LỜI NÓI ĐẦU
Đầu tư Xây dựng cơ bản là bộ phận vô cùng quan trọng thuộc đầu tư phát triển . Để xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng , cũng như tạo ra các tài sản cố định chúng ta phải đầu tư Xây dựng cơ bản . Những năm vừa qua, tình hình đầu tư Xây dựng cơ bản ở Việt Nam được chú trọng và đã có những thành quả nhất định, góp phần đáng kể trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Đó cũng chính là lý do em chọn đề tài “Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư Xây dựng cơ b
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1505 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản ở Việt Nam”
Đề tài gồm 3 chương :
Chương 1 - Lý luận chung về đầu tư Xây dựng cơ bản
Chương 2 - Thực trạng về đầu tư Xây dựng cơ bản ở Việt Nam những năm vừa qua.
Chương 3 - Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện công tác đầu tư Xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Do còn thiếu kinh nghiệm thực tế và kiến thức về lĩnh vực đầu tư còn yếu nên bản báo cáo của em về đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn Ths. Lương Hương Giang đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em thực hiện đề tài này.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN.
I. Đầu tư và đầu tư xây dựng cơ bản.
1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư xây dựng cơ bản.
+ Đầu tư:
Đầu tư theo nghĩa rộng có nghĩa là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đem lại cho nhà đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai mà kết quả này thường phải lớn hơn các chi phí về các nguồn lực đã bỏ ra. Nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là tài sản vật chất khác hoặc sức lao động.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nhà đầu tư hoặc xã hội kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó.
Như vậy, nếu xem xét trên giác độ đầu tư thì đầu tư là những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện có để làm tăng thêm các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và trí tuệ để cải thiện mức sống của dân cư hoặc để duy trì khả năng hoạt động của các tài sản và nguồn lực sẵn có.
+ Xây dựng cơ bản và đầu tư Xây dựng cơ bản:
Xây dựng cơ bản và đầu tư Xây dựng cơ bản là những hoạt động với chức năng tạo ra tài sản cố định cho nền kinh tế thông qua các hình thức xây dựng mới , mở rộng, hiện đại hoá hoặc khôi phục các tài sản cố định.
Đầu tư Xây dựng cơ bản trong nền kinh tế quốc dân là một bộ phận của đầu tư phát triển . Đây chính là quá trình bỏ vốn để tiến hành các hoạt động xây dựng cơ bản nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng ra các tài sản cố định trong nền kinh tế. Do vậy đầu tư Xây dựng cơ bản là tiền đề quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nền kinh tế nói chung và của các cơ sở sản xuất kinh doanh nói riêng. Đầu tư Xây dựng cơ bản là hoạt động chủ yếu tạo ra tài sản cố định đưa vào hoạt động trong lĩnh vực kinh tế - xã hội , nhằm thu đựơc lợi ích với nhiều hình thức khác nhau. Đầu tư Xây dựng cơ bản trong nền kinh tế quốc dân được thông qua nhiều hình thức xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, hiện đại hoá hay khôi phục tài sản cố định cho nền kinh tế.
Xây dựng cơ bản là hoạt động cụ thể tạo ra các tài sản cố định ( khảo sát, thiết kế, xây dựng, lắp đặt máy móc thiết bị ) kết quả của các hoạt động Xây dựng cơ bản là các tài sản cố định, với năng lực sản xuất phục vụ nhất định.
2. Đặc điểm của đầu tư xây dựng cơ bản.
Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản là một bộ phận của đầu tư phát triển do vậy nó cũng mang những đặc điểm của đầu tư phát triển.
- Đòi hỏi vốn lớn, ứ đọng trong thời gian dài
Hoạt động đầu tư Xây dựng cơ bản đòi hỏi một số lượng vốn lao động, vật tư lớn . Nguồn vốn này nằm khê đọng trong suốt quá trình đầu tư . Vì vậy trong quá trình đầu tư chúng ta phải có kế hoạch huy động và sử dụng nguồn vốn một cách hợp lý đồng thời có kế hoạch phân bổ nguồn lao động , vật tư thiết bị phù hợp đảm bảo cho công trình hoàn thành trong thời gian ngắn chồng lãng phí nguồn lực.
