Mục lục
Trang
Lời mở đầu 2
A. Cơ sở lý luận 3
I, Khái niệm, đặc điểm, vai trò của kinh tế tư nhân 3
1.Quan niệm về kinh tế tư nhân 3
2. Bản chất, đặc điểm của khu vực kinh tế tư nhân 3
2.1.Bản chất của kinh tế tư nhân 4
2.2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân 5
2.3. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay 5
3.Các hình thức biểu hiện của kinh tế tư nhân ở nước ta 6
3.1. Hình thức kinh doanh cá thể, tiểu chủ 6
3.2. Các loại hình doanh nghiệp thuộc khu v
18 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1577 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực KTTN 6
B. Thực trạng và đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân 6
1. Thực trạng kinh tế tư nhân ở Việt Nam 6
2. Vai trò của kinh tế tư nhân 9
3. Một số hạn chế của khu vực kinh tế tư nhân 11
4. Nguyên nhân của thực trạng 12
C. Một số giải pháp cụ thể 14
Kết luận 17
Phụ lục 18
Lời mở đầu
Chúng ta đang chứng kiến một thời đại các rào cản đầu tư, thương mại hàng hóa và dịch vụ dần bị dỡ bỏ, nền kinh tế thị trường mở đang tạo điều kiện dễ dàng cho kinh tế tư nhân lớn mạnh không ngừng. Trong quá trình phát triển, kinh tế tư nhân đã tồn tại dưới nhiều dạng như kinh tế cá thể, Công ty và ngày nay là những Công ty đa quốc gia. Sự lớn mạnh của các Công ty đa quốc gia trong những năm cuối của thế kỷ XX cho thấy kinh tế tư nhân đã có sự phát triển vượt bậc với những thay đổi về chất. Các Công ty đa quốc gia chính là biểu hiện của kinh tế tư nhân được quốc tế hóa, nó trở thành lực lượng hùng mạnh nhất của kinh tế tư nhân.
Trong nền kinh tế thị trường mở, quốc gia nào có nền kinh tế tư nhân tham gia nhiều nhất, đầy đủ nhất và sâu sắc nhất vào nền kinh tế toàn cầu thì quốc gia đó sẽ càng có ưu thế trong cạnh tranh. Dựa trên bối cảnh và xu thế phát triển này, mỗi quốc gia cần phải có chính sách phát triển kinh tế tư nhân thích hợp của mình, trong đó, phải đặc biệt chú ý đến sự hợp tác của kinh tế tư nhân trong nước với các công ty đa quốc gia cũng như trực tiếp tham gia vào.
Thực tế cho thấy kinh tế tư nhân có vai trò đắc lực tạo ra sự phát triển của xã hội, tạo cho mỗi cá nhân vô số cơ hội có việc làm để khẳng định mình, để mưu cầu cuộc sống và hạnh phúc, tức là góp phần tạo ra con người với nhiều phẩm chất tốt đẹp hơn. Phát triển kinh tế, suy cho cùng không phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện. Mục tiêu tối thượng của nhân loại là xã hội phát triển, con người phát triển. Có thể nói rằng kinh tế tư nhân là một phương tiện quan trọng để con người có cơ hội hoàn thiện mình trong quá trình phát triển hướng thiện của nhân loại. Con người đã sáng tạo ra và quyết định lựa chọn kinh tế tư nhân để phát triển, nhưng đồng thời kinh tế tư nhân lại là môi trường tốt để con người tự thân phát triển, con người có cơ hội tự hoàn thiện vì sự phát triển của chính nó và thông qua đó phát triển toàn xã hội. Đó chính là giá trị nhân văn chân chính của kinh tế tư nhân.
Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng trong việc cải cách khu vực kinh tế tư nhân và thực hiện những cải thiện về môi trường đầu tư để thu hút sự đầu tư của mọi thành phần kinh tế, trong đó cơ bản là thu hút đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân để thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển từng bước hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
A.Cơ sở lý luận :
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất.
Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập, mà có liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm nhiều thành phần kinh tế.
Căn cứ vào nguyên lý chung và điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: nền kinh tế trong thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội Việt Nam có 6 thành phần:
- Kinh tế nhà nước
- Kinh tế tập thể
- Kinh tế cá thể, tiểu thủ
- Kinh tế tư bản tư nhân
- Kinh tế tư bản nhà nước
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Ở đây chúng ta sẽ nghiên cứu khu vực kinh tế tư nhân.
I. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của kinh tế tư nhân :
1. Quan niệm về kinh tế tư nhân :
Kinh tế tư nhân (KTTN) là khu vực kinh tế được hình thành và phát triển dựa trên nền tảng chủ yếu là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lợi ích cá nhân.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, do đặc điểm của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, kinh tế cá thể vẫn tiếp tục tồn tại và tồn tại bên cạnh hình thức doanh nghiệp. Kinh tế cá thể và doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN là hai hình thức biểu hiện chủ yếu của KTTN.
Ở nước ta hiện nay, KTTN không phải là một thành phần kinh tế, mà là một khu vực kinh tế gồm hai thành phần kinh tế: thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Hai thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân đều thuộc cùng một chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, vì vậy cũng thuộc khu vực KTTN.
2. Bản chất, đặc điểm của khu vực kinh tế tư nhân :
2.1. Bản chất của khu vực kinh tế tư nhân :
Về quan hệ sở hữu: sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là cơ sở tồn tại của KTTN. Sở hữu KTTN phát triển từ thấp đến cao và bao gồm hai hình thức cơ bản :
1, Sở hữu tư nhân nhỏ là sở hữu của cá nhân hay hộ gia đình sản xuất ra sản phẩm bằng sức lao động của chính cá nhân hay hộ gia đình đó.
2, Sở hữu tư nhân lớn gắn liền với sự xác lập nền sản xuất lớn, là đại biểu của nền kinh tế hàng hoá phát triển đến trình độ cao, của phương thức sản xuất tư bản công nghiệp.
Về quan hệ phân phối: trong KTTN, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh khác nhau có quan hệ phân phối khác nhau. Đối với kinh tế cá thể, do dựa vào sức lao động của bản thân nên sản phẩm và kết quả lao động chủ yếu thuộc về gia đình hay cá nhân đó. Đối với kinh tế tư bản tư nhân, nhìn chung quan hệ phân phối được dựa trên nguyên tắc: chủ sở hữu tư liệu sản xuất chiếm chiếm phần sản phẩm thặng dư còn người lao động được hưởng phần sản phẩm tất yếu.
2.2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân :
Một là, KTTN gắn liền với lợi ích cá nhân - một trong những động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Trong thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, với việc tôn trọng lợi ích cá nhân đã tạo ra một động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Quá trình chuyển đổi của nền kinh tế nước ta trong những năm qua cũng đã chứng minh điều đó. Sự hồi sinh và phát triển của KTTN trong những năm đổi mới chính là sự kết hợp đúng lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong quá trình sản xuất, do đó đã tạo ra động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Hai là, KTTN, mà tiêu biểu là doanh nghiệp (DN) của tư nhân, là mô hình tổ chức kinh doanh của nền sản xuất hàng hoá.
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Trong đó cơ cấu của kinh tế thị trường chủ yếu dựa trên cơ sở của mô hình tổ chức DN có mục tiêu cao nhất và cuối cùng là tạo ra giá trị thặng dư. Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy, mô hình tổ chức DN đã đang và còn tiếp tục là một mô hình tổ chức kinh tế có hiệu quả, phù hợp với cơ chế thị trường hiện đại.
Ba là, KTTN là bộ phận quan trọng của kinh tế thị trường.
Mọi người đều thừa nhận rằng cơ chế thị trường là cách thức tốt nhất và duy nhất (cho đến nay) để một nền kinh tế vận hành có hiệu quả cao. Kinh tế thị trường là phương tiện để đạt đến một nền sản xuất lớn, hiện đại. Nền kinh tế thị trường khó có thể tồn tại và phát triển nếu không có sở hữu tư nhân và KTTN. Nói cách khác cơ chế thị trường hiện đại chính là dạng thức sinh tồn của KTTN mà điển hình là mô hình tổ chức DN. Hình thức tổ chức sản xuất này là sản phẩm tự nhiên của cơ chế thị trường và tự nó lớn lên trong cơ chế thị trường. Ở Việt Nam muốn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì phải phát triển KTTN nói chung và mô hình tổ chức DN nói riêng.
Chúng ta cũng có thể xem xét một số đặc điểm của KTTN ở nước ta hiện nay:
Một là, KTTN mới được phục hồi và phát triển nhờ công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Hai là, KTTN hình thành và phát triển trong điều kiện có Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng Sản.
