Chương I
Một số vấn đề lý luận chung về
tổ chức công tác kế toán giá thành và phân tích
giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất
Một số vấn đề lý luận chung về giá thành và tổ chức công tác kế toán tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất:
1.1.1. Khái niệm, bản chất và phân loại giá thành sản phẩm:
Trong bất kỳ doanh nghiệp sản xuất nào, muốn tiến hành hoạt động sản xuất , chế tạo sản phẩm, thực hiện công việc, lao vụ thì doanh nghiệp đều phải bỏ ra những khoản
61 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1203 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải phá hoàn thiện công tác kế toán tính giá thành sản phẩm và phân tích giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần tấm lợp và vật liệu xây dựng Đông Anh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chi phí nhất định, gọi là chi phí sản xuất. Nói cách khác, chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về lao động sống, lao động vật hóa và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp phải chi ra trong quá trình sản xuất, trong một thời kỳ nhất định. Khi những sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành, doanh nghiệp cần phải tính được những chi phí sản xuất phải bỏ ra để sản xuất ra chúng, tức là doanh nghiệp phải xác định giá thành của chúng.
Giá thành sản phẩm (công việc, lao vụ) là chi phí sản xuất tính cho một khối lượng hoặc một đơn vị sản phẩm (công việc, lao vụ) do doanh nghiệp sản xuất đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả sử dụng tài sản, vật tư, lao động và tiền vốn trong quá trình sản xuất, cũng như tính đúng đắn của các giải pháp tổ chức, kinh tế, kỹ thuật và công nghệ mà doanh nghiệp đã sử dụng nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản xuất, hạ thấp chi phí và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Từ khái niệm trên ta có thể thấy giá thành sản phẩm luôn chứa đựng hai mặt khác nhau, vốn có bên trong của nó đó là: chi phí sản xuất đã chi ra và lượng giá trị thu được cấu thành trong khối lượng sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành. Như vậy, bản chất của giá thành sản phẩm là sự chuyển dịch của các yếu tố chi phí vào những sản phẩm, công việc, lao vụ nhất định đã hoàn thành.
* Khi nghiên cứu về giá thành sản phẩm ta cũng cần phải phân biệt giữa hai khái niệm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.Về bản chất, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều là các hao phí về lao động sống, lao động vật hóa và các khoản chi phí khác dùng cho sản xuất. Tuy nhiên, chúng cũng có những điểm khác nhau sau:
- Xét về mặt phạm vi: Chi phí sản xuất chỉ tính những chi phí sản xuất phát sinh trong một kỳ nhất định (tháng, quý, năm) còn giá thành sản phẩm là chỉ giới hạn số chi phí sản xuất liên quan đến khối lượng sản phẩm, dịch vụ hoàn thành.
- Xét về mặt lượng: Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có thể khác nhau khi có sản phẩm sản xuất dở dang đầu kỳ hoặc cuối kỳ. Khi đó, chi phí sản xuất bao gồm toàn bộ chi phí sản xuất sản phẩm hoàn thành và sản phẩm sản xuất dở dang, tính trong một kỳ; còn giá thành sản phẩm chỉ bao gồm chi phí liên quan đến sản phẩm hoàn thành , nó gồm cả một phần chi phí kỳ trước chuyển sang (chi phí về sản phẩm làm dở đầu kỳ), không bao gồm chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ, ngoài ra nó có thể bao gồm một phần chi phí thực tế đã phát sinh được phân bổ kỳ này (chi phí trả trước), hoặc một phần chi phí sẽ phát sinh ở những kỳ sau nhưng đã ghi nhận là chi phí của kỳ này(chi phí phải trả). Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành được thể hiện thông qua công thức sau:
Z = DDK + C - DCK
Trong đó: Z : Tổng giá thành sản phẩm
DDK : Trị giá sản phẩm làm dở đầu kỳ
DCK :Trị giá sản phẩm làm dở cuối kỳ
C : Tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
Từ công thức trên, ta thấy Z = C khi DDK = DCK = 0
* Để đáp ứng yêu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hóa giá thành sản phẩm cũng như việc xác định giá bán và xác định hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất thì cần phải phân loại giá thành theo một số tiêu thức sau:
+ Phân loại giá thành theo cơ sở số liệu và thời điểm tính giá thành:
Giá thành kế hoạch.
Giá thành định mức.
Giá thành thực tế.
+ Phân loại giá thành theo phạm vi các chi phí cấu thành:
Giá thành sản xuất.
Giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ.
Căn cứ vào tiêu thức này giá thành cũng được phân loại thành: giá thành sản xuất toàn bộ, giá thành sản xuất theo biến phí, giá thành sản xuất có phân bổ hợp lý chi phí cố định, giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ
1.1.2. Chức năng và vai trò chủ yếu của giá thành:
* Chức năng: Chức năng chủ yếu của giá thành là thước đo bù đắp chi phí và chức năng lập giá.