- Thời gian dài với nhiều biến động.
Thời gian tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra.
- Có giá trị sử dụng lâu dài.
Các thành quả của thành quả đầu tư xây dựng cơ bản có giá trị sử dụng lâu dài, có khi hàng trăm , hàng nghìn năm , thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình nổi tiếng thế giới như vườn Babylon ở Iraq , tượng nữ thần tự do ở Mỹ , kim tụ tháp cổ Ai cập , nhà thờ La Mã ở Roma, vạn lý trường thành ở Trung Quốc, tháp Angcovat ở Campuchia, …
- Cố định.
Các thành quả của hoạt động đầu tư Xây dựng cơ bản là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó đựơc tạo dựng cho nên các điều kiện về địa lý, địa hình có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư , cũng như việc phát huy kết quả đầu tư . Vì vậy cần được bố trí hợp lý địa điểm xây dựng đảm bảo các yêu cầu về an ninh quốc phòng, phải phù hợp với kế hoạch, qui hoạch bố trí tại nơi có điều kiện thuận lợi, để khai thác lợi thế so sánh của vùng, quốc gia, đồng thời phải đảm bảo được sự phát triển cân đối của vùng lãnh thổ.
- Liên quan đến nhiều ngành.
Hoạt động đầu tư Xây dựng cơ bản rất phức tạp liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Diễn ra không những ở phạm vi một địa phương mà còn nhiều địa phương với nhau. Vì vậy khi tiến hanh hoạt động này, cần phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong quản lý quá trình đầu tư, bên cạnh đó phải qui định rõ phạm vi trách nhiệm của các chủ thể tham gia đầu tư, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo đựơc tính tập trung dân chủ trong quá trình thực hiện đầu tư.
3. Các nguồn vốn huy động vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
3.1. Vốn đầu tư cơ bản.
Vốn đẩu tư cơ bản (hay vẫn quen gọi là vốn đầu tư XDCB) là toàn bộ chi phí dành cho việc tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định cho nền kinh tế.
Nội dung của vốn đầu tư cơ bản gồm: các khoản chi phí cho khảo sát thiết kế và xây lắp nhà cửa và vật kiến trúc; mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc; chi phí trồng mới cây lâu năm; mua sắm súc vật đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định và một số chi phí khác phát sinh trong quá trình tái sản xuất tài sản cố định.
Vốn đầu tư cơ bản không bao gồm chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định của các cơ sở sản xuất; chi phí khảo sát thăm dò chung không liên quan trực tiếp đến việc xây dựng một công trình cụ thể.
Vốn đầu tư cơ bản gồm: vốn đầu tư xây lắp, vốn đầu tư mua sắm thiết bị và vốn đầu tư cơ bản khác.
· Vốn đầu tư xây lắp ( vốn xây lắp ) là phần vốn đầu tư cơ bản dành cho công tác xây dựng và lắp đặt thiết bị, máy móc gồm: vốn đầu tư dành cho xây dựng mới, mở rộng và xây dựng lại nhà cửa, vật kiến trúc; vốn đầu tư để lắp đặt thiết bị, máy móc.
· Vốn đầu tư mua sắm thiết bị ( vốn thiết bị ) là phần vốn đầu tư cơ bản dành cho việc mua sắm thiết bị, máy móc, công cụ, khí cụ, súc vật, cây con đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định bao gồm cả chi phí vận chuyển, bốc dỡ và chi phí kiểm tra, sửa chữa thiết bị máy móc trước khi lắp đặt. Đối với các trang thiết bị chưa đủ là tài sản cố định nhưng có trong dự toán của công trình hay hạng mục công trình để trang bị lần đầu của các công trình xây dựng thì giá trị mua sắm cũng được tính vào vốn đầu tư mua sắm thiết bị.
· Vốn đầu tư cơ bản khác là phần vốn đầu tư cơ bản dùng để giải phóng mặt bằng xây dựng, đền bù hoa màu và tài sản của nhân dân, chi phí cho bộ máy quản lý của ban kiến thiết, chi phí cho xây dựng công trình tạm loại lớn.