Ba là, KTTN ở nước ta ra đời và phát triển trong điều kiện quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội không phải là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự tồn tại và phát triển của KTTN ở nước ta hiện nay được coi như một công cụ là những hình thức tổ chức sản xuất – kinh doanh theo mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, là bộ phận cấu thành của quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, KTTN nước ta ra đời và phát triển ở một nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phát triển chậm, trong bối cảnh thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giải phóng lực lượng sản xuất, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành vấn đề trung tâm.
KTTN ở nước ta có đặc điểm khác về bản chất so với KTTN ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, điều đó thể hiện ở chỗ :
Một là, KTTN ở nước ta hiện nay là kết quả của chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, là bộ phần hữu cơ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy nó mang bản chất khác với kinh tế tư bản tư nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa trước đây và hiện nay.
Hai là, KTTN ở nước ta bị chi phối và phát triển theo định hướng mà Đảng Cộng Sản Việt nam đề ra thông qua hệ thống các chính sách và pháp luật của nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Và thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, Nhà nước có thể điều tiết việc sử dụng lao động phân phối thu nhập của kinh tế tư bản tư nhân nhằm đảm bảo các mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, KTTN ở nước ta ngay từ khi mới ra đời đã mang những yếu tố tích cực :
KTTN, đặc biệt là các DN đại diện cho một lực lượng sản xuất mới, góp phần quan trọng giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và trực tiếp giải quyết nhiều vấn đề xã hội gay gắt (lao động, việc làm xoá đói giảm nghèo...)
Các DN thuộc khu vực KTTN thông qua các hoạt động của mình cũng góp phần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, gắn kết các giai tầng xã hội vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
2.3.Vai trò của khu vực KTTN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay :
Sự phát triển của khu vực KTTN thời gian qua đã khơi dậy một bộ phận tiềm năng của đất nước cho phát triển kinh tế xã hội. Nguồn tiềm năng này là trí tuệ, kinh nghiệm, khả năng kinh doanh, quan hệ xã hội, tiền vốn, sức lao động của con người, tài nguyên, thông tin và các nguồn lực khác. Những nguồn lực này chủ yếu là trong nước, nhưng cũng có một số không ít cá nhân sử dụng vốn của gia đình ở ngoài nước gửi về. KTTN có một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay :
- Đóng góp vào tăng trưởng của tổng sản phẩm trong nước (GDP).
- Đóng góp và huy động các nguồn vốn trong xã hội, nộp ngân sách cho Nhà nước.
- Khu vực KTTN tạo việc làm và góp phần xoá đói giảm nghèo.
- Khu vực KTTN góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
3. Các hình thức biểu hiện của kinh tế tư nhân ở nước ta :
3.1. Hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ
Theo tinh thần Nghị định số 66- HĐBT ngày 02-03-1992 của Hội đồng Bộ trưởng và Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03-02-2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh,thì hộ kinh doanh cá thể do một cá nhân hoặc hộ gia đình làm chủ, kinh doanh tại một địa điểm cố định, không thường xuyên thuê lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
3.2. Các loại hình DN thuộc khu vực KTTN:
Quan niệm về DN: theo Luật Doanh nghiệp, DN là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký hoạt động kinh doanh.
Các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN ở nước ta hiện nay là :
DN tư nhân: là DN do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của DN.
Công ty trách nhiệm hữu hạn (hai thành viên trở nên).Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại công ty đối vốn, chịu trách nhiệm hữu hạn.
Công ty cổ phần là loại hình công ty đối vốn, chịu trách nhiệm hữu hạn, trong dó các thành viên (cổ đông) có cổ phần và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn góp vào doanh nghiệp. Đây là một trong những loại hình doanh nghiệp đang chiếm ưu thế, hoạt động có hiệu quả và mang tính xã hội hoá cao.
Công ty hợp danh: đây là một loại hình tổ chức ít được các chủ sở hữu lựa chọn. Công ty hợp danh là DN trong đó phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn.