* Vai trò: Trong công tác quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh, chỉ tiêu giá thành sản phẩm giữ một vai trò hết sức quan trọng:
+ Giá thành là thước đo mức hao phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm , là căn cứ xác định hiệu quả của hoạt động kinh doanh để nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất.
+ Giá thành là công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả của các biện pháp tổ chức, kỹ thuật (thông qua giá thành kế hoạch).
+ Giá thành là căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xây dựng chính sách giá cả đối với từng loại sản phẩm.
1.1.3. ý nghĩa, nhiệm vụ của việc tính giá thành và quản lý giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất:
Với chức năng và vai trò của giá thành như trên đã trình bày, ta thấy giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu chất lượng quan trọng mà bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất nào cũng phải quan tâm. Thông qua giá thành ta cũng có thể biết được kết quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đó tốt hay xấu. Giá thành sản phẩm cao hay thấp, tăng hay giảm đồng nghĩa với việc lãng phí hay tiết kiệm lao động sống, lao động vật hóa và các chi phí cần thiết khác trong quá trình sản xuất sản phẩm. Việc quản lý, sử dụng hợp lý, tiết kiệm các chi phí trên sẽ là tiền đề, là cơ sở để hạ giá thành sản phẩm, và ngược lại. Mặt khác, giá thành là căn cứ quan trọng để xác định giá bán, hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất, nên việc hạ giá thành là con đường cơ bản để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, là tiền đề hạ giá bán, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước, góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Do đó, để phát huy vai trò, chức năng của giá thành, doanh nghiệp cần phải tổ chức tốt công tác tính giá thành và quản lý giá thành sản phẩm.
Để tổ chức tốt công tác kế toán tính giá thành sản phẩm, đáp ứng tốt yêu cầu quản lý giá thành ở doanh nghiệp, kế toán tính giá thành sản phẩm cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
- Xác định đúng đối tượng tính giá thành sản phẩm phù hợp với đặc thù của doanh nghiệp và yêu cầu quản lý.
- Tổ chức tập hợp, kết chuyển hoặc phân bổ chi phí sản xuất theo đúng các khoản mục giá thành.
- Tổ chức kiểm kê và đánh giá khối lượng sản phẩm dở dang khoa học, hợp lý, xác định giá thành và hạch toán giá thành sản phẩm hoàn thành sản xuất trong kỳ một cách đầy đủ và chính xác.
- Tổ chức vận dụng các tài khoản kế toán để hạch toán giá thành sản phẩm phù hợp với phương pháp kế toán hàng tồn kho (kê khai thường xuyên hoặc kiểm kê định kỳ) mà doanh nghiệp đã chọn.
- Định kỳ tổ chức phân tích giá thành SP ở doanh nghiệp để có những kiến nghị, đề xuất cho lãnh đạo doanh nghiệp ra các quyết định thích hợp.
1.1.4. Nội dung của công tác kế toán tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất:
1.1.4.1. Đối tượng kế toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm:
Trong doanh nghiệp sản xuất, đối tượng kế toán chi phí sản xuất là phạm vi (giới hạn) để tập hợp các chi phí sản xuất phát sinh.
Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ doanh nghiệp sản xuất, chế tạo, thực hiện đã hoàn thành và cần phải tính tổng giá thành và giá thành đơn vị.
Việc xác định đối tượng tính giá thành ở từng doanh nghiệp cụ thể phải dựa vào các căn cứ cơ bản sau:
Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất và cơ cấu sản xuất.
Căn cứ vào quy trình công nghệ sản xuất, chế tạo sản phẩm.
Căn cứ vào đặc điểm sử dụng sản phẩm và nửa thành phẩm.
Căn cứ vào các yêu cầu quản lý, yêu cầu cung cấp thông tin cho việc ra quyết định.
Căn cứ vào khả năng và trình độ quản lý, hạch toán của doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp sản xuất, tùy thuộc vào đặc điểm, tình hình cụ thể mà đối tượng tính giá thành có thể là:
Từng sản phẩm, công việc, đơn đặt hàng đã hoàn thành.
Mức thành phẩm, chi tiết, bộ phận sản phẩm.
Từng công trình, hạng mục công trình.
* Giữa đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành có mối quan hệ chặt chẽ: Chúng đều là phạm vi, giới hạn để tập hợp chi phí và cùng phục vụ cho công tác quản lý, phân tích, kiểm tra chi phí
và giá thành.
