Thực trạng và các giải pháp tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công ty TNHH Trần Lâm

PHầN 1 Lý luận chung về vốn và tạo lập vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1. Vốn và vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1.1. Khái niệm vốn và vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp. 1.1.1/Khái niệm vốn Phạm trù vốn là phạm trù hết sức quan trọng không chỉ được các chủ doanh nghiệp, các nhà quản lí quan tâm mà ngay cả các nhà kinh tế học , các nhà lí luận cũng đã dày công nhiên cứu, tìm hiểu để có thể đưa ra một định n

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1241 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và các giải pháp tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công ty TNHH Trần Lâm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ghĩa hoàn chỉnh về vốn Trong tác phẩm “Quản trị vốn’,TS. Đàm văn Huệ nói rằng:Vốn bằng tiền nhưng không chỉ bằng tiền; Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung, khi nói đến vốn thì đồng nghĩa với phạm trù tiền vốn(vốn bằng tiền , vốn tài chính), tức là nó đại diện cho loại hàng hoá nhất định. Trong điều kiện một nền kinh tế hiện vật là chủ yếu, phạm trù hàng hoá bị thu hẹp với cơ chế cấp phát giao nộp sản phẩm, nên có quan niệm như trên là khó tránh khỏi. Ngay bản thân quan niệm vốn được biểu hiện bằng tiền thì tiền ở đây phải vận động với mục đích sinh lời chứ không phải dạng tích trữ.Có thể hiểu đơn giản để phân biệt vốn và tiền tệ như sau: Tiền sẽ được coi là vốn khi chúng được sử dụng cho sản xuất kinh doanh, ngược lại nó hkông được coi là vốn khi đem vào tích trữ hay mua hàng hoá, dịch vụ phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân hay xã hội. Trong tác phẩm của mình,Các Mác đã phân biệt rõ phạm trù tiền tệ và phạm trù tư bản. Ông cho rằng nếu tiền không tham gia vào quá trình sản xuất của xă hội thì tiền đó chỉ ở dạng tư bản tiềm năng mà thôi Trong nền kinh tế thị trường, những quan niệm về vốn như trên là lạc hậu bởi: Vốn là một phạm trù rộng lớn hơn bao gồm tiền tệ, vật tư, tài sản, đất đai, nguồn nhân lực, với nhiều loại: vốn hữu hình( tiền mặt,máy móc, thiết bị...)hay vốn vô hình( bản quyền kinh doanh, tay nghề nhân công, phát minh sáng chế...)( Trong bài viết: “Vốn và việc huy động vốn trong nước” của TĐ Cao Sĩ Kiêm- Báo Kinh tế phát triển; Số 2-1999). Đặc trưng của vốn là dùng để đưa vào đầu tư với mục đích tạo ra lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu Từ những phân tích như trên,ta có khái niệm đúng về vốn như sau: Vốn của doanh nghiệp là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu, tham gia liên tục vào quá trình sản xuất kinh doanh với mục đích đem lại giá trị thặng dư ( Tác phẩm “ Quản trị vốn” của T.S Đàm văn Huê.) Xác định một khái niệm đúng về vốn có một ý nghĩa quan trọng. Một phạm trù vốn bị thu hẹp sẽ dẫn đến tình trạng nhiều nguồn lực bị sử dụng lãng phí. Có một quan niệm đúng về vốn sẽ giúp doanh nghiệp phát hiện được những tiềm năng về vốn, từ đó có biện pháp khai thác và sử dụng chúng đem lại hiệu quả 1.1.2/ Vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp Sẽ là không tưởng nếu nghĩ rằng có thể tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào mà không có vốn hoặc không đủ vốn. Nói một cách khác vốn có vai trò đặc biệt quan trọng để bắt đầu, duy trì và phát triển hoạt động của doanh nghiệp. -Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập doanh nghiệp. Để bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần mua sắm máy móc, trang thiết bị, xây dựng nhà xưởng hay thuê công sở, mướn nhân công. Vì vậy trong giai đoạn này, doanh nghiệp cần tới một lượng vốn rất lớn và phải huy động vốn. Vốn là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp chủ động thực hiện các dự án mang lại lợi nhuận. Không có vốn thì các dự án sản xuất kinh doanh, các cơ hội kinh doanh mang nhiều lợi nhuận sẽ bị bỏ lỡ và sẽ chỉ là dự định, kế hoạch. Mỗi doanh nghiệp cần có chiến lược duy trì và phát triển trên thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vốn vẫn là yếu tố quan trọng hàng đầu giúp doanh nghiệp có khả năng đầu tư , đổi mới công nghệ, đầu tư cho quảng cáo..., nhằm tăng cường cạnh tranh trước các đối thủ. Bởi vì vốn có vai trò quan trọng to lớn như vậy nên bảo tồn và tăng trưởng vốn là một nguyên lí, là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của doanh nghiệp.Chính vì vậy mà một trong những vấn đề mà các doanh nghiệp luôn trăn trở là:Doanh nghiệp nên tạo vốn bằng cách nào?,Làm thế nàodoanh nghiệp có thể huy động vốn tối đa từ mọi nguồn với một chi phí thấp nhất và một cơ cấu tối ưu?. 1.2. Phân loai vốn Để có thể trả lời những câu hỏi nêu trên bước đầu tiên mà người quản lí doanh nghiệp phải thực hiện là phân loại vốn. Đây là công việc được các doanh nghiệp ở các nước có nền kinh tế phát triển rất quan tâm vì nó ảnh hưởng rất nhiều tới chi phí vốn và cơ cấu huy động vốn. ở các nươc đang phát triển, các nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chưa nhiều nên việc phân loại vốn chưa được mọi người quan tâm. 1.2.1/ Phân loại căn cứ vào cơ cấu vốn trong sản xuất kinh doanh Căn cứ vào cơ cấu vốn trong sản xuất kinh doanh, người ta phân thành hai loại:Vốn sản xuất và vốn đầu tư. Sự khác nhau của hai loại vốn này dựa vào mục đích và thời gian sử dùng vốn. - Vốn sản xuất: Là loại vốn sử dụng trong quá khứ và hiện tại phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.Đó là số tiền, tài sản hữu hình, vô hình...dùng trong việc hình thành công việc sản xuất, duy trì và phát triển. Hiệu quả của nó được đánh giá thông qua sự phát triển của doanh nghiệp và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường - Vốn đầu tư: Là loại vốn phục cho mục đích sản xuát kinh doanh trong tương lai. Số lượng vốn đầu tư phụ thuộc vào kế hoạch , các dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn đầu tư sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong tương lai do sự cạnh tranh ngày càng khóc liệt của các đối thủ cạnh tranh và do tính phức tạp của nhu cầu ngày càng tăng.Viêc huy động đủ số lượng , kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh là một vấn đề mà mọi doanh nghiệp luôn luôn quan tâm và dốc sức để hoàn thiện công việc đó 1.2.2/ Căn cứ vào nguồn hình thành vốn Căn cứ vào nguồn hình thành vốn thì toàn bộ vốn của doanh nghiệp được chia thành nợ vay và vốn cuả chủ sở hữu. Đây là cách phân loại cơ bản và phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Hai loại vốn này có mối quan hệ đặc biệt với nhau khi chúng ta xem xét cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp. - Vốn của chủ sở hữu: Là loại vốn do các chủ sở hữu của doanh nghiệp tài trợ và giữ lại phần lợi nhuận chưa phân phối.Đối với các loại vốn này doanh nghiệpkhông phải hoàn trả những khoản tiền đã huy động được trừ khi doanh nghiệp đóng cửa. Tuy nhiên các chủ sở hữu có thể giảm vốn bằng cách giảm vốn ngân sách nhà nước hay mua lại cổ phiêú...Chi phí vốn chủ sở hữu là chi phí cơ hội cho việc sử dụng vốn. Trong trường hơp huy động vốn cổ phần, chi phí vốn là lợi tức yêu cầu của các cỏ đông. Do tính dài hạn và gần như không hoàn trả, vốn chủ sở hữu có độ an toàn rất cao - Vốn vay: Những tài trợ cho doanh nghiệp loại vốn này không phải là chủ sở hữu doanh nghiệp.Đặc trưng của loại vốn này là doanh nghiệp phải tiến hành hoàn trả vốn vay trong một thời gian nhất định. Chi phí vốn là lãi phải trả cho các khoản nợ vay.Mức lãi xuất hay chi phí phải trả cho nợ vay thường ổn định và được thoả thuận trước khi vay.Huy động nợ vay rủi ro hơn huy động vốn chủ sờ hữu song đôi khi các doanh nghiệp lại thích sử dụng nợ vay do một đặc điểm hết sức quan trọng. Chi phí nợ vay được tính vào chi phí hợp lí hợp lệ không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp .Trong khi, lợi tức dành cho chủ sở hữu được trả từ lợi nhuận sau thuế không được tính vào chi phí hợp lí hợp lệ như nợ vay.Đăc điểm này hết sức quan trọng ảnh hưởng tới việc hình thành cơ cấu vốn tối ưu với mục đích tối đa hoá giá trị vốn chủ sở hữu. Nhìn chung đây là hai cách phân loại rất cơ bản và phổ biến trong nền kinh tế thị trường.Nó giúp cho người sử dụng có thể thấy được thực trạng tài chính của doanh nghiệp khi xem xét về măt kinh tế. Về mặt pháp lí, người sử dụng có thể thấy đươc trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng kí kinh doanh với nhà nước, về số tài sản đã hình thành từ vốn vay ngân hàng...Còn nhiều cách phân loại vốn khác như thành vốn cố định và vốn lưu động, phân chia theo khoản mục.Mỗi cách phân loại sẽ phục vụ những mục đích nhất định. 2. Các phương thức tạo lập vốn của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, các phương thức tạo lập vốn cho doanh nghiệp được đa dạng hóa. Vì thế, cơ hội huy động vốn của doanh nghiệp từ các nguồn khác nhau là rất lớn. Về cơ bản doanh nghiệp có thể huy động vốn theo các phương thức sau đây: 2.1. Huy động vốn chủ sở hữu. Có thể thấy rằng vốn chủ sở hữu là nguồn vốn quan trọng hàng đầu của mọi doanh nghiệp. Nó có yếu tố để đánh giá sức mạnh về tài chính của doanh nghiệp. Và nó cũng là căn cứ quan trọng để quyết định khả năng huy động các nguồn vốn khác của doanh nghiệp. 2.1.1/ Ngân sách Nhà nước cấp. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì vốn chủ sở hữu sẽ do Ngân sách Nhà nước cấp. Đây là số vốn do Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý và sử dụng trên cơ sở bảo toàn và phát triển vốn. Mức vốn Nhà nước cấp phụ thuộc vào yêu cầu nhiệm vụ Nhà nước giao cho các doanh nghiệp. Nhà nước có thể cấp vốn ban đầu khi doanh nghiệp mới thành lập hoặc cấp vốn bổ sung trong quá trình hoạt động. Tùy thuộc vảo khả năng ngân sách nhà nước và mức độ kiểm tra vốn của doanh nghiệp mà cơ chế cấp vốn cho doanh nghiệp ở mỗi nước là khác nhau. Ví dụ như ở Pháp, các doanh nghiệp loại 1, hoạt động theo yêu cầu của Nhà nước, thì Nhà nước cấp vốn 100%. Các doanh nghiệp do Nhà nước quản lý, nhưng tự chọn chính sách phát triển, phải cạnh tranh với các doanh nghiệp khác (loại 2) thì Nhà nước không cấp vốn. Nhưng trên thực tế thì vốn Nhà nước cấp cho các doanh nghiệp loại 1 cũng không đủ. Vì vậy, từ năm 1986, trở về trước Nhà nước nắm toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước thuộc loại này. Từ 1986 trở lại đây, Nhà nước cho tư nhân tham gia, do đó, hiện nay ở Pháp, vốn Nhà nước và tư nhân kết hợp với nhau rất đa dạng. ở Malaisia, các công ty thuộc sở hữu Nhà nước được cấp 100% vốn cố định ban đầu. Hàng năm, công ty phải trả lãi (theo lãi suất ưu đãi) trên tổng số vốn đầu tư của Nhà nước. Trong các doanh nghiệp này, Nhà nước quản lý trực tiếp, toàn diện, doanh nghiệp phải sản xuất theo kế hoạch của Nhà nước. Nhưng nếu Nhà nước chỉ muốn nắm một phần hoạt động của doanh nghiệp thì Nhà nước thường thông qua việc nắm cổ phần khống chế của doanh nghiệp. 2.1.2/ Phát hành cổ phiếu. Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp. Đây là cách thức tạo lập vốn rất phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Bằng cách phát hành một số lượng các cổ phiếu lớn với mệnh giá thấp ra công chúng, doanh nghiệp đã tích tụ những luồng vốn nhỏ, rải rác thành một lượng vốn khổng lồ đầu tư vào doanh nghiệp. Những người mua các cổ phiếu này trở thành các cổ đông, chủ sở hữu của doanh nghiệp, tức là công ty cổ phần. Có thể xem xét một số yếu tố cơ bản liên quan đến việc phát hành và kiểm soát các loại cổ phiếu khác nhau. 2.1.2.1. Phát hành cổ phiếu thường. Cổ phiếu thường là một loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu một cách thực sự của cổ đông đối với công ty cổ phần. Đây là loại cổ phiếu mà thu nhập của nó lên xuống phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Cổ đông sở hữu cổ phiếu thường được hưởng những quyền lợi nhất định: Quyền tham gia kiểm soát và điều khiển các hoạt động của Công ty Quyền yêu cầu về thu nhập, được chi trả lợi tức cổ phần từ lợi nhuận sau thuế. Cổ phiếu thường không bị giới hạn trong chi trả cổ tức. Lợi tức cổ phiếu thường chi trả cho cổ đông tương đương với mức rủi ro mà cổ đông chấp nhận. Quyền yêu cầu về tài sản (quyền yêu cầu được chi trả sau cùng khi công ty phá sản). Quyền mua trước (quyền được mua cổ phiếu khi công ty phát hành chứng khoán mới). Trong khi đó mỗi cổ đông chỉ phải chịu một mức trách nhiệm hữu hạn chính là phần vốn mà họ đã đầu tư vào công ty. Về phía Công ty phát hành: Với phương thức huy động này, công ty tạo được luồng vốn chủ sở hữu khổng lồ làm tấm lá chắn chống đỡ mọi rủi ro trong quá trình hoạt động. Vì thế, chi phí huy động vốn cao hơn so với chi phí huy động bằng các chứng khoán khác. Chi phí này chính là lợi tức yêu cầu của nhà đầu tư. Huy động vốn bằng cổ phiếu thường có những ưu điểm nhất định. Trước hết, nó tạo ra một lượng vốn lớn an toàn. Công ty còn có thể linh hoạt thay đổi lượng vốn chủ sở hữu này sao cho thích hợp. Mới thành lập, công ty có thể chỉ phát hành một lượng cổ phiếu nhất định. Khi muốn giảm vốn cổ phần, công ty có thể mua lại các cổ phiếu đang lưu hành, giữ nó cho đến khi bán lại hoặc hủy bỏ. Muốn tăng vốn cổ phần, công ty có thể tiến hành phát hành cổ phiếu mới. Ngoài ra, xem xét sự biến động của thị giá cổ phiếu trên thị trường có thể thấy được phần nào hoạt động và các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động của công ty. Từ đó làm cơ sở cho công ty ra quyết định tài chính nhằm khuyếch đại giá trị vốn chủ sở hữu. Khi huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu mới phải lưu ý tới nhiều vấn đề. Do cổ phiếu tăng nên trong tương lai lợi tức cổ phần có thể sẽ giảm ảnh hưởng tới thị giá của công ty trên thị trường. Mặc dù các cổ đông cũ có quyền mua trước nhằm tránh hiệu ứng pha loãng quyền kiểm soát song công ty cần đề phòng nguy cơ bị thôn tính. Vấn đề chống thôn tính, bảo vệ công ty trước sự thôn tính bằng cổ phiếu của các công ty khác là một khía cạnh đặc biệt. Do đó phải tính đến tỷ lệ cổ phần tối thiểu mà mỗi cổ đông được phép nắm giữ để duy trì tỷ lệ cân đối về sở hữu công ty. 2.1.2.2. Phát hành cổ phiếu ưu đãi. Cổ phiếu ưu đãi thường chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Nó có đặc điểm là thường có tỷ lệ cổ tức cố định, không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Người chủ của cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Hội đồng quản trị của công ty có thể thay đổi cách thức và tỷ lệ trả cổ tức cho cổ phiếu ưu đãi theo từng năm để phù hợp với tình hình cụ thể. Rất hiếm khi cổ đông ưu đãi có quyền bỏ phiếu một cách đầy đủ. Trong một số công ty của Mỹ, đôi khi có quy định những trường hợp ngoại lệ về quyền bỏ phiếu của cổ đông ưu đãi. Tuy nhiên, nếu có ít nhất 2/3 cổ đông ưu tiên nhất trí về một vấn đề nào đó thì ban lãnh đạo công ty phải xem xét ý kiến của họ. Nếu các cổ đông ưu đãi không được trả cổ tức tới một giới hạn nào đó, chẳng hạn sáu quý cổ tức của cổ phiếu ưu tiên bị nợ, thì các cổ đông của những cổ phiếu đó có thể được quyền bỏ phiếu. Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty, cổ tức dành cho cổ đông ưu đãi được lấy từ lợi nhuận sau thuế, tức là không được tính vào chi phí để giảm thuế. Đây chính là hạn chế của việc phát hành cổ phiếu ưu đãi. Mặc dù vậy, như đã đề cập cổ phiếu ưu đãi vẫn có những ưu điểm đối với cả công ty phát hành và nhà đầu tư. Những điều kiện ưu đãi làm giảm rủi ro cho loại cổ phiếu này và như vậy có thể tăng tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư và giảm chi phí huy động cho nhà phát hành. Tóm lại, mặc dù chi phí cao song huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu cho phép tạo được một luồng vốn lớn, an toàn. Tuy nhiên việc huy động này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị về thời gian và điều quan trọng là doanh nghiệp phải có được uy tín trên thị trường vì doanh nghiệp có làm ăn tốt, tình hình tài chính vững vàng mới có khả năng thắng lợi trong huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu. 2.1.3/ Tài trợ nội bộ. Tài trợ nội bộ là phương thức huy động vốn quan trọng đối với doanh nghiệp. Có hai hình thức để thực hiện tài trợ nội bộ: Tái đầu tư thông qua chính sách phân phối cổ tức và phát hành cổ phiếu nội bộ. Điểm chung của cả hai hình thức này đó là cổ đông chấp nhận hưởng một mức lợi tức cổ phần thấp hơn hoặc không nhận lợi tức cổ phần mà đầu tư toàn bộ lợi nhuận sau thuế để mở rộng quy mô của công ty. Như vậy, cổ đông không bị chia sẻ quyền kiểm soát công ty và họ có thể hưởng toàn bộ giá trị thặng dư thu được từ đầu tư bao gồm cổ tức tăng thêm và chênh lệch giá cổ phiếu trên thị trường. Theo hình thức thứ nhất, việc tái đầu tư được thực hiện bằng cách ghi tăng giá trị sổ sách của cổ phiếu. Giá trị danh nghĩa của cổ phiếu tăng sẽ làm tăng thị giá cổ phiếu. Theo hình thức thứ hai, công ty sẽ phát hành thêm cổ phiếu thông thường cho các cổ đông của công ty. Cổ đông sẽ nhận cổ phiếu thay vì nhận thu nhập của họ dưới dạng cổ tức. Việc phát hành cổ phiếu thêm sẽ ảnh hưởng tới thị giá cổ phiếu. Vì vậy, để đảm bảo cho quyền lợi của cổ đông, cổ đông sẽ được hưởng chính sách ưu đãi về giá. Huy động vốn theo phương thức này có nhiều lợi điểm: Tránh việc pha loãng quyền kiểm soát của các cổ đông, Không dẫn đến việc giảm lợi tức trên mỗi cổ phần trong tương lai như việc phát hành cổ phiếu mới, Tránh được nguy cơ bị thôn tính sáp nhập. Tuy nhiên chi phí cho huy động vốn cao. Các cổ đông kỳ vọng vào một mức lợi tức cao hơn mới chấp nhận chính sách tái đầu tư này. Vì vậy huy động vốn phải chú ý đến hiệu quả của việc tái đầu tư. Một hạn chế nữa của phương thức huy động vốn này đó là đôi khi lợi nhuận để lại không đủ đáp ứng nhu cầu về vốn cho mở rộng sản xuất kinh doanh. Vì vậy, đôi khi các công ty không thực hiện biện pháp này hoặc chỉ coi đó như là giải pháp bổ sung cho những hình thức huy động vốn khác. Tuy nhiên có thực hiện được cách thức tạo lập vốn này hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Nói chung, ở những nước đang phát triển, yếu tố lợi tức là quan trọng, vì thế các cổ đông thích nhận thu nhập dưới dạng cổ tức. Trong khi đó, đối với các nước phát triển, các cổ đông quan tâm nhiều hơn tới yếu tố tăng giá cổ phiếu và do đó, trong chính sách phân phối cổ tức, công ty sẽ chú trọng nhiều hơn tới vấn đề tái đầu tư từ lợi nhuận để lại. Nhiều công ty đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. Chẳng hạn ở Pháp, tài trợ nội bộ của các công ty chiếm 54% tổng nguồn vốn, ở Đức là 65,5%, Anh là 68,3%, ở Nhật, con số này lên tới 71,3%. Còn các công ty Mỹ thì rất coi trọng huy động vốn theo phương thức này. Lợi nhuận để lại bổ sung vào vốn chiếm tới 82,8% tổng nguồn vốn. 2.2. Phát hành trái phiếu. Phát hành trái phiếu công ty là một hình thức tạo lập vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng hình thức này khi huy động vốn chủ sở hữu không đủ đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn, hoặc không thích hợp, hiệu quả bằng hình thức này và nhiều lý do khác. Cũng như hình thức phát hành cổ phiếu, doanh nghiệp muốn thắng trong việc phát hành trái phiếu thì doanh nghiệp cần phải có uy tín, tình hình tài chính lành mạnh và xu thế phát triển tốt... Tuy nhiên ở đây, doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm đối với số vốn có được từ phát hành trái phiếu như một khoản nợ và có trách nhiệm trả nợ cho khoản vốn đó bởi trái phiếu là một chứng chỉ vay nợ chứng nhận trái chủ đã cho doanh nghiệp vay một số vốn nhất định trong một khoảng thời gian nhất định với lãi suất xác định. Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành là lựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và tình hình trên thị trường tài chính. Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Trước khi quyết định phát hành, nhà phát hành cần hiểu rõ đặc điểm và ưu nhược điểm của mỗi loại trái phiếu. 2.2.1/Trái phiếu có lãi suất cố định. Đây là loại trái phiếu công ty phổ biến nhất được các doanh nghiệp sử dụng để huy động vốn trung dài hạn. Đặc điểm của loại trái phiếu này là lãi suất danh nghĩa được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Như vậy cả doanh nghiệp lẫn người giữ trái phiếu đều biết rõ mức lãi suất của khoản nợ trong suốt thời gian tồn tại (kỳ hạn) của trái phiếu. Cách thức trả gốc và trả lãi cũng thường được quy định rõ khi phát hành trái phiếu, chẳng hạn trả gốc cuối kỳ trả lãi hai lần trong năm,... Với loại trái phiếu này, doanh nghiệp có thể chủ động trong việc tính toán chi phí lãi vay để xác định hiệu quả của việc đi vay, trong thiết lập ngân quỹ để trả lãi cũng như kế hoạch trả gốc và thay thế bằng các nguồn tài chính khác khi trái phiếu đáo hạn. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần lưu tâm tới mức độ hấp dẫn của trái phiếu khi phát hành. Tính hấp dẫn phụ thuộc vào một số yếu tố sau: Lãi suất của trái phiếu: Lãi suất của trái phiếu phải đặt trong mối tương quan so sánh với lãi suất trên thị trường vốn, với lãi suất kho bạc Nhà nước, với lãi suất cùng loại của các doanh nghiệp cạnh tranh khác. Kỳ hạn của trái phiếu: Công ty phải tính đến sự ưa thích và lựa chọn của công chúng khi định ra kỳ hạn của trái phiếu. Uy tín tài chính của công ty và mức độ rủi ro: Công ty càng vững chắc về mặt tài chính và có khả năng phát triển thì mức độ rủi ro nói chung càng thấp và càng thu hút được công chúng mua trái phiếu của công ty. Ngoài ra, khi phát hành cần chú ý tới mệnh giá để có thể tạo ra sự lưu thông dễ dàng cho trái phiếu trên thị trường. 2.2.2/ Trái phiếu có lãi suất thả nổi. Đây là loại trái phiếu có lãi suất phụ thuộc vào một số nguồn lãi suất quan trọng như lãi suất LIBOR hoặc lãi suất cơ bản. Phát hành loại trái phiếu này thích hợp trong điều kiện có mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trường không ổn định. Tuy nhiên, có một vài nhược điểm khi công ty tiến hành huy động vốn bằng hình thức này: Công ty không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu. Điều này gây khó khăn một phần cho việc lập kế hoạch tài chính. Việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất. 2.2.3/ Trái phiếu có thể thu hồi. Một số doanh nghiệp lựa chọn phát hành trái phiếu có thể thu hồi, tức là doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời gian nào đó (chuộc lại trái phiếu). Loại trái phiếu như vậy phải được quy định công khai ngay khi phát hành để người mua trái phiếu được biết. Phải quy định rõ về thời gian và giá cả khi công ty chuộc lại trái phiếu. Thông thường, người ta quy định thời hạn tối thiểu mà trái phiếu sẽ không bị thu hồi. Loại trái phiếu này có ưu điểm là được dùng như một cách điều chỉnh lượng vốn sử dụng. Khi cần thiết, công ty có thể mua lại các trái phiếu tức là giảm số vốn vay và thay trái phiếu loại này bằng nguồn tài chính khác. 2.3. Đi vay từ các tổ chức tài chính trung gian. Trong nền kinh tế thị trường, huy động vốn thông qua hệ thống các tổ chức tài chính trung gian là một hình thức huy động vốn khá phổ biến và rất quan trọng đối với các doanh nghiệp. ở những nước phát triển, mặc dù thị trường chứng khoán là một kênh tạo vốn rất quan trọng đối với doanh nghiệp, nhưng vẫn có gần 70% lượng vốn của nền kinh tế được luân chuyển thông qua kênh dẫn vốn gián tiếp này. Đối với những nước có thị trường chứng khoán chưa phát triển, nguồn vốn từ các tổ chức