B. Thực trạng và đóng góp của khu vực KTTN:
1. Thực trạng của khu vực KTTN ở Việt Nam
Trước đổi mới, các DN tư nhân chủ yếu giới hạn trong khu vực hộ kinh doanh, thường không có tư cách pháp nhân chắc chắn và hoạt động chủ yếu ở thị trường ngầm. Tuy nhiên đến cuối thập kỷ 80, có rất nhiều thương nhân hoạt động khắp đất nước và nhiều hoạt động tư nhân quy mô nhỏ ở cả khu vực nông thôn và khu vực thành thị, mặc dù hầu hết họ không được chấp nhận chính thức. Số hộ kinh doanh tăng từ khoảng 0.84 triệu năm 1990 lên 2,2 triệu hộ năm 1996 và 3 triệu hộ tính đến cuối năm 2004. Ngoài ra, cả nước còn có khoảng 130 000 trang trại và trên 10 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hoá.
Về doanh nghiệp của khu vực KTTN:
Sau khi Luật công ty được phê chuẩn năm 1990, số lượng các công ty tư nhân tăng lên nhanh chóng. Năm 1991 chỉ có 414 DN thì đến năm 1992 là 5189 DN, năm 1995 là 15 276 DN, năm 1999 là 28 700. Trong giai đoạn 1991- 1999 bình quân mỗi năm tăng thêm 5000 DN.
Luật Doanh nghiệp có hiệu lực từ 1/1/2000 là một khâu đột phá thúc đẩy sự phát triển vượt bậc của DN thuộc khu vực KTTN. Sau gần 5 năm thi hành Luật doanh nghiệp, đến cuối năm 2004, cả nước đã có gần 108 300 DN mới đăng ký, đưa tổng số DN đăng ký lên tới khoảng 150 000 DN. Trong 10 tháng đầu năm 2004, nước ta đã có 27 013 DN mới đăng ký mới, với số vốn tương ứng khoảng trên 53000 tỷ đồng, tăng 36% về số lượng DN và 29 % về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2003, chưa kể đến năm 2004 nước ta có trên 4000 DN tăng vốn với 144 000 tỷ đồng. Ước cả năm 2004 có trên 33 000 DN đăng ký kinh doanh với mức vốn khoảng 65 000 tỷ đồng. Số DN đăng ký mới trung bình hàng năm thời kỳ 2000 – 2004 bằng 3,75 lần so với trung bình hàng năm của thời kỳ 1991- 1999. Số DN mới đăng ký trong 5 năm (2000 – 2004) ước cao gấp gần 2 lần so với 9 năm trước đây (1991- 1999) tăng bình quân 25,6% năm.
Mức vốn đăng ký trung bình một DN tăng nhanh, từ 570 triệu đồng/DN thời kỳ 1991- 1999 lên 2015 tỷ đồng năm 2004. DN có mức vốn đăng ký thấp nhất là 5 triệu đồng và cao nhất là khoảng 200 tỷ đồng.
Quy mô vốn bình quân mỗi DN cũng rất khác nhau ở từng địa phương. Một số tỉnh, thành phố có mức vốn bình quân khá cao như Hưng Yên (3 tỷ đồng/DN), Quảng Ninh, Bình Dương (2,5 tỷ đồng/DN), Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh (1,25tỷ đồng/DN). Năm 2004, 10 tỉnh, thành phố có số lượng đăng ký nhiều nhất là: thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nghệ An, Cà Mau, Bình Dương, Đồng Nai, Kiên Giang và Khánh Hoà. Một số DN không nằm trong vùng kinh tế trọng điểm nhưng có số lượng DN đăng ký tương đối nhiều như Nghệ An, Cà Mau, Kiên Giang.
Không chỉ số lượng các DN tăng nhanh mà quy mô và phạm vi hoạt động của các DN cũng được mở rộng. Từ năm 2000, tốc độ tăng sản lượng của khu vực KTTN trong nước đã vượt cả khu vực DNNN và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
1998191998
Về cơ cấu loại hình DN:
Trước năm 2000, loại hình DN tư nhân chiếm tỷ trọng rất cao. Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng rất cao. Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu loại hình DN. Tỷ trọng loại hình DN tư nhân trong tổng số DN đăng ký giảm từ 64% trong giai đoạn 1991- 1999 xuống còn 34% năm 2003 và khoảng 30% năm 2004; trong khi đó tỷ trọng công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần tăng từ 36% lên 66% năm 2003 và khoảng 67,3% năm 2004. Loại hình công ty cổ phần tăng từ 1,1% lên 10% năm 2003 và khoảng 13,6% năm 2004. Sự thay đổi này cho thấy các nhà đầu tư trong nước có xu hướng lựa chọn loại hình DN hiện đại, tạo cơ sở để DN có thể phát triển không hạn chế về quy mô và thời hạn hoạt động.