+ Đối tượng kế toán tập hợp CPSX có thể trùng với đối tượng tính giá thành; hoặc 1 đối tượng kế toán tập hợp CPSX và nhiều đối tượng tính giá thành; hoặc nhiều đối tượng kế toán tập hợp CPSX nhưng chỉ có 1 đối tượng tính giá thành
1.1.4.2. Kỳ tính giá thành:
Kỳ tính giá thành là thời kỳ bộ phận kế toán giá thành cần phải tiến hành công việc tính giá thành cho các đối tượng tính giá thành.
Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể lựa chọn kỳ tính giá thành khác nhau như: hàng tháng, quý hay tại thời điểm kết thúc 1 chu kỳ sản xuất... Trong trường hợp, doanh nghiệp sản xuất khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn và xen kẽ, liên tục thì kỳ tính giá thành thích hợp là hàng tháng (thời điểm cuối mỗi tháng). Trường hợp doanh nghiệp tổ chức sản xuất đơn chiếc, hàng loạt theo đơn đặt hàng, chu kỳ sản xuất ngắn, sản phẩm chỉ hoàn thành khi kết thúc chu kỳ sản xuất thì kỳ tính giá thành thích hợp là thời điểm kết thúc chu kỳ sản xuất sản phẩm hoặc loại sản phẩm đã hoàn thành.
1.1.4.3 Tổ chức kế toán chi phí sản xuất phục vụ công tác tính giá thành sản phẩm:
1.1.4.3.1. Nguyên tắc hạch toán chi phí (CPSX) vào giá thành sản phẩm:
Theo chế độ qui định về hạch toán hiện nay, tính giá thành sản xuất sản phẩm, dịch vụ chỉ hạch toán các khoản chi phí cơ bản trực tiếp (CPNVLTT, CPNCTT) và những khoản chi phí sản xuất chung (KHTSCĐ, chi phí dịch vụ mua ngoài, CPSX khác...)
Còn chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng được hạch toán vào giá thành thực tế của sản phẩm, dịch vụ bán ra.
Những khoản chi phí khác như: Chi phí đầu tư, chi phí về hoạt động tài chính, chi phí về các khoản chi bất thường... không hạch toán vào chi phí sản xuất, không tính vào giá thành sản phẩm.
1.1.4.3.2. Tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tập hợp chi phí sản xuất phục vụ công tác tính giá thành sản phẩm:
* Nội dung: Kế toán CPSX bao gồm:
- Kế toán nguyên vật liệu trực tiếp
- Kế toán nhân công trực tiếp
- Kế toán chi phí sản xuất chung.
* Nguyên tắc: Kế toán tập hợp CPSX phải tuân theo các nguyên tắc chủ yếu sau:
- Xác định đúng đối tượng kế toán tập hợp CPSX.
- CPSX phát sinh thuộc đối tượng tập hợp CPSX nào thì phản ánh cho đối tượng đó.
- CPSX có liên quan trực tiếp đến đối tượng tập hợp chi phí đã xác định thì tập hợp trực tiếp cho đối tượng kế toán tập hợp chi phí đó. Nếu CPSX có liên quan đến nhiều đối tượng kế toán tập hợp CPSX, không thể tập hợp được trực tiếp cho từng đối tượng thì phải lựa chọn tiêu chuẩn, phương pháp hợp lý để phân bổ cho các đối tượng liên quan.
* Chứng từ sử dụng: Chứng từ kế toán là cơ sở pháp lý để ghi sổ kế toán phản ánh CPSX, tập hợp CPSX để phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm. Chứng từ gốc liên quan đến chi phí phát sinh là những chứng từ về các yếu tố chi phí như: vật tư (phiếu xuất kho), tiền lương (bảng tính lương phải trả), KHTSCĐ (bảng tính KHTSCĐ), tiền mặt (phiếu chi), tiền gửi ngân hàng (phiếu báo Nợ…).
* Tài khoản sử dụng: Tuỳ theo từng doanh nghiệp vận dụng phương pháp kê khai thường xuyên hay phương pháp kiểm kê định kỳ trong kế toán hàng tồn kho để tổ chức tài khoản kế toán tập hợp chi phí cho phù hợp.
* Hệ thống sổ: Tuỳ thuộc vào hình thức tổ chức kế toán áp dụng mà doanh nghiệp sử dụng hệ thống sổ chi tiết và sổ tổng hợp cho phù hợp.
* Phương pháp tập hợp CPSX: Sử dụng 2 phương pháp sau:
- Phương pháp tập hợp trực tiếp: áp dụng đối với các chi phí có liên quan trực tiếp đến đối tượng kế toán tập hợp chi phí đã xác định và công tác hạch toán ghi chép ban đầu cho phép quy nạp trực tiếp các chi phí này vào từng đối tượng kế toán chi phí có liên quan.