tài chính trung gian đặc biệt các ngân hàng thương mại càng trở nên quan trọng hơn. Hình thức tạo lập vốn này cho phép doanh nghiệp có cơ hội, khả năng tiếp cận với một lượng vốn đủ lớn để doanh nghiệp có thể sử dụng vào mục đích chiến lược, dài hạn. Nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại còn tạo cho doanh nghiệp một luồng vốn ngắn hạn thích hợp đáp ứng nhu cầu vốn lưu động tránh sử dụng các nguồn dài hạn một cách lãng phí. Nói chung đây là nguồn vốn vay tương đối linh hoạt. Các điều khoản như khối lượng vay, phương thức giải ngân, lãi suất, lịch trình hoàn trả... đều được thỏa thuận giữa ngân hàng và doanh nghiệp và được phản ánh trên hợp đồng tín dụng. Doanh nghiệp có thể vay dài hạn hoặc vay ngắn hạn từ các tổ chức tài chính trung gian tùy theo nhu cầu về vốn vay: 2.3.1/ Vay dài hạn: Là hình thức doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính với thời gian đáo hạn trên 1 năm. Khi cho vay các tổ chức tài chính trung gian thường xem xét rất kỹ lưỡng về tình hình tài chính doanh nghiệp, về tính khả thi của dự án xin vay... để đánh giá khả năng trả lãi và gốc nợ vay. Doanh nghiệp có thể vay theo nhiều hình thức: vay thế chấp, vay tín chấp hay vay có bảo lãnh. Song thông thường, đặc biệt là với những khoản vay có khối lượng lớn và dài hạn, vay có thế chấp hay có tài sản bảo đảm là phổ biến, các hình thức khác chỉ là bổ sung. Ngân hàng dựa trên giá trị của tài sản bảo đảm, đặc tính cũng như tính dễ hoán chuyển của nó trên thị trường để xác định khối lượng cho vay. Ngoài ra còn căn cứ vào nhu cầu xin vay và các điều kiện khác. Tài sản bảo đảm là một vấn đề khó khăn của doanh nghiệp khi vay dài hạn ở các ngân hàng. Một số doanh nghiệp không có đủ tài sản thế chấp để đảm bảo xin vay một lượng vốn lớn. Một số doanh nghiệp khác nếu đem thế chấp dây chuyền công nghệ sẽ không thể tiến hành đổi mới công nghệ bắt kịp nhu cầu thị trường. Một điểm cần nhấn mạnh nữa đối với các khoản nợ vay dài hạn từ ngân hàng là thông thường các khoản nợ vay sẽ được trả dần dần theo định kỳ trong suốt thời hạn cho vay thay vì đợi đến ngày đáo hạn thì trả hết một lần. Như vậy có nghĩa là thời hạn thực tế của khoản vay bị thu ngắn và chi phí nợ vay lúc này hay lãi suất thực của vốn vay là cao hơn lãi suất danh nghĩa đã được thỏa thuận. Về phí tổn vay vốn dài hạn từ ngân hàng thì có thể thay đổi theo giá trị tiền vay, tình hình tài chính và cả phẩm chất của người đi vay cùng nhiều yếu tố khác. Lãi suất có thể cố định hoặc linh hoạt thay đổi trong suốt thời hạn vay tuỳ theo thỏa thuận của hai bên. Những điểm lợi chính của vay dài hạn từ các tổ chức tài chính trung gian đó là khi đồng ý cho vay, người cho vay bảo đảm trước một thời hạn khá lâu là sẽ có vốn cho người vay lúc cần sử dụng đến, khác với các hình thức huy động vốn trung dài hạn khác như phát hành cổ phiếu, trái phiếu cần phải thắng lợi trong phát hành thì mới có vốn. Ngân hàng có thể là nguời rất sành sỏi trong lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp hoặc dự án xin vay và sẽ trở thành người tư vấn đắc lực đưa doanh nghiệp đến chỗ thành công. Đây là mối lợi vô hình mà nhiều khi là rất đáng kể. 2.3.2/ Vay ngắn hạn: Trong các tổ chức tài chính trung gian thì dường như chỉ có ngân hàng là đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn cho doanh nghiệp. Đây là phương thức tạo lập vốn ngắn hạn chủ yếu. Một doanh nghiệp có thể vay vốn ngắn hạn từ các ngân hàng bằng nhiều hình thức. Có thể kể ra sau đây một số hình thức cơ bản: - Chiết khấu thương phiếu: Thương phiếu là chứng từ biểu thị một quan hệ tín dụng, một nghĩa vụ trả tiền, được lập ra trên cơ sở các giao dịch thương mại. Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ qua đó ngân hàng dành cho khách hàng được quyền sử dụng trước thời hạn một khoản tiền của thương phiếu sau khi đã trừ đi khoản lãi phải thu tức tiền chiết khấu và các khoản chi phí chiết khấu. Đây là hình thức tạo vốn ngắn hạn nhằm bổ sung nhu cầu vốn một cách tức thời khi doanh nghiệp cần đến. Khoản chênh lệch giữa số tiền của thương phiếu và số tiền nhận được từ việc chiết khấu thương phiếu chính là chi phí cho hình thức huy động này. Chi phí này chủ yếu dựa trên lãi suất chiết khấu của ngân hàng Trung ương song phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng thương phiếu.Chất lượng thương phiếu tốt thì chi phí thấp và ngược lại ngân hàng cảm thấy khả năng thu hồi vốn từ thương phiếu kém thì chi phí cao bù đắp cho rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu. Tuy nhiên, nếu chất lượng thương phiếu quá tồi ngân hàng sẽ không tiến hành nghiệp vụ cho doanh nghiệp. - Vay theo hợp đồng: Hình thức cho vay này được áp dụng khi một công ty có những hợp đồng về sản xuất, gia công cho khách hàng thì ngân hàng có thể cho vay căn cứ vào các hợp đồng đã được ký kết. Hình thức cho vay theo hợp đồng tỏ ra tương đối phù hợp với những doanh nghiệp nhỏ. - Tạo vốn bằng cách bán nợ: Một công ty nào đó có thể gia tăng nguồn vốn ngắn hạn bằng các khoản nợ của mình. Các tổ chức mua nợ thường là một ngân hàng, một công ty tài chính hay một công ty mua nợ. Những khoản nợ được mua cao hay thấp tuỳ thuộc vào tính chất và mức độ khó đòi. Sự chênh lệch giữa giá trị khoản nợ và giá mua bán nợ chính là chi phí cho việc tạo vốn bằng cách bán nợ. Đối với những khoản nợ khó đòi thì chi phí này rất cao tuy nhiên nó làm lành mạnh hóa tình hình tài chính của doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn bằng cách thế chấp các khoản phải thu, thế chấp bằng hàng hóa... - Vay theo hạn mức tín dụng: Khi phát sinh nhu cầu bổ sung vốn một lượng nhất định và thời hạn xác định, doanh nghiệp sẽ làm đơn xin vay và vay một trong các hình thức nói trên. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp có nhu cầu vốn bổ sung thường xuyên trong suốt quá trình kinh doanh, doanh nghiệp sẽ thực hiện vay theo hạn mức tín dụng và phải đáp ứng những điều kiện nhất định mà ngân hàng đặt ra. Theo hình thức này, doanh nghiệp và ngân hàng thỏa thuận một hạn mức tín dụng cho một thời gian nhất định (ví dụ một năm). Hạn mức tín dụng được xác định dựa trên nhu cầu vốn bổ sung của doanh nghiệp và mức cho vay tối đa mà ngân hàng có thể chấp nhận. Căn cứ vào hạn mức tín dụng đã thỏa thuận, doanh nghiệp có thể nhận tiền vay bất cứ lúc nào mà ngân hàng không cần thẩm định lại, nhưng tổng các món nợ sẽ không vượt quá hạn mức đã xác định. Hạn mức tín dụng được ngân hàng tạo sẵn cho công ty là do mối quan hệ kinh tế giữa họ. Nhưng thông thường, hạn mức này mỗi năm được thỏa thuận lại một lần tùy thuộc vào tình hình cụ thể. Đây là hình thức tạo lập vốn có chi phí rất thấp nhưng đôi khi cũng có một số trục trặc ví dụ khi ngân hàng gặp khó khăn về tài chính hay thanh toán thì công ty phải hoàn trả hoặc không được vay. 2.4. Tín dụng thuê mua. Tín dụng thuê mua là một lĩnh vực tín dụng tài trợ bằng tài sản cho thuê, theo đó, người chủ sở hữu tài sản (người cho thuê) chuyển quyền sử dụng cho người thuê để nhận tiền thuê trong một thời gian thỏa thuận gọi là thời hạn cho thuê. Loại hình cho thuê này ra đời đã từ lâu nhằm thỏa mãn nhu cầu đổi mới công nghệ song nó hoạt động mạnh mẽ vào thập kỷ 50 ở Mỹ lan rộng sang Châu Âu, Nhật Bản và các nước khác và tới nay đã được quốc tế hóa. Tính ưu việt của nó đã tạo cho các doanh nghiệp một kênh dẫn vốn quan trọng. Tín dụng thuê mua bao gồm nhiều hình thức và có thể trở thành một phương thức tạo vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho doanh nghiệp. 2.4.1/ Thuê vận hành: Thuê vận hành đã có lịch sử rất lâu đời nên còn được gọi là thuê mua theo kiểu truyền thống. Đặc trưng của thuê vận hành là thời hạn thuê thường rất ngắn so với toàn bộ thời gian tồn tại hữu ích của tài sản. Do đó đây thường là hình thức tạo vốn ngắn và trung hạn cho doanh nghiệp và hoàn toàn phù hợp đối với những hoạt động có tính chất thời vụ. Khi hết thời hạn đi thuê, bên thuê sẽ trả lại tài sản cho người cho thuê. Do thời hạn thuê thường là ngắn nên tổng số tiền người thuê phải trả nhỏ hơn nhiều so với giá gốc của tài sản. Người cho thuê phải tái thuê hoặc bán lại tài sản để thu hồi vốn. Một lợi thế đối với doanh nghiệp khi đi thuê vận hành là doanh nghiệp có thể huỷ ngang hợp đồng, trả lại tài sản thiết bị._. trước khi hết hợp đồng mà chỉ cần báo trước trong một thời gian ngắn. Đặc điểm này khiến doanh nghiệp có thể hoàn trả thiết bị nếu sự phát triển kỹ thuật cao làm cho thiết bị trở nên lạc hậu. Khi đi thuê vận hành, doanh nghiệp chỉ phải trả tiền thuê theo thỏa thuận, người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận hành của tài sản cùng với mọi rủi ro về hao mòn vô hình của tài sản. Vì vậy, tiền thuê thường là cao hơn so với các thỏa thuận thuê mua khác. 2.4.2/ Thuê tài chính. Cho thuê tài chính là một hoạt động tạo vốn phổ biến cho mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện đại. Doanh số của nền công nghiệp cho thuê tài chính trên thế giới trong những năm gần đây đã đạt tới con số kỷ lục 520 tỷ USD trong năm 2000 và vẫn đang tiếp tục tăng trưởng với tốc độ trung bình 7% hàng năm. Thuê mua tài chính thực chất là một phương thức tài trợ tín dụng trung và dài hạn, thay vì cấp tín dụng bằng tiền cho người nhận, người cho thuê cấp tín dụng thông qua tài sản thiết bị. Tuy nhiên, hình thức tín dụng này có những ưu điểm hơn hẳn với người cho thuê. Đây là hình thức tài trợ có mức độ an toàn cao do người cho thuê luôn giữ được quyền sở hữu trong suốt thời gian cho thuê. Vì vậy, người cho thuê có thể nhanh chóng thu hồi lại tài sản nếu người thuê không tuân thủ hợp đồng. Hơn nữa, việc thu hồi lại tài sản thường thuận lợi và ít tốn kém hơn so với việc thu hồi tài sản mà doanh nghiệp thế chấp cho ngân hàng khi vay vốn. Hình thức này còn đảm bảo việc sử dụng đúng mục đích của người đi thuê. Người cho thuê cung cấp tài sản theo đúng yêu cầu của người đi thuê. Người đi thuê trả tiền thuê bằng hiệu quả thu được từ việc sử dụng tài sản đó, vì vậy họ không có cơ hội sử dụng sai mục đích. Do hình thức tài trợ này đem lại những lợi ích như vậy cho người cho thuê nên đây cũng trở thành một hình thức tạo lập vốn thuận lợi mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp là người đi thuê. Doanh nghiệp có thể gia tăng năng lực sản xuất trong những điều kiện hạn chế về nguồn vốn đầu tư nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, gặp nhiều khó khăn về nguồn vốn trung và dài hạn. Thuê tài chính có thể giúp doanh nghiệp từ tay không mà vẫn có thể được máy móc thiết bị phục vụ nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh. Thuê tài chính giúp doanh nghiệp vẫn có thể nhận được vốn mà không cần tài sản bảo đảm. Các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ hay những doanh nghiệp mới thành lập, chưa có uy tín, những doanh nghiệp có tình hình tài chính không tốt dễ bị ngân hàng từ chối khi đi vay vốn. Với hình thức thuê tài chính, các công ty cho thuê, các ngân hàng chủ yếu quan tâm tới lợi ích thu được từ việc sử dụng tài sản cho thuê của doanh nghiệp nên rất sẵn sàng thỏa mãn nhu cầu của các khách hàng ngay cả khi tài chính, uy tín của họ còn có hạn chế. Thuê tài chính còn giúp cho doanh nghiệp có thể nhận được tài sản thuê chất lượng cao, nhất là trong những lĩnh vực đặc thù vì người cho thuê hoạt động chuyên sâu trong lĩnh vực hẹp. Cho thuê tài chính giúp cho doanh nghiệp không bị đọng vốn đầu tư vào tài sản cố định. Nó còn là phương thức tài trợ thuận lợi cho những khoản đầu tư nhanh chóng đáp ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh. Để quyết định thực hiện tạo vốn thông qua hình thức thuê tài chính hay vay vốn ngân