Sự phân bổ của DN theo lĩnh vực kinh doanh :
Trước năm 2000, hầu hết các DN đăng ký hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực thương mại (khoảng 61%), có khoảng 26% số DN hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và 3% trong lĩnh vực xây dựng, còn lại là các ngành dịch vụ và kinh doanh tổng hợp. Luật Doanh nghiệp ra đời đã tác động tích cực đến việc lựa chọn lĩnh vực kinh doanh của các DN thuộc khu vực KTTN. Đến năm 2004, mặc dù tỷ lệ DN hoạt động trong lĩnh vực thương mại vẫn chiếm tỷ trọng cao, nhưng tỷ lệ DN trong lĩnh vực chế tạo và các dịch vụ khác đã tăng lên. Năm 2004 có khoảng 42,7% các DN hoạt động trong lĩnh vực thương mại, 31,4% trong công nghiệp và xây dựng ; 3,9% trong nông nghiệp và 21,9% trong các dịch vụ khác và kinh doanh tổng hợp.
Nhìn chung, khu vực KTTN mà chủ yếu là các DN đã mở rộng các hoạt động kinh doanh hầu hết các ngành và lĩnh vực mà pháp luật không cấm như: hoạt động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ cao cấp như công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, chế biến, công nghệ thông tin, ngân hàng tài chính,bảo hiểm, tư vấn...
Sự phân bố của DNTN theo vùng và theo lãnh thổ :
Sự phân bổ các DN của khu vực KTTN ở các địa phương khác nhau không đồng đều. DN tập trung chủ yếu ở các vùng trọng điểm như vùng Đông Nam Bộ, vùng đồng bằng Sông hồng. Điều này chứng tỏ môi trường kinh doanh, chính sách và mức độ phát triển kinh tế ở các địa phương có tác động rất lớn đến sự phát triển của khu vực kinh tế này. Theo số liệu thống kê, đến hết tháng 12/2004 vùng đồng bằng Nam Bộ vẫn là vùng có số lượng DN lớn nhất, 16 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và miền Nam Trung bộ có số DN đăng ký trong thời kỳ 2000 đến tháng 12/2004 thấp hơn số DN đăng ký thời kỳ 1991-1999, ví dụ Trà Vinh bằng 21% so với thời kỳ 1991-1999, Bến Tre và Đồng Tháp 36%, Tiền Giang và Vĩnh Long 39%, Kiên Giang 41%, Bình Thuận 44%, Long An 48%...Còn các tỉnh ở miền Bắc, Luật DN đã phát huy mạnh hiệu quả của nó, nhất là các tỉnh miền núi phía Bắc như : Vĩnh Phúc, Hoà Bình, Bắc Cạn, Lai Châu, Bắc Giang số tỉnh khác như Quảng Ninh, Hưng Yên, Thanh Hóa... ở các tỉnh này , số DN đăng ký mới trong 4 năm qua tăng từ 4-8 lần so với thời kỳ 1991-1999.
Riêng ở TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nghệ An, Cà Mau,Bình Dương, Đồng Nai,Kiên Giang...là các tỉnh có số đăng ký nhiều nhất. Hầu hết các tỉnh , thành phố này đều thuộc các vùng kinh tế trọng điểm(trừ Nghệ An, Cà Mau, Kiên Giang).
2. Vai trò của kinh tế tư nhân :
Khu vực KTTN đang thực sự trở thành một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Đóng góp lớn nhất và quan trọng nhất của khu vực KTTN là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động.
Trong điều kiện nước ta, vấn đề lao động và tạo ra việc làm đang là vấn đề cấp bách. Trong khi hệ thống các DNNN ở nước ta hiện đang trong quá trình cải cách không tạo thêm được nhiều việc làm mới; khu vực hành chính nhà nước đang giảm biên chế và tuyển dụng mới không nhiều. Do đó khu vực KTTN chính là nơi thu hút, tạo việc làm mới cho xã hội. Ở Việt Nam cũng như ở bất cứ nước nào trong khu vực, số việc làm tạo ra trên mỗi một đơn vị đầu tư ở khu vực tư nhân lớn hơn nhiều so với khu vực nhà nước. Do vậy, DNTN đã đóng góp một phần lớn giải quyết việc làm cho người lao động. Các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể (phi nông nghiệp) đã sử dụng khoảng 16% lực lượng lao động xã hội với khoảng hơn 6 triệu người. Trong 4 năm qua, các DN dân doanh và hộ cá thể mới thành lập đã tạo ra khoảng 1,5-2 triệu chỗ làm việc mới. Hiện nay khu vực KTTN vẫn là khu vực sử dụng nhiều lao động với khoảng 91% tổng lực lao động toàn xã hội. Năm 2004, số lao động làm việc trực tiếp trong các DN thuộc khu vực KTTN đã gần bằng tổng số lao động trong các DN nhà nước. DN ngoài quốc doanh góp phần giải quýêt khoảng 1,6-2 triệu việc làm, trong đó DN vừa và nhỏ (chiếm 96% tổng số DN ngoài quốc doanh) đã thu hút 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, khoảng 25-26% lực lượng lao động cả nước.
