Thực trạng và định hướng giải pháp cho chính sách đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam

LờI Mở ĐầU Trong hơn 10 năm qua nhất là từ sau đại hội VI của Đảng công cuộc đổi mới kinh tế đất nước bước đầu có những chuyển biến quan trọng, nền nông nghiệp Việt Nam đạt bước tiến bộ rõ rệt. Tình hình sản xuất lương thực thực phẩm phát triển khá đáp ứng được nhu cầu trong nước có dự trữ và xuất khẩu góp phần ổn định đời sống của nhân dân và cải thiện cán cân xuất nhập khẩu. Đó là kết quả tổng hợp của việc cải tiến tổ chức sản xuất, thực hiện chính sách khoán trong nông nghiệp, xoá bỏ chế độ

doc101 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1227 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và định hướng giải pháp cho chính sách đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bao cấp, tự do lưu thông và điều hoà cung cầu lương thực trên phạm vi cả nước. Cùng với những thành tựu trong sản xuất, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần bước đầu được hình thành và vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý, Nhà nước đã chủ động vận dụng có hiệu quả hơn các công cụ pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ đòn bẩy khác, trong đó việc đổi mới các chính sách giá, thuế, tín dụng, đầu tư, lưu thông, kinh tế đối ngoại..., có vai trò đặc biệt quan trọng thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Đồng thời, Nhà nước đã thực hiện chính sách điều chỉnh quan hệ sản xuất ở nông thôn bước đầu đã giải phóng sức sản xuất, khai thác tiềm năng lao động và vốn của nhân dân. Sự phát triển của nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn chịu sự tác động của nhiều nhân tố trong đó chính sách đóng vai trò gần như quyết định, đó chính là tác động can thiệp của Nhà nước đối với sự phát triển nông nghiệp nông thôn. Chính sách đóng vai trò quan trọng và là yếu tố bao trùm tác động mạnh mẽ bảo đảm sự thành công của chiến lược phát triển kinh tế xã hội nông thôn và phát triển kinh tế xã hội nói chung của đất nước. Chính sách đúng đắn sẽ tạo động lực cho người lao động, cho các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế tham gia tích cực vào phát triển sản xuất mở rộng kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội với nhịp độ nhanh và ổn định. Chương I Lý luận chung về tình hình đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp I. Tổng quan về đầu tư 1. Khái niệm về đầu tư Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực có đủ điều kiện để làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội. 2. Vai trò của đầu tư phát triển 2.1 Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước 2.1.1 Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu Về mặt cầu đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế, đầu tư thường chiếm khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thể giơí, đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn. Về mặt cung khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên kéo theo sản lượng tăng, giá giảm cho phép tăng tiêu dùng, tiếp tục lại kích thích sản xuất hơn nữa. 2.1.2 Đầu tư tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế Sự tác động không đồng thời về thời gian của đầu tư với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư dù tăng hay giảm đều vừa là yếu tố duy trì ổn định vừ là yếu tố phá vỡ sự ổn định. Khi tăng đầu tư cầu của các yếu tố đầu tư tăng làm giá cá của các hàng hoá liên quan tăng. Khi tăng đầu tư cũng làm cho cầu của các yếu tố liên quan tăng, sản xuất các ngành này phát triển thu hút lao động giảm tình trạng thất nghiệp. 2.1.3 Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15-25% so với GDP tuỳ thuộc vào Icor mỗi nước, chỉ tiêu Icor của mỗi nước tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế. 2.1.4 Đầu tư tác động tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Con đường tất yếu có thể tăng nhanh tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu công nghiệp và dịch vụ, đối với các ngành nông nghiệp, lâm ngư nghiệp do hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học để đạt tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là khó khăn, như vậy chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 2.1.5 Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá, đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Để có công nghệ thì phải tự nghiên cứu phát minh hoặc nhập công nghệ từ nước ngoài nhưng vấn đề là phải có tiền, vốn đầu tư. 2.2 Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ Để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của cơ sở nào đó cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng mua sắm lắp đặt thiết bị máy móc, thực hiện các chi phí khác gắn liêng với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất - kỹ thuật. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư, sau một thời gian hoạt động các cơ sở này hao mòn, hư hỏng và để hoạt động bình thường hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới thì phải đầu tư nâng cấp và tiến hành sửa chữa. 3. Đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp 3.1 Đầu tư trong nông nghiệp được tiến hành trên một địa bàn rộng lớn, và còn lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Khác với các lĩnh vực đầu tư khác, đầu tư trong nông nghiệp xuất nông được thực hiện trên một địa bàn rộng (như áp dụng tiến bộ về giống cho cả một huyện...). Ngoài ra, việc đầu tư còn lệ thuộc vào đất đai, thời tiết, khí hậu và thuỷ văn của từng vùng. Do vậy, quá trình đầu tư diễn ra rất phức tạp, nó không được dập khuôn mà phải diễn ra theo một quá trình, nó được xuất phát từ việc điều tra các nguồn tài nguyên nông-lâm-ngư nghiệp của đất nước cũng như của mỗi vùng để có sự đầu tư vào nghiên cứu và sử dụng các loại cây trồng, các con vật nuôi thích hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng. Trong quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật là rất quan trọng, nó quyết định tới việc thành công của việc sản xuất. Nhưng để cơ sở hạ tầng kinh tế này phát huy tác dụng cần phải tiến hành phù hợp với đặc điểm của từng cây trồng, từng con vật nuôi, điều kiện đặc biệt quan trọng là phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, địa hình kinh tế của từng vùng. Quá trình đầu tư trên rất phức tạp và khó thực hiện. Vì vậy, để nông nghiệp nông thôn ngày càng phát triển, cần đưa ra những chính sách thích hợp với diều kiện cụ thể của từng vùng, từng khu vực nhất định. Đặc biệt là chính sách ruộng đất, chính sách đầu tư và chính sách thuế. Làm được như vậy, chắc chắn nông nghiệp sẽ phát triển nhanh và góp phần to lớn vào quá trình phát triển kinh tế đất nước. 3.2 Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Do vậy đầu tư nông nghiệp là đầu tư để cải tạo ruộng đất. Đất đai là diều kiện cần thiết cho tất cả các ngành sản xuất, nhưng tác động kinh tế của nó lại rất khác nhau. Trong công nghệp và các ngành kinh tế khác, đất đai chỉ là nền móng để xây dựng các công xưởng trụ sở phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh. Trái lại trong nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất không thể thay thế được. Đất đai là tư liệu sản xuất nhưng có giới hạn về diện tích, cố định về mặt vị trí mà nhu cầu sản xuất lại không ngừng tăng lên. Do vậy, đầu tư để cải tạo ruộng đất là quá trình vô cùng quan trong, nó quyết định đến quá trình sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống dân cư. Vấn đề đặt ra là đầu tư cải tạo đất như thế nào cho phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng, lãnh thổ. Trong thời gian qua, nước ta đã chú trọng đầu tư mở rộng, cải tạo đất thông qua các biện pháp khai hoang, tăng vụ, đẩy mạnh đầu tư chiều sâu, thâm canh sản xuất. Không ngừng áp dụng các loại giống mới, có chất lượng cao vào sản xuất, đồng thời sử dụng các loại phân bón vừa có tác dụng nâng cao năng suất cây trồng, vừa có tác dụng cải tạo đất và luôn luôn luân canh sản xuất làm cho độ phì nhiêu của đất ngày càng tăng. Để làm được như vậy, Nhà nước và các hộ dân cư tăng cường đầu tư cho lĩnh vực này, đồng thời có sự hường dẫn đúng các quy định đã được đề ra trong chính sách ruộng đất. Trong thời gian tới, để đẩy mạnh lượng hàng hoá xuất khẩu và đời sống nhân dân được tăng cao, Đảng và Nhà nước cần quan tâm đầu tư hơn nữa đến lĩnh vực này, đồng thời có những biện pháp thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn khác, đặc biệt là nguồn vốn trong dân đầu tư cho cải tạo đất và phát triển nông nghiệp. 3.3 Đầu tư trong nông nghiệp là quá trình đầu tư phát triển hệ thống giống và chế biến nông sản, chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Cây trồng và con vât nuôi - đối tượng sản xuất của nông nghiệp, là những cơ thể sống, chúng sinh trưởng và phát triển theo những quy luật sinh học nhất định. Là những cơ thể sống do đó chúng rất nhạy cảm với môi trường tự nhiên. Mỗi sự thay đổi về thời tiết, khí hậu, về sự chăm sóc của con người đều tác động trực tiếp đến quá trình sinh trưởng và phát triển của chúng và đương nhiên là ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng của sản xuất. Vì vậy, đặc trưng của đầu tư trong nông nghiệp là đầu tư cho phát triển hệ thống giống. Trong thời gian vừa qua, chúng ta đã đầu tư xây dựng được một số trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống với nhiều loại giống tốt góp phần to lớn cho quá trình sản xuất nông nghiệp đạt kết quả cao. Trong thời gian tới, để ngành nông nghiệp ngày càng phát triển, nhất thiết chúng ta phải tăng cường đầu tư hơn nữa để cải tạo và xây dựng các trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống. Việc làm này không chỉ ở một số nơi mà cần mở rộng ra nhiều nơi, mỗi vùng đặc trưng ít nhất phải có một trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống. Ngoài việc nghiên cứu và sản xuất các loại giống mới phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng, cần phải đầu tư hơn nữa để tạo ra các loại giống có phẩm chất tốt nhằm tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế cao. Có như vậy, quá trình sản xuất nông nghiệp mới đạt kết quả cao, ngành nông nghiệp mới khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân. Ngoài việc đầu tư phát triển hệ thống giống, đầu tư cho chế biến nông sản cũng vô cùng quan trọng, nó giúp cho các nông sản sau khi thu hoạch được bảo đảm và việc chế biến nông sản làm cho giá trị nông sản hàng hoá được nâng cao, góp phần tăng thu nhập cho người lao động. Bên cạnh đó đầu tư cũng nhằm phát triển giống cây, giống con có năng suất, chất lượng tốt, cho phép chuyển đổi cơ cấu kinh tế nuôi trồng các cây, con có giá trị hiệu quả kinh tế cao hơn. II. Vai trò của nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế của đất nước Nông nghiệp chiếm một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước, mặc dù nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá nhưng nền tảng vẫn là một nước có nền nông nghiệp truyền thống, nông nghiệp đóng góp xấp xỉ 1/4 vào GDP của đất nước, trên 1/3 kim ngạch xuất khẩu và tạo việc làm cho 2/3 lực lượng lao động với khoảng 80% dân cư sống ở nông thôn do đó nông nghiệp không chỉ là nguồn sống mà còn là động lực để phát triển kéo theo các ngành khác. Mục tiêu và định hướng phát triển nông nghiệp nước ta cho đến năm 2010 được thể hiện trong báo cáo chính trị tại đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 4/2001: "Tăng cường sự chỉ đạo và huy động nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ nhất là công nghệ sinh học. Đổi mới cơ cấu cây trồng vật nuôi tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích quy hoạch sử dụng đất hợp lý, đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ gới hoá, điện khí hoá, phát triển kết cấu hạ tầng, công nghiệp dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo nhiều việc làm mới và cải thiện đời sống nông dân và dân cư nông thôn". 