- Phương pháp phân bổ gián tiếp: áp dụng khi một loạt các chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất, không thể tập hợp trực tiếp cho từng đối tượng được.
* Trình tự kế toán:
+ Theo phương pháp kê khai thường xuyên: Phụ lục 1
+ Theo phương pháp kiểm kê định kỳ: Phụ lục 2
1.1.4.4. Đánh giá sản phẩm làm dở cuối kỳ:
Sản phẩm dở dang là khối lượng sản phẩm, công việc còn đang trong quá trình sản xuất, chế biến, đang nằm trên dây chuyền công nghệ hoặc đã hoàn thành một vài quy trình chế biến nhưng vẫn còn phải gia công chế biến tiếp.
Đánh giá sản phẩm dở dang là tính toán và xác định phần chi phí sản xuất mà sản phẩm dở dang cuối kỳ phải chịu. Việc tính giá thành sản xuất sản phẩm hoàn thành trong kỳ đúng và khách quan sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc đánh giá sản phẩm dở dang. Do đó, khi đánh giá sản phẩm dở dang phải xác định được mức độ hoàn thành của từng loại sản phẩm dở dang ở từng giai đoạn chế biến, đồng thời phải vận dụng các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang cho phù hợp. Có các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang sau:
* Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí NVLTT:
* Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo khối lượng sản phẩm hoàn thành tương đương:
* Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí định mức:
1.1.4.5. Phương pháp tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất:
Phương pháp tính giá thành sản phẩm là phương pháp sử dụng số liệu chi phí sản xuất đã tập hợp được để tính ra tổng giá thành và giá thành đơn vị của đối tượng tính giá thành.
Trên cơ sở chi phí sản xuất đã tập hợp được theo các đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất, kế toán phải vận dụng phương pháp tính giá thành hợp lý, phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, đặc điểm tính chất sản phẩm, yêu cầu, trình độ quản lý của doanh nghiệp và những quy định thống nhất chung của Nhà nước. Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất phải được tập hợp theo các khoản mục quy định sau: chi phí NVLTT, chi phí NCTT, chi phí SXC.
Trong doanh nghiệp sản xuất, kế toán thường sử dụng các phương pháp tính giá thành sau:
* Phương pháp tính giá thành đơn giản (phương pháp tính giá thành trực tiếp):
Theo phương pháp này, giá thành sản phẩm được tính căn cứ trực tiếp vào chi phí sản xuất trong kỳ đã tập hợp được theo từng đối tượng tập hợp chi phí và giá trị sản phẩm làm dở đầu kỳ, cuối kỳ để tính ra giá thành sản phẩm cho từng khoản mục chi phí theo công thức:
Z = DĐK + C - DCK
z
=
Z
Khối lượng SP hoàn thành
Trong đó:
Z: Tổng giá thành sản phẩm
z: Giá thành đơn vị sản phẩm
DĐK: CPSXDD đầu kỳ
DCK: CPSXDD cuối kỳ
C: Tổng CPSX phát sinh trong kỳ
* Phương pháp tính giá thành phân bước:
+ Phương pháp tính giá thành phân bước có tính giá thành nửa thành phẩm: Theo phương pháp này, kế toán căn cứ vào chi phí sản xuất đã được tập hợp theo từng giai đoạn sản xuất, lần lượt tính tổng giá thành và giá thành đơn vị nửa thành phẩm của giai đoạn sản xuất trước và kết chuyển sang giai đoạn sau một cách tuần tự để tính tổng giá thành và giá thành đơn vị nửa thành phẩm của giai đoạn kế tiếp, tiếp tục cho đến khi tính được tổng giá thành và giá thành đơn vị của thành phẩm ở giai đoạn công nghệ cuối cùng. Phương pháp này áp dụng thích hợp trong trường hợp đối tượng tính giá thành là nửa thành phẩm và thành phẩm.
+ Phương pháp tính giá thành phân bước không tính giá thành nửa thành phẩm: Theo phương pháp này, trước hết kế toán căn cứ vào số liệu, chi phí sản xuất đã tập hợp được trong kỳ theo từng giai đoạn công nghệ sản xuất (từng Phân xưởng, đội sản xuất) tính toán phần chi phí sản xuất của từng giai đoạn đó nằm trong giá thành của thành phẩm, theo từng khoản mục chi phí. Chi phí sản xuất của từng giai đoạn công nghệ sản xuất nằm trong giá thành thành phẩm đã tính được kết chuyển song song từng khoản mục để tổng hợp tính ra tổng giá thành và giá thành đơn vị của thành phẩm. Phương pháp này áp dụng thích hợp trong trường hợp đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở giai đoạn công nghệ cuối cùng.
* Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng:
Theo phương pháp này, khi một đơn đặt hàng hoặc hàng loạt hàng mới đưa vào sản xuất, kế toán phải mở ngay cho mỗi đơn đặt hàng hoặc loạt hàng đó một bảng tính giá thành, cuối mỗi tháng, căn cứ vào chi phí sản xuất tập hợp được ở từng Phân xưởng, đội sản xuất theo từng đơn đặt hàng hoặc hàng loạt hàng trong sổ kế toán chi tiết chi phí sản xuất để ghi sang bảng tính giá thành có liên quan. Khi đơn đặt hàng hoặc hàng loạt hàng đã sản xuất và hoàn thành, kế toán nghi tiếp chi phí sản xuất trong tháng của đơn đặt hàng hoặc hàng loạt hàng. Những đơn đặt hàng hoặc hàng loạt hàng còn đang sản xuất dở dang thì chi phí đã ghi trong các bảng tính giá thành đều là chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ.
Phương pháp tính giá thành loại trừ chi phí:
Giá thành sản phẩm được tính bằng tổng chi phí đã tập hợp chung loại trừ phần chi phí của sản phẩm phụ, chi phí thiệt hại về sản phẩm hỏng, chi phí cung cấp lao vụ cho nhau của các Phân xưởng sản xuất phụ.
* Phương pháp tính giá thành theo hệ số:
Căn cứ vào đặc điểm kinh tế hoặc kỹ thuật của sản phẩm để quy định cho mỗi loại sản phẩm một hệ số, trong đó chọn loại sản phẩm có đặc trưng tiêu biểu nhất làm sản phẩm tiêu chuẩn có hệ số 1. Tiếp theo, căn cứ vào sản lượng thực tế hoàn thành của từng loại sản phẩm và hệ số giá thành quy định để tính đổi sản lượng từng loại ra sản lượng sản phẩm tiêu chuẩn.
Sản lượng thực tế quy đổi ra SP tiêu chuẩn
= Si x Hi
Trong đó:
Si: là sản lượng thực tế sản phẩm loại i
Hi: là hệ số quy định của sản phẩm loại i
Căn cứ vào chi phí sản xuất tập hợp trong kỳ cho cả quy trình công nghệ sản xuất và chi phí của sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ để tính tổng giá thành của cả liên sản phẩm theo từng khoản mục (theo phương pháp giản đơn).
Tính giá thành của từng loại sản phẩm bằng cách lấy tổng giá thành của từng loại sản phẩm chia cho tổng sản lượng các loại sản phẩm đã tính đổi nhân với sản lượng quy đổi của từng loại sản phẩm.
* Phương pháp tính giá thành theo tỷ lệ:
Theo phương pháp này, kế toán phải thực hiện những bước công việc sau: Trước hết dựa vào một tiêu chuẩn hợp lý để làm căn cứ tính tỷ lệ phân bổ giá thành thực tế cho các quy cách sản phẩm trong nhóm. Tiêu chuẩn phân bổ thường được lựa chọn là giá thành định mức hoặc giá thành kế hoạch; tính tổng giá thành của từng quy cách với giá thành đơn vị định mức hoặc kế hoạch theo từng khoản mục; tính tổng giá thành định mức hoặc kế hoạch của cả nhóm theo sản lượng thực tế để làm tiêu chuẩn phân bổ; căn cứ vào chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ cho cả nhóm sản phẩm và chi phí sản phẩm dở dang đầu và cuối kỳ để tính ra tổng giá thành thực tế của cả nhóm sản phẩm; tính tỷ lệ giá thành từng khoản mục:
Tỷ lệ giá thành từng khoản mục
=
Giá thành thực tế cả nhóm sản phẩm
Tiêu chuẩn phân bổ
Tính tổng giá thành thực tế từng quy cách sản phẩm theo từng khoản mục:
Tổng giá thành thực tế từng quy cách
=
Tiêu chuẩn phân bổ
có trong từng quy cách
(theo khoản mục)
x
Tỷ lệ tính
giá thành
* Phương pháp tính giá thành theo giá thành định mức:
Theo phương pháp này, kế toán phải thực hiện những bước công việc sau: trước hết căn cứ vào định mức kinh tế, kỹ thuật hiện hành và dự toán chi phí được duyệt để tính ra giá thành định mức của sản phẩm; tổ chức hạch toán riêng số chi phí sản xuất thực tế phù hợp với định mức và số chi phí chênh lệch, thoát ly định mức; khi có thay đổi định mức kinh tế, kỹ thuật cần kịp thời tính toán lại giá thành định mức và số chênh lệch chi phí sản xuất do thay đổi định mức của số sản phẩm dở dang, nếu có. Giá thành thực tế của sản phẩm sẽ được tính theo công thức sau:
Giá thành thực tế của sản phẩm
=
Giá thành định mức của sản phẩm
-
Chênh lệch do thay đổi định mức
-
Chênh lệch thoát ly định mức
1.1.4.6. Tổ chức kế toán tính giá thành sản xuất sản phẩm.
Tài liệu để tính giá thành sản phẩm: Tùy thuộc vào phương pháp tính giá thành cần có các tài liệu cụ thể.