Về thực chất vốn đầu tư xây dựng cơ bản chỉ bao gồm những chi phí làm tăng thêm giá trị tài sản cố định. Như vậy, vốn đầu tư xây dựng cơ bản gồm 2 bộ phận hợp thành: Vốn đầu tư để mua sắm hoặc xây dựng mới TSCĐ mà ta quen gọi là vốn đầu tư xây dựng cơ bản và chi phí cho sửa chữa lớn TSCĐ.
3.2. Các nguồn vốn huy động.
Trên góc độ của nền kinh tế thì nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm vốn đầu tư trong nước trong nước và vốn đầu tư nước ngoài ( ODA và FDI )
3.2.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước:
+ Nguồn vốn của nhà nước.
Đây là nguồn vốn có vai trò quyết định tới sự phát triển kinh tế của đất nước , nguồn này chiếm tỷ trọng lớn, nó bao gồm từ các nguồn sau:
-Vốn ngân sách nhà nước: Gồm ngân sách TW và ngân sách địa phương , được hình thành từ sự tích luỹ của nền kinh tế , vốn khấu hao cơ bản và một số nguồn khác dành cho đầu tư Xây dựng cơ bản.
- Vốn tín dụng đầu tư ( do ngân hàng đầu tư phát triển và quĩ hỗ trợ phát triển quản lý ) gồm : Vốn của nhà nước chuyển sang, vốn huy động từ các đơn vị kinh tế và các tầng lớp dân cư, dưới các hình thức, vốn vay dài hạn của các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài.
+ Nguồn vốn của dân cư và tư nhân:
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo ước tính của bộ kế hoạch và đầu tư, tiết kiệm của dân cư và các doanh nghiệp dân doanh chiếm bình quân khoảng 15% GDP, trong đó phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư gián tiếp vào khoảng 3,7% GDP, chiếm khoảng 25% tổng tiết kiệm của dân cư. Trong giai đoạn 2001 – 2005, vốn đầu tư của dân cư và tư nhân chiếm khoảng 26% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
3.2.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài:
Nguồn này có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình đầu tư Xây dựng cơ bản và sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nguồn này bao gồm:
- Vốn viện trợ của các tổ chức quốc tế như WB , ADB, các tổ chức chính phủ như JBIC ( OECF) , các tổ chức phi chính phủ ( NGO) . Đây là nguồn (ODA )
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua hình thức 100 % vốn nước ngoài , liên doanh , hợp đồng hợp tác kinh doanh.
II. Sự cần thiết phải tăng cường đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt Nam.
1. Vai trò của đầu tư xây dựng cơ bản.
Nhìn một cách tổng quát: Đầu tư Xây dựng cơ bản trước hết là hoạt động đầu tư nên cũng có những vai trò chung của hoạt động đầu tư như: tác động đến tổng cung và tổng cầu, tác động đến sự ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế, tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước.
Ngoài ra với tính chất đặc thù của mình, đầu tư Xây dựng cơ bản là điều kiện trước tiên và cần thiết cho phát triển nền kinh tế, có những ảnh hưởng vai trò riêng đối với nền kinh tế và với từng cơ sở sản xuất. Đó là:
- Đầu tư Xây dựng cơ bản đảm bảo tính tương ứng giữa cơ sở vật chất kỹ thuật và phương thức sản xuất.
Mỗi phương thức sản xuất từ đặc điểm sản phẩm, yếu tố nhân lực, vốn và điều kiện về địa điểm,… lại có đòi hỏi khác biệt về máy móc thiết bị, nhà xưởng. Đầu tư Xây dựng cơ bản đã giải quyết vấn đề này.
- Đầu tư Xây dựng cơ bản là điều kiện phát triển các ngành kinh tế và thay đổi tỷ lệ cân đối giữa chúng.