hàng, doanh nghiệp cần so sánh phí tổn của thuê mua với phí tổn vay vốn. Ngoài ra doanh nghiệp phải xem xét hiệu quả, lợi nhuận đem lại cho chủ sở hữu từ dự án thuê mua. Thuê mua tài chính có điểm lợi là tiền thuê được tính vào chi phí hợp lý hợp lệ, do đó doanh nghiệp được hưởng một khoản tiết kiệm nhờ thuế. Song cũng có những bất lợi nhất định khi thực hiện theo phương thức này. Nếu tài sản được chuyển lại cho bên cho thuê vào thời điểm kết thúc hợp đồng thì doanh nghiệp không được hưởng giá trị còn lại của tài sản đã được tính cả trong phí thuê. Nói chung doanh nghiệp sẽ phải phân tích tất cả những yếu tố trên để có thể quyết định huy động vốn theo hình thức này. Song, cần nhấn mạnh thuê tài chính là một phương thức mang lại rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp đặc biệt ở Việt Nam hiện nay. 2.5. Liên doanh liên kết. Ngày nay, hình thức liên doanh liên kết khá phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Đây là hình thức doanh nghiệp thường sử dụng để tạo vốn trung, dài hạn khi doanh nghiệp chuẩn bị thực hiện một dự án sản xuất kinh doanh mà không đủ vốn hoặc với mục đích chia sẻ rủi ro, doanh nghiệp có thể kêu gọi góp vốn từ bên ngoài. Các bên góp vốn có thể là doanh nghiệp trong nước hay doanh nghiệp nước ngoài với nhiều hình thức công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước hay một công ty liên doanh khác. Để thu hút vốn liên doanh thì dự án liên doanh phải có hiệu quả và điều kiện góp vốn là các bên cùng có lợi. Khi nhận thấy huy động vốn này có lợi hơn các hình thức huy động vốn khác doanh nghiệp sẽ thực hiện liên kết liên doanh. Có thể lựa chọn một trong hai hình thức liên doanh sau đây: - Cùng phía đối tác thành lập một pháp nhân kinh doanh mà vốn là do các bên cùng đóng góp. - Ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa các bên nhằm thực hiện một dự án nào đó mà không cần hình thành một pháp nhân nào. Trách nhiệm, quyền hạn của các bên chỉ giới hạn trong hợp đồng đã ký kết. Đối với cả hai hình thức liên doanh, quyền lợi mỗi bên phụ thuộc chủ yếu vào phần vốn góp mà mỗi bên đóng góp. Phí tổn của tạo lập vốn của hình thức liên doanh liên kết chính là lợi tức trả cho phía đối tác. Do đó, phí tổn này phụ thuộc chủ yếu vào kết quả của dự án liên doanh liên kết. Huy động vốn bằng hình thức liên kết kinh doanh cũng tương tự như hình thức các cổ đông mua cổ phiếu. Cổ đông nào có tỷ lệ cổ phần nhiều hơn thì tỷ lệ hưởng lãi cũng như chịu lỗ cũng lớn hơn. Tuy nhiên, một khi đã trở thành cổ đông thì người góp vốn không có quyền rút vốn khỏi công ty. Còn đối với hình thức liên doanh liên kết, phía đối tác trong những trường hợp nhất định vẫn có thể rút lại vốn góp. Nếu điều này xảy ra sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của dự án liên doanh, thậm chí có thể làm dự án đổ vỡ không thực hiện được và gây ảnh hưởng tới những hoạt động khác của doanh nghiệp. Thực hiện liên doanh có thể đem lại những lợi ích như thu hút vốn công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm của phía đối tác đồng thời chia sẻ rủi ro. Song huy động vốn bằng hình thức này cũng tiềm ẩn nguy cơ bị đối tác thâu tóm quyền lực và xảy ra hiện tượng lũng đoạn. Chính vì thế khi ký kết hợp đồng liên kết kinh doanh, các doanh nghiệp cần chú ý đến các điều khoản nhằm hạn chế sự đổ vỡ không cần thiết của dự án cũng như sự lũng đoạn của một bên nào đó. 2.6. Tạo vốn thông qua tín dụng thương mại. Các doanh nghiệp cũng thường khai thác vốn tín dụng ngắn hạn trong việc mua bán chịu giữa các doanh nghiệp còn gọi là tín dụng thương mại. Thông thường, một doanh nghiệp mua chịu nguyên vật liệu của doanh nghiệp khác và ghi nhận món nợ ở tài khoản: Các khoản phải trả. Đây là một loại tín dụng ngắn hạn quan trọng vì nó thường chiếm tới 40% tài sản lưu động đối với các doanh nghiệp không có các hoạt động về nghiệp vụ tài chính tín dụng. Tỷ lệ này càng lớn hơn đối với một doanh nghiệp có quy mô nhỏ vì doanh nghiệp nhỏ thường khó tìm nguồn tài trợ ở nơi khác nên dựa nhiều vào việc mua chịu. Hình thức này là hình thức tạo vốn được khai thác một cách tự nhiên trong hoạt động kinh doanh. Chi phí của việc sử dụng tín dụng thương mại như một nguồn tài trợ thể hiện qua lãi suất của khoản vay. Đó là chi phí lãi vay, sẽ được tính vào giá thành sản phẩm dịch vụ khi mua bán hàng hóa trả chậm, chi phí này có thể "ẩn" dưới hình thức thay đổi mức giá (nâng đơn giá cao hơn để bao hàm luôn lãi suất tín dụng đó). Như vậy, mua chịu có phí tổn cao hay thấp hơn các hình thức tài trợ khác? Đôi khi, mua chịu rất đắt đối với người mua, nhưng họ phải chấp nhận vì không thể có hình thức tài trợ nào khác và phí tổn mua chịu có lẽ cũng tương ứng với mức độ rủi ro mỗi người bán phải gánh chịu. Nhưng trong nhiều trường hợp, mua chịu được chấp nhận vì người mua không thể hiện được phí tổn mua chịu là bao nhiêu. Quy mô của vốn tín dụng thương mại phụ thuộc vào thời hạn mua chịu. Nếu thời hạn mua chịu càng lớn thì nguồn vốn tín dụng thương mại càng lớn. Có 4 yếu tố ảnh hưởng tới thời hạn mua chịu: Tính chất kinh tế của sản phẩm: sản phẩm có thời gian luân chuyển cao được bán ra với thời hạn mua chịu ngắn, người mua sẽ bán lại sản phẩm một cách nhanh chóng, thu được tiền mặt giúp họ có tiền trả nợ cho nhà cung cấp. Tình trạng tài chính của người bán. Nếu người bán không có tài chính dồi dào sẽ đòi hỏi người mua phải trả tiền ngay hoặc chỉ chấp nhận thời hạn mua chịu rất ngắn. Tình trạng của người mua. Thông thường các nhà bán lẻ có tài chính khá mạnh và muốn mua chịu của các nhà cung cấp với thời hạn lâu hơn. Vài loại bán lẻ trong các lĩnh vực được xem là nhiều rủi ro được chấp nhận một thời gian mua chịu rất lâu nhưng họ được khuyến khích trả nhanh bằng các khoản giảm giá hàng lớn Giảm giá hàng. Giảm giá hàng được thực hiện, nếu người mua thanh toán trong một thời hạn nào đó. Phí tổn không nhận giảm giá thường cao hơn lãi suất mà người mua đi vay nợ. Do đó, doanh nghiệp phải cẩn thận trong việc sử dụng mua chịu như là nguồn tài trợ vì phí tổn tài chính rất cao. Nếu doanh nghiệp vay tiền để nhận giảm giá hàng mua, thời gian các khoản phải trả còn ghi ở sổ sách sẽ giảm đi. Công cụ để thực hiện huy động vốn bằng hình thức này phổ biến là thương phiếu. Vì thế, đây là hình thức tài trợ ngắn hạn rất ưa chuộng của các doanh nghiệp do thời hạn linh động và với sự phát triển của hệ thống ngân hàng, các doanh nghiệp có thể dễ dàng chiết khấu các thương phiếu lấy tiền phục vụ nhu cầu tài chính khi thương phiếu chưa đến hạn thanh toán. Ngoài ra đây là hình thức tạo vốn rất tiện lợi và thông thường của hoạt động kinh doanh. Một doanh nghiệp thiếu tiêu chuẩn được vay của ngân hàng có thể mua chịu được. Nhờ quá trình liên lạc kinh doanh, nhà cung cấp ở vị trí thuận lợi để xét đoán khả năng của khách hàng và đo lường độ rủi ro trong việc bán chịu và cung cấp tín dụng thương mại cho doanh nghiệp. Trên đây là các phương thức huy động vốn phổ biến của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Các phương thức này đã làm cho doanh nghiệp có thể tạo ra cho mình nhiều kênh dẫn vốn mới cung cấp vốn kịp thời cho yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song vấn đề cũng rất đáng quan tâm đối với một doanh nghiệp là các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động tạo vốn của doanh nghiệp. Nó sẽ ảnh hưởng tới tính hiệu quả của quá trình huy động vốn. 3 . Các yếu tố ảnh hưởng tới việc tạo lập vốn của doanh nghiệp. 3.1. Chi phí vốn. Chi phí vốn là yếu tố đầu tiên có tác động quan trọng tới việc tạo lập vốn của doanh nghiệp. Vốn là yếu tố cần thiết cho sản xuất. Cũng như bất kỳ một yếu tố nào khác để sử dụng vốn, doanh nghiệp cần bỏ ra một chi phí nhất định. Để tạo vốn, doanh nghiệp có thể huy động vốn từ các nguồn khác nhau. Với mỗi một loại vốn cụ thể thì chi phí vốn chính là chi phí trả cho nguồn vốn huy động. Nó được tính bằng số lợi nhuận cần phải đạt được trên nguồn vốn huy động để giữ không làm thay đổi số lợi nhuận dành cho chủ sở hữu. Với mỗi nguồn huy động khác nhau lại có cách tính chi phí riêng. Vì vậy, trên thực tế, người ta phân loại chi phí vốn theo những nguồn cụ thể. Thông thường, khi tính toán chi phí vốn, doanh nghiệp thường phần chia vốn thành vốn chủ sở hữu và nợ vay. - Chi phí nợ vay. Chi phí nợ vay là chi phí trả cho nguồn vay nợ của doanh nghiệp. Nó được phân ra thành chi phí nợ trước thuế và chi phí nợ sau thuế. Chi phí nợ trước thuế (Kd) được tính toán trên cơ sở lãi suất nợ vay. Lãi suất này được ấn định trong hợp đồng tiền vay. Trên thực tế khoản chi phí nợ vay trước thuế còn bao gồm cả các chi phí khác ngoài lãi tiền vay như chi phí làm hồ sơ xin vay, chi phí đi lại... Những khoản chi phí này đôi khi là rất lớn. Tuy nhiên về cơ bản, người ta vẫn hiểu chi phí nợ vay trước thuế là lãi tiền vay trả cho chủ nợ. Chi phí nợ sau thuế Kd (1-T) được sử dụng để tính chi phí trung bình của vốn. Nó được xác định bằng chi phí nợ trước thuế Kd trừ đi khoản tiết kiệm nhờ thuế bởi vì lãi tiền vay được tính vào chi phí trước thuế của doanh nghiệp. Sở dĩ, các doanh nghiệp thường tính chi phí nợ sau thuế là để có thể so sánh chi phí các loại vốn khác nhau. Hơn nữa các doanh nghiệp luôn quan tâm đến luồng tiền sau thuế vì đây mới là phần mà doanh nghiệp được hưởng. Do vậy, tất cả các chi phí vốn cần được tính quy về chi phí sau thuế. - Chi phí vốn chủ sở hữu. Chi phí vốn chủ sở hữu bao gồm chi phí cổ phiếu ưu tiên,chi phí cổ phiếu thường và chi phí của lợi nhuận không chia. Chi phí của cổ phiếu ưu tiên được xác định bằng cách lấy cổ tức ưu tiên chia cho giá phát hành thuần, phần mà công ty nhận được sau khi đã trừ chi phí phát hành. Trong đó: KP- Chi phí của cổ phiếu ưu tiên DP- Cổ tức ưu tiên Pn- Gía phát hành thuần Chi phí của lợi nhuận không chia: Nó chính là tỷ lệ đổi tức mà người nắm giữ cổ phiếu thông thường yêu cầu đối với cổ phần mà công ty đạt được bằng lợi nhuận không chia được xác định bằng công thức Ks = D1/P0 + g. Trong đó: Ks: Chi phí của lợi nhuận không chia. D1/P0: Mức sinh lời của cổ phiếu. g: Tỷ lệ tăng trưởng mong đợi. Chi phí của cổ phiếu thường mới (Ke). Để các cổ đông cũ không bị giảm lợi nhuận do phát hành cổ phiếu mới vì giãn lợi nhuận các khoản đầu tư mới của doanh nghiệp phải mang lại một tỷ suất lợi nhuận sao cho cổ tức của các cổ đông cũ ít nhất không bị giảm. Với: Pn: là giá thuần của một cổ phiếu. Ke: là chi phí của cổ phiếu mới. Dt: là cổ tức trong thời gian t (t = 1, 2, 3...) thì Pn = Do đó : Thông thường, các doanh nghiệp đặt tiêu chí chi phí vốn lên hàng đầu, tận dụng triệt để các nguồn vốn có chi phí thấp sau đó mới xét đến khả năng cung ứng các nguồn vốn, thời gian sử dụng... Vì vậy tính toán chi phí vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp thấy được cách thức huy động nào có chi phí thấp hơn, từ đó xác định chiến lược khai thác nguồn vốn của doanh nghiệp. Ngoài ra các doanh nghiệp còn tính toán chi phí vốn trung bình dựa trên cơ cấu vốn và chi phí từng nguồn vốn. Chẳng hạn một doanh nghiệp tạo lập vốn từ ba nguồn: vay nợ, phát hành cổ phiếu thường từ lợi nhuận không chia và phát hành cổ phiếu ưu tiên với tỷ trọng từng nguồn là Wd, Ws và Wp thì chi phí vốn trung bình của doanh nghiệp (WACC) được tính theo công thức: WACC = WdKd (1-T) + WpKp+ WsKs Trong đó: Wd, Wp,Ws : lần lượt là tỉ trọng của từng nguồn là vay nợ, phát hành cổ phiếu từ lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu ưu tiên Kd, Kp, Ks :Lần lượt là chi phí của từng nguồn Như vậy, với cơ cấu vốn khác nhau, mặc dù chi phí từng nguồn huy động là giống nhau thì chi phí vốn trung bình là khác nhau. Việc tính toán chi phí vốn trung bình rất