1. Nông nghiệp là ngành cung cấp lương thực, thực phẩm - nhu cầu cần thiết cho con người. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng tăng và phát triẻn đa dạng. Nhưng trước hết, như Mác đã khẳng định, con người trước hết phải có ăn sau đó mới nói đến các hoạt động khác, rằng nông nghiệp là ngành cung cấp tư liệu sinh hoạt cho con người ... và việc sản xuất tư liệu sinh hoạt là điều kiện đầu tiên của sự sống vàcủa mọi lĩnh vực sản xuất nói chung. Đặc điểm này khẳng định vai trò đặc biệt quan trong của nông nghiệp trong việc nâng cao mức sống dân cư, bảo đảm sự ổn định chính trị xã hội của đất nước. Từ đó khẳng định ý nghĩa to lớn của vấn đề lương thực trong chiến lược phát triển nông nghiệp, của năng suất lao động nông nghiệp đối với việc bố trí và phân công lại lao động trong xã hội. Vấn đề này đặc biệt quan trọng đối với nước ta. Với gần 80% dân số sống ở nông thôn, sản xuất nông nghiệp đã cung cấp phần lớn tư liệu sinh hoạt cho người dân, đồng thời nó cũng đáp ứng được nhu cầu việc làm cho người lao động. Quan trọng hơn, sản xuất nông nghiệp nước ta đóng một vai trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân. 2. Nông nghiệp nông thôn là thị trường rộng lớn, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Đối với các nước đang phát triển nói chung, nước ta nói riêng, nông nghiệp và nông thôn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội và cơ cấu dân cư. Đời sống dân cư ngày càng được nâng cao, cơ cấu kinh tế nông thôn ngày càng đa dạng và đạt tốc độ tăng trưởng cao thì nông nghiệp nông thôn sẽ trở thành thị trường tiêu thụ ngày càng rộng lớn và ổn định của nền kinh tế quốc dân. Nhờ vào sự phát triển mà nhu cầu của người dân ngày càng tăng, không chỉ tiêu dùng những tư liệu sinh hoạt đơn giản phục vụ cho ăn no mặc ấm, mà nhu cầu ngày càng mở rộng, người ta càng quan tâm đến ăn ngon, mặc đẹp và những phương tiện ngày càng hiện đại phục vụ cho đời sống vật chất cũng như tinh thần. Cùng với quá trình đó, sản xuất nông nghiệp cũng đòi hỏi ngày càng được cơ khí hoá và áp dụng những thành tựu khoa học và công nghệ vào trong sản xuất. Chính vì vậy, nó không chỉ dừng lại ở đòi hỏi sản phẩm nông nghiệp mà sản phẩm công nghiệp ngày càng được đòi hỏi nhiều hơn, ngày càng đưa về phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn nhiều hơn. Cho nên, quá trình sản xuất nông nghiệp đã thúc đẩy mạnh mẽ đến sản xuất công nghiệp và phát triển dịch vụ. Qua đó, sẽ giúp cho nền kinh tế quốc dân ngày càng phát triển. 3. Nông nghiệp là ngành cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và tạo thêm việc làm cho xã hội. Đối với các nước đang phát triển nói chung, nước ta nói riêng, nguyên liệu từ đầu vào là bộ phận chủ yếu để phát triển công nghiệp chế biến và nhiều ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Một số loại nông sản, nếu tính trên một đơn vị diện tích, có thể tạo ra số việc làm sau nông nghiệp nhiều hơn hoặc tương đương với việc làm của chính khâu sản xuất ra nông sản ấy. Hơn nữa, thông qua công nghiệp chế biến, giá trị nông sản được tăng lên và đa dạng hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế. Vấn đề này đã được thể hiện rõ ở nước ta, đó là nông nghiệp đã cung cấp nguyên liệu như thuỷ, hải sản, cao su, cà phê, chè..., tạo điều kiện cho phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và tạo thêm việc làm cho xã hội. Để thực hiện vai trò này của công nghiệp, đòi hỏi phải giả quyết tốt mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp, đặc biệt giữa nông nghiệp và công nghiệp chế biến. Vấn đề cần giải quyết chính là quá trìng phân bố sản xuất, quy trình kỹ thuật, mô hình tổ chức và quan hệ về lợi ích kinh tế. 4. Nông nghiệp là ngành cung cấp một khối lượng hàng hoá lớn để xuất khẩu Nông sản dưới dạng thô hoặc qua chế biến là bộ phận hàng hoá xuất khẩu chủ yếu của hầu hết các nước đang phát triển ở thời kỳ đầu. Theo quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, tỷ lệ nông sản xuất khẩu nhất là xuất khẩu thô có xu hướng giảm xuống nhưng thường vẫn tăng lên về giá trị tuyệt đối. Vì vậy, trong giai đoạn đầu của sự phát triển, ở nhiều nước nông nghiệp trở thành ngành xuất khẩu chủ yếu tạo ra tích luỹ để tái sản xuất và phát triển nền kinh tế quốc dân. 5. Nông nghiệp là khu vực cung cấp lao động phục vụ công nghiệp và các lĩnh vực hoạt động xã hội khác Đây là xu hướng có tính quy luật trong phân công lao động lại xã hội. Tuy vậy, yêu cầu chuyển lao động từ nông nghiệp sang các lĩnh vực khác phụ thuộc vào nhiều nhân tố: trước hết là năng suất lao động nông nghiệp phải không ngừng tăng lên, công nghiệp và dịch vụ ở thành thị ngày càng mở rộng, chất lượng nguồn lao động ở nông thôn phải được nâng cao. 6. Nông nghiệp là ngành có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái Quá trình phát triển nông nghiệp gắn liền với sử dụng thường xuyên đất đai, nguồn nước, các loại hoá chất..., đồng thời việc trồng và bảo vệ rừng, luân canh cây trồng, phủ xanh đất trống đồi trọc...đều có ảnh hưởng lớn đến môi trường. Phải thấy rằng việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái còn là điều kiện để quá trình tái sản xuất nông nghiệp diễn ra bình thường có hiệu quả. III. Vai trò của chính sách đầu tư đối với việc phát triển nông nghiệp nông thôn 1. Khái niệm chính sách đầu tư Chính sách đầu tư được hiểu là phương pháp can thiệp của Nhà nước vào một lĩnh vực nào đó theo những mục tiêu và thời hạn nhất định với những điều kiện nhất định. Có thể coi chính sách đầu tư là một tổng thể các biện pháp kinh tế và phi kinh tế có liên quan đến đầu tư nhằm tác động vào đầu tư phát triển kinh tế của một ngành, lĩnh vực, vùng... theo những mục tiêu nhất định trong một thời hạn nhất định. Đó chính là sự can thiệp của Nhà nước vào việc phát triển kinh tế theo định hướng và mục tiêu nháat định, tuỳ theo định hướng mục tiêu lâu dài hay trước mắt mà có những biện pháp thích hợp để tác động vào công cuộc đầu tư coi đó như là một công cụ để Nhà nước can thiệp và điều tiết đầu tư phát triển. 2. Vai trò quản lý Nhà nước về kinh té Nền kinh tế thị trường rất đa dạng và phức tạp do tác động của cơ chế thị trường, cơ chế thị trường hàm chưa cả ưu thế và khuyết tật của nó. Trong những giới hạn nhất định cơ chế thị trường có khả năng tự điều chỉnh nền sản xuất nông nghiệp và các ngành kinh tế nông thôn như sự tự động phân bổ điều tiết các yếu tố đầu vào của các ngành trong nông nghiệp và nông thôn dưới sự tác động của các quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, kích thích sự phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy chuyên môn hoá sản xuất và phân công lao động xã hội mở rộng thị trường trong và ngoài nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó cơ chế thị trường cũng có những khyết tật nhất định, do mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận nên có thể thường xuyên gây nên sự mất ổn định phá vỡ các cân đối trong nông nghiệp và các ngành kinh tế nông thôn, nhiều vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh như lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế, huỷ hoại môi trường sinh thái. Do vậy, để khắc phục hậu quả tiêu cực cần thiết phải có sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế nói chung và nông nghiệp nông thôn nói riêng. Nâng cao hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn cũng có nghĩa là phát huy vai trò tự chủ, năng động của các thành phần kinh tế trong sản xuất kinh doanh, tạo môi trường kinh tế thuận lợi và hành lang pháp luật an toàn cho mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động kinh doanh. Vai trò của Nhà nước đối với nền nông nghiệp, kinh tế nông thôn thông qua kế hoạch định hướng, hoạch định và thực hiện các chính sách, khuyến khích hỗ trộ, kiểm soát... đối với các doanh nghiệp ngày càng trở nên quan trọng. Hoạt động hiệu quả của các doanh nghiệp là thước đo của quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, nhiều mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp mà chính bản thân doanh nghiệp không tự giải quyết được. Bởi vậy, việc quản lý của Nhà nước là rất cần thiết nhằm điều chỉnh, giải quyết những ách tắc, trở ngại cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp để đảm bảo cho các doanh nghiệp phát triển đúng hướng của Nhà nước và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo cùng với kinh tế Hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế, chuyển nền kinh tế nước ta nói chung, nông nghiệp và kinh tế nông thôn nói riêng sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát triển lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với xu thế phát triển khách quan của thời đại. Để kích thích sản xuất phát triển, khắc phục những tiêu cực trong nền kinh tế thị trường, đảm bảo công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát huy bản chất tốt đẹp của Xã hội chủ nghĩa, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế xã hội trong phạm vi nền kinh tế của cả nước nói chung, trong nông nghiệp nông thôn nói riêng. 3. Vai trò của hệ thống chính sách với việc phát triển nông nghiệp nông thôn Vai trò của chính sách nông nghiệp nông thôn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp nông thôn, sự phát triển nông nghiệp nông thôn chịu sự tác động của nhiều yếu tố trong đó yếu tố chính sách đóng vai trò quyết định, lịch sử phát triển nền nông nghiệp nông thôn nước ta đặc biệt trong những năm đổi mới đã chứng minh điều đó. Đó chính là vai trò tác động can thiệp của Nhà nước đối với sự phát triển nông nghiệp nông thôn. Vai trò của chính sách đối với sự phát triển nông nghiệp nông thôn được thể hiện qua các mặt sau. 3.1 Phát triển kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá và xây dựng nền kinh tế mở Phát triển kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá dựa trên cơ sở xuất phát điểm và môi trường kinh tế xã hội hiện nay ở nông thôn nước ta. Trước đây trong một quá trình dài nền kinh tế nông thôn chủ yếu là sản xuất tự cung tự cấp và tập trung sản xuất lương thực, từ khi thực hiện cải cách kinh tế nhiều chủ trương chính sách mới ra đời đã góp phần giải phóng sức sản xuất. Từ năm 1990 trở lại đây nông nghiệp nông thôn đã dành được những kết quả nổi bật, từ một nước nhập khẩu lương thực đã tiến tới đủ lương thực, có dự trữ, xuất khẩu. Của cải lương thực được giải quyết một cách cơ bản nền nông nghiệp nông thôn phát triển theo hướng đa dạng hơn, trong quá trình đa dạng hoá sản xuất trên từng vùng đã xuất hiện những sản phẩm mũi nhọn, những vùng chuyên môn hoá sản xuất quy mô lớn đáp ứng được yêu cầu về số lượng cho thị trường trong nước và xuất khẩu, những nông sản có vị trí quan trọng như cà phê, cao su, chè, mía, đường, tôm, cá, và các thủy sản khác. Củng cố và phát triển các ngành nghề truyền thống, bước đầu phát triển các ngành dịch vụ ở nông thôn. Nhà nước tạo môi trường thể chế thích hợp cho sự lựa chọn sản xuất, khuyến khích sản xuất hàng hoá, tạo hành lang và môi trường kinh tế thông thoáng, xây dựng cơ sở hạ tầng cho vay vốn sản xuất giúp người sản xuất và các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Xây dựng nền kinh tế mở có nghĩa là nền kinh tế năng động chứa đựng nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động, tác động qua lại lẫn nhau, cạnh tranh và thúc đẩy nhau phát triển. Trong các thành phần kinh tế đó mở rộng hình thức liên doanh và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Vấn đề này luôn luôn gắn liền với chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. 