Khi đầu tư Xây dựng cơ bản được tăng cường, cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngành tăng sẽ làm tăng sức sản xuất vật chất và dịch vụ của ngành. Phát triển và hình thành những ngành mới để phục vụ nền kinh tế quốc dân. Như vậy đầu tư Xây dựng cơ bản đã làm thay đổi cơ cấu và quy mô phát triển của ngành kinh tế, từ đó nâng cao năng lực sản xuất của toàn bộ nền kinh tế. Đây là điều kiện tăng nhanh giá trị sản xuất và tổng giá trị sản phẩm trong nước, tăng tích luỹ đồng thời nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân lao động, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cơ bản về chính trị, kinh tế - xã hội .
Như vậy đầu tư Xây dựng cơ bản là hoạt động rất quan trọng. Là một khâu trong quá trình thực hiện đầu tư phát triển, nó có quyết định trực tiếp đến sự hình thành chiến lược phát triển kinh tế từng thời kỳ, góp phần làm thay đổi cơ chế quản lý kinh tế, chính sách kinh tế của nhà nước.
Cụ thể như sau:
- Đầu tư Xây dựng cơ bản ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Đầu tư tác động đến sự mất cân đối của ngành, lãnh thổ, thành phần kinh tế . Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy, con đường tất yếu để phát triển nhanh tốc độ mong muốn từ 9% đến 10 % thì phải tăng cường đầu tư tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Đối với các ngành nông lâm ngư nghiệp do những hạn chề về đất đai và khả năng sinh học để đạt đựơc tốc độ tăng trưởng từ 5% đến 6 % là một điều khó khăn. Như vậy chính sách đầu tư ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Do vậy các ngành, các địa phương trong nền kinh tế cần phải lập kế hoạch đầu tư dài hạn để phát triển ngành, vùng đảm bảo sự phát triển cân đối tổng thể, đồng thời có kế hoạch ngắn và trung hạn nhằm phát triển từng bước và điều chỉnh sự phù hợp với mục tiêu đặt ra.
- Đầu tư Xây dựng cơ bản tác động đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy, muốn giữ phát triển kinh tế ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15 % đến 20 % so với GDP tuỳ thuộc vào hệ số ICOR của mỗi nước.
Nếu ICOR không đổi thì mức tăng GDP hoàn toàn phục thuộc vào vốn đầu tư. ICOR phản ánh hiệu quả đầu tư. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như cơ cầu kinh tế, các chính sách kinh tế - xã hội. Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn ( 5-7 ) do thừa vốn thiếu lao động, do sử dụng công nghệ có giá trị cao, còn ở các nước chậm phát triển, ICOR thấp ( 2-3) do thiếu vốn, thừa lao động, để thay thế cho vốn sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ .
- Đầu tư Xây dựng cơ bản tạo ra cơ sở vật chất nói chung và cho tỉnh nói riêng
Tác động trực tiếp này đã làm cho tổng tài sản của nền kinh tế quốc dân không ngừng được gia tăng trong nhiều lĩnh vực như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, thuỷ lợi, các công trình công cộng khác, nhờ vậy mà năng lực sản xuất của các đơn vị kinh tế không ngừng được nâng cao, sự tác động này có tính dây chuyền của những hoạt động kinh tế nhờ đầu tư Xây dựng cơ bản. Chẳng hạn như chúng ta đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng giao thông điện nước của một khu công nghiệp nào đó, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế, sẽ đầu tư mạnh hơn vì thế sẽ thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế nhanh hơn.
- Đầu tư Xây dựng cơ bản tác động đến sự phát triển khoa học công nghệ của đất nước.
Có hai con đường để phát triển khoa học công nghệ, đó là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ, hoặc bằng việc chuyển giao công nghệ, muốn làm được điều này, chúng ta phải có một khối lượng vốn đầu tư mới có thể phát triển khoa học công nghệ. Với xu hướng quốc tế hoá đời sống như hiện nay, chúng ta nên tranh thủ hợp tác phát triển khoa học công nghệ với nước ngoài để tăng tiềm lực khoa học công nghệ của đất nước thông qua nhiều hình thức như hợp tác nghiên cứu, khuyến khích đầu tư chuyển giao công nghệ. Đồng thời tăng cường khả năng sáng tạo trong việc cải thiện công nghệ hiện có phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
- Đầu tư Xây dựng cơ bản tác động đến sự ổn định kinh tế tạo công ăn việc làm cho người lao động
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư do ảnh hưởng của tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư dù là tăng hay giảm cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế, thí dụ như khi đầu tư tăng làm cho các yếu tố liên quan tăng, tăng sản xuất của các ngành sẽ thu hút thêm lao động nâng cao đời sống. Mặt khác, đầu tư tăng cầu của các yếu tố đầu vào tăng, khi tăng đến một chừng mực nhất định sẽ gây ra tình trạng lạm phát, nếu lạm phát mà lớn sẽ gây ra tình trạng sản xuất trì trệ , thu nhập của người lao động thấp đi, thâm hụt ngân sách tăng, kinh tế phát triển chậm lại. Do vậy khi điều hành nền kinh tế nhà nước phải đưa ra những chính sách để khắc phục những nhược điểm trên.