quan trọng khi doanh nghiệp đứng trước quyết định phải chấp nhận hay từ chối một dự án đầu tư. Nếu dự án có tỷ lệ hoàn vốn nội bộ thấp hơn chi phí trung bình của vốn thì cần phải từ chối vì điều đó có nghĩa là tỷ lệ thu nhập do đầu tư mang lại sẽ thấp hơn chi phí tài trợ của nó. Như thế, chi phí vốn có vai trò rất quan trọng, được sử dụng làm căn cứ khi quyết định đầu tư. 3.2. Cơ cấu vốn. Các doanh nghiệp không thể huy động vốn theo ý muốn chủ quan mà cần xét tới nhu cầu vốn của doanh nghiệp, khả năng trả nợ và tỷ lệ hợp lý giữa các loại vốn. Vì vậy cơ cấu vốn có một vai trò hết sức quan trọng. Thuật ngữ này được dùng để chỉ cách thức một doanh nghiệp sử dụng các nguồn vốn khác nhau với một tỷ lệ nào đó của mỗi người để tài trợ cho các tài sản. Trong quản trị tài chính, các nhà quản lý phải xây dựng được cơ cấu vốn tối ưu, đảm bảo một tỷ lệ hợp lý giữa vốn chủ sở hữu và nợ vay sao cho lợi ích thu được là cao nhất. Đó là cơ cấu hướng tới sự cân bằng giữa rủi ro và lãi suất, bằng cách đó tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển, sử dụng một tỷ lệ vốn chủ sở hữu cao sẽ là không linh hoạt. Huy động vốn từ nợ vay sẽ giúp cho doanh nghiệp khuếch đại giá trị vốn chủ sở hữu do nợ vay không phải chịu thuế thu nhập. Ngược lại, trong trường hợp nền kinh tế đi xuống, sử dụng quá nhiều nợ với tỷ lệ nợ của cơ cấu vốn tối ưu sẽ khiến cho doanh nghiệp rơi vào tình trạng hiệu ứng đòn bẩy âm: sử dụng nợ sẽ làm giảm giá trị tài sản thuộc chủ sở hữu. Vì vậy, khi tiến hành huy động tạo lập vốn, các doanh nghiệp luôn chú ý xây dựng một cơ cấu vốn tối ưu. Tiêu chuẩn để đánh giá nên tăng hay giảm sử dụng nợ là tương quan so sánh giữa doanh lợi vốn và lãi suất nợ vay trước thuế. Doanh lợi vốn được xác định bằng công thức như sau: Doanh lợi vốn = Lợi nhuận trước thuế và lã vay/ Tổng tài sản Hay ( ebit / Tổng tài sản) Nếu > Lãi suất nợ vay: Hiệu ứng đòn bẩy dương. Doanh nghiệp sử dụng nợ sẽ có tác dụng khuếch đại giá trị vốn chủ sở hữu. Vì vậy, doanh nghiệp nên tiếp tục sử dụng nợ vay. Nếu < Lãi suất nợ vay: Hiệu ứng đòn bẩy âm. Doanh nghiệp cần có biện pháp giảm tỷ lệ nợ vay vì sử dụng nợ lúc này sẽ làm giảm giá trị vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, quản trị tài chính là một lĩnh vực quản trị hết sức linh hoạt. Vấn đề cơ cấu vốn tối ưu cũng là một vấn đề rất linh hoạt. Với mỗi một doanh nghiệp sẽ có một cơ cấu vốn tối ưu riêng phục vụ những mục tiêu riêng của từng doanh nghiệp và mỗi doanh nghiệp tùy theo điều kiện hoàn cảnh của mình mà theo đuổi cơ cấu vốn tối ưu đó. Vì thế cơ cấu vốn đã trở thành một yếu tố quan trọng tác động tới quá trình tạo lập vốn của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phải quan tâm đến bốn yếu tố tác động đến những quyết định về cơ cấu vốn khi tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Trước hết là rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp, đó là rủi ro cố hữu trong tài sản của công ty nếu công ty không sử dụng nợ. Rủi ro kinh doanh càng lớn, tỷ lệ nợ tối ưu càng thấp. - Yếu tố chính yếu thứ hai là vấn đề thuế của doanh nghiệp. Một lý do cơ bản cho việc sử dụng nợ là ở chỗ lãi vay được tính trong chi phí hợp lý hợp lệ khi tính thuế thu nhập. Trong trường hợp thuế suất thuế thu nhập cao thì công ty có lợi hơn khi sử dụng nợ. - Khả năng linh hoạt tài chính hay khả năng tăng vốn một cách hợp lý trong điều kiện có tác động xấu. Những người quản lý tài chính biết rằng một sự cung cấp vốn vững chắc là cần thiết cho những hoạt động ổn định và đến lượt nó, đây là sự sống còn cho sự thành công dài hạn. Họ cũng biết rằng khi một doanh nghiệp đang trải qua những khó khăn trong hoạt động, những nhà cung cấp vốn muốn tăng cường tài trợ cho những doanh nghiệp có bảng cân đối kế toán vững chắc. Như vậy, nhu cầu vốn tương lai và những hậu quả thiếu vốn có một ảnh hưởng quan trọng đối với mục tiêu cơ cấu vốn. - Yếu tố cuối cùng là sự "bảo thủ" hay "phóng khoáng" của nhà quản lý. Có thể có một số giám đốc doanh nghiệp sẵn sàng sử dụng nợ hơn để làm tăng lợi nhuận còn một số khác lại không. Yếu tố này không tác động đến cơ cấu vốn tối ưu, nhưng nó tác động đến mục tiêu cơ cấu vốn mà doanh nghiệp thực tế thiết lập. 3.3. Đặc điểm doanh nghiệp và khuynh hướng phát triển trong tương lai. Những đặc điểm của doanh nghiệp như loại hình sở hữu, ngành nghề lĩnh vực kinh doanh, quy mô cơ cấu tổ chức, đặc điểm cơ cấu tài sản... là những yếu tố tác động đến các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp. Một công ty cổ phần có thể huy động thêm vốn bằng cách phát hành các cổ phiếu mới. Nhưng một công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ có thể huy động thêm vốn bằng cách tăng vốn của từng thành viên hoặc kết nạp thêm thành viên mới. Một doanh nghiệp sản xuất sẽ cần tới những nguồn vốn dài hạn hơn là một doanh nghiệp thương mại. Doanh nghiệp có tài sản lưu động lớn sẽ dùng nhiều đến nguồn vốn ngắn hạn hơn. Khuynh hướng phát triển tương lai của doanh nghiệp cũng là một đặc điểm tác động tới huy động thêm vốn của doanh nghiệp như các chiến lược đầu tư, chiến lược mở rộng thị trường... Doanh nghiệp có kế hoạch lắp đặt một dây chuyền thiết bị mới sẽ phải tìm kiếm của nguồn tài trợ dài hạn. 3.4. Tình hình tài chính và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Một doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh thì khả năng huy động vốn sẽ tốt hơn. Trước khi quyết định cho vay vốn hay góp vốn đầu tư, bất cứ ai cũng phải xem xét kỹ lưỡng tình hình thanh toán trong quá khứ cũng như trong hiện tại, khả năng sinh lời, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trong hoạt động ngân hàng, quá trình này gọi là thẩm định tài chính. Trên thị trường chứng khoán, các doanh nghiệp đều phải công khai các báo cáo tài chính của mình để tạo điều kiện cho người đầu tư nắm bắt tình hình doanh nghiệp, khả năng phát triển trong tương lai. Một tình hình tài chính tốt, khả năng phát triển lớn mạnh sẽ giúp cho họ mạnh dạn đầu tư và doanh nghiệp mới thành công trong huy động bằng cổ phiếu, trái phiếu cũng như các công cụ khác. Uy tín của doanh nghiệp có một tác động không nhỏ tới quá trình huy động vốn. Một doanh nghiệp có uy tín tuy gặp phải những khó khăn nhất định trong hiện tại vẫn dành được sự quan tâm đặc biệt của các nhà đầu tư. Một doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt song chưa có uy tín trên thị trường sẽ gặp phải những trở ngại trong quá trình phát hành cổ phiếu, trái phiếu hay đi vay vốn ngân hàng. Uy tín của doanh nghiệp ở đây còn bao hàm cả uy tín của người quản lý. Một nhà quản lý giỏi sẽ dành được sự mến mộ của công chúng đầu tư, của các ông chủ ngân hàng, của các khách hàng, bạn hàng của doanh nghiệp và đây là một yếu tố thuận lợi cho việc huy động vốn. 3.5. Sự năng động của người quản lý. Một doanh nghiệp có ban lãnh đạo năng động sẽ giúp doanh nghiệp tìm kiếm được những nguồn huy động vốn mới, những phương thức huy động ít tốn kém. Khả năng thích ứng nhanh chóng với những tình huống cụ thể và thái độ, khả năng chấp nhận rủi ro của nhà quản lý là những yếu tố tác động lớn tới nguồn vốn huy động. Thông thường, người quản lý có khả năng thích ứng, thái độ và khả năng chấp nhận rủi ro càng cao, thì càng có xu hướng tìm những nguồn tài trợ rẻ, nguồn tài trợ ngắn hạn. 3.6. Cơ chế chính sách của nhà nước. Đây là những yếu tố mà các doanh nghiệp buộc phải nắm rõ và tuân thủ vô điều kiện vì yếu tố này thể hiện ý chí của Nhà nước. Thông qua các văn bản pháp luật, Nhà nước quy định loại hình doanh nghiệp nào được phép huy động vốn dưới hình thức nào và không một doanh nghiệp nào được làm trái pháp luật. Ngoài ra, các chính sách ưu tiên, khuyến khích hay hạn chế phát triển đối với một ngành nghề nào đó cùng sẽ tạo điều kiện hoặc hạn chế khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề đó. Như vậy, cơ chế chính sách của Nhà nước là một yếu tố khách quan có tác động rất lớn tới chính sách và khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. 3.7. Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế và thị trường tài chính. Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế có một tác động lớn tới vấn đề huy động vốn cho doanh nghiệp. Khi nền kinh tế suy thoái, hoạt động sản xuất kinh doanh cầm chừng, doanh nghiệp sẽ không có nhu cầu phát triển vốn, tiến hành giảm mọi chi phí và lúc này nguồn tài trợ ngắn hạn được ưu tiên sử dụng. Cho dù doanh nghiệp có nhu cầu tăng vốn thì cũng rất khó khăn tìm được nguồn đáp ứng đặc biệt là nguồn dài hạn do các nhà đầu tư không yên tâm bỏ vốn trong tình trạng suy thoái của nền kinh tế. Một nền kinh tế ổn định và phát triển sẽ khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn. Doanh nghiệp có nhu cầu tăng vốn, nhà đầu tư muốn tìm kiếm lợi nhuận. Và sự ổn định, phát triển của nền kinh tế là môi trường thuận lợi cho sự gặp gỡ nói trên. Trình độ phát triển của nền kinh tế cũng ảnh hưởng không nhỏ tới vấn đề này. Một đất nước có nền kinh tế kém phát triển sẽ hạn chế huy động vốn của doanh nghiệp bởi vì các hình thức huy động vốn không phong phú bằng một nước có nền kinh tế phát triển. Điều này thể hiện rất rõ qua sự phát triển của thị trường tài chính. ở các nước Mỹ, Nhật, Đức các công cụ huy động vốn của doanh nghiệp rất đa dạng bao gồm trái phiếu, cổ phiếu, các công cụ chuyển đổi... đáp ứng mọi nhu cầu về vốn một cách linh hoạt cho doanh nghiệp. ở các nước kém phát triển thị trường tài chính chưa hoàn thiện chẳng hạn như sự thiếu vắng của thị trường vốn ở Việt Nam đã hạn chế nguồn vốn dài hạn cho doanh nghiệp, thị trường tiền tệ phát triển một cách đơn giản và truyền thống đã tăng chi phí vốn cũng như hạn chế vốn cung cấp cho doanh nghiệp. Đây là một yếu tố khách quan tác động rất lớn tới hoạt động của doanh nghiệp nói chung và huy động vốn của doanh nghiệp nói riêng. Tóm lại, hoạt động tạo lập vốn có một tầm quan trọng đặc biệt đối với hoạt động tài chính của doanh nghiệp nói riêng và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung. Khi tiến hành tạo lập vốn, doanh nghiệp cần phải quan tâm tới các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình tạo lập vốn cũng như các phương thức mà doanh nghiệp có thể huy động, đánh giá các phương thức huy động để có thể huy động đáp ứng đủ nhu cầu về vốn một cách thích hợp nhất phù hợp với mục tiêu doanh nghiệp đề ra. Với mỗi một doanh nghiệp cụ thể các vấn đề nói trên cũng cần được nghiên cứu một cách cụ thể để đưa ra những biện pháp tạo lập vốn phù hợp với tình hình của doanh nghiệp. Những vấn đề lý luận chương 1 sẽ là cơ sở cho việc nghiên cứu, phân tích ở chương 2. 4- Một số kinh nghiệm tạo dựng vốn từ các nước trên thế giới Kinh nghiệm tiết kiệm và huy động vốn ở các nước rất đa dạng không theo một khuôn mẫu định trước nào.