Khu vực KTTN đã đóng góp quan trọng vào GDP thúc đẩy tăng trưởng kinh tế :
Tăng trưởng của khu vực tư nhân đã góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và việc xoá đói giảm nghèo. Hiện nay KTTN đóng góp khoảng 49% GDP cả nước, chiếm khoảng 28,8% trong các ngành công nghiệp (xấp xỉ bằng tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài , không kể dầu khí), tăng 4,4% so với năm 2000. Trong lĩnh vực thương nghiệp, vị thế của KTTN còn lớn hơn nhiều, KTTN chiếm đến 84% tổng mức bán lẻ hang hoá và dịch vụ.
Những năm gần đây, khu vực KTTN có tốc độ tăng trưởng rất nhanh, góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Trong 4 năm(2000-2004), tốc độ tăng trưởng của KTTN trong công nghiệp đạt mức 20%/ năm. Trong nông nghiệp, KTTN đã có đóng góp đáng kể trong trồng trọt, chăn nuôi và đặc biệt là trong các ngành chế biến và xuất khẩu. Nhờ sự phát triển của KTTN, cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã có sự chuyển dịch quan trọng theo hướng sản xuất hàng hóa, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Trong những năm gần đây, nhất là từ khi có Luật Doanh nghiệp, khu vực KTTN đã trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nước ta. Năm 2004, công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 22,8% là mức răng cao nhất so với các khu vực khác (kinh tế quốc doanh tăng 11,4%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,7%), chiếm tỷ trọng 27% giá trị sản xuất công nghiệp. Trong thương mại, kinh tế ngoài quốc doanh đạt mức tăng 26%, cũng là mức cao nhất và chiếm 82% tổng mức bán lẻ hàng hoá, dịch vụ. Đóng góp của khu vưc KTTN vào tăng trưởng GDP tăng từ 36,6% năm 2000 lên 41,7% năm 2003 và khoảng 42% năm 2004. Năm 2004, KTTN đóng góp khoảng 49% GDP cả nước ,chiếm khoảng 27% trong các ngành công nghiệp chế biến.
Đóng góp về xuất khẩu và tăng nguồn thu ngân sách :
Theo số liệu thống kê của Bộ Thương mại, đến năm 2002, khu vực KTTN trong nước đóng góp khoảng 48% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. KTTN là nguồn lực chủ yếu phát triển các mặt hàng mới, mở rộng thị trường xuất khẩu. Một số DN vượt lên chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu về một số mặt hang quan trọng. Ở một số địa phương, KTTN là khu vực đóng góp chủ yếu về xuất khẩu (Hà Giang 60%, Bình Thuận 45%, Quảng Ngãi 34%).
Đóng góp của các DN dân doanh vào ngân sách nhà nước đang có xu hướng tăng nhanh
Từ khoảng 6,4% năm 2001 lên hơn 7% năm 2002. Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. Ngoài ra, KTTN còn góp phần tăng nguồn thu ngân sách như thuế môn bài, VAT trong nhập khẩu và các loại phí khác.
Ở một số địa phương đóng góp của DN dân doanh chiếm tỷ trọng lớn trong ngân sách. Chẳng hạn ở thành phố Hồ Chí Minh là khoảng 15%, Tiền Giang 24%, Đồng Tháp 16%, Gia Lai 22%, Quảng Nam 22%, Bình Định 33%,…
Nhìn chung, đóng góp trực tiếp vào nguồn thu ngân sách nhà nước của các DN, hộ kinh doanh cá thể theo Luật Doanh nghiệp trong mấy năm qua là chưa tương xứng với tốc độ phát triển của khu vực kinh tế này. Ngoài đóng góp trực tiếp vào ngân sách, DN, hiệp hội DN còn tích cực tham gia đóng góp xây dựng các công trình văn hoá, trường học, đường giao thông nông thôn, nhà tình nghĩa và những đóng góp xã hội khác ở các địa phương trong cả nước.
Khu vực KTTN tiếp tục có đóng góp rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư xã hội :
Đầu tư toàn xã hội năm 2005 đạt 39% GDP, trước đó mục tiêu đề ra là 30-32% GDP. Tổng mức đầu tư toàn xã hội đạt 326.000 tỷ đồng, trong đó đầu tư nước ngoài chiếm 17%, đầu tư tư nhân trong nước chiếm 32%. 49% thuộc về khu vực ngoài quốc doanh là một tỷ lệ ấn tượng. Vốn đầu tư các DN dân doanh và hộ kinh doanh cá thể đang trở thành nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế ở nhiều địa phương. Số vốn huy động được qua đăng ký thành lập mới và mở rộng quy mô tiếp tục tăng.
Tỷ trọng đầu tư của các hộ kinh doanh cá thể và các DN dân doanh trong tổng số vốn đầu tư của xã hội đã tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001, 25,3% năm 2002, 27% năm 2003 và khoảng 29% năm 2004. Ở một số địa phương, vốn đầu tư của các DN dân doanh đã đóng vai trò quan trọng, thậm chí là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh tế - xã hội. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vốn đầu tư của dân cư và tư nhân năm 2004 ước đạt 67.000 tỷ đồng, chiếm 26,7% tổng nguồn vốn đầu tư xã hội và tăng 10,4% năm 2003, cao hơn vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
KTTN góp phần quan trọng tạo môi trường kinh doanh, thúc đẩy phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự phát triển KTTN là nhân tố chủ yếu tạo môi trường cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, phá bỏ dần tính độc quyền của một số DNNN. Thể chế kinh tế thị trường ngày càng thích ứng hơn với cơ chế kinh tế mới. Sự phát triển của khu vực KTTN chính là nhân tố chủ yếu thúc đẩy sự hình thành và phát triển các loại thị trường (thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ). Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của nước ta sẽ không thể thực hiện nếu không có sự tham gia của khu vực KTTN.
Sự bùng nổ tức thời trong 5 năm qua của khu vực này là khá dữ dội. Đến nay, tuy chưa thể khẳng định kết quả cuối cùng (hiệu quả) của ‘‘cú đột phá’’, song thực tế cho thấy rõ là các điều kiện hành chính – pháp lý (sự bảo vệ của pháp luật) và điều kiện kinh tế (tiếp cận thị trường). Đa số các DN tư nhân bị ‘‘mất đà’’ ngay sau khi thành lập do Chính phủ không tạo ra được các thể chế, chính sách ‘‘yểm trợ’’đồng bộ đi kèm với Luật DN để phát huy cao nhất hiệu quả của Luật.
Trong xu hướng hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và triển vọng phát triển kinh tế trong thời kỳ tới, chúng ta hoàn toàn có khả năng phát triển hơn nữa số lượng và quy mô DN, tăng gấp đôi số DN đăng ký hàng năm, phấn đấu đưa tổng số DN từ 15 vạn như hiện nay tăng lên 50 vạn vào năm 2010 và động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế và giải quyết việc làm cho xã hội. Để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển khu vực KTTN trong thời gian tới, cần phải tập trung tháo gỡ những rào cản và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho khu vực KTTN đầy tiềm năng này.
Bên cạnh những đóng góp quan trọng của khu vực KTTN thì khu vực kinh tế này cũng bộc lộ những hạn chế trong quá trình phát triển hiện nay.
3. Một số hạn chế của khu vực KTTN :
Một là, hầu hết các DN thuộc khu vực KTTN ở nước ta mới được thành lập, hơn 90% là DN quy mô vừa và nhỏ, kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh thấp nên dễ bị tổn thương. Theo số liệu của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam, hơn 61% DN mới được thành lập thiếu nguồn lực cơ bản như vốn, năng lực quản lý, thị trường, đất đai, khó tiếp cận với nguồn cung ứng hỗ trợ.
Hai là, khu vực KTTN ở nước ta nhìn chung năng lực cạnh tranh thấp, trình độ công nghệ, và năng lực quản lý kém.
Ba là, các DN tư nhân mới chủ yếu tập trung kinh doanh trong các nghành thương mại và dịch vụ sơ cấp. Số lượng DN trong các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ cao cấp còn ít.
Bốn là, KTTN, nhất là các DN mới tập trung phát triển ở một số thành phố lớn. Trong khi đó, ở nhiều vùng nông thôn, miền núi,… hầu như có rất ít các DN thuộc khu vực KTTN.
Năm là, nhiều đơn vị KTTN chưa thực hiện tốt những quy định của pháp luật về lao động, hợp đồng lao động, chế độ bảo hiểm, tiền lương, tiền công, bảo hộ lao động , giờ làm việc… đối với người lao động. Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ cả hai phía chủ DN lẫn người lao động :
Từ chủ DN, hoặc là không biết (do thiếu thông tin, trình độ thấp), hoặc là biết mà không thực hiện (do tính răn đe của luật không nghiêm hoặc không có chế tài cụ thể để thực hiện luật).
Từ người lao động, hoặc là không biết (do trình độ thấp, do thiếu thông tin) hoặc do biết nhưng không dám đòi hỏi.
Sáu là, một số DN, hộ kinh doanh cá thể vi phạm pháp luật, trốn lậu thuế, kinh doanh trái phép, chưa thực hiện đúng Luật Doanh nghiệp và các quy định về đăng ký kinh doanh.
Bảy là, quản trị nội bộ của nhiều DN còn yếu kém, bất cập như: thiếu chiến lược và kế hoạch kinh doanh, chưa thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo tài chính theo quy định.
4. Nguyên nhân của thực trạng trên :
Chúng ta sẽ xem xét các nguyên nhân của thực trạng đã trình bày ở trên.
Những yếu tố tác động tích cực :
KTTN hồi phục trong điều kiện tiềm lực của nền kinh tế còn lớn nhưng chưa được huy động, khai thác một cách đầy đủ. Tiềm lực của nền kinh tế do các yếu tố lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, tài sản xã hội quy định. Do cơ chế kinh tế có nhiều bất cập, tiềm lực nền kinh tế như đất đai, lao động còn lãng phí nhiều. KTTN là loại hình phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện nay và có khả năng khai thác tốt các tiềm năng này. KTTN có thể tận dụng tài sản của hộ gia đình như đất, nhà ở vào sản xuất, kinh doanh , sử dụng lao động nhàn rỗi một cách linh hoạt. Ví dụ, nhà ở của các gia đình ở mặt phố thường được sử dụng vừa ở, vừa bán hàng, nhà ở của những gia đình khác có thể vừa ở, vừa làm xưởng sản xuất…
Lợi thế của KVTN về động lực kinh tế. Các DN tư nhân có động lực mạnh mẽ trong quản lý, phát triển DN. Các hộ kinh doanh cá thể, các chủ DN làm việc cho chính họ, ‘‘lời ăn, lỗ chịu’’ , cho nên có động lực kinh tế lớn; họ cũng kiểm soát chặt chẽ hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ, buộc những người làm thuê phải làm việc tích cực và luôn tìm cách sử dụng tốt nhất các nguồn lực mà họ có được.
Phát triển thị trường. Thị trường và KTTN là hai mặt của một vấn đề. Sự phát triển của KVTN trong thời gian qua đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của thị trường và ngược lại, thị trường đã tác động ngược trở lại giúp KTTN phát triển. Mặt khác, trong sự phát triển của thị trường, Nhà nước đã đóng vai trò hết sức quan trọng, không chỉ ở việc chấp nhận thị trường, mà còn ở việc tạo các cơ sở cần thiết cho sự phát triển của thị trường như xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, mạng lưới điện trên toàn quốc…Các khu vực kinh tế, trong đó có KTTN hưởng lợi rất nhiều từ các chương trình này.
Thay đổi chính sách theo chiều hướng có lợi cho phát triển KTTN. Trong suốt những năm qua, các quan điểm cùng với nó là các chính sách đối với KTTN luôn được hoàn thiện, củng cố theo chiều hướng tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện cần thiết cho sự phát triển của khu vực kinh tế này.
Hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế tác động tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua nói chung thông qua thị trường vốn, tiêu thụ sản phẩm, tiếp cận công nghệ - kỹ thuật hiện đại… Đối với KVTN, ngoài những tá._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35778.doc