Đầu tư Xây dựng cơ bản có tác động rất lớn đến việc tạo công ăn việc làm, nâng cao trình độ đội ngũ lao động, như chúng ta đã biết trong khâu thực hiện đầu tư, thì số lao động phục vụ cần rất nhiều đối với những dự án sản xuất kinh doanh thì sau khi đầu tư dự án đưa vào vận hành phải cần không ít công nhân, cán bộ cho vận hành khi đó tay nghề của người lao động nâng cao, đồng thời những cán bộ học hỏi được những kinh nghiệm trong quản lý, đặc biệt khi có các dự án đầu tư nước ngoài.
2. Kinh nghiệm của các nước vể huy động vốn để đầu tư xây dựng cơ bản.
2.1. kinh nghiệm của singapore.
Chúng ta đã biết Singapore nổi lên là một trong 4 con rồng châu Á với nền kinh tế phát triển, GDP bình quân đầu người cao trên 24000 $ ,phát triển các ngành dịch vụ và tài chính.Có được thành công đó một phần không nhỏ là từ nguồn FDI.
- Chính phủ ít khống chế số lĩnh vực đầu tư đối với các dự án có vốn FDI trong đó các ngành thu hút mạnh là thăm dò, khai thác và chế biến dầu mỏ, chế tạo máy, sửa chữa đóng mới tàu biển, thông tin liên lạc, thương mại, du lịch, tài chính & buôn bán quốc tế.
- Chính phủ dự kiến trước và đưa ra bảng phân loại các xí nghiệp, các ngành sản xuất cần gọi vốn đầu tư và đi cùng với nó là các chế độ ưu đãi cụ thể về miễn thuế lợi nhận, thuế nhập khẩu, tự do chuyển lợi nhuận về nước,đào tạo lao động.
2.2. kinh nghiệm của trung quốc.
Kể từ khi bắt đầu thực hiện chính sách cải cách mở cửa năm 1978 đến nay, nền kinh tế Trung Quốc đã có sự biến đổi mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm, GDP tăng bình quân 9,5%. Trong các yếu tố tác động tạo ra mức tăng trưởng cao như vậy có sự đóng góp quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với 40-45 tỷ USD/năm những năm 1990-2000 và 53 tỷ USD năm 2005 (gần 60% lĩnh vực sản xuất và 24% là lĩnh vực bất động sản).
Có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm trong việc phát huy tác dụng tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của FDI đối với phát triển KT-XH ở Trung Quốc như sau:
- Sự thống nhất nhận thức về vai trò của FDI với phát triển kinh tế từ trung ương đến địa phương và là kết quả của những nỗ lực không ngừng đối với việc cải tiến hệ thống chính sách.
- Chiến lược mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế theo vùng lãnh thổ tuân thủ qui hoạch đã được xây dựng.
- Thực hiện đa dạng hóa các nguồn huy động vốn, kết hợp có hiệu quả việc sử dụng FDI với các nguồn vốn tín dụng huy động trong và ngoài nước. Tìm kiếm các nguồn tín dụng từ bên ngoài với các điều kiện vay có lợi nhất và sử dụng một phần đáng kể vốn từ nguồn vay này cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng.Đồng thời từng bước hạn chế dần việc vay nợ nước ngoài , cố gắng tăng nhanh huy động vốn từ các nguồn trong nước & FDI.