Điểm chung có thể rút ra là các nước thành công trong chính sách này đều tuân thủ những qui luật kinh tế cơ bản, tận dụng tối đa các lợi thế so sánh của nước mình và tính đến cặn kẽ các điều kiện thiên nhiên, địa lí, các nguồn lực tự nhiên cũng như cả tập quán, tâm lí người dân, đặc điểm riêng của dân tộc mình. Tuy nhiên , có những đặc điểm riêng rất đáng chú ý của từng nước có thể là bổ ích cho các nước đang trong giai đoạn chuyển đổi như trường hợp Việt Nam. Nhật Bản đã duy trì được mức tiết kiệm cao trong một thời gian dài nhờ: Duy trì được mức lương thấp trong khi năng suất lao động tăng nhanh; tranh thủ được viện trợ nước ngoài; hạn chế gắt gao phúc lợi xã hội và tinh giảm tói đa bộ máy hành chính Để huy động vốn theo đuổi chính sách đầu tư có chọn lọc. Hàn Quốc đã áp dụng chính sách tiền tệ chặt trong một hệ thống lãi suất thấp. Trong thời gian cất cánh, Chính phủ can thiệp mạnhvà kiểm soát chặt( kể cả các biện pháp hành chính) chính sách tín dụng , ngân hàng, tập trung vốn cho các ngành được khuyến khích phát triển, thành lập Quỹ đầu tư quốc gia Chính phủ Đài Loan trong giai đoạn đầu khác với Hàn Quốc và nhiều nước khác, sử dụng chính sách lãi suất tiền tệ gửi cao để khuyến khích các dự án đầu tư cần ít vốn, sử dụng nhiều lao động rẻ mà vẫn sinh lợi; duy trì chế độ tỉ giá thấp để hỗ trợ xuất khẩu; khuyến khích phát triển những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Malaixia với trọng tâm phát triển kinh tế của mình vào công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu đã áp dụng triệt để các ưu đãi tài chính( miễn ,giảm nhiều loại thuế, trợ cấp đầu tư, hỗ trợ xuất khẩu ,tín dụng ưu đãi,..) và đặc biệt khuyến khích ưu đãi các dự án tiên phong Thái Lan là nước có khởi điểm phát triển kinh tế hiện đại muộn hơn Nam Triều Tiên và Đài loan. Nhưng Thái Lan có chính sách kinh tế mở từ hàng trăm năm nay và có “ chính sách ngoại giao mềm giẻo” nên trong khoảng20 năm trở lại đây, nhờ tìm kiếm “cú hích “ban đầu từ bên ngoài kết hợp với cải cách nền kinh tế để thu hút vốn tư bản nước ngoài và tạo tích luỹ nội bộ nền kinh tế. Với chiến lươc tạo dựng vốn hướng ngoại, Thái Lan đã thu hút vốn nước ngoài hàng tỉ USD mỗi năm, có năm cao tới 3 Tỉ USD. Thái Lan có chính sách thu hút vốn đầu tư thông thoáng và dễ chịu hơn Đài Loan và Nam Triều Tiên;cụ thể là chỉ những nhà doanh nghiệp nào muốn đầu tư và nhận ưu đãi của chính phủ Thái Lan thì mới phải đăng kí, còn ngược lại thì không cần phải đăng kí. Với chiến lược công nghiệp hoá hướng ngoại ,xuất khẩu phát triển nhanh,vì vậy tốc độ phát triển kinh tế rất cao. Như vậy, từ những kinh nghiệm trên ta thấy ràng điều quan trọng là ta phải chọn được một chiến lược huy động vốn phù hợp với hoàn cảnh thực tại, với tính chất của nền kinh tế. Có như vậy chúng ta với mong muốn đáp ứng được nhu cầu vốn cho sự tồn tại của nền kinh tế đất nước chung và của một doanh nghiệp nói riêng. Phần II : Thực trạng tạo lập vốn tại Công ty Trần Lâm 1. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của Công ty TNHH Trần Lâm. 1.1 Quá trình hình thành và phát triển Công ty TNHH Trần Lâm là một doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập, được tách ra từ công ty TNHH Vạn Phúc vào ngày2/10/1995 (tên giao dịch V & P Co, Ltđ); trụ sở : Số 3 Nguyễn Văn Bình, Quận 1, TP Hồ Chí Minh ), sản xuất và kinh doanh các sản phẩm in, ngoài ra còn thực hiện một số hoạt động dịch vụ như bảo hành, sửa chữa đồ điện tử, máy vi tính… Công ty được thành lập chính thức theo quyết định số 3979 GP/ TLDN ngày5/11/1995 ; tên giao dịch T & L. Co. Ltd trụ sở chính tại 398 Khâm Thiên - Đống Đa - Hà Nội. Để thuận tiện về mặt giao dịch và sản xuất, ngày 20/1/2000 Công ty đã rời trụ sở chính về : 147 Đội Cấn Cầu Giấy Hà Nội. Vốn điều lệ là một tỷ đồng do hai Đảng lập viên là Nguyễn Trần Quang và Đặng Kim Phúc hùn vốn thời gian hoạt động là 50 năm kể từ ngày đăng ký. 2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty Theo Đăng kí kinh doanh, Công ty được phép sản xuất, kinh doanh và dịch vụ một số mặt hàng sau : - Sản xuất và kinh doanh các sản phẩm in - Buôn bán tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, lương thực, thực phẩm công nghiệp. - Dịch vụ lắp đặt sửa chữa bảo hành thiết bị điện tử tin học… Qua những năm hoạt động Công ty đã dần dần chiếm được lòng tin của khách hàng nhờ vào chất lượng sản phẩm và sự tận tụy của đội ngũ nhân viên. Trong tương lai công ty sẽ mở rộng ngành nghề sản xuất và thị trường hoạt động và cùng với nó, chất lượng sản phẩm và đội ngũ nhân viên sẽ ngày càng được nâng cao. 2. Những đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu của công ty 2.1.Đăc điểm về sản phẩm Sản phẩm chủ yếu của Công ty như đã đề cập ở trên là những sản phẩm in. Đối với loại sản phẩm này, Công ty cần xuất theo đơn đặt hàng và vì thế thời gian sản xuất là rất ngắn. Để đảm bảo sản xuất được liên tục, thường xuyên và đúng hợp đồng, Công ty cần phải có mối quan hệ tốt với các nhà cung cấp, cần thiết phải có những khoản tiền cần c._.ường xuyên. Vốn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản lưu động tạm thời. Thực hiện chiến lược này sẽ giảm rủi ro và tăng chi phí huy động vốn. Trong tình hình trước mắt: Khi công ty cần giảm mọi chi phí trong đó có chi phí huy động vốn quá lớn so với lợi nhuận ít ỏi, Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên âm có nghĩa là công ty có đủ khả năng huy động nợ ngắn hạn tài trợ cho các khoản phải thu và tồn kho, công ty có thể tài trợ một phần hoặc toàn bộ tài sản lưu động thường xuyên bằng nợ ngắn hạn song phải đảm bảo vốn dài hạn tài trợ được hoàn toàn tài sản cố định và đầu tư dài hạn. Mặc dù thực hiện theo chiến lược này sẽ làm tăng chi phí vốn huy động (do tăng huy động nguồn dài hạn) nhưng nó sẽ giúp cải thiện tình hình tài chính do đó tạo điều kiện thuận lợi để huy động đủ lượng vốn cần thiết, phù hợp đáp ứng nhu cầu vốn cho năm 2001 cũng như các dự án sản xuất kinh doanh sắp tới.Có thực hiện những dự án kế hoạch này mới đem lại lợi nhuận lớn trang trải chi phí vốn huy động cũng như nâng cao được tiềm lực và tình hình tài chính của công ty. Năm 2002, nhu cầu vốn của công ty tăng thêm là 340 triệu đồng. Như vậy tổng nguồn vốn sẽ là :2,1+ 0,34=2,44 tỷ đồng trong đó vốn lưu động là :1,13+0,17 = 1,3 tỷ đồng. Do đó tài sản cố định và đầu tư dài hạn khoảng :2,44 – 1,3 =1,14 tỷ đồng. Hiện nay khoản mục này trên bảng cân đối kế toán là 0,73 tỷ. Vậy năm 2002, công ty cần có kế hoạch huy động thêm khoảng 0,41 tỷ vốn dài hạn. Trong những năm tới, nhu cầu vốn dài hạn của công ty sẽ tăng lên do thực hiện các dự án sản xuất, kinh doanh mới đòi hỏi lắp đặt các máy móc thiết bị dây chuyền công nghệ. Vì vậy, công ty cần có kế hoạch khai thác các nguồn huy động dài hạn. Các nguồn dài hạn có thể khai thác là vay dài hạn từ ngân hàng, liên doanh liên kết, thuê mua tài sản... 2.2. Thay đổi cơ cấu vốn, xây dựng cơ cấu vốn mục tiêu. Như đã phân tích ở chương 2, Công ty TNHH Trần Lâm đang sử dụng quá nhiều nợ vay khiến cho cơ cấu vốn trở nên không hợp lý. Kết luận này được đưa ra khi xem xét mối quan hệ giữa ebít/ tổng tài sản và lãi suất của nợ vay mà cơ sở của nó là công thức sau: HVC = HTV + K (HTV - i) Trong đó HTV chính là e bít/ tổng tài sản. i: lãi suất của nợ vay. Giải thích công thức này như sau: HVC: doanh lợi vốn chủ sở hữu. HVC = L/VC Trong đó L: lợi nhuận trước thuế VC: vốn chủ sở hữu. Htv: doanh lợi tổng vốn Htv = (L + R)/ (VC + VV). Trong đó R: lãi vay VV: vốn vay. K: = VV/ VC i: lãi suất vay vốn i = R/VV. L = HVC x VC = HTV x (VC + VV) - R HVC = HTV + HTV . VV/ VC - i x VV/ VC Nên HVC = HTV + K (HTV - i). Ta biết rằng vì mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi ích của vốn chủ sở hữu nên doanh nghiệp phải phấn đấu đạt được HVC ngày càng cao. Từ công thức trên ta thấy HVC phụ thuộc vào. - HTV: HTV bị tác động bởi rủi ro kinh doanh. - K (HTV - i) bị tác động bởi rủi ro tài chính phụ thuộc vào i và K. Trong đó i là lãi suất vay vốn là yếu tố khách quan còn K là tỷ lệ giữa vốn vay và vốn chủ sở hữu do doanh nghiệp quyết định. Khi HTV < i thì K càng nhỏ càng tốt, vì vậy khi e bít/ tổng tài sản < lãi suất nợ vay thì nên giảm nợ. Khi HTV > i thì K càng lớn càng tốt, vì vậy khi ebit/ tổng tài sản > lãi suất nợ vay thì nên tăng nợ. Do đó tùy thuộc vào tình hình kinh doanh và mục tiêu của công ty mà công ty nên xác định cho mình một cơ cấu vốn mục tiêu cùng với việc thực hiện chiến lược vốn thích hợp làm phương hướng cho công tác huy động tạo lập vốn để tăng cường hiệu quả của hoạt động này chứ không nên chỉ dựa vào một số nguyên tắc, quan điểm nhất định. Với tình hình như hiện nay của công ty, ebít/ tổng tài sản = 5,05% < lãi suất của nợ vay = 5,67% thì công ty nên tiến hành giảm tỷ lệ nợ sao cho K càng nhỏ càng tốt. Trong khi nhu cầu vốn đang tăng, biện pháp để giảm tỷ lệ nợ là tăng vốn chủ sở hữu. Có thể tiến hành bằng các cách như tăng lợi nhuận, kêu gọi vốn liên doanh. 2.3. Hoàn thiện công tác dự đoán nhu cầu vốn, tính toán chi phí vốn một cách đầy đủ. Các nhà lập chính sách và kế hoạch của công ty khi xác định cách tạo vốn cần thiết phải xem xét đến nhu cầu vốn và chi phí vốn trong mối quan hệ với khả năng của công ty. Công tác dự toán nhu cầu vốn có một vai trò rất quan trọng. Dự đoán nhu cầu vốn càng chính xác bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nếu dự đoán thừa thì sẽ gây lãng phí vốn huy động còn dự đoán thiếu thì hoạt động của công ty sẽ bị gián đoạn hoặc gặp khó khăn. ở Công ty TNHH Trần Lâm, công tác dự đoán nhu cầu vốn đã được thực hiện nhưng chưa được tiến hành dựa trên phương pháp khoa học. Do đó, trong thời gian tới, công ty có thể dự đoán nhu cầu vốn theo một số phương pháp như phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu, phương pháp hồi qui đơn biến, phương pháp hồi qui đa biến. Tuy nhiên phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu là một phương pháp đơn giản và rất dễ sử dụng. Công ty có thể thực hiện phương pháp này. Đây là phương pháp dự báo tài chính ngắn hạn gồm các bước sau: Bước 1: Tính số dư của các chỉ tiêu trên bảng cân đối kế toán năm báo cáo. Bước 2: Chọn những khoản mục chịu sự biến động trực tiếp có quan hệ chặt chẽ với doanh thu trong năm. Tính tỷ lệ phần trăm các khoản đó so với doanh thu. Bước 3: Dùng tỷ lệ phần trăm đó ước tính nhu cầu vốn của năm sau dựa vào chỉ tiêu doanh thu kế hoạch cần đạt được. Bước 4: Định hướng các nguồn trang trải nhu cầu vốn trên cơ sở kết quả thực tế đồng thời tính nhu cầu vốn lưu động thường xuyên qua công thức. Nhu cầu VLĐTX = Tồn kho + Các khoản phải thu - Nợ ngắn hạn. Nếu nhu cầu VLĐT > 0, công ty phải dùng vốn dài hạn tài trợ cho phần chênh lệch giữa vốn ngắn hạn huy động và việc sử dụng vốn ngắn hạn. Nếu nhu cầu VLĐTX < 0, vốn ngắn hạn dư thừa so với thực tế sử dụng, tùy tình hình của công ty trong năm mà có thể duy trì tình trạng này hoặc giảm sử dụng nợ ngắn hạn. Nội dung của phương pháp này đã được trình bày ở phần I của chương với tình hình của năm 2000 và dự đoán nhu cầu vốn cho năm 2002. Để việc dự đoán nhu cầu vốn được chính xác thì công tác lập kế hoạch phải sát với tình hình thực tế và khả năng phát triển trong tương lai của công ty. Vì vậy, công ty cần hoàn thiện hơn nữa công tác lập kế hoạch ngắn hạn cũng như dài hạn các chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu phát triển sản xuất kinh doanh đặc biệt các chỉ tiêu như doanh thu tiêu thụ cần đạt được, lợi nhuận thực hiện, các dự án sản xuất kinh doanh dài hạn... Bên cạnh việc dự đoán chính xác nhu cầu vốn thì tính toán đầy đủ chi phí vốn cũng là một yêu cầu cấp thiết. Tính toán chi phí vốn đúng và đầy đủ sẽ giúp xác định được cơ cấu vốn tối ưu, giúp cho việc sử dụng vốn hiệu quả tiết kiệm, tránh lãng phí. Đối với chủ sở hữu, các doanh nghiệp tư nhân hiện nay thông thường không tính được chính xác hiệu quả của việc sử dụng đồng vốn này. Bởi lẽ đây là số tiền các ông chủ bỏ ra kinh doanh, cho nên về măt hình thức sẽ không có chi phí nào cho loại vốn này( không như vốn vay ngân hàng phải trả chi phí bằng tiền lãi xuất...). Vì thế đã gây ra một tâm lí “sao nhãng”, khiến cho việc tinh stoán về chi phí và hiệu quả sử dụng đồng vốn chủ sở hữu thường không được đề cập tới. Bên cạnh đó, công ty cần xác định cho được một cách chính xác chi phí vốn tín dụng thương mại. Chi phí này có thể đã tiềm ẩn trong giá đầu vào. Như theo đánh giá của công ty, công ty có một thị trường đầu vào khá ổn định nhưng giá mua nguyên vật liệu còn