các lượng vũ trang.
- Người dữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ trung ương cho đến cấp huyện
- Công chức, viên chưc Nhà nước làm ciệc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ trung ương đến cấp huyện.
- Những đối tượng trên được gọi chung là người lao động. Quỹ BHXH được hình thành do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp, ngân sách Nhà nước đóng góp và hỗ trợ, lãi hoạt động bảo tồn tăng trưởng quỹ và thu khác. Mức đóng góp của các bên vào quỹ BHXH và việc sử dụng được quy định như sau:
+ Người lao động hàng tháng phải đóng 5% tiền lương vào quỹ BHXH để thực hiện chế độ hưu trí, tử tuất.
+ Ngưới sử dụng lao động hàng tháng đóng 15% tiền lương vào quỹ BHXH. Trong đó 10% để thực hiện các chế độ hưu trí, tử tuất, 5% để thực hiện chế độ ốm đau thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp.
- Hệ thống tổ chức quản lý BHXH qua các thời kỳ.
Hệ thống chính sách chế độ BHXH ở Việt Nam được hình thành và phát triển từ năm 1962 với mục đích hỗ trợ cho người lao động (những người tham gia BHXH) khi hị gặp những rủi ro bất khả kháng. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau mà BHXH mới chỉ thu hút được một bộ phận nhỏ người tham lao động gồm những người làm việc trong các khu vực Nhà nước và lực lượng vũ trang. Nên quỹ BHXH vẫn là gánh nặng đối với ngân sách Nhà nước ( đặc biệt là phần qũy do Bộ Lao động thương binh và xã hội quan lý).
Quỹ BHXH Việt Nam đã chính thức là một quỹ tài chính độc lập nằm ngoài nhân sách nhà nước và nó được quản lý theo một hệ thống riêng, đó là hệ thống BHXH Việt Nam được tổ chức theo hệ thống dọc từ Trung ương đến địa phương với cơ cấu sau:
+ Ở Trung ương là BHXH Việt Nam
+ BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
+ BHXH huyện xã hội, quận , thi xã, thành phố trực thuộc tỉnh.
Bảng 2: SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM
(Giai đoạn sau nghị định12/CP và 19/CP)
HỘI ĐỒNG QUẢN LÝ BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM
BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM
BẢO HIỂM XÃ HỘI TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
BẢO HIỂM XÃ HÔI QUẬN, HUYỆN, THỊ XÃ, THÀNH PHỐ THUỘC
TỈNH
Dựa trên các kết quả đạt được trong việc thực hiện Nghị định 43/CP và căn cứ vào Bộ luật Lao động đã được Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua ngày 23/06/1994. chính phủ đã ban hành nghị định 12/CP vào ngày 26 tháng 1 năm 1995 và điều lệ BHXH kèm theo. Tiếp đó, Chính phủ ban hành Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 về việc thành lập BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH hiện có ở trung ương và địa phương thuộc hệ thống Lao động thương binh và xã hội và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Tuy nhiên, do tác động của một số yếu tố khách quan như nhân sự, tổ chức, hành chính… cho nên toàn bộ hệ thống BHXH Việt Nam mới chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/10/1995. Nhưng việc thu BHXH đã được tiến hành từ ngày 01/07/1995 (quy định tại thông tư 58/TC HCSN ngày 24/07/1995 của Bộ Tài Chính về việc hướng dẫn tạm thời thu nộp BHXH). Việc BHXH Việt Nam ra đời đã đánh dấu một trang mới trong lịch sử phát triển BHXH ở Việt Nam.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHI TRẢ BẢO HIỂM XÃ HỘI
Ở CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẠI CÁT THÀNH
I-vài nét về BHXH tại công ty CP Đại Xát Thành.
- Công ty CP Đại Cát Thành được thành lập vào năm 1990, cho đến nay công ty có rất nhiều chi nhánh ở Hà Nội, Hải Dương,Nam Định, Hưng Yên… trụ sở chính tại 26A- Bà Triệu- Hoàn Kiếm- Hà Nội. Với diện tích 65,12 km2. Công ty sử dụng hơn 1500 lao động, trụ sở chính tại Hà Nội có 100 lao động. Ngành nghề chính của công ty là xây dựng hạ tầng, đường giao thông, kinh doanh vật liệu xây dựng, kinh doanh dịch vụ thương mại và du lịch lữ hành trong nước, dịch vụ vui chơi giải trí, khách sạn, sản xuất và chế biến thực phẩm công nghiệp, kinh doanh động bất động sản…
- Công ty CP Đại Cát Thành có vị trí địa lý thuận lợi nên thu hút được nhiều đối tác. Công ty CP Đại Cát Thành hàng năm thường đóng BHXH cho người lao động. Công ty tham gia BHXH với các chế độ: ốm đau, thai sản, mất sức lao động, tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp
Do ngành nghề của công ty là xây dựng nên công ty chú trọng tham gia chế độ hưởng trợ cấp tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp. Công ty thuộc hình thức công ty cổ phần, hoạt động theo luật doanh nghiệp và các quy định khác của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Sau 20 năm đi vào hoạt động, công ty thường tham gia BHXH cho người lao động nên người lao đông yên tâm công tác. Công ty có phòng tài chính là phòng chi trả lương hàng tháng cho người lao động. Hàng năm công ty CP Đại Cát Thành chi trả cho 1000 đối tượng với số tiền chi trả trên 70 tỷ đồng cho các chế độ ốm đau, thai sản, mất sức lao động, tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31503.doc