3.2 Hệ thống các chính sách nông nghiệp, nông thôn tác động đến quá trình điều chỉnh mối quan hệ giữa các ngành, các vùng trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng hợp lý và tạo hiệu quả cao. Trong quá trình hình thành và biến đổi cơ cấu nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông thôn, nhiều mối quan hệ qua lại lẫn nhau hết sức đa dạng và phức tạp. Cơ cấu đó vận động phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội nhất định. Cơ cấu nông nghiệp, kinh tế nông thôn chịu tác động của nhiều yếu tố, trong đó hệ thống chính sách của Nhà nước là yếu tố đóng vai trò bao trùm. Chính sách nông nghiệp, nông thôn tác động làm cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn có hiệu quả, tạo sự cân đối, nhịp nhàng giữa các ngành nông nghiệp, công nghiệp nông thôn và dịch vụ nông thôn, giữa các vùng kinh tế trong cả nước, giữa các thành phần kinh tế. Chính sách nông nghiệp, nông thôn nhằm từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Sự chuyển đổi đó theo hướng phát triển và mở rộng các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, tăng tỷ trọng các ngành đó trong nêng kinh tế nông thôn. 3.3 Hệ thống các chính sách nông nghiệp nông thôn có tác dụng kích thích các thành phần kinh tế tác động qua lại lẫn nhau, cùng nhau phát triển. Chính sách nông nghiệp nông thôn tạo điều kiện cho các hộ nông dân thực sự là đơn vị kinh tế tự chủ khuyến khích hộ nông dân làm giầu, gắn liền với sản xuất hàng hoá với chương trình tạo việc làm, chương trình xoá đói giảm nghèo trên từng địa bàn cụ thể. Khuyến khích hình thành và phát triển các hình thức đa dạng tự nguyện của nông dân hướng vào nục tiêu hỗ trợ và thúc đẩy kinh tế hộ nông dân phát triển. Đặc biệt chú trọng vào hướng dẫn và tạo điều kiện cho các loại hình hợp tác xã làm tốt vào các hoạt động tín dụng, dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp để khuyến khích nông dân làm giầu. 3.4 Chính sách nông nghiệp nông thôn thúc đẩy kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn ngày càng được tăng cường và mở rộng Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn, kết cấu hạ tầng bao gồm hệ thống công trình giao thông nông thôn, hệ thống thủy lợi, mạng lưới điện nông thôn, thông tin liên lạc, trường học, cơ sở đào tạo nghề, bệnh viện. Nhìn chung kết cấu hạ tầng kinh tế nước ta nhất là miền núi, vùng sâu vùng xa còn yếu kém về số lượng, về trình độ cơ cấu, đặc biệt là hệ thống giao thông, các trung tâm giao lưu hàng hoá, mạng lưới điện. Do đó việc xây dựng nâng cấp phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế nông thôn là một trong những giải pháp cơ bản trước mắt cũng như lâu dài nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn. 3.5 Chính sách nông nghiệp nông thôn có tác dụng tạo ra môi trường và điều kiện để giải quyết những vấn đề xã hội như xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm ở nông thôn, thu hẹp khoảng cách giầu nghèo và đời sống giữa thành thị và nông thôn, nâng cao đời sống dân trí. Tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nguồn lao động ở nông thôn là một trong những vấn đề hết sức quan trọng, để giải quyết những vấn đề này cần phải dựa vào chính sách nông nghiệp nông thôn gắn với chương trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ, sử dụng nhiều lao động ở nông thôn khai thác tiềm năng đất đai, mặt nước nuôi trồng thủy sản. Có chính sách phát triển nông lâm ngư nghiệp kích thích người lao động sử dụng các tiềm năng hợp lý, phát huy lợi thế so sánh của nông nghiệp ở mỗi vùng được coi là một trong những giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề việc làm ở nông thôn. ở nước ta xóa đói giảm nghèo là một trong những chương trình lớn của quốc gia, để triển khai và thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo cần thiết phải thực hiện các biện pháp kinh tế xã hội, kỹ thuật. Trong đó việc xác định các chính sách và thực hiện các chính sách như chính sách đầu tư, chính sách phát triển kết cấu hạ tầng, chính sách chuyển giao kỹ thuật và công nghệ, chính sách xã hội... có tầm đặc biệt quan trọng. IV. Kinh nghiệm xây dựng về một số chính sách đầu tư nông nghiệp từ một số nước 1. Chính sách đầu tư cho nghiên cứu triển khai nông nghiệp, nhằm giúp nông dân các kiến thức sản xuất và tiếp cận thị trường nông sản trong và ngoài nước. Chính sách này được thể hiện qua việc đầu tư của Chính phủ vào công tác nghiên cứu và triển khai nông nghiệp. Số liệu của R.F.EVernon cho thấy ở các nước đâng phát triển mức chi bình quân cho một cán bộ nghiên cứu nông nghiệp vào năm 1980 là khoảng 40000USD, chi bình quân cho một cán bộ triển khai khoảng 2000-10000USD; còn ở các nước phát triển, công nghiệp hoá mức chi tương ứng: nghiên cứu 93000USD và triển khai là 29000USD. Trong số các nước đang phát triển, Thái Lan là một điển hình tốt về chính sách này. Nhà nước chú trọng xây dựng các trạm trại nghiên cứu nông nghiệp. Chính phủ đã chi cho công tác nghiên cứu triển khai nông nghiệp lớn hơn 1,7 lần so với công tác nghiên cứu và sử dụng quỹ này một cách tập trung có hiệu quả vào các cây trồng phục vụ xuất khẩu và có giá trị chiến lược đối với nền kinh tế. Cục triển khai nông nghiệp Thái Lan (DOEA) là cơ quan khuyến nông rất có hiệu quả của Nhà nước. Nhà nước thông qua hoạt động triển khaiđể thực hiện chính sách đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp DOEA không chỉ triển khai thông qua tham quan, đào tạo mà còn sản xuất một khối lượng các hạt giống mới cho nông dân trong hầu hết các vụ chính. Chính sách nghiên cứu và triển khai nông nghiệp ở Thái lan có tác động lâu dài đến sự thay đổi về năng suất nông nghiệp. Một trong những kinh nghiệm hay của Thái Lan là Chính phủ đã lôi kéo, thu hút được đông đảo tư nhân tham gia vào các chương trình khuyến nôngnhằm tạo ra các mô hình trồng trọt hỗn hợp, canh tác đa dạng. Điều đáng lưu ý là các nguồn kinh phí cho nghiên cứu trong nông nghiệp được Nhà nước tài trợ liên tục, ổn định trong nhiều năm. Điều đó rất quan trọng đảm bảo cho sự triển khai có hiệu quả của cơ quan khuyến nông Thái Lan (DOEA). 2. Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho kinh tế nông thôn (Đây là một trong những chính sách tác động gián tiếp lên sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn) Từ những kinh nghiệm chung của nhiều nước, giáo sư Ran-dolph Barker đã tổng kết rằng: trong suốt thời kỳ quá độ chuyển nền kinh tế từ nông-công nghiệp sang nền kinh tế công-nông nghiệp, Chính phủ phải thực hiện một số chức năng sau: - Xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại, gồm có: công trình tưới, tiêu, đường xá. điện, phương tiện giao thông - Nhập khẩu các kỹ thuật nhất định từ nước ngoài và tăng cường khả năng nghiên cứu triển khai trong nước - Phát triển nguồn nhân lực - Phát triển và bảo vệ các tài nguyên và môi trường - Động viên tiết kiệm từ nông sản dư thừa và chuyển chúng đến nơi cần thiết - Giảm thất nghiệp và đói nghèo - Chăm sóc sức khoẻ, dinh dưỡng cho dân cư - Đổi mới các thể chế và tổ chức như Hợp tác xã nông dân, ngân hàng, hiệp hội Như vậy, chức năng lớn nhất mà chính phủ phải đảm nhận là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông thôn. Gánh nặng về phát triển cơ sở hạ tầng chỉ có thể giảm nhẹ khi khu vực tư nhân ở nông thôn phát triển mạnh mẽ đủ sức để hỗ trợ Chính phủ một phần trong việc thoả mãn nhu cầu chung v._.ề phát triển cơ sở hạ tầng. Trên thực tế các nước và các vùng lãnh thổ xung quanh Việt Nam như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malayxia đều có chính sách đầu tư mạnh cho phát triển cơ sở hạ tầng ở các vùng sản xuất hàng hoá thường đi trước một bước (chủ yếu là đường xá, điện và thông tin liên lạc) và phát triển đường bộ. Trong hệ thống hạ tầng trực tiếp cho nông nghiệp cụ thể là thuỷ lợi được quan tâm khá cao. ở Trung Quốc trong thời gian cải cách kinh tế, Nhà nước đã tăng vốn vào xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn nhiều hơn số lượng vốn có được kể từ ngày giải phóng cho đến năm 1990. ở Malayxia, Chình phủ đã đầu tư xây dựng toàn bộ các công trình tưới tiêu và không thu thuỷ lợi phí. Điều rất rõ ràng là: chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn là chính sách kinh tế lớn, thường chiếm tỷ trọng cao trong chi tiêu của Chính phủ các nước. Ngoài việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cứng (đường xá, kho hàng, bến bãi, điện, thông tin liên lạc) nhà nước còn bỏ nhiều tiền để đầu tư vào cơ sở hạ tầng mềm-đó là chi phí cho việc đầo tạo, phát triển tri thức kinh doanh cho lao động ở nông thôn... Coi các khoản chi tiêu này là đầu tư dài hạn khôn khéo. Đặc biệt sự thành công trong phát triển kinh tế nói chung và nông thôn nói riêng ở các nước công nghiệp mới (NEW), ở Châu á và ASEAN đã cho thế giới một bài học kinh nghiệm lớn về chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong những năm 1960-1970. Trong giai đoạn này các nước kể trên đã đầu tư cao cho nông nghiệp thể hiện qua biểu sau: Bảng 1: Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP và mức đầu tư của Chính phủ vào nông nghiệp ở một số nước Châu á (giai đoạn 1975-1980) Đơn vị: % Tên nước Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP Phần đầu tư của Chính phủ vào nông nghiệp trong tổng đầu tư Tổng đầu tư của Chính phủ cho nông nghiệp theo GDP 1. Hàn Quốc 27 24,6 5,0 2. Inđônêxia 38,8 18,9 9,8 3. Malayxia 27,7 20,2 10,0 4. Philippin 26,6 25,7 5,1 5. Thái Lan 30,4 10,2 4,1 Số liệu biểu trên cho thấy Thái Lan là nước thực hiện chính sách đầu tư ít vào nông nghiệp. Chính sách này của Chính phủ Thái Lan đã bị nhiều nhà kinh tế phê phán, trên thực tế cơ sở hạ tầng nông thôn Thái Lan còn kém phát triển và nông dân gặp nhiều khó khăn trong việc tăng gia sản xuất. Tuy nhiên trong phê phán chung về chính sách đầu tư của các nước Châu á trong những năm qua, Randolph Barker đánh giá rằng: "đã quá nhấn mạnh vào đầu tư phần cứng (cơ sở hạ tầng vật chất), mà ít quan tâm đến phần mềm tức là đầu tư phát triển nguồn nhân lực để có đủ khả năng quản lý, khai thác có hiệu quả cơ sở hạ tầng phần cứng" Đây là một kinh nghiệm mà Việt Nam cần rút ra và không nên lặp lại. 3. Bài học kinh nghiệm Từ các kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành cồn trong xấy dựng các chính sách đầu tư tác động trực tiếp và tác động gián tiếp lên kinh tế nông thôn ở các nước và lãnh thổ đẫphân tích trên, có thể rút ra: Một là: Kinh tế nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận quan trọng của mỗi hệ thống kinh tế, nó chứa đựng nhiều yếu tố khó khăn, kém phát triển so với khu vực khác, vì vậy chính sách đầu tư của Chính phủ phải thể hiện: - Coi trong phát triển sản xuất, tạo cơ sở bảo đảm nguồn lương thực cho chính dân cư nông thôn và toàn xã hội. Trên cơ sở đó mà phát triển toàn nền kinh tế. - Sự nâng đỡ, ưu đãi cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế đất nước, khi nông nghiệp và nông thôn còn yếu kém và trong hoàn cảnh lạc hậu, trợ giúp nông dân nghèo ở nông thôn được xem là tư tưởng chung nhất trong chính sách đầu tư đối với nông nghiệp và nông thôn. Hai là: Sự lựa chon chính sách phù hợp cho từng giai đoạn phát triển, đối với từng khu vực nông thôn khác nhau đóng vai trò quyết định sự thành công của quá trình vận hành. Không chính sách nào có thể tác động mọi mặt theo chủ quan, vì vậy sự phối hợp đồng bộ giữa các chính sách tác động trực tiếp với các chính