cao. Do đó công ty cần phải so sánh chi phí mua đầu vào của công ty với chi phí mua phổ biến trên thị trường, chi phí mua của các đối thủ cạnh tranh cùng sản xuất một mặt hàng với công ty để tìm được chi phí của nguồn vốn này (chính là sự chênh lệch trong phép so sánh nói trên). Xác định chi phí của nguồn sẽ giúp cho công ty xây dựng được chính sách giá cả đầu vào, xác định mối quan hệ với các nhà cung cấp truyền thống, tích cực tìm kiếm những nguồn hàng mới có chi phí rẻ hơn, từ đó khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hiệu quả. Hơn thế, việc xác định được chi phí vốn tín dụng thương mại sẽ giúp xác định chiến lược sử dụng nguồn trong tương lai theo cơ cấu thích hợp. Ngoài ra, công ty cần thực hiện công tác tính chi phí trung bình của vốn làm cơ sở cho việc quyết định thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn W1, W2; W3, W4, W5 lần lượt là tỷ trọng của vốn chủ sở hữu, vốn vay ngân hàng ngắn hạn, vốn vay ngân hàng dài hạn, vốn tín dụng thương mại, các loại vốn khác so với tổng nguồn vốn. K1, K2, K3, K4, K5 lần lượt là chi phí vốn chủ sở hữu, chi phí vay ngân hàng ngắn hạn, chi phí vay dài hạn phải trả cho ngân hàng, chi phí vốn tín dụng thương mại phải trả cho nhà cung cấp và chi phí các loại vốn khác. Khi đó, chi phí vốn trung bình được tính như sau: WACC = W1 . K1 + W2 . K2 (1 - T) + W3 . K3 (1 - T) + W4 . K4 (1 - T) +W5 K5 (1 - T). Trong đó: T là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. Nếu tỷ suất lợi nhuận của dự án lớn hơn WACC, dự án sẽ được thực hiện, nếu nhỏ hơn nên từ chối dự án. Cần lưu ý là khi dùng WACC để quyết định thực hiện các dự án sắp tới thì WACC ở đây sẽ là chi phí trung bình của một đồng vốn mới ứng với một tổng nguồn vốn mới và một cơ cấu vốn mới sẽ được tạo lập để chuẩn bị cho vào thực hiện dự án đó chứ không phải là chi phí trung bình của một đồng vốn hiện tại. 2.4. Khai thác tiềm năng của các nguồn sẵn có. Với các nguồn huy động sẵn có, công ty cần có những biện pháp khai thác tốt, phát huy tiềm năng của chúng để đảm bảo đủ nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Cụ thể như sau: 2.4.1/ Các giải pháp tăng lợi nhuận: Lợi nhuận là một chỉ tiêu thể hiện phần nào tình trạng tài chính của công ty. Đây cũng là một nguồn huy động chủ động và an toàn đối với mỗi doanh nghiệp song chưa được công ty chú ý khai thác. Nó cũng là một chỉ tiêu có tác dụng nâng cao khả năng huy động từ những nguồn khác. Do đó, công ty cần quan tâm tới các biện pháp gia tăng lợi nhuận không chỉ để cải thiện tình hình tài chính, thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách nhà nước mà còn là để tăng vốn cho hoạt động của mình. Để gia tăng lợi nhuận, công ty cần tăng doanh thu và giảm chi phí một cách hợp lý. 2.4.1.1 Các giải pháp liên quan đến doanh thu: Để tăng doanh thu, công ty có thể tăng số lượng tiêu thụ hoặc (và) nâng cao giá bán. Như chúng ta đã biết, sản phẩm của công ty là các sản phẩm in( bao gói ,danh thiếp...), ngoài ra nó còn làm chức năng “thương mại” đối với các sản phẩm lương thực, thực phẩm; máy móc, linh kiện điện tử, tin học...Những mặt hàng này có quá nhiều người cung cấp, quá nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường, do vậy, biện pháp tốt nhất cho việc nâng cao doanh thu của công ty trong giai đoạn tới đó là tăng số lượng tiêu thụ. Để nâng cao số lượng bán đối với các sản phẩm công ty trực tiép sản xuất, cũng như các sản phẩm mà công ty làm dịch vụ,biện pháp tốt nhất hiện nay là mở rộng thị trường tiêu thụ. Thực tế thì đây là biện pháp mà công ty đã chú ý tới nhiều bởi theo kế hoạch năm 2002, công ty sẽ mở hai chi nhánh tại Hải Phòng và Quảng Ninh. Nhưng theo nhận định của những người có kinh nghiệm trong việc kinh doanh các sản phẩm kể trên, thì thị trường tiềm năng ở các tỉnh hiện nay là rất lớn, đặc biệt là đối với cá sản phẩm tin học. Vì vậy, với mục tiêu phát triển xa hơn trong tương lai, công ty nên xem xét đầu tư, thành lập các đại diện ở các tỉnh( đặc biệt là các tỉnh- thành phố) buôn bán, làm dịch vụ các sản phẩm tin học, internet.....Ngoài ra, đội ngũ kinh doanh nên năng động hơn trong việc tìm ra nguồn tiêu thụ sản phẩm( đặc biệt là đối với các sản phẩm in); Việc hoàn thiện hơn về chất lượng phục vụ đối với các sản phẩm điện tử, tin học...cũng sẽ góp phần làm tăng số lượng tiêu thụ. Ngoài việc chú ý tới các biện pháp làm tăng số lượng tiêu thụ, công ty cần hạn các yếu tố làm giảm doanh thu như hàng bán bị trả lại,...; Công tác quản lí chất lượng hàng hoá cần được tích cực hơn ,không chỉ được tiến hành trong khâu cuối mà nên tiến hành trong từng khâu của quá trình sản xuất, dịch vụ. 2.4.1.2/ Các giải pháp liên quan đến chi phí: Hiện nay, chi phí tạo nên sản phẩm cao dẫn đến giảm lợi nhuận đặc biệt là giá vốn hàng bán và chi phí quản lý doanh nghiệp. Công ty cần có biện pháp để giảm hai loại chi phí này một cách hợp lý. Công ty nên tìm kiếm nguồn cung cấp nguyên vật liệu mới với giá rẻ hơn, tổ chức tốt khâu nhập hàng, quản lý tốt vấn đề dự trữ tránh để nguyên vật liệu thừa tồn đọng. Tiếp tục tổ chức lại bộ máy quản lý cho phù hợp với việc tổ chức sản xuất, cố gắng tinh giảm bộ máy, do đó giảm chi phí quản lý doanh nghiệp. Đồng thời sử dụng hiệu quả lực lượng lao động, bố trí lao động theo đúng năng lực và yêu cầu công việc, quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân... giúp sử dụng hiệu quả chi phí nhân công. 2.4.2/ Vay vốn ngân hàng: Đối với các doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam hiện nay thì ngân hàng vẫn là một trong những kênh tạo vốn quan trọng bậc nhất.Đây có thể coi là một biện pháp bổ sung vốn cho công ty một cách hữu hiệu và kịp thời. Công ty cần tiếp tục thiết lập duy trì mối quan hệ truyền thống sẵn có với các ngân hàng. Trong thời gian tới, công ty cần tăng vốn dài hạn đáp ứng nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, công ty cần tiếp tục tận dụng các khoản vay dài hạn mang tính chất ưu đãi của các ngân hàng, của các tổ chức quốc tế đầu tư ủy thác qua ngân hàng. Muốn vậy, công ty phải có những dự án sản xuất kinh doanh hiệu quả lập các phương án kinh doanh đem lại lợi nhuận bảo đảm được mọi chi phí trong đó có chi trả lãi vay mà vẫn có lãi, tạo được niềm tin với các ngân hàng. Tuy chiến lược vốn mới yêu cầu giảm tỷ lệ nợ, đặc biệt là nợ ngắn hạn, song do nhu cầu vốn không ngừng tăng lên, công ty vẫn phải đảm bảo huy động tốt nguồn nợ vay ngắn hạn trong đó cần tăng khả năng vay ngắn hạn từ ngân hàng. Công ty nên tiếp tục thực hiện vay theo hình thức luân chuyển đồng thời vay theo món khi cần thiết. Để tăng cường khả năng của nguồn này, công ty cần cải thiện tình hình tài chính, yếu tố quyết định mức dư nợ cho vay hàng năm, đồng thời duy trì tốt mối quan hệ với ngân hàng thông qua việc thanh toán lãi và nợ vay đúng hạn đã được phát huy tốt trong những năm vừa qua. 2.4.3/ Vay vốn cán bộ công nhân viên: Công ty cần tiếp tục khai thác tốt tiềm năng vốn vay cán bộ công nhân viên đảm bảo nguồn cung cấp vốn ngắn hạn linh hoạt có chi phí rẻ, cùng với vốn vay ngân hàng, vốn tín dụng thương mại tạo đủ vốn ngắn hạn tài trợ cho tài sản lưu động. Vốn vay cán bộ công nhân nên từ trước tới nay vẫn chỉ được xem là nguồn phụ trợ, bổ sung cho vốn vay ngân hàng ngắn hạn. Thậm chí năm 2001 nó giữ vai trò quan trọng nhất khi xét đến số lượng vay được. Song tư tưởng của các nhà quản lý công ty vẫn là nếu tình hình vay vốn ngân hàng khả quan, công ty sẽ giảm huy động từ cán bộ công nhân viên. Công ty nên tiến hành xem xét khả năng khai thác tối đa của nguồn này về số lượng cũng như thời gian đáp ứng. Nếu có thể được, công ty có thể thay đổi tư tưởng. Trong một vài năm tới, khi công ty cần có thời gian để cải thiện tình hình tài chính, tạo bước đệm để phát triển vượt bậc có khả năng lớn trong huy động vốn ngân hàng thì công ty có thể xem nguồn vốn vay cán bộ công nhân là nguồn được ưu tiên khai thác quan trọng nhất. Tận dụng nguồn vốn vay nội bộ, có chi phí rẻ lại linh hoạt sẽ có nhiều ưu thế hơn là cố gắng vay vốn ngân hàng phức tạp về thủ tục, chi phí lại cao hơn. Tuy nhiên, cần phải khẳng định tư tưởng này chỉ nên được áp dụng trong giai đoạn nhất định. Về lâu dài, vốn ngắn hạn chỉ có thể được đáp ứng đủ từ nguồn vay ngân hàng. Bởi khi công ty phát triển đến mức độ nhất định vốn vay cán bộ công nhân viên không còn đủ khả năng tài trợ cả về qui mô và thời gian cho nhu cầu vốn. Qua xem xét thực trạng vay vốn cán bộ công nhân viên thấy rằng, công ty có thể khai thác tiềm năng của nguồn vốn này trên khía cạnh là biến nó trở thành một nguồn dài hạn. Thực tế thấy rất nhiều cán bộ công nhân viên khi đáo hạn khoản cho vay đã tiếp tục gộp cả gốc lẫn lãi và gửi tiếp. Trong khi công ty đang cần vốn dài hạn công ty có thể đưa thêm hình thức vay vốn với thời hạn 1 năm và tăng mức lãi suất một cách thích hợp để thu hút người gửi dài hạn nhiều hơn. Mặc dù chi phí vốn sẽ tăng nhưng chi phí này sẽ thấp hơn chi phí vay dài hạn từ các nguồn khác và đổi lại công ty có được nguồn vốn dài hạn ổn định hơn nguồn vay ngắn hạn. Ngoài ra, có thể bỏ hình thức huy động 1 tháng vì thực tế nó chiếm một số lượng rất không đáng kể mà có thể thay thế bằng các hình thức khác như vốn tín dụng thương mại vốn chi phí rẻ hơn. Công ty cũng có thể mở rộng đối tượng vay vốn theo hình thức này không nên chỉ bó hẹp trong cán bộ công nhân viên mà nhận vốn vay của các nhà cung cấp, các bạn hàng, khách hàng,... 2.4.4/Sử dụng tốt nguồn vốn tín dụng thương mại. Với nguồn vốn tín dụng thương mại, quan điểm của công ty nên là tận dụng tốt một cách hợp lý nguồn vốn này. Song như đã đề cập ở phần trên, công ty cần tính toán chi phí vốn của nguồn làm cơ sở cho việc khai thác và sử dụng nguồn. Do đặc điểm vốn tín dụng thương mại là rất ngắn hạn, ở Việt Nam lại chưa phát triển thương phiếu là công cụ để thực hiện tạo vốn qua hình thức này có hiệu quả, huy động vốn thông qua hình thức tín dụng thương mại nên ở mức vừa phải đảm bảo qui mô tài trợ không được vượt quá giới hạn an toàn tránh việc công ty rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán cho nhà cung cấp khi đến hạn. Đồng thời việc khai thác nguồn cùng phải đảm bảo nguyên tắc là công cụ tài trợ tốt cho các khoản phải thu. Việc sử dụng vốn tín dụng thương mại năm 2001 vừa qua là rất hợp lý. Tuy nhiên công ty cần có biện pháp giảm hơn nữa các khoản phải thu để nâng cao vai trò của nguồn vốn tín dụng thương mại. Biện pháp thực hiện là nên khuyến khích, thanh toán ngay, thanh toán nhanh, quản lý chặt chẽ thời hạn các khoản nợ, tổ chức thu hồi nợ đều đặn... 2.5. Phát triển các hình thức huy động mới. Bên cạnh việc khai thác các nguồn sẵn có, công ty có thể tìm kiếm các hình thức huy động mới phù hợp với tình hình công ty để đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. Có thể kể một số hình thức công ty có thể khai thác như sau: 2.5.1/ Liên doanh, liên kết: Đây là một hình thức vừa tăng vốn dài hạn, vừa tăng vốn chủ sở hữu đáp ứng yêu cầu của chiến lược vốn mới. Có thể kêu gọi vốn góp trong nước hoặc vốn nước ngoài. Thông thường gọi vốn nước ngoài sẽ có nhiều ưu thế hơn hẳn về quy mô vốn, thu hút được công nghệ máy móc trang thiết bị hiện đại. Song cần kêu gọi vốn liên doanh liên kết theo hình thức nào ? Thực tế hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam khi cùng phía đối tác thành lập một pháp nhân, do trình độ quản lý và nhận thức còn yếu kém, phía Việt Nam thường chịu nhiều thua thiệt phải bán lại phần vốn liên doanh cho phía nước ngoài. Vì vậy, công ty nên thực hiện liên doanh liên kết theo hình thức ký kết các hợp đồng hợp tác kinh doanh thực hiện một dự án mà không cần hình