Tổ chức hệ thống sổ kế toán (bảng tính giá) để tính giá thành sản phẩm: Tùy thuộc theo từng phương pháp tính giá thành để kế toán trưởng thiết kế mẫu biểu sổ (bảng) tính giá thành cho phù hợp.
Tổ chức báo cáo giá thành sản xuất sản phẩm: Báo cáo giá thành sản xuất sản phẩm giúp cho chủ doanh nghiệp có được những thông tin cơ bản về giá thành sản phẩm như: Tổng giá thành sản xuất thực tế và giá thành đơn vị của từng loại sản phẩm, tổng giá thành sản xuất của các loại sản phẩm để phân tích giá thành sản phẩm, so sánh việc phấn đấu hạ thấp giá thành của từng loại sản phẩm...
Một số vấn đề lý luận chung về phân tích giá thành sản phẩm:
Để tồn tại và phát triển trong môi trường kinh tế cạnh tranh ngày càng cao, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm tới công tác hạ giá thành sản phẩm. Để hạ giá thành sản phẩm, đứng trên góc độ quản lý, người quản lý doanh nghiệp cần biết nguồn gốc hay con đường hình thành của nó, nội dung cấu thành của giá thành, để từ đó biết được những nguyên nhân cơ bản nào, những nhân tố cụ thể nào đã làm tăng, giảm giá thành và chỉ có trên cơ sở đó người quản lý mới đề ra được các biện pháp cần thiết để hạn chế, loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố tiêu cực, động viên và phát huy được ảnh hưởng của các nhân tố tích cực, khai thác khả năng tiềm tàng trong việc quản lý, sử dụng các nguồn vật tư, lao động và tiền vốn, không ngừng hạ thấp giá thành của từng loại sản phẩm cũng như của toàn bộ sản phẩm. Muốn thực hiện được những yêu cầu nói trên, cần thiết phải tiến hành phân tích giá thành sản phẩm.
Nội dung chủ yếu của việc phân tích giá thành sản phẩm bao gồm:
* Phân tích, đánh giá chung giá thành của toàn bộ sản phẩm:
+ Chỉ tiêu sử dụng để phân tích: Giá thành toàn bộ
+ Khái quát phương pháp phân tích: Tiến hành so sánh (cả số tuyệt đối và số tương đối) giữa tổng giá thành thực tế với tổng giá thành kế hoạch của toàn bộ sản phẩm, của từng loại sản phẩm, từng khoản mục giá thành đã điều chỉnh theo sản lượng thực tế. Đồng thời, phải chỉ rõ nguyên nhân làm cho giá thành tăng, giảm.
* Phân tích đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ hạ giá thành của sản phẩm so sánh được:
+ Chỉ tiêu sử dụng để phân tích: Mức hạ giá thành và tỷ lệ hạ giá thành.
+ Khái quát phương pháp phân tích: So sánh mức hạ và tỷ lệ hạ giá thành thực tế đã đạt được với nhiệm vụ kế hoạch giá thành; đồng thời xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến tình hình thực hiện nhiệm vụ hạ giá thành sản phẩm.
* Phân tích đánh giá các khoản mục giá thành:
+ Phân tích khoản chi vật liệu trong giá thành:
- Chỉ tiêu sử dụng để phân tích: Chi phí NVL trong giá thành
- Khái quát phương pháp phân tích: So sánh CPNVLTT thực tế với CPNVLTT kế hoạch đã điều chỉnh và xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới khoản chi này.
+ Phân tích khoản mục chi phí nhân công trực tiếp: Phân tích khoản mục này có những nội dung sau:
- Đánh giá chung tình hình thực hiện quỹ lương của công nhân sản xuất:
Chỉ tiêu sử dụng để phân tích: Quỹ lương
Khái quát phương pháp phân tích: So sánh quỹ lương thực tế với quỹ lương kế hoạch để xác định số chênh lệch tuyệt đối, từ đó xác định tỷ lệ tăng (giảm) của quỹ lương; so sánh tỷ lệ tăng giảm của quỹ lương với tỷ lệ tăng giảm của giá trị sản lượng sản phẩm, giữa tỷ lệ tăng (giảm) của tiền lương bình quân với tỷ lệ tăng (giảm) của năng suất lao động bình quân. Đồng thời xác định ảnh hưởng của từng nhân tố đến quỹ lương.