- Có chính sác thỏa đáng để mở rộng việc thu hút các nà đầu tư người Hoa ở nước ngoài chuyển vốn về đầu tư tại Trung quốc .Mở rộng địa bàn hoạt động, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, sử dụng các chính sách ưu đãi phù hợp với yêu cầu phát triển của từng thời kì ,đa dạng hóa các hình thức và chủ đầu tư.
3. Sự cần thiết phải tăng cường và nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt Nam.
3.1.Thực trạng đầu tư chung ở Việt Nam những năm gần đây.
Huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển trong những năm qua, ngày càng tăng.
Trong giai đoạn từ năm 2001-2005 Tổng chi Ngân sách Nhà nước bình quân bằng 28% GDP, trong đó chi cho đầu tư phát triển đạt bình quân 30,2% tổng chi ngân sách nhà nước. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có xu hướng cải thiện về mặt chất lượng và phương thức tài trợ nhưng tỉ trọng không có sự gia tăng đáng kể: Giai đoạn 1991-1995, nguồn vốn này chiếm 5,6% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội thì giai đoạn 2001-2005 đã chiếm 14% tổng số vốn toàn xã hội. Nguồn vốn dân cư và tư nhân tiếp tục gia tăng cả về quy mô và tỉ trọng chiếm khoảng 26% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.Nguồn vốn trong nước đã được khai thác khá hơn, chiếm trên 70% so với tổng vốn đầu tư, vượt dự kiến kế hoạch (60%), tạo điều kiện tốt hơn để tập trung đầu tư vào những mục tiêu phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học và công nghệ, đặc biệt là xây dựng kết cấu hạ tầng; đồng thời đã có nhiều hình thức huy động mới như công trái giáo dục, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị..., tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát triển.
Bên cạnh đó, chúng ta luôn coi trọng việc thu hút nguồn vốn từ bên ngoài, cả ODA và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư phát triển, coi đó là yếu tố quan trọng, góp phần tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát triển, tạo ra cơ cấu hợp lý để thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Từ năm 1993 đến hết năm 2006, Việt Nam đã tổ chức được 14 hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ với tổng mức vốn cam kết hơn 36 tỷ USD. Với quy mô tài trợ khác nhau, hiện nay Việt Nam có trên 45 đối tác phát triển song phương và hơn 350 tổ chức quốc tế và phi chính phủ dang hoạt động.
Đối với Việt Nam, sau 20 năm thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã từng bước góp phần bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Tính từ năm 1998 đến giữa năm 2007, trên phạm vi cả nước đã có hàng nghìn dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký là hơn 75 tỷ triệu USD. Trong giai đoạn 2001-2006, FDI chiếm trung bình khoảng 16,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Cho dến nay, Việt Nam đã thu hút được khoảng 70 quốc gia và vũng lãnh thổ đưa vốn vào đầu tư dưới các hình thức khác nhau.
3.2. Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực đầu tư:
Huy động các nguồn vốn đầu tư trong những năm qua tăng khá
Hàng năm vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng khoảng 18%, nhờ đó, tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP không ngừng tăng... Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước đã có tác động thu hút được các nguồn vốn khác. Trong điều kiện nguồn vốn ngân sách Nhà nước hạn hẹp, Chính phủ đã thực thi nhiều cơ chế để tăng cường thu hút đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân trong nước và nước ngoài, huy động nguồn vốn công trái giáo dục, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu công trình... góp phần tăng nhanh tổng nguồn vốn đấu tư, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Cơ cấu đầu tư đã có sự dịch chuyển, tập trung cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế- xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Do các nguồn lực được huy động tốt hơn và tập trung đầu tư vào một số công trình chủ yếu, quan trọng trong các ngành, lĩnh vực và địa phương, đầu tư chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả và phát huy được lợi thế từng vùng, từng ngành, từng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế; chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Có nhiều đổi mới trong cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng, trong chỉ đạo, điểu hành của Chính phủ
Trong hoạt động đầu tư, Nhà nước quản lý chặt chẽ đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước và tạo khung pháp lý cùng các hỗ trợ cần thiết cho nhà đầu tư mà không trực tiếp quyết định đầu tư. Đồng thời, Nhà nước thực hiện cơ chế giám sát, kiểm tra, đánh giá, để thực hiện hiệu quả dự án đầu tư, giảm bớt sai sót, vi phạm, thất thoát. Trong quản lý đầu tư, đã tăng cường được vai trò của Hội đồng Nhân dân, coi trọng sự tham gia giám sát cúa cộng đồng và các tổ chức xã hội.