sách tác đông gián tiếp là một yêu cầu rất quan trọng. Ba là: Cải cách và đổi mới chính sách đầu tư đối với nông nghiệp nông thôn là quá trình liên tục, không có khuôn mẫu định sẵn cho bất kỳ một hệ thống hay một tiểu hệ thống cụ thể nào. Kinh tế nông thôn chỉ có thể phát triển thành công trong kinh tế thị trường khi các thể chế kinh tế đối với nông thôn hoạt động đồng bộ, có mục tiêu tác động cùng chiều và hiệu ứng cao. Đó là những bài học tổng quát rút ra từ phân tích kinh nghiệm chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn của một số nước có điều kiện gần giống với Việt Nam. Các kinh nghiệm quý trên đây có tính gợi mở rất bổ ích đối với Việt Nam trong qua trình hoạch định, hoàn thiện các chính sách đầu tư khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chương II: Thực trạng về chính sách đầu tư với việc phát triển sản xuất nông nghiệp của Việt Nam I. Quá trình hoàn thiện chính sách đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp của Việt Nam Mục tiêu cơ bản lâu dài trong sự phát triển nông nghiệp nông thôn nước ta đến năm 2000 được thể hiện trong Nghị quyết hội nghị Trung ương 5 khoá VII của Đảng Công sản Việt Nam là: * Trên cơ sở phát triển nhanh chóng và vững chắc nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn , nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh thu hút đại bộ phận lao động dôi thừa, tăng năng suất lao động xã hội, giải quyết nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân dân, đáp ứng nhu cầu nguyên liệu nông lâm thuỷ sản cho công nghiệp tăng kim ngạch xuất khẩu bảo vệ tài nguyên và cải thiện môi trường sinh thái. * Tăng thu nhập, cải thiện một bước đời sống vật chất văn hoá của nông dân, giảm mức tăng dân số, khắc phục nạn suy dinh dưỡng, tăng thêm diện giàu và đủ ăn, xoá đói giảm nghèo nhất là ở các vùng cao dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng trước đây là căn cứ cách mạng. * Xây dựng nông thôn mới có kinh tế phát triển đời sống văn hoá phong phú, lành mạnh có cơ sở hạ tầng xã hội đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của nông dân có hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy dân chủ bảo đảm công bằng xã hội, tăng cường đoàn kết và ổn định chính trị trong nông thôn, giữ vững trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng an ninh. 1. Quá trình hoàn thiện chính sách đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 1990 - 1995 Nền nông nghiệp nước ta đã có những khởi sắc mới, bộ mặt nông thôn có những thay đổi đáng mừng, thành tựu nổi bật khởi sắc mới của nông nghiệp nước ta là sức sản xuất trong nông nghiệp nông thôn đã thực sự được giải phóng. Từ một nền nông nghiệp tự cung, tự cấp mang nặng tính chất tự nhiên chuyển sang nền kinh tế thị trường hàng hoá nhiều thành phần. Cơ cấu nông nghiệp và nông thôn đang từng bước chuyển đổi phù hợp với phương hướng và chiên lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhằm khai thác tiềm năng của cả nước và mỗi vùng theo hướng sản xuất hàng hoá, công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông thôn. Từ một nước hàng năm trước vẫn phải nhập lương thực thì giờ đã có lương thực dự trữ và xuất khẩu. Từ năm 1990 đến nay lương thực xuất khẩu tăng lên trên 1,5 triệu tấn/năm, sản lượng lương thực tăng liên tục từ 21,5 triệu tấn năm 1989 lên 25 triệu tấn năm 1993. Bên cạnh sản xuất lương thực đã tăng khá nhanh một số loại cây công nghiệp hàng hoá chủ yếu, hình thành một số vùng chuyên canh tập trung như cà phê, cao su, dâu tằm, mía đường... Các loại cây rau đậu cũng tăng khá nhanh, các loại cây có giá trị kinh tế cao và có giá trị xuất khẩu đang có xu hướng tăng lên đã tác động mạnh mẽ góp phần thay đổi cơ cấu ngành trồng trọt. Sản phẩm chế biên cũng tăng lên. Giá trị sản phẩm chế biến từ 33,6% năm 1990 tăng lên 35,7% năm1992. Giá trị sản phẩm chăn nuôi cũng tăng lên và chất lượng đàn gia súc được cải thiện hơn. ở nông thôn các ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ cũng được mở mang góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế và bộ mặt nông thôn, thu hút lao động và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta thao tinh thần Nghị quyết đại hội VI, VII và được cụ thể hoá bằng Nghị quyết 10 của Bộ chính trị và Nghị quyết hội nghị Trung ương 5 "Nghị quyết này khắc phục mâu thuẫn và hạn chế trong cách "khoán 100", đổi mới một cách cơ bản cơ chế quản lý nông nghiệp, Nghị quyết 10 là sự cụ thể hoá đường lối đổi mới kinh tế toàn diện do Đảng đề ra". Đây là những chiến lược cho sự phát triển nông nghiệp và phát triển kinh tế xã hội nông thôn nước ta, các chính sách nông nghiệp tạo môi trườngthuận lợi cho sản xuất nông nghiệp phát triển, đời sống kinh tế xã hội nông htôn theo hướng tốt hơn. * Chính sách ruộng đất: Luật đất đai năm 1993 được coi là một trong những chính sách lớn tạo cơ sở tiền đề và là trung tâm trong việc giải quyết những nhiệm vụ cơ bản của nông nghiệp và nông thôn. Kèm theo Luật đất đai là những quy định về thuế sử dụng đất và một số văn bản khác có liên quan đã có tác dụng to lớn làm chuyển biến nền nông nghiệp, nông thôn nước ta. Luật đất đai năm 1993 khẳng định "đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý", còn việc sử dụng đất đai được Luật quy định, Nhà nước giao cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài. Luật cũng quy định người sử dụng đất có quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế và được bồi thường thiệt hại trong trường hợp đất bị thu hồi. Có thể nói các quyền quy định trong Luật đất đai năm 1993 là cơ sở pháp lý, dồng thời là cơ sở tiền đề cho việc thực hiện sự chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng mở rộng và tăng diện tích đất trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao, giá trị hàng hoá lớn để mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu trên cở sở một nền nông nghiệp thâm canh và ứng dụng rộng rãi tiến bộ khoa học kỹ thuật. * Chính sách thị trường và giá cả: Nét nổi bật của chính sách thị trường và giá cả là tự do lưu thông trong thị trường nội địa và mở rộng trao đổi ra nước ngoài bằng việc mở rộng xuất khẩu. Việc đổi mới chính sách giá cả, chính sách tự do lưu thông hàng hoá giữa các vùng, cùng với nhiều thành phần tham gia vào lưu thông đã tạo nên một thị trường thống nhất trong cả nước tạo điều kiện cho các vùng phát huy được lợi thế của mình để sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. *Chính sách xuất nhập khẩu, đặc biệt chính sách xuất khẩu nông sản đã có tác dụng mạnh mẽ đến việc khuyến khích phát triển sản xuất các loại sản phẩm phục vụ cho thị trường quốc tế, đưa nền nông nghiệp nước ta tham gia vào thị trường thế giới. * Chính sách giá cả theo hướng giá cả vật tư nông sản trong nước thực hiện theo giá thị trường. Nhờ đó đã có tác dụng bình ổn gia cả, đặc biệt là giá lương thực. Các tỷ giá giữa hàng nông sản và hàng công nghiệp, giữa hàng tư liêu sản xuất với giá hàng nông sản và giữa các loại hàng nông sản đã có tác động như là tín hiệu giúp cho nông dân hướng vào việc sản xuất các sản phẩm có lợi hơn đối với họ. * Một số chính sách khác như chính sách thuế tín dụng, tiến bộ khoa học kỹ thuật, vốn, khuyến nông... cũng có những tác động nhất định góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển và đổi mới bộ mặt nông thôn nước ta. 2. Chính sách đầu tư nông nghiệp giai đoạn 1996 - 2001 Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã thông qua phương hướng phát triển king tế xã hội 5 năm 1996 - 2001, trong đó chính sách đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp được thể hiện qua những vấn đề sau: 2.1 Đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lao động lại ở nông thôn: Đẩy nhanh việc thực hiện chương trình thoát lũ và ngọt hoá đồng bằng sông Cửu Long, củng cố hệ thống đê điều trên phạm vi cả nước, đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ sinh học, ưu tiên phát triển các cây trồng và vật nuôi có quy mô xuất khẩu tương đối lớn và thị trường ổn định, đặc biệt coi trọng các sản phẩm quý hiếm ta có lợi thế. Hết sức chú trọng phát triển công nghệ sau thu hoạch và công nghiệp chế biến. Quy hoạch cụ thể và triển khai việc thực hiện dự án phát triển trồng mới 5 triệu hecta rừng, kết hợp với bảo vệ môi trường để đạt tỷ lệ phủ xanh 40% diện tích cả nước, áp dụng chính sách sử dụng gỗ tiết kiệm. Thực hiện nhất quán chủ trương giao đất, giao rừng cho các hộ gia đình thực sự làm chủ, có thể sống bằng nghề rừng, ổn định đời sống cho đồng bào định canh, định cư. Thu hẹp, tiến tới xoá tình trạng du canh, du cư. Phối hợp, tổ chức chặt chẽ có hiệu quả việc di chuyển dân ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, không để tái diễn tình trạng di dân tự do. Tổ chức lại công nghiệp chế biến thuỷ hải sản và các dịch vụ trên bờ, cải tạo và nâng cấp hệ thốnh hạ tầng cơ sở nghề cá. Tạo điều kiện và khuyến khích các hộ, nhóm hộ ngư dân tự đầu tư mua sắm tàu thuyền lớn ra khơi, sản xuất và chế biến hải sản, làm dịch vụ. * Thực hiện chính sách ruộng đất phù hợp với sự phát triển nông nghiệp hàng hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm và thu nhập cho nông dân nghèo. Khẩn trương hoàn thành việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông dân, khuyến khích và giúp đỡ các hộ nông dân đổi đất cho nhau để khắc phục tình trạng ruộng đất quá phân tán và manh mún. Quản lý chặt chẽ việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo đúng pháp luật, không để nông dân nghèo sống bằng nghề nông phải bán đất, ngăn chặn và xử lý các thủ đoạn chèn ép, cưỡng đoạt ruộng đất của nông dân nghèo. Chưa đặt vấn đề mở rộng mức hạn đối với đất canh tác. Kiểm tra việc thực hiện chính sách hạn điền đối với đất canh tác phù hợp với điều kiện đất đai ở các vùng khác nhau, có chính sách, biện pháp quy định cụ thể, hợp lý để xử lý đối với từng loại đất vượt hạn điền theo nguyên tắc sử dụng đất có hiệu quả, đồng thời nghiêm cấm hành vi mua bán đất kiếm lời bảo đảm công bằng xã hội. Đánh giá phân loại các trường hợp nông dân không còn ruộng đất để sản xuất để có chính sách, giải pháp xử lý phù hợp với từng trường hợp theo hướng vừa không để nông dân bị bần cùng hoá do không có đất để sản xuất, vừa thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất hợp lý theo tiến trình công nghiệp hoá. Bổ xung thể chế, ngăn chặn tình trạng lãng phí đất đai. Có chính sách phân biệt việc đền bù cho nông dân bị lấy đất để sử dụng vào mục đích kinh doanh và mục đích công ích, giúp nông dân bị lấy đất có việc làm và nguồn thu nhập mới. Kinh tế trang trại với các hình thức sở hữu khác nhau được phát triển chủ yếu để trồng cây dài ngày, chăn nuôi đại gia súc ở những nơi có nhiều ruộng đất, khuyến khích việc khai phá đất hoang vào mục đích nông. * Phát triển mạnh các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn: tăng tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn, xây dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng. Bổ xung chính sách khuyến khích tối đa mọi người dân và doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn. Ưu đãi, khuyến khích hơn nữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước vào phát triển kinh tế, tạo việc làm ở nông thôn, kể cá các dự án ở quy mô hộ gia đình. Miễn toàn bộ hoặc giảm tối đa tiền thuế đất đối với các dự án đầu tư vào các vùng khó khăn, kể cả các dự án 100% vốn nước ngoài. Tổ chức các cơ sở chế biến nông sản, thuỷ sản theo hướng gắn kết các đơn vị cung cấp nguyên liệu-sản xuất-chế biến và tiêu thụ. * Tăng nhanh trang bị kỹ thuật trong nông nghiệp và nông thôn: Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện để đẩy mạnh sản xuất và sử dụng sản phẩm cơ khí phục vụ nông nghiệp nhất là các thiết bị vừa và nhỏ có sức cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài. Có chính sách ưu đãi về vốn và thuế để nhập khẩu những sản phẩm cơ khí cho nông nghiệp trong nước chưa sản xuất hoặc sản xuất chưa đủ nhu cầu. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, bao gồm cả bồi dưỡng kỹ năng lao động, đào tạo kỹ thuật viên và hình thành đội ngũ các nhà kinh doanh giỏi ở nông thôn. 2.2 Giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản: thực hiện cơ chế lưu thông thật sự thông thoáng trên thị trong nước. Củng cố hệ thống thương nghiệp Nhà nước trên địa bàn nông thôn, đặc biệt coi trọng phát triển các hình thức liên kết giữa thương nghiệp Nhà nước với Hợp tác xã, nông dân và lực lượng thương nghiệp nhỏ, khắc phục tình trạng thả nổi thị trường nông thôn gây thiệt hại đến lợi ích nông dân. Tạo cho được một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đánh thuế xuất khẩu cao đối với hàng xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô mà trong nước đã có năng liực chế biến. Cho nhập khẩu miễn thuế hoặc thuế suất thấp các loại nguyên vật liệu phục vụ công nghiệp nông thôn mà trong nước chưa sản xuất được hoặc còn thiếu. Xây dựng các quỹ bảo hiểm sản xuất dưới nhiều hình thức. Nhà nước có chính sách cho nông dân nghèo vay tiền vào đầu vụ thu hoạch để không phải bán nông sản ở thời điểm bất lợi về giá. Phát triển các loại hình kinh doanh kết hợp công nghiệp, nông nghiệp, xuất nhập khẩu theo phương thức ký kết hợp đồng dài hạn với nông dân. 2.3 Phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp tác, đổi mới hoạt động của các cơ sở quốc doanh trong nông nghiệp và nông thôn, phát triển các cơ sở quốc doanh ở vùng sâu, vùng xa: tiếp tục phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ gia đình, kể cả kinh tế tiểu chủ. Tập trung chỉ đạo phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp tác của nông dân theo tinh thần Chỉ thị 68/CT-TƯ của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VII và Luật hợp tác xã. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở quốc doanh trong nông nghiệp và nông thôn theo hướng tập trung làm dịch vụ (điện, nước, kỹ thuật, tài chính-ngân hàng, thương mại, vận tải...vv) công nghiệp chế biến và chuyển giao cho nông dân, trên cở sở đó phát triển thêm một số cơ sở quốc doanh nông, lâm nghiệp ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đổi mới và củng cố các quốc doanh đánh cá theo hướng tăng nhanh khả năg bám trụ dài ngày trên biển, làm dịch vụ ngoài biển và trên bờ để tạo điều kiện cho ngư dân ra khơi bám biển. Phát triển các hình thức hợp tác giữa các doanh nghiệp Nhà nước với các hợp tác xã và các hộ nông dân. Xây dựng hiệp hội ngành nghề hoạt động theo cơ chế dân chủ, tự quản, trong đó cơ sở quốc doanh trong hiệp hội có vai trò nòng cốt. II. Thực trạng về đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp qua các năm 1. Tình hình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn thời kỳ 1990-1995 1.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn a. Cơ cấu ngành nông nghiệp Cơ cấu nông nghiệp đã từng bước phát triển toàn diện hơn, hạn chế dần tính độc canh. Cơ cấu giá trị sản lượng trồng trọt và chăn nuôi có sự thay đổi theo hướng tích cực. Trong ngành trồng trọt thì lương thực là ngành trọng tâm của nông nghiệp đã có những tiến bộ rõ rệt. Từ năm 1989 đến 1995 mỗi năm ta xuất khẩu 1,5 triệu tấn gạo. Sự tiến bộ của sản xuất lương thực đã góp phần quan trọng đảm bảo nhu cầu cho xã hội. Trong cơ cấu cây lương thực cần ghi nhận một chuyển hướng tích cực là ở miền Bắc vụ lúa chiêm dài ngày, năng suất thấp đã được thay bằng vụ lúa xuân ngắn ngày có năng suất cao và vụ Đông đang trở thành vụ sản xuất chính, góp phần tăng thêm khối lượng nông sản. ở đồng bằng sông Cửu long, vụ lúa nổi được thay bằng vụ lúa Đông xuân, tăng thêm vụ lúa Hè thu. Ngành chăn nuôi cũng được phát triển mạnh mẽ. Đàn lợn đã tăng từ 8,9 triệu con năm 1976 lên 13,8 triệu con năm 1991. Trong đó tỷ lệ đàn lợn lai kinh tế ngày càng tăng. Do vậy trong lượng xuất chuồng bình quân tăng nhanh. Đàn trâu bò tăng từ 3,3 triệu con lên 6,08 triệu con, trong đó đàn bò tăng rất nhanh, từ 1,585 triệu con năm 1976 lên 3,201 triệu con năm 1992. ở các tỉnh phía Bắc, 20 năm đàn bò liên tục bị giảm, từ năm 1981 trở lại đây đã tăng nhanh, kể cả ở vùng đồng chiêm trũng. b. Cơ cấu thành phần trong nông nghiệp Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đã được thực hiện phổ biến trong nông nghiệp, đã có sự chuyển biến quan trọng từ chỗ chủ yếu là quốc doanh và tập thể sang chủ yếu là kinh tế hộ - lấy hộ làm đơn vị sản xuất cơ bản trong nông nghiệp. Nền nông nghiệp nhiều thành phần đã nhanh chóng vào cuộc sống có tác dụng quan trọng trong việc khai thác mọi tiềm năng về đất đai, lao động, tiền vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có để đẩy mạnh sản xuất nông sản hàng hoá. c. Cơ cấu vùng trong nông nghiệp: đang được hình thành như các vùng trọng điểm trong cây lương thực ở đồng bằng sông Cửu long và đồng bằng sông Hồng. Các vùng cao su, cà phê đang hình thành ở Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Vùng chè tập trung chủ yếu ở các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc. Điều đó đã tạo ra sự phân bố lại lao động, vốn đầu tư và tư liệu sản xuất, thúc đẩy các vùng kinh tế lạc hậu phát triển. d. Cơ cấu kinh tế nông thôn Cơ cấu giữa nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn nước ta có sự chuyển biến theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành nghề và dịch vụ phi nông nghiệp. Do đó cơ cấu kinh tế nông thôn bước đầu có sự chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Bảng 2: Cơ cấu giá trị sản lượng nông nghiệp Năm Tổng số Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ 1986 100 80,2 16,7 3,1 1990 100 80,2 16,6 3,2 1995 100 80,4 16,6 3,0 Nguồn: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn Cơ cấu giá trị sản lượng trồng trọt chăn nuôi ncó sự thay đổi theo hướng tích cực, ngành trồng trọt chăn nuôi đã có những tiến bộ và phát triển mạnh mẽ nhưng nhìn chung cơ cấu kinh tế nông thôn tốc độ biến đổi còn chậm. Giá trị sản lượng nông nghiệp vẫn chiếm đại bộ phận trong nền kinh tế quốc dân: năm 1993 nông nghiệp chiếm 29,2% trong GDP và hơn 70% lực lượng lao động. Tuy vậy, trong nông nghiệp trồng trọt và chăn nuôi phát triển chậm, sản xuất và cân đối lương thực tuy đã khá hơn những vẫn chưa thật vững chắc, cây công nghiệp bị giảm sút cả số tuyệt đối và tỷ trọng 8,1% năm 1985 xuống còn 6,6% năm 1992, chăn nuôi chưa trở thành ngành chính. Cơ cấu kinh tế nông thôn chậm biến đổi, ở nhiều nơi vẫn mang nặng tính thuần nông, ví dụ ở đồng bằng sông Hồng, trong giá trị tổng sản lượng,phần phi nông nghiệp mới có 15%, ở miền núi phía Bắc 10,7%. Trong nhiều năm chúng ta thực hiện ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, do đó vốn đầu tư cho nông nghiệp còn chưa thoả đáng. Nếu tính bình quân 10 năm 1976-1986 vốn đầu tư cho nông nghiệp và thuỷ lợi chiếm 18,75 trong tổng vốn đầu tư, riêng nông nghiệp là 9,8% và thuỷ lợi là 8,9%. Từ năm 1986 đến nay tuy Nghị quyết của Đảng đã nêu rõ "nông nghiệp thật sự là mặt trận hàng đầu" nhưng vốn đầu tư cho nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng thấp so với công nghiệp. Vì đầu tư cho nông nghiệp chưa thoả đáng nên cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp còn thấp. Các công trình thuỷ lợi mới đảm bảo tưới được 40,5% diện tích gieo trồng hàng năm. Tình trạng úng hạn xảy ra thường xuyên, phân hoá học và thuốc trừ sâu còn thiếu, diện tích cày bừa bằng máy mới chiếm khoảng 20%. Việc chế biến nông sản còn ở mức thấp làm ảnh hưởng đến sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu nông sản. Mặc dù cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta trong những năm 1990-1995 đã có những biến đổi cơ bản và tích cực nhưng sự biến đổi đó diễn ra với tốc độ rất chậm. Vì vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, hiện đại hoá công nghiệp hoá với tốc độ nhanh là một đòi hỏi cấp thiết khách quan. 1.2 Cơ sở hạ tầng nông thôn a. Điện, đường giao thông và cơ sở vật chất khác cho phát triển nông nghiệp Theo kết quả tổng điều tra nông thôn và nông nghiệp năm 1994 cá nước có 60% số xã có điện, 86,4% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã, 98% số xã có trường cấp I, 76% có trường cấp II, 92% số xã có trạm xá xã, 37% có nhà trẻ và 49,3% số xã có trạm biến thế điện. Cơ sở hạ tầng nông thôn đã được nâng cao so với các thời kỳ trước, điều kiện nhà ở, học hành, bảo vệ sức khoẻ của nhân dân nông thôn có bước tiến rõ nét; 57,7% số hộ nông thôn có nhà kiên cố, 65% số hộ có nguồn nước sạch. Tình trạng học sinh nông thôn bỏ học đã giảm dần. Đời sồng tinh thần của nông dân có nhiều tiến bộ: tỷ lệ hộ có máy thu thanh từ 11%lên 32,8% trong cùng thời gian, 53% số hộ nông thôn có điện dùng trong sản xuất và sinh hoạt. Máy móc công cụ phục vụ sản xuất ở nông thôn tăng nhanh, gắn liền với sự đầu tư mua sắm của các hộ nông dân tự chủ. Đến năm 1995 cả nước có 41700 máy kéo, 584000 máy bơm nước các loại, 52000 máy xay xát, 99000 máy tuốt lúa có động cơ và hàng trăm ngàn các loại công cụ cơ khí phục vụ sản xuất và chế biến nông, lâm thuỷ sản. Điện dành cho nông thôn và nông nghiệp từ 801 triệu kwh năm 1991 tăng lên 1166 triệu kwh năm 1994 và 1300 triệu kwh năm 1995, tỷ trong từ 15% lên 20% điện sản xuất trong 5 năm tương ứng. Nông thôn có điện nên điều kiện lao động và bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới, thiết bị, đồ dùng trong gia đình hộ nông dân tăng lên, rõ nhất là vùng đồng bằng và nông thôn ven thành phố, thị xã, khu công nghiệp. Vấn đề tồn tại hiện nay là nông thôn vùng núi, vùng cao, vùng sâu cơ sở hạ tầng còn thấp kém, nhất là điện và đường ô tô, ở đồng bằng giá điện còn cao 730 đồng/kw, kéo theo sự gia tăng của chi phí thuỷ lợi, phí ở các vùng đã được thuỷ lợi hoá. b. Hệ thống các công trình thuỷ lợi Một số các công trình thuỷ lợi tuy đầu tư vốn lớn nhưng đã xuống cấp nên năng lực phục vụ sản xuất nông nghiệp còn hạn chế. Thực tế cho thấy rằng, năng lực tưới của các công trình thuỷ nông cả nước mới đảm bảo tưới tự chảy trên 2,2 triệu ha canh tác, tưới bán điện trên 1,1 triệu ha canh tác, tổng công 3,3 triệu ha canh tác. Nhưng thực tế hàng năm chỉ khai thác được khoảng 90% công suất thiết kế do máy móc cũ kỹ, kênh mương sụt lở, thiếu điện, không đồng bộ giữa công trình đầu mối và hệ thống kênh mương. Các hồ đập thuỷ lợi tuy công suất thiết kế tưới lớn, nhưng về mùa khô thường xuyên thiếu nước do tệ phá rừng đầu nguồn, đốt nương làm rẫy. Cây trồng quan trọng nhất của Việt Nam là cây lúa thì năm 1995 diện tích lúa được tưới là 5,6 triệu ha, chiếm 84% tổng diện tích gieo cây lúa cả nước, trong đó vụ lúa Đông xuân 2,5 triệu ha, lúa Hè thu 2 triệu và 1,1 triệu ha vụ mùa. Diện tích lúa bị hạn, bị úng hàng năm vẫn còn lớn nhất là ở vùng đồng băng sông Hồng và miền Trung. Khả năng chống hạn, chống úng của các công trình thuỷ nông hiện có dù có khá hơn trước song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cung cấp nước theo nhu cầu sinh trưởng của cây lúa. Tỷ lệ diện tích lúa được tưới, tiêu theo khoa học chưa đạt 50% tổng diện tích gieo cấy hàng năm. Bảng 3: Số lượng các công trình thuỷ lợi ĐVT 1991 1992 1993 1994 1995 Số công trình thuỷ lợi Cái 5112 5263 5310 5350 5415 Thuỷ nông '' 5020 5168 5180 5215 5319 Đại thuỷ nông '' 424 425 454 457 460 Trạm bơm điện '' 2742 2882 2905 3047 3120 Trạm bơm dầu '' 355 355 366 376 394 Thuỷ điện kết hợp thuỷ nông '' 92 95 105 119 125 Máy kéo tiêu chuẩn (15 CV) '' 35375 37627 38000 46800 57500 Máy bơm 1000 cái 35375 37637 38000 46800 57500 Điện cung cấp cho Nông nghiệp Triệu Kwh 807,4 975,0 1000 1166 1300 1.3 Chính sách đầu tư vốn thời kỳ 1990-1995 Nông nghiệp và nông thôn nước ta có vị trí rất quan trọng (chiếm hơn 80% cư dân cả nước và chiếm tỷ trọng khá lớn trong sản phẩm của nền kinh tế quốc dân). Trong nhiều năm qua chúng ta chỉ chú ý đến nông nghiệp, lãng quên địa bàn nông thôn vì vậy kinh tế nông thôn nước ta chủ yểu là thuần nông với cơ sở vật chất nghèo nàn, kết cấu hạ tậng thấp kém. ở các nước phát triển công nghiệp nông thôn khá phát triển. ở đây không chỉ có tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp với kỹ thuật truyền thống mà còn có cả công nghiệp lớn với kỹ thuật tiên tiến, gắn với hoạt động nông nghiệp nông thôn. Bên cạnh đó dịch vụ thương mại cũng rất phát triển. Vốn là điều kiện và tiền đề để phát triển và mở rộng sản xuất, nâng cao đời sống và dân cư nông thôn từng bước xoá đói giảm nghèo. Vì vậy, một mặt phải huy động nguồn vốn tự có trong nông dân, mặt khác Nhà nước phải giúp đỡ nông dân, cho họ vay vốn với nhiều hình thức phong phú và có hiệu quả. a.Chính sách đầu tư vốn Từ sau Nghị quyết 10 của Bộ chính trị nền kinh tế nước ta từng bước chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước . Chính sách đầu tư vốn đã thay đổi: vốn bao cấp cho các doanh nghiệp quốc doanh giảm hẳn và chuyển những đầu tư đó sang hình thức tín dụng vay vốn và phải trả lãi suất để tạo cho các xí nghiệp nông nghiệp quốc doanh quan tâm đến việc sử dụng vốn có hiệu quả. Vốn ngân sách dành cho khai hoang vẫn giữ tỷ lệ 5%-7%, tỷ lệ dành cho các nông trường quốc doanh từ 40% của những năm 1986-1987 giảm xuống còn trên 10%. Đảng lưu ý là vốn ngân sách tập trung đầu tư cho thuỷ lợi (chủ yếu là thuỷ nông) - một bộ quan trọng của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn cũng giảm. Bảng 4:Vốn đầu tư XDCB của Nhà nước dành cho nông nghiệp 1990-1995 Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 Tổng Tổng số vốn đầu tư cho NN 409,1 615,4 639,8 1027,6 1500 13500 5541,9 Tỷ trọng so với tổng sốvốn đầu tư của Nhà nước (%) 15,0 13,7 13,2 12,7 12,4 11,0 Vốn đầu tư cho nông nghiệp 1990-1995: số lượng vốn tính theo giá trị tuyệt đối thì đạt múc tăng dần qua các năm, cụ thể; 1990 là 409,1 tỷ; 1995 là 1350 tỷ đồng, tuy vậy lượng vốn đầu tư cho nông nghiệp so với các ngành khác là còn thấp hơn nhiều. Cụ thể là tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp so với tổng số vốn đầu tư của Nhà nước (%) giảm dần qua các năm 1990 chiếm 15%; 1995 chiếm 11%. Bảng 5. Vốn và cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước trong ngành nông nghiệp năm 1990-1995. Đơn vị: Số lượng (tỷ đồng)-Tỷ trọng (%) Chỉ tiêu 1990 1991 1992 1993 Số lượng Tỷ trọng Số lượng Tỷ trọng Số lượng Tỷ trọng Số lượng Tỷ trọng Tổng số 409127 100 615400 100 839807 100 1140000 100 I.Trồng trọt 91296 22,6 189300 30,7 228069 27,2 314000 27,5 1.Khai hoang 29473 7,2 37200 6,0 126654 15,1 2.Nông trường 55559 13,5 145500 23,6 90542 10,8 Cao su 20780 5,1 60600 9,8 29970 3,6 Cà phê 2599 0,6 16000 2,5 6992 0,8 Chè 906 0,2 19600 3,1 5851 0,7 3.Trang trại 7324 0,2 6660 1,0 10873 1,3 II.Chăn nuôi 16903 4,1 20700 3,4 30102 3,6 40000 3,5 Chuồng trại 4400 1,1 9505 1,1 Trạm trại 12503 3,7 400 0,06 20597 2,4 IVThuỷ lợi 299830 73,3 405000 65,8 581636 69,2 786000 69,0 Thuỷ nông 244435 59,7 234000 56,1 438335 55,2 Nhà nước đã dành số vốn lớn đề thực hiện chương trình 327 nhằm bảo vệ có hiệu quả vốn rừng hiện có gắn với định canh định cư, phủ xanh đất trống đồi trọc, tăng khả năng._.ng gian như các trạm thu mua, các tổ chức cung ứng vật tư phân bón nông nghiệp, các nông trường hoặc thông qua các tổ chức hội, các đoàn theer, các tổ chức xã hội nghề nghiệp... cho vay theo chu trình khép kín có sự kết hợp giữa nhiều ngành, nhiều công đoạn, nhiều lĩnh vực với nhau. thực hiện cho thuê tài chính để cho thuê máy móc thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ. 1.3 Mở rộng đối tượng cho vay: Tín dụng nông nghiệp phát triển nông thôn không chỉ cho vay bó gọn trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp mà phải được mở rộng ở nhiều lĩnh vực khác nhau để phát triển theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Thực hiện cho vay để trước hết phát triển mạnh cơ sở hạ tầng trong sản xuất nông nghiệp ( điện, đường, trạm, trường, nhà ở, tưới tiêu, nước sạch...) cho vay để cải tiến sản xuất, áp dụng công nghệ cao và khoa học tiên tiến vào sản xuất từ con giống đến thu hoạch, bảo quản, cất trữ và chế biến. 1.4 Chính sách lãi suất: Góp phần khuyến khích đầu tư của người sản xuất nông nghiệp, Về nguyên tắc lãi suất phải tiến tới tự do hoá theo quan hệ cung cầu. Mặc dù hiện nay cơ chế lãi suất không còn phân biệt giữa thành thị và nông thôn nữa nhưng cần áp dụng lãi suất ở vùng nông thôn thấp hơn lãi suất thành thị. Ngoài lãi suất bình thường, cần thực thi lãi suất ưu đãi đối với các đối tượng và các lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư phục vụ cho chiến lược hiịen đại hoá, cồng nghiệp hoá làm tăng khả năng sinh lời đối với người sản xuất nông nghiệp. 1.5 Mở rộng mạng lưới cung cấp các dịch vụ tín dụng ngân hàng: Cải tiến hồ sơ và các thủ tục vay vốn cho nông hộ. Do điều kiện vật chất kỹ thuật và trình độ dân trí của người sản xuất nông nghiệp còn rất thấp nên việc mở rộng mạng lưới cuung cấp các dịch vụ tín dụng ngân hàng, cải tiến hồ sơ và thủ tục vay vốn đối với họ là rất cần thiết. Các tổ chức tín dụng đặc biệt là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng phục vụ người nghèo, các tổ chức tín dụng hợp tác (Quỹ tín dụng nhân dân) cần mở rộng mạng lưới, đảm bảo cho khách hàng có thể gửi tiền, vay vốn tại chỗ, các thủ tục phải giản đơn, dễ hiểu, giảm thiểu các loại giấy tờ, có quy trình giao dịch thuận tiện, nhằm mở rộng tín dụng đối với nông nghiệp và nông thôn. Cần hình thành sớm các ngân hàng chính sách để phục vụ riêng cho các lĩnh vực này thực hiện mục tiêu mang tính chất kinh tế - xã hội của Nhà nước trong giai đoạn từ nay đến 2010. 1.6 Các giải pháp hỗ trợ: Chính sách ruộng đất cần được điều chỉnh, trước hết phải hợp hoá nhanh chóng quyền sử dụng ruộng đất lâu dài đối với người nông dân; tránh việc giao khoán ruộng đất cho nông dân một cách manh mún, ruộng đất bị xé lẻ làm cản trở việc phát triển sản xuất với quy mô lớn; nhất quán trong việc nhận quyền sử dụng ruộng đất làm tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng. Chính sách thuế, nhất là thuế nông nghiệp cần tạo nhiều ưu đãi để khuyến khích người dân đầu tư sản xuất, chính sach thuế phải ổn định tránh thay đổi nhiều. Các loại thuế về nhập khẩu vật tư, phân bón, máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất nông nghiệp cần được ưu đãi hơn nữa để khuyến khích đầu tư cải tiến sản xuất. Nhà nước cần có những chính sách đúng đắn trợ giúp về giá cho các sản phẩm nông nghiệp để người sản xuất an tâm bỏ vốn đầu tư công sức, tạo ra thu nhập tương đối cho nông dân, bù đắp lại những công sức người nông dân bỏ ra trong sản xuất. 2. Điều chỉnh hợp lý cơ cấu đầu tư cho phát triển sản xuất nông nghiệp nông thôn. Cơ cấu kinh tế của nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn cần giải quyết, cơ cấu ngành trong nông nghiệp còn bất hợp lý ví dụ như tỷ trọng cơ cấu ngành trồng trọt còn cao hơn ( khoảng 80% so với tỷ trọng ngành chăn nuôi dịch vụ chiếm khoảng 20%) Cơ cấu hợp lý về đầu tư trong cơ cấu vùng kinh tế hai vùng Đồng Bằng sông Hồng và Đồng Bằng sông Cửu Long còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn nhà nước phải có vai trò quyết định trong vị trí chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn với thị trường trong nước và thế giới bằng các chính sách cơ chế đồng bộ, quy hoạch định hướng cho nông thôn theo từng vùng lãnh thổ. Thời gian tới phải chú trọng phát triển trong dịch vụ chăn nuôi, nhất là các dich vụ phục vụ nông nghiệp để thúc đẩy chuyển dịch căn bản cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm đưa tỷ trọng dịch vụ có vị trí tương xứng trong quá trình phát triển nông nghiệp. Mặt khác phải chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi có gí trị kinh tế cao nhằm tận dụng lợi thế về đất đai nước và khí hậu trong vùng, đồng thời gắn với công nghệ bảo quản và chế biến sau thu hoạch để tiến tới một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá có cơ cấu thích hợp giữa trồng trọt chăn nuôi dịch vụ và cơ cấu hợp lý trong từng lĩnh vực. Có như vậy nghành nông nghiệp mới đủ đảm bảo được phát triển ổn định và bền vững. Phát triển khoa học công nghệ để làm cơ sở cho việc nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm, nghiên cứu để chọn và tạo ra các giống cây trồng, giống vật nuôi có năng suất cao, phù hợp với các vùng sinh thái, đáp ứng yêu cầu đa dạng hoá về sinh học và phát triển bền vững. Ưu tiên đầu tư cho chọn và tạo những giống cây trông, vật nuôi chính có giá trị kinh tế cao và tạo ra các sản phẩm xuất khẩu (lúa, cà phê,chè, cao su, điều...) ngững giống cây ăn quả ( vải, nhãn, sầu riêng...) phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, giống cây lâm nghiệp, thuỷ sản. Nghiên cứu khoa học công nghệ sinh học, công nghệ sản xuất vi sinh, phân hữu cơ sinh học, các thuốc trừ sâu sinh học, các loại thức ăn giàu dinh dưỡng, các loại thuốc thú y, ứng dụng các công nghệ tế bào, công nghệ nuôi cấy, công nghệ cấy truyền hợp tử, công nghệ chuyển giao... và công tác tạo giống cây trồng vật nuôi có năng suất cao, chống chịu sâu bệnh. Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật thâm cây trồng... Có chính sách biện pháp thích hợp chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đa dạng hoá, chuyên môn hoá có hiệu quả có sức canh tranh cao tăng dần tỷ trọng của ngàng công nghiệp xây dựng, ngành dịch vụ, giảm dần tỷ trọng của ngành nông lâm, ngư nghiệp. trong GDP đầu năm 2005 tỷ trọng của các ngành trên là 22, 25, 53. Trong nông nghiệp tập trung phát triển loại nông sản góp phần thay thế nhập khẩu: nhô, đậu tương, bông, thuốc lá, bò sữa... đồng thời tiếp tục phát triển các mặt hàng nông sản có lợi thế xuất khẩu như cà phê, cao su, tiêu, điều... theo hướng thâm canh cao, nâng cao chất lượng và hiệu quả góp phần nâng kim ngạch xuất khẩu để đến năm 2005 có mức xuất khẩu bình quân đầu người đạt 200 USD/ năm. Nghiên cứu các biịen pháp kỹ thuật thâm canh cây trồng, nuôi dưỡng gia súc, bảo đảm chất lượng vệ sinh, an toàn thực phẩm. đối với cây trồng, tập trung vào bảo vệ thực vạt áp dụng các biện pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM), nghiên cứu các quy luật phát triển của sâu bệnh, biện pháp phòng trừ sinh học để giảm bớt sử dụng thuốc hoá học và tập trung vào kế hoạch tưới tiêu cho cây công nghiệp. Đối với chăn nuôi tập trung vào công tác thú y nhằm xây dựng vùng an toàn dich bệnh, nghiên cứu chế độ dinh dưỡng thâm canh trong chăn nuôi gia súc gia cầm. Nghiên cứu và phát triển công nghệ sau thu hoạch: Tập trung nghiên cứu phát triển và phổ biến công nghệ thiết bị bảo quản, đóng gói nhất là các sản phẩm tươi sống như rau, hoa quả, thịt, cá để giảm tỷ lệ tổn thất, kéo dài thời gian tiêu thụ, áp dụng các kỹ thuật hiện đại kết hợp với các phương pháp truyền thống. Nghiên cứu các cơ sở khoa học và thực hiện cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ, cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn, trong đó tập trung vào 2 vùng đồng bằng và các tỉnh còn nhiều tiềm năng về đất (Trung du miền núi, Duyên Hải và Tây Nguyên). Phát triển cơ sở hạ tầng phù hợp với nền nông nghiệp hàng hoá, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá như phát triển thuỷ lợi, điện và giao thông nông thôn, hệ thống thông tin và các công trình phục vụ thương mại, xây dựng các thị tứ, thị trấn làm trung tâm công nghiệp, thương mại, văn hoá - xã hội ở các địa bàn nông thôn. Phát triển thị trường để tạo động lực phát triển kinh tế nông thôn với những nội dung chính là: + Xác định hướng phát triển thị trường của các sản phẩm chính gồm cả thị trường nội địa và xuất khẩu. + Tổ chức nghiên cứu và thông tin thị trường để xác định lợi thế cạnh tranh của các mặt hàng chính, lợi thế của các vùng sinh thái, các địa phương, đồng thời nghiên cứu về qyu mô, nhu cầu, tiêu chuẩn của thị trường trong nước và thị trường quốc tế chủ yếu. Tìm hiểu chính sách thương mại của các nước nhập khẩu chủ yếu đê kịp thời cuung cấp thông tin cho nông dân và các doanh nghiệp trong nước. 3. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho phát triển nông nghiệp nông thôn 3.1 Giải pháp cho điện phát triển nông nghiệp nông thôn Điện cho nông nghiệp đã được quan tâm đầu tư tuy vậy còn nhiều khó khăn bất cập, về cơ chế chính sách cho công tác phát triển điện nông thôn còn chưa ban hành kịp thời như về ưu đãi tín dụng, phân công trách nhiệm cụ thể giữa ngành điện và các địa phương. Công tác đầu tư còn nhiều bất cập như không đồng bộ giữa phần vốn của ngành điện đầu tư với phần vốn của địa phương. Như vậy để thực hiện các mục tiêu đề ra cần tiến hành một số giải pháp sau: Một là, về cơ chế đầu tư lưới điện nông thôn phải xác định "Nhà nước và nhân dân, trung ương và địa phương cùng làm", huy động nhân lực, vậy tư, tài lực từ mọi nguồn, mọi thành phần kinh tế để xây dựng hệ thống lưới điện. Tổng công ty điện lực Việt Nam đầu tư đường dây trung thế, trạm biến áp và công tơ điện bằng kinh phí từ các nguồn vốn ngân sách,vốn khấu hao cơ bản được để lại của ngành điện .Vốn vay tín dụng ưu đãi theo kế hoạch hàng năm,vốn tài trợ quốc tế theo các hiệp định của Chính Phủ và vốn vay tín dụng dầu tư lưới điện nông thôn cần cho áp dụng lãi suất bằng 30-50% mức lãi xuất vay đầu tư XDCB hiện hành. Lưới điện hạ thế các địa phương được đầu tư từ ngân sách địa phương,vốn phụ thu tiền điện từ thành phố, thị xã, thị trấn và các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn, vốn vay tín dụng ưu đãi...Nhưng đường dây hạ thế từ đường trục hạ thế vào nhà dân do nhân dân tự đầu tư. Hai là, đối với những vùng miền núi ||, |||, biên giới, những nơi xa lưới điện quốc gia, các hộ gia đình thuộc chính sách đặc biệt khó khăn trong đời sống, Nhà nước sẽ hỗ trợ để xây dựng đường dây trục hạ thế và đường dây hạ thế vào nhà dân. Riêng 4 thành phố trực thuộc Trung Ương và một số địa phương khác có điều kiện thuận lợi để đưa điện về nông thôn các xã ngoại thành, kể cả vốn đầu tư cho lưới điện trung và hạ thế, sẽ huy động chủ yếu từ nguồn phụ thu tiền điện trên địa bàn, HĐND, UBND thành phố quyết định mức và thời gian phải thu tiền điện. Các tỉnh, thành phố phối hợp với ngành điện lập dự án xây dựng lưới điện trung hạ thế ở nông thôn theo phương thức bỏ vốn xây dựng lưới điện hạ thế, mua bán điện năng của ngành điện theo giá qui định của Nhà nước và bán lẻ điện năng cho các hộ tieu dùng điện và thu hồi vốn đầu tư với các điều kiện không vượt giá trần do Nhà nước qui định. để tăng số hộ nông dân được dùng điện, ngân hàng cần xem xét cho các hộ ngèo được vay vốn theo hình thức tín chấp trả chậm với lãi suất ưu đãi trong vòng từ 1-2 năm để kéo điện hạ thế vào nhà mình. Ba là, đối với một số xã miền Núi và vùng hải đảo chưa có khả năng kéo điện tới được, các địa phương phối hợp với ngàng điện lập dự án xây dựng nguồn điện tại chỗ phù hợp như diesel, thuỷ điện nhỏ. Khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia đầu tư và kinh doanh điện của các dự án nguồn điện tại chỗ nói trên. nhà nước miên thuế tài nguyên, thuế doanh thu đối với sản xuất kinh doanh các nguồn điện tại chỗ phục vụ trên địa bàn này. Bốn là về cơ chế quản lý, mọi nguồn vốn đầu tư cho lưới điện nông thôn phải tuân thủ theo nghị định 42/CP, 92/CP của Chính phủ do chủ đầu tư trực tiếp quản lý sử dụng vốn đầu tư theo các qui định hiện hành. Năm là, về cơ chế quản lý kinh doanh bán điện: Về lâu dài, các đơn vị của Tổng Công ty điện lực Việt Nam sẽ nâng dần tỷ trọng bán điện trực tiếp cho các hộ nông dân ở nông thôn, còn hiện nay vẫn thực hiện đa dạng hoá mô hình quản lý kinh doanh bán điện ở nông thôn. Ban (Tổ) điện, hợp tác xã tiêu thụ điện năng, Công ty (Ban) điện nước của tỉnh, doanh nghiệp nhà nước, tư nhân mua bán điện năng của Tổng Công ty điện lực Việt Nam tại Công ty tổng và bán lẻ điện năng cho các hộ nông dân dùng điện. Dù việc đầu tư phát triển điện lưới kinh doanh bán điện cho nông dân thực hiện theo các phương thức và mô hình khác nhau nhưng đều có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp Chính quyền địa phương và các đơn vị thuộc Tổng Công ty điện lực Việt Nam và các chủ đầu tư để đảm bảo có kết quả cao nhất. Mặt khác, giao cho Bộ Công nghiệp nghiên cứu, ban hành theo tiêu chuẩn kỹ thuật trong thiết kế, xây dựng và vận hành lưới điện nông thôn, vừa phù hợp với điều kiện kinh tế của nước ta, vừa đảm bảo các qui định về chất lượng và an toàn. Hiện trạng lưới điện nông thôn còn nhiều bất cập. Thực tế cho thấy, lưới điện nông thôn ở nước ta mỗi miền được hình thành ở các gian đoạn khác nhau và có những đặc điểm riêng. ở miền Bắc, lưới điện nông thôn lúc đầu được hình thành trên cơ sở xây dựng các trạm bơm tiêu nước phục vụ nông nghiệp. Lấy các trạm bơm làm điểm xuất phát, các hợp tác xã nông nghiệp huy động công quĩ và sự đóng góp của nhân dân để xây dựng các đường dây tải điện đến hộ gia đình phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và đời sống. Vì vậy có sự lệch lạc lớn về mức độ và tỷ lệ số xã, số hộ có điện giữa các địa phương khác nhau, nơi nào có phong trào thuỷ lợi phát triển mạnh và tranh thủ được sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước thì nơi đó lưới điện phát triển tương đối tốt. Sau này tình hình chung có khác hơn, nhưng căn bản, điện nông thôn ở miền Bắc vẫn lầ gắn với thuỷ lợi. Còn miền Nam, do những năm đầu giải phóng thiếu nguồn điện nên nhà nước chỉ đầu tư lưới điện phục vụ các trạm thuỷ nông đầu mối. Sau khi nhà máy Thuỷ điện Trị An đi vào hoạt động năm 1988 và đặc biệt từ giữa những năm 1990 các hợp tác xã mới huy động nông dân đóng góp để xây dựng đường dây hạ thế đưa điênj về xóm, ấp. Tuy vậy, tỷ lệ số hộ nông dân có điện mới chỉ có 34%. Riêng ở miền Trung, việc dưa điẹn về nông thôn mới chỉ bắt đầu từ khi xây dựng xong đường dây 220KV Vinh - Đồng Hới cùng trạm 220KV Đồng hới và phát triển mạnh sau khi hoàn thành hệ thống tải điện 500KV Bắc - Nam. Bởi vậy kết quả trên bình diện toàn quốc đến nay, toàn bộ các tỉnh thành phố trực thuộc trung Uơng đã được nối với lưới điện quốc gia. Đến cuối năm 1996, lưới điện quốc gia đã đến với 60/61 tỉnh lỵ, 426/470 huyện lỵ,(đạt tỷ lệ 90,6%), 5698/9022 xã có điện, đạt tỷ lệ 63,2% và 6.031.323/11.887.452 hộ nông dân có điện đạt tỷ lệ 50,7%. Điều đáng lo ngại ở đây là do có nhiều nhu cầu bức xúc về sử dụng điện cùng vốn đầu tư hạn hẹp nên lưới điện nông thôn trong những năm vừa qua ở nhiều nơi được xây dựng không theo qui hoạch, chưa đảm bảo tiêu chuẩn ký thuật, trong thời gian sử dụng không đảm bảo thường xuyên việc bảo trì, cải tạo dẫn đến việc cung cấp điện không ổn định, chất lượng thấp, không an toàn và tỷ lệ tổn thất mất mát điện cao. Trong khi đó việc quản lý điện chưa thống nhất (trong 5698 xã có điện và 6.031.323 hộ nông dân dùng điện), chủ yếu theo các mô hình Ban (tổ) điện xã, thầu tư nhân, Công ty (xí nghiệp) kinh doanh điệ nông thôn của địa phương hoặc hợp tác xã tiêu thụ điện năng và ngành điện lực bán điện đến từng hộ dân. Không những thế, ngay cả về giá điện nông thôn cũng không thống nhất. Bởi vì, ngành điện hiện nay chỉ bán điện trực tiếp đến được hộ nông dân khoảng 30 xã trong toàn quốc và bán theo đúng giá qui định. Số xã còn lại, ngành điện lại bán tại công toe tổng với giá 360 đồng/KW/h cho các tổ chức quản lý điện nêu trên để bán lẻ cho hộ nông dân. Do nhiều nguyên nhân về kỹ thuật, về quản lý, giá điện thực tế mà các hộ nông dân phải trả có nhiều mức khác nhau tuỳ theo từng địa phương và nhìn chung đều cao hơn so với giá qui định. Chẳng hạn có 60,9% số xã cố điện giá từ 450 đ/kwh đến 700 đ/kwh; 32,4% số xã có điện giá từ 700 đ/kwh đến 900 đ/kwh trở lên... 3.2 Giải pháp cho thuỷ lợi Như đã nêu trên thuỷ lợi còn một số vấn đề còn tồn tại đáng kể, nhiều công trình thuỷ lợi đã xuống cấp nghiêm trọng, mô hình quản lý nguồn nước và công trình thuỷ lợi chưa sát với người dùng nước, nhiều cấp ngành chưa nhận thức được tính xã hội đa dạng hoá mục tiêu của xã hội. Do đó cần phải có những phương hướng giải quyết cho thuỷ lợi Có thể nói, hiện nay ngành thuỷ lợi nước ta đã tương đối mạnh về "phần cứng" - xây dựng công trình và mới tiếp cận với "phần mềm" khái niệm phi công trình (có thể coi là cái hồn của ngành thuỷ lợi). Khái niệm này cần được quán triệt, vận dụng trong ngành thuỷ lợi theo tinh thần phát triển ngành trong phát triển tổng thể nông nghiệp - nông thôn toàn diện, toàn xã hội bền vững. Những vấn đề sau đây cần được sớm tiếp cận với khái niệm này: + Điều tra xã hội vùng hưởng lợi, các tập tục, tôn giáo, vai trò cộng đồng, các đoàn thể... trong hoạt động thuỷ lợi. + Thông tin hai chiều trong định hướng quy hoạch, thiết kế các giai đoạn giữa các cơ quan được giao quyền chủ đầu tư với các tổ chức người hưởng lợi và bảo vệ về công trình thuỷ lợi. Đặc biệt cần quan tâm lấy ý kiến của người dân ( không chỉ dừng lại ở các ý kiến của chính quyền địa phương, cơ quan tư vấn, vì dễ chủ quan, phiến diện) + Hoạt động của công trình thuỷ lợi theo hướng có sự tham gia sâu rộng, dân chủ của cộng đông nhân dân hưởng lợi, chính quyền, các hội nghề nghiệp tại địa phương. + Vấn đề thổ nhưỡng, cơ cấu cây trồng, khả năng chuyển đổi theo hướng hàng hoá xuất khẩu sau khi chủ động được nguồn nước. + Vấn đề kinh tế xây dựng: phân tích kinh tế trên nền tảng khai thác lợi dụng tổng hợp theo nhiệm vụ công trình trên cơ sở thực tế của khu vực hưởng lợi; tránh những nội dung đề xuất và hạch toán xa rời thực tế. + Về công trình thuỷ lợi, cần sử dụng hợp lý vật liệu xây dựng theo cấp bậc ưu tiên khác nhau như trước hết ưu tiên các koại vật liệu đối với các chi tiết bị che khuất và nằm dưới sâu (thân cống cửa vào cống, cửa vào tràn, các khe phân chia, bể tiêu năng và đặc biệt là cửa van cho cống điều tiết dưới sâu, sân trước, thiết bị thoát nước trong thân đập ...), kế đến là các hạng mục khác (tường chắn đất, cửa ra các công trình trên kênh...), thậm chí, ngay tại một chi tiết công trình cũng nên nghiên cứu mức độ ưu tiên khác nhau cho những phần có chế đọ làm việc khác nhau... Cần có nhận thức đúng đắn về các kết cấu mềm, vật liệu mềm thích hợp với những điều kiện phức tạp, da dạng của hệ thống nên - công trình, như: các khe mềm 3 hướng, các khe mềm có vật tiếp xúc không rỉ có tuổi thọ cao, chống xâm thực ; các loại "vật liệu mềm" (bê tông nhựa đường, rọ đá, thảm đá...). + Vấn đề chọn tần suất thiết kế và hình thức giải pháp công trình thoát lũ: nên chú ý đến công trình tháo lũ có cao trình ngưỡng nhiều bậc với phương châm sao cho các hạng mục công trình chính như đập đất, cống qua đập, tràn tháo lũ phải an toàn với bất kỳ tần suất nào đã quan sát được hay rút ra từ lý luận mà đánh giá xây dựng lại nhỏ hơn với cách thức thiết kế truyền thống ( thí dụ như có công trình bậc thấp kiên cố để xả lũ thường xuyên p = 10% - 20%, đồng thời có những bậc cao ít kiên cố hơn để tháo lũ lớn hơn: đập cầu trì, đập tràn bê tông nhựa đường ngay trên thân đập đất, tràn có cửa...). Sự nhìn nhận này phù hợp với yêu cầu của hầu hết các hồ chứa nước. + Vấn đề cập nhật thông tin cho đội ngũ cán bộ tư vấn thiết kế, đổi mới tư duy thiết kế theo hướng tiên tiến hiện đại, đa mục tiêu, dễ vận hành quản lý và hiệu quả. Trong thiết kế cần thường xuyên cập nhật thông tin mới, các thông tin về các khuyết tật, sự cố thường gặp, ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, mạnh dạn ứng dụng các kết cấu mới, tiến bộ ... + Về sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tư vấn thiết kế và nghiên cứu: Cần có các hội nghị, hội thảo để chia sẻ kinh nghiệm giữa hai lĩnh vực ; thiết kế "đặt hàng" cho nghiên cứu, ngược lại, nghiên cứu "bán" các sản phẩm cho thiết kế nhằm đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, chống tụt hậu, nâng cao chất lượng, hiệu quả công trình. 