+ Phân tích khoản mục chi phí sản xuất chung: Khái quát phương pháp phân tích: Trước hết, phải đánh giá khái quát bằng cách xét tỷ trọng của từng khoản chiếm trong khoản mục CPSXC. Sau đó, đối với những khoản chiếm tỷ trọng lớn ta cần đi sâu phân tích để thấy được sự biến động của nó, những khoản chiếm tỷ trọng nhỏ thì chỉ cần xem xét tính hợp lý. Đồng thời dùng phương pháp so sánh giữa thực tế với kế hoạch (dự toán) của khoản mục chi phí chung để thấy được sự biến động chung của khoản mục.
chương II
Tình hình tổ chức công tác tính giá thành sản phẩm
và phân tích giá thành sản phẩm ở công ty cổ phần
tấm lợp và vật liệu xây dựng đông anh
2.1. Đặc điểm, tình hình chung của Công ty Cổ phần Tấm lợp và Vật liệu Xây dựng Đông Anh:
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần Tấm lợp và Vật liệu Xây dựng Đông Anh:
Công ty Cổ phần Tấm lợp và Vật liệu Xây dựng Đông Anh, tiền thân là Xí nghiệp cung ứng vật tư vận tải – Trực thuộc Tổng Công ty Xây dựng và Phát triển hạ tầng – Bộ Xây dựng, được thành lập theo QĐ số 196/QĐ -BXD ngày 29/01/80 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng, trụ sở đóng tại Khối 2A-Thị trấn Đông anh –Thành phố Hà nội. Đến tháng 1/1999, thực hiện nghị định 44/1998/NĐ-CP của Chính Phủ về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần, Công ty có quyết định chuyển thành Công ty cổ phần, với số vốn điều lệ là 9.338.200.000 đồng, trong đó:
+ Vốn của Nhà nước là: 4.361.900.000 đ (chiếm 47,5%)
+ Vốn cổ đông là : 4.976.300.000 đ (chiếm 52,5%)
Số lượng cổ đông của Công ty là 495 cổ đông. Mệnh giá cổ phần: 100.000đ
Số CBCNV của Công ty là 480 người (trong đó, nhân viên quản lý là 50 người). Thu nhập bình quân của 1 CBCNV là 1.017.232 đ/tháng.
* Từ khi chuyển đổi theo hình thức sở hữu mới cho tới nay, Công ty tiếp tục hoạt động sản xuất, kinh doanh theo các ngành nghề sau:
Sản xuất kinh doanh các sản phẩm tấm lợp: Amiăng-ximăng, tấm lợp tôn, kim loại mầu.
Kinh doanh vận tải đường bộ.
Kinh doanh vật tư, thiết bị và gia công chế tạo máy sản xuất tấm lợp
Xây lắp các công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp.
2.1.2. Đặc điểm về tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh và quy trình công nghệ sản xuất các loại sản phẩm chủ yếu của Công ty:
2.1.2.1. Đặc điểm về tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh:
Từ khi cổ phần hóa, Công ty đã tổ chức lại bộ máy quản lý (vẫn trên cơ sở bộ máy tổ chức cũ), thêm một số bộ phận nhưng vẫn theo nguyên tắc: Đơn giản, gọn nhẹ, làm việc có hiệu quả cao nhất mà vẫn theo quy định của pháp luật. Được thể hiện trên sơ đồ dưới đây:
sơ đồ Bộ máy tổ chức hiện nay của Công ty
Đại hội đồng cổ Đông
Hội đồng quản trị
ban kiểm soát
Chủ tịch HĐQT
Tổng giám đốc
Phó tổng giám đốc
Văn phòng
Phòng
kế toán
Tài chính
Phòng
kinh tế
kế hoạch
Phòng
Kinh doanh
Tiếp thị
Phòng
công nghệ
cơ điện
Ban
kcs
________________________________________________________
đội
xe vận tải
đội
xây lắp
Phân xưởng tấm lợp
kim loại mầu
Phân xưởng
Tấm lợp AC
2.1.2.3. Tổ chức bộ máy kế toán của Công ty Cổ phần Tấm lợp và Vật liệu Xây dựng Đông Anh:
Để đáp ứng yêu cầu hạch toán của Công ty, phù hợp với địa bàn sản xuất tập trung, bộ máy kế toán của Công ty được tổ chức theo hình thức tập trung. Phòng kế toán tài chính của Công ty gồm 4 người, được tổ chức theo sơ đồ khái quát như sau:
kế toán trưởng
(phụ trách chung)
Kế toán tổng hợp kiêm kế toán về doanh thu, tiền mặt, thanh toán với người mua
Kế toán chi tiết, kế toán với ngân hàng, kế toán vật liệu, kế toán với người bán
Thủ quỹ
* Hình thức tổ chức kế toán của Công ty: Công ty áp dụng hình thức tổ chức kế toán nhật ký chung
* Hệ thống sổ sách và trình tự luân chuyển chứng từ, ghi sổ, lập Báo cáo tài chính được áp dụng theo hình thức kế toán Nhật ký chung
* Sử dụng 45 TK theo quy định 1141/TCQĐ và mở một số TK cấp II để đáp ứng yêu cầu hạch toán và quản lý.