3.3. Một số tồn tại trong đầu tư
Chưa huy động hết tiềm năng các nguồn vốn cho đầu tư của nền kinh tế
Nhiều bộ, ngành và địa phương chưa chú trọng huy động các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước mà chủ yếu vẫn trông chờ vào nguồn vốn ngân sách Nhà nước và nguồn vốn có nguồn gốc ngân sách cho, chưa đủ sức thu hút được nhiều các nguồn vốn khác tham gia đầu tư, đặc biệt là khu vực tư nhân nên đã hạn chế rất lớn về quy mô đầu tư, nhất là đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng có khả năng thu hồi vốn nhanh.
Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn những hạn chế, chưa phục hồi được tốc độ huy động cao như những năm trước đây.
Khối lượng giải ngân nguồn vốn ODA đạt thấp so với kế hoạch, hàng năm chỉ đạt khoảng 80 - 90% mức đề ra.
Cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý, sử dụng các nguồn vốn đầu tư chưa hiệu quả
Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
Chất lượng các dự án quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế, các dự án quy hoạch chưa có tầm nhìn dài hạn, chưa có đủ các căn cứ vững chắc, nhất là cấc thông tin về dự báo, nhất là dự báo tác động của các yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ khoa học công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia và doanh nghiệp...
Quản lý Nhà nước về quy hoạch còn nhiều yếu kém mà biểu hiện rõ nhất là phân công, phân cấp không rõ ràng, thiếu một khung pháp lý đầy đủ cho việc lập, phê duyệt, quản lý quy hoạch, thiếu sự chỉ đạo và hướng dẫn thống nhất về các vấn đề liện quan đến công tác quy hoạch, trách nhiệm đối với công tác quy hoạch chưa đủ tầm.Việc thẩm định, kiểm tra, giám sát quy hoạch còn yếu, có trường hợp quy hoạch có chất lượng thấp vẫn được thông qua.
Bố trí đầu tư còn dàn trải
Nhìn chung, bố trí đầu tư còn rất dàn trải, phân tán thể hiện ở tất cả các nguồn, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước. Những năm gần đây đã có tiến bộ bước đầu (tập trung hơn cho các dự án thuộc nhóm A); tuy nhiên nhiều Bộ, ngành và nhiều địa phương vẫn còn tình trạng bố trí vốn chưa tập trung, chủ yếu là đối với các công trình, dự án nhóm B và C.
Lãng phí, thất thoát trong đầu tư còn lớn
Lãng phí, thât thoát vốn đầu tư hàng năm của Việt Nam phải lên tới hàng tỉ đồng. Thực tế tình trạng này diễn ra phổ biến ở nhiều công trình, dự án, lĩnh vực. Tỉ lệ thất thoát, lãng phí của những công trình có mức lãng phí, thất thoát thấp cũng tới 10%, cao thì lên tới 30-40%, thậm chí có công trình lên đến 80%. Trên phạm vi cả nước, mỗi năm có không dưới 500 cuộc thanh tra, kiểm tra quy mô khác nhau và kết quả là không có cuộc thanh tra, kiểm tra nào là không tìm ra được những sai phạm.
Tình hình nợ đọng trong đầu tư còn là vấn đề bức xúc
Nợ đọng trong đầu tư, đặc biệt là trong đầu tư xây dựng cơ bản đang là vấn đề bức xúc hiện nay, vượt quá khả năng cân đối của ngân sách, chưa được xử lý dứt điểm. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, tình hình thực hiện vượt kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các Bộ, ngành và địa phương vẫn tiếp diễn và có xu hướng tăng (sau khi rà soát lại, số nợ vẫn còn trên 5 nghì n tỷ đồng, Trung ương khoảng 2 nghìn tỷ đồng, địa phương khoảng 3 