3.3 Giải pháp cho đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn Đầu tư phát triển cở hạ tầng nông thôn phải đồng bộ và chú trọng đầu tư chiều sâu vào những vùng sản xuất hàng hoá qui mô lớn. Việc đầu tư phải được phối hợp chặt chẽ giữa xây dựng cơ sở hạ tầng với phát triển vùng nguyên liệu và xây dựng các cơ sở công nghiêp nông thôn, nhất là các cơ sở chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản. Phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng nông thôn như giao thông thuỷ lợi, điện, thông tin kiên lạc, công trình phúc lợi công cộng và các cơ sở công nghiệp nông thôn và cần tập trung vào các vùng sản xuất hàng hoá lớn, kèm theo sự khuyến khích phát triển công nghiệp chế biến nhằm tạo nên những khu vực có mũi nhọn của nền nông nghiệp. Khu vực này sẽ tạo ra được những sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu có tính cạnh tranh cao. 4. Các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam. 4.1 Giải pháp đối với các doanh nghiệp. - Tìm mọi cách để có thể nâng cao chất lượng hàng nông sản để tạo uy tín, mở rộng thị trường và xuất khẩu với giá cao, nhằm hạn chế sự thua thiệt về giá so với các đối thủ cạnh tranh chủ yếu. Việc tìm cách nâng cao chất lượng hàng nông sản phải được chỉ đạo và tiến hành đồng bộ ở tất cả các khâu trừ giống, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản, dự trữ, chế biến... làm cho hàng nông sản của Việt Nam đạt được tiêu chuẩn Quốc tế. Muốn vậy phải qui hoạch vùng sản xuất, đầu tư nghiên cứu giống cây trồng, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào khâu chăm sóc, thu hoạch, đầu tư vào công nghệ chế biến nông sản, đầu tư vào kho tàng để bảo quản chất lượng nông sản trong quá trình bảo quản và có đủ khả năng dự trữ khi cần thiết. Không nên ỷ vào lợi thế chi phí đầu vào để cạnh tranh mà tính phương án tăng chi phí để tăng chất lượng, sản lượng để lợi về giá và mở rộng thị trường - Tăng cường hoạt động Marketing quốc tế cho hàng nông sản trên cả 4 phương diện: Chính sách sản phẩm, chính sách giá cả, chính sách phân phối và xúc tiến. - Hoàn thiện việc tổ chức thu thập và xử lý thông tin về thị trường, về đối thủ cạnh tranh trên thị trường nông sản thế giới để có thể điều hành công tác xuất khẩu nông sản có hiệu quả hơn. - Có chiến lược và bước đi để xây dựng uy tín của hàng nông sản Việt Nam nhằm cải thiện hình ảnh nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới. 4.2 Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp. - Cải tiến tổ chức quản lý xuất khẩu nông sản theo hướng phân khu vực thị trường cho các đầu mối xuất khẩu lớn để tạo hướng chuyên sâu về khu vực thị trường cho các doanh nghiệp xuất khẩu, hạn chế sự cạnh tranh giữa chính các doanh nghiệp của ta làm thiệt hại đến lợi ích quốc gia, xây dựng cơ chế quản lý lãi suất, thuế, tỷ giá và dự trữ xuất khẩu linh hoạt nhưng phải nằm trong khuôn khổ nhất định. - Tăng cường ký các hiệp định chính phủ với các nước về xuất khẩu nông sản. - Xây dựng trung tâm chuyên thu thập và cung cấp các thông tin về xuất khẩu nông sản trên thị trường thế giới cho các doanh nghiệp trong nước để giúp cho các doanh nghiệp định hướng sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản; đồng thời giúp cho các quyết định của doanh nghiệp có chất lượng cao. - Tạo điều kiện và trợ giúp để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào các họi chợ nông sản quốc tế nhằm giới thiệu về hàng nông sản Việt Nam cho toàn thế giới, thu hút sự chú ý của khách hàng để mở rộng thị trường. - Tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng bến cảng để giảm chi phí vận chuyển và bốc xếp hàng hoá nhằm tăng sức cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu. - Có chính sách khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài vào chế biến nông sản xuất khẩu. - Cung cấp thường xuyên và có chất lượng các dịch vụ cung ứng các vật tư cho nông nghiệp. - Chú trọng công tác nghiên cứu cơ bản và dự báo dài hạn hình thành sản xuất và tiêu thụ hàng nông sản trên thị trường thế giới để cung cấp thông tin cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế trong nước, hướng dẫn người sản xuất nông sản nhập khẩu. 5. Một số giải pháp chung cho đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam (từ nay đến năm 2005) - Chuyển mạnh một nễn nông nghiệp coi trọng số lượng sang một nền sản xuất chú trọng chất lượng. Đẩy mạnh các biện pháp khoa học, công nghệ, trước hết là cải tiến công tác giống nhằm tạo các giống có năng suất cao, chất lượng tốt, cải tiến biện pháp canh tác để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, sản xuất các sản phẩm sạch. - Đối với những sản phẩm cung đã vượt cầu (gạo, cà phê, đường) thì hướng chính là không tăng sản lượng. Đẩy mạnh các biện pháp nâng cao năng suấ, chất lượng, hạ giá thành và chuyển đổi cơ cấu sản phẩm. - Phát triển ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn. - Khai thác lợi thế tối đa của từng vùng, trong đó: + Đối với vùng miền núi phía Bắc, hướng chủ yếu là tròng cây an quả, cây công nghiệp, cây rừng có giá trị như trồng các loại câm, quýt, nhãn vải, măng, trám, quế, hồi... + Đối với Đồng bằng Sông Hồng, đẩy mạnh chăn nuôi lợn, gia cầm theo kiểu trang trại và phát triển ngành nghề sản xuất rau các loại nhất là rau sạch. + Đối với vùng khu Bốn cũ, Duyên Hải miền Trung vừa có rừng, vừa có đồng bằng vừa có biển thì phải kết hợp lợi thế các vùng để phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản. + Đối với Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, chủ yếu là thâm canh cây công nghiệp, bảo vệ giữ diện tích rừng hiện có. + Đối với Đồng Bằng Sông Cửu Long, chủ yếu là phát triển sản xuất lúa gạo chất lượng cao và đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ sản. + Đối với một số vùng cao có khí hậu lạnh có thể trồng các loại cây đặc sản ôn đới như táo, hồng... Tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp nông thôn, tập trung xoá mù chữ cho người lớn và phổ cập giáo dục tiểu học cho trẻ em để đến năm 2005 có 96% dân cư biết đọc, biết viết, tỷ lệ lao động nông thôn được đào tạo đạt khoảng 20%. Tăng cường công tác đào tạo nghề cho nông thôn. chú trọng công tác đào tạo nghề mới, truyền nghề cho người lao động phù hợp với điều kiện và ngành nghề của từng vùng với nhiều hình thức khác nhau. Xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, trong 5 năm tới xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn phải được coi như là một việc làm cấp bách để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cộng đồng dân cư nông thôn vằ huy động mọi nguồn lực, bằng nhiều hình thức như Nhà nước hỗ trợ vốn, vật tư, dân bỏ công sức lao động. - Tiếp tục ưu tiên đầu tư thuỷ lợi để nâng cao diện tích đất được tưới, nhất là ở các vùng miền núi để phát triển sản xuất lương thực, tưới cho cây công nghiệp, bảo vệ an toàn đê điều, chống lũ, ngăn mặn. Đầu tư đường giao thông đến hơn 500 xã hiện còn chưa có đường ôtô tới trung tâm. nâng cấp đường giao thông nông thôn hiện có, đặc biệt chú ý tới Miền Núi, đường vào các vùng kinh tế mới. Mở rộng mạng lưới cung cấp điện phục vụ sản xuất sinh hoạt. Đầu tư cải tạo và cải tiến quản lý để giá điện mà hộ dân phải trả tương đương với giá điện ở thành phố. Thực hiện tốt chương trình quốc gia về nước sạch, vệ sinh, môi trường nông thôn với mục tiêu là năm 2005 có 80% dân số nông thôn có nước sạch để dùng cho sinh hoạt. Xây dựng các trung tâm cụm xã ở các vùng Miền Núi, trong đó có các trường học, chợ, trạm ytế, đài phát thanh, truyền hình... Giao đất, giao rừng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đẩy nhanh việc giao đất, tạo điều kiện cho nông dân yên tâm sản xuất, làm cho mỗi mảnh ruộng, khu rừng đều có chủ. - Khuyến khích tích tụ ruộng đất ở những nơi có điều kiện bằng việc đông viên nông dân chuyển đổi ruộng đất để từng bước xoá bỏ tình trạng đất manh mún ( hiện có khoảng 100 triệu mảnh đất nông nghiệp, mỗi hộ có bình quân 6-8 mảnh, có hộ có trên 20 mảnh, không thuận tiện cho sản xuất và cơ giới hoá). Bằng nhiều biện pháp đảm bảo cho người nông dân có nguyện vọng, có khả năng sản xuất nông nghiệp có đất để sản xuất. - Tăng đầu tư cho các vùng còn khó khăn như Miền Núi, các xã nghèo. - Tiếp tục thực hiện các chương trình Định canh, định cư, Kinh tế mới, Xoá đói giảm nghèo. - Động viên nhiều nguồn lực để phát triển, bao gồm sự đóng góp của dân để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như kiên cố hoá kênh mương, xây dựng đường giao thông nông thôn, điện, nước sạch... Xây dựng chiến lược và hệ thống thông tin thị trường cho các sản phẩm, bảo đảm cho người dân có đủ thông tin để sản xuất và tiêu thụ nông sản. Tại Bộ Nông nghiệp - PTNT đã và đang xây dựng 1 trung tâm thông tin, trong đó có cả về thông tin thị trường. Củng cố lại thị trường trong nước để tiêu thụ nông sản, mở rộng thị trường xuất khẩu. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia tìm kiếm thị trường và xuất khẩu nông sản. Thực hiện các biện pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hỗ trợ tích cực các doanh nghiệp xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường. Thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu cho các sản phẩm quan trọng. Tăng vốn, nhất là vốn vay trung và dài hạn cho khu vực nông thôn để hộ nông dân có thể dễ dàng vay vốn từ các tổ chức tín dụng chính thức. Dân dần xoá bỏ phân biệt tín dụng giữa các khu vực kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh. Kết luận Nông nghiệp nông thôn đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của nước ta. Trong thời gian qua nông nghiệp đã đạt được một số thành tựu vô cùng to lớn tuy vậy vẫn còn nhiều khó khăn và yếu kém cần phải giải quyết. Sự phát triển của nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn chịu sự tác động của nhiều nhân tố trong đó chính sách đóng vai trò gần như quyết định, đó chúnh là tác động can thiệp của Nhà nước đối với sự phát triển của nông nghiệp nông thôn. Chính sách đóng vai trò quan trọng và là yểu tố bao trùm tác động mạnh mẽ bảo đảm sự thành công của chiến lược phát triển kinh tế xã hội nông thôn và phát triển kinh tế xã hội nói chung của đất nước. Chính sách đúng đắn sẽ tạo động lực cho người lao động, cho các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế tham gia tích cực vào sự phát triển sản xuất mở rộng kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội với nhịp độ nhanh và ổn định. Trên đây là nội dung bài viết của em về vấn đề này. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn Nguyễn Ngọc Mai cùng các cô chú trong Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29766.doc
Tài liệu liên quan