* Công ty nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ; kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên và thực hiện việc hạch toán NVL theo phương pháp thẻ song song; đánh giá NVL, CCDC nhập kho theo giá thực tế và xác định trị giá NVL, CCDC xuất kho theo phương pháp nhập trước, xuất trước; tính KHTSCĐ theo nguyên giá và thời gian sử dụng; trả lương theo hình thức lương thời gian, lương sản phẩm và áp dụng chế độ tiền thưởng.
2.2. Thực trạng tổ chức công tác kế toán tính giá thành sản phẩm:
2.2.1. Công tác quản lý giá thành ở Công ty Cổ phần Tấm lợp và Vật liệu Xây dựng Đông anh:
Để đáp ứng yêu cầu quản lý, hạch toán giá thành, xác định giá bán sản phẩm và xác định hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất, Công ty đã tiến hành phân loại giá thành theo cơ sở số liệu và thời điểm tính giá thành:
+ Giá thành định mức: Hằng năm, căn cứ vào định mức hao phí NVL của Phòng Công nghệ cơ điện cung cấp, định mức tiền công lao động trực tiếp, định mức chi phí sản xuất chung Phòng Kinh tế- kế hoạch sẽ xây dựng giá thành định mức của hai sản phẩm tấm lợp AC và tấm lợp Kim loại mầu.
+ Giá thành kế hoạch: Giá thành kế hoạch của hai loại sản phẩm tấm lợp AC và tấm lợp kim loại mầu cũng do Phòng Kinh tế - kế hoạch lập trước khi Công ty bắt đầu quá trình sản xuất của năm cần lập kế hoạch và sau khi năm trước đó đã quyết toán xong. Khi lập kế hoạch các khoản mục giá thành thì Phòng Kinh tế- kế hoạch sẽ căn cứ vào các định mức chi phí thực tế của 1 năm (năm vừa quyết toán xong), Bảng phân bổ tiền lương và BHXH chi tiết..
+ Giá thành thực tế: Hàng tháng, bộ phận kế toán của Công ty sẽ tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Căn cứ vào giá thành định mức và giá thành thực tế, Phòng Kinh tế- kế hoạch sẽ xác định được kết quả sử dụng tài sản, vật tư, lao động trong sản xuất và đánh giá đúng đắn các giải pháp kinh tế, kỹ thuật mà Công ty đã thực hiện trong quá trình hoạt động, sản xuất. Trên cơ sở đó, Phòng Kinh tế- kế hoạch sẽ dựa vào các quyết định có liên quan của Công ty để lập danh sách thưởng, phạt và trình lên Tổng giám đốc (nếu cần).
Căn cứ vào giá thành kế hoạch và giá thành thực tế, Phòng Kinh tế- kế hoạch tiến hành so sánh, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, góp phần hoàn thiện công tác lập kế hoạch giá thành và thực hiện kế hoạch hạ giá thành sản phẩm của năm tiếp theo.
2.2.2. Đối tượng tập hợp CPSX và đối tượng tính giá thành:
Tại Công ty Cổ phần Tấm lợp và Vật liệu Xây dựng Đông anh, để xác định đối tượng tập hợp CPSX và đối tượng tính giá thành phù hợp với điều kiện, đặc điểm riêng thì Công ty đã dựa vào các căn cứ cơ bản sau:
+ Đặc điểm tổ chức sản xuất và cơ cấu sản xuất: Công ty tổ chức sản xuất hàng loạt sản phẩm tấm lợp AC tại Phân xưởng sản xuất tấm lợp AC
+ Quy trình công nghệ sản xuất: Quy trình công nghệ sản xuất tấm lợp AC giản đơn, khép kín, chu kỳ sản xuất ngắn, xen kẽ liên tục từ khâu chuẩn bị NVL đến khâu nghiệm thu và xuất xưởng thành phẩm tấm lợp AC. Kết quả sản xuất của Phân xưởng tấm lợp AC là thành phẩm tấm lợp AC (không tạo ra bán thành phẩm) nên trong quá trình sản xuất không có SPDD. Do đó, khi tính CPSX, tập hợp CPSX, tính giá thành sản phẩm, ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29725.doc