thành pháp nhân. Trong thời gian tới, công ty có kế hoạch thực hiện một dự án sản xuất:Mua sắm một dây truyền công nghệ mới. Công ty nên tìm đối tác nước ngoài có trình độ chuyên môn về lĩnh vực sản xuất này để có thể tận dụng dây chuyền công nghệ tiên tiến hiện đại tạo ra sản phẩm có ưu thế về chất lượng, mẫu mã. Song khi áp dụng hình thức này, công ty cần lưu ý khả năng dự án không thỏa mãn yêu cầu về lợi tức của đối tác, phía đối tác sẽ rút vốn liên doanh. Đây cũng là một thực tế thường thấy trong các doanh nghiệp liên doanh liên kết hiện nay. Khi dự án hoạt động không có hiệu quả phía nước ngoài sẽ bán lại dây chuyền công nghệ cho bên Việt Nam. Đôi khi các doanh nghiệp Việt Nam trở thành nguời mua rẻ các dây chuyền công nghệ lạc hậu thông qua hình thức liên doanh. Công ty nên xem xét toàn diện về khía cạnh này. Cần xem thái độ và thiện ý của phía đối tác, các dây chuyền máy móc thiết bị đầu tư, lập luận chứng kinh tế kỹ thuật, thẩm định tài chính dự án một cách chính xác đầy đủ để xem xét tính khả thi của dự án cũng như phải chuẩn bị những phương án khi đối tác liên doanh rút vốn có thể gây những ảnh hưởng lớn tới hoạt động của công ty. 2.5.2/ Thuê mua tài chính: Như đã đề cập ở chương 1, cho thuê tài chính là hình thức tài trợ độc đáo. Tại các nước có nền kinh tế phát triển hình thức này được ứng dụng rất nhiều. Nhờ hình thức này,doanh nghiệp không cần bỏ ra ngay lập tức một lượng vốn lớn, không cần phải thế chấp như vay ngân hàng mà lại có ngay thiết bị mong muốn để sử dụng. Hết hạn thuê theo hợp đồng, doanh nghiệp trả lại thiết bị và có thể thuê thiết bị khác hiện đại hơn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với Công ty TNHH Trần Lâm.Bởi hầu hết máy móc thiết bị đều lạc hậu và công ty đang có nhu cầu đổi mới .Song thực tế, công ty thiếu vốn dài hạn để thực hiện nhu cầu này. Hàng năm công ty đã tiến hành đổi mới bộ phận bằng vốn ngắn hạn. Thực hiện theo cách này vừa gây nhiều rủi ro cho tình hình tài chính của công ty. Đồng thời, các máy móc được thay thế từng bộ phận dẫn đến thiết bị sản xuất không đồng bộ, không phát huy được hiệu quả của nó. Nếu thực hiện theo hình thức thuê mua tài chính thì khắc phục được cả hai nhược điểm trên. Đây là hình thức tạo vốn dài hạn đầu tư cho tài sản cố định đáp ứng được nhu cầu đổi mới máy móc thiết bị của công ty mà lại làm lành mạnh hóa tình hình tài chính. Nó cũng là phương thức đổi mới một cách toàn diện dây chuyền công nghệ tránh được tình trạng đổi mới chắp vá, lắp ghép như hiện nay. Do đó sẽ giúp máy móc thiết bị phát huy hết công suất tạo sản phẩm có chất lượng cao.... Hết thời hạn thuê, công ty lại có thể thuê mới các máy móc thiết bị tân tiến cung cấp sản phẩm luôn phù hợp với nhu cầu thị trường. Sở dĩ thời gian qua, hình thức này chưa được áp dụng tại công ty là do thị trường thuê mua tài chính còn sơ khai, các công ty tài chính mới thành lập. Ngoài ra, nhận thức của những người quản lý công ty về thuê mua tài chính còn mới lạ chưa xem đây là một phương thức tạo lập vốn hiệu quả. Trong thời gian tới, thị trường thuê mua tài chính sẽ phát triển công ty cần nghiên cứu xem xét áp dụng hình thức này vào hoạt động của mình. 2.6. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là biện pháp chủ động và hữu hiệu nhất mà mọi doanh nghiệp cần phải áp dụng vì hai lý do sau: - Thứ nhất: Đây là biện pháp giúp tăng hiệu quả đầu tư của đồng vốn huy động được giúp doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận từ đó tăng vốn bổ sung hàng năm. - Thứ hai: Đây là điều kiện tiên quyết mà doanh nghiệp cần phải có khi muốn thu hút vốn đầu tư bên ngoài. Sẽ không có một nhà đầu tư nào muốn bỏ vốn vào một doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả hay một dự án có thu nhập thấp. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, trong hoạt động của mình công ty cần định kỳ tiến hành phân tích tài chính nhằm đánh giá sát sao tình hình sử dụng vốn. Phân tích định kỳ tài chính sẽ giúp công ty nhanh chóng tìm được nguyên nhân của tình trạng tài chính hiện thời. Từ đó có biện pháp cụ thể phát huy lợi thế hay khắc phục yếu kém. Với tình hình tài chính như ba năm vừa qua, công ty cần có những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn như sau: 2.6.1/ Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. - Quản lý tiền mặt: Công ty cần xây dựng mô hình quản lý ngân quỹ trợ giúp cho việc xây dựng mức tiền mặt tối ưu phù hợp với tình hình công ty, đảm bảo khả năng thanh toán tránh rơi vào tình trạng quỹ tiền mặt quá thấp như năm 1999,2000 - Quản lý dự trữ: Xác định mức dự trữ hợp lý không làm gián đoạn sản xuất cũng không gây ứ đọng vốn. Xác định đúng nhu cầu vật tư cho từng thời kỳ. Bố trí nguyên vật liệu tồn kho hợp lý khắc phục tình trạng nguyên vật liệu này thì thừa, loại khác thì thiếu hụt nghiêm trọng. Phát triển công tác bán hàng để giảm sản lượng thành phẩm tồn kho. Nâng cao chất lượng sản phẩm sản xuất ra tránh tình trạng tiêu thụ kém là do sản phẩm tồi dẫn đến tồn kho thành phẩm lớn. - Quản lý các khoản phải thu: Công ty phải theo dõi chặt chẽ về thời hạn của các khoản nợ để thu hồi nợ kịp thời. Cần thu hồi nhanh các khoản nợ cũ mà khách hàng và các đơn vị khác chiếm dụng, đặc biệt là các đơn vị không còn tiếp tục quan hệ với công ty. Công ty cũng cần khuyến khích các đơn vị thực hiện việc thanh toán ngay khi đã tiêu thụ hàng hóa. Nghiên cứu cách thức bán hàng chiết khấu, giảm giá để thu tiền ngay. Cần tổ chức việc thu hồi nợ một cách đều đặn nhịp nhàng, không để tình trạng thu hồi nợ dồn dập vào cuối năm làm cho vốn của công ty bị chiếm dụng quá lâu gây thiếu thốn cho nhu cầu kinh doanh trong năm. Trong khi đó lượng tiền mặt tồn quỹ tăng nhanh vào cuối năm gây tình trạng dư thừa tiền mặt giả tạo. 2.6.2/ Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định, công ty cần thực hiện một số biện pháp: - Lập kế hoạch và thực hiện tốt việc quản lý, sử dụng, bảo dưỡng sửa chữa, nâng cấp, mua sắm tài sản cố định, tránh hư hỏng mất mát duy trì và không ngừng nâng cao năng lực sản xuất của tài sản cố định. Hàng năm phải lập kế hoạch theo quy định của Nhà nước. - Do nguồn vốn hạn chế, công ty không thể thay thế một loạt hầu hết các máy móc cũ trong thời gian ngắn. Vì vậy, cần phân loại tài sản cố định để xác định được chính xác mức hao mòn của từng tài sản. Từ đó tiến hành thanh lý các tài sản đã khấu hao hết hoặc gần khấu hao hết để tái đầu tư. Đồng thời cần quan tâm đến tính đồng bộ của máy móc trang thiết bị khi tiến hành đầu tư thay mới. - Cân nhắc giữa chi phí sửa chữa lớn bỏ ra với việc thu hồi hết các giá trị còn lại của máy móc trang thiết bị. Đây sẽ là căn cứ để đưa ra quyết định: tiếp tục kéo dài tuổi thọ của máy hay thanh lý nhượng bán để đối mới tài sản cố định. - Phân cấp quản lý cho các bộ phận trong nội bộ của công ty nhằm nâng cao trách nhiệm của từng thành viên trong quá trình sử dụng. Tự quy trách nhiệm cá nhân có thưởng phạt rõ ràng nhằm khuyến khích tính cần cù, sáng tạo của người lao động, kỷ luật và bắt đền bù những người gây thiệt hại tới tài sản cố định. Bố trí dây chuyền sản xuất hợp lý, khai thác tối đa công suất sử dụng tài sản cố định. 3. Một số kiến nghị. 3.1. Kiến nghị với Nhà nước. Với vai trò là người tạo môi trường pháp lý lành mạnh giúp doanh nghiệp huy động và sử dụng vốn thuận lợi và có hiệu quả, Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ đồng bộ, rõ ràng. Trong thời gian tới, Nhà nước cần khẩn trương hoàn thiện các luật như luật doanh nghiệp nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, luật đầu tư... Tiến hành nghiên cứu xây dựng ban hành những bộ luật mới chẳng hạn luật thị trường chứng khoán tạo khung pháp lý nhanh chóng phát triển thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường vốn nói chung. Ban hành các văn bản dưới luật làm cơ sở cho việc tạo vốn cho các doanh nghiệp. Ví dụ ban hành các thông tư nghị định hướng dẫn và quy định về nghiệp vụ cho thuê tài chính. Ngoài ra nhà nước cần tránh tình trạng thiếu đồng bộ giữa luật và văn bản dưới luật, gây khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp. Bộ Tài chính cần tiếp tục hoàn thiện chế độ tài chính, ban hành các văn bản hướng dẫn về mặt quản lý tài chính rõ ràng, cụ thể. Song Bộ cũng cần có sự ổn định tương đối trong việc ra các chế độ chính sách về quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc hạch toán kinh doanh lập báo biểu kế toán tài chính. Đưa ra các chỉ tiêu tài chính đánh giá xếp hạng các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước một cách chính xác. Đây sẽ là cơ sở cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. 2.3. Kiến nghị với Ngân hàng. Trong tình hình hiện nay, việc cho vay vốn của ngân hàng còn có nhiều bất cập: Thứ nhất :Các thủ tục cho vay vốn còn rườm rà với nhiều loại giấy tờ không hợp lí gây khó khăn cho người đi vay. Thứ hai: Vẫn còn có tình trạng phân biệt, đối xử của ngân hàng đối với người đi vay là các doanh nghiệp tư nhân; Họ thường gặp khó khăn hơn trong việc vay vốn của ngân hàng so với các doanh nghiệp nhà nước. Thứ ba: Ngay trong nội bộ các donh nghiệp tư nhân với nhau, do tình trạng “quen biết” với nhau giữa cá thể từng doanh nghiệp với các cá nhân có vị trí cao trong hệ thống ngân hàng mà việc giải quyết vấn đề cho vay vốn không diễn ra đúng trình tự thời gian đối với các doanh nghiệp. Thứ tư: Khoảng thời gian giữa việc duyệt dự án và việc cấp vốn thường kéo dài làm mất cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy, ngân hàng cần cải thiện các thủ tục cho vay vốn thuận tiện, rõ ràng, gọn nhẹ; giảm bớt thủ tục giấy tờ,thời gian chờ đi lại; Nên đối xử công bằng hơn giữa các doanh nghiệp. Nếu có thể nhanh chóng cấp vốn cho công ty để công ty có thể thực hiện các dự án kế hoạch kịp thời tránh bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh mang lại lợi nhuận. 4. Kiến nghị với các nhà cung cấp, các bạn hàng. -Với các nhà cung cấp: Hiện nay, các nhà cung ứng đã luôn cung cấp đủ và ổn định nhu cầu vật tư nguyên vật liệu đầu vào cho công ty. Song giá đầu vào là tương đối cao khiến công ty không có cách nào khác là chiếm dụng vốn. Trong thời gian tới, các nhà cung ứng nên nghiên cứu giảm giá nguyên vật liệu đầu vào vừa giúp công ty hoạt động có hiệu quả vừa duy trì tỷ lệ chiếm dụng vốn của công ty đối với các nhà cung ứng một cách hợp lý có lợi cho cả đôi bên. - Với các bạn hàng: Chất lượng sản phẩm luôn là yếu tố đảm bảo mối quan hệ của công ty với các khách hàng, các đại lý tiêu thụ. Công ty luôn sẵn sàng nhận lại các sản phẩm hư hỏng kém phẩm chất. Đây là cách thức công ty tạo uy tín với các bạn hàng. Các bạn hàng các đại lý tiêu thụ sản phẩm của Công ty cũng cần phải tạo uy tín với công ty bằng cách thanh toán nhanh gọn, sòng phẳng tạo điều kiện cho công ty và khách hàng cùng phát triển. Vì vậy khi bán được hàng hóa cần nhanh chóng thanh toán tiền hàng cho công ty tránh tình trạng dây dưa nợ đọng kéo dài. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Tài chính doanh nghiệp - Chủ biên: PTS. Lưu Thị Hương (Nhà xuất bản Giáo dục). 2. Quản trị tài chính doanh nghiệp - Vũ Duy Hào, Đàm Văn Huệ, Nguyễn Quang Ninh (Nhà xuất bản Thống kê). 3. Quản trị Tài chính - Nguyễn Văn Thuận (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh). 4. Báo cáo tài chính và thuyết minh báo cáo tài chính trong ba năm 1998, 1999, 2000 của Công ty Khóa Minh Khai. 5. Các tạp chí: Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí Tài chính, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, Tạp chí Kinh tế và Dự báo. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29882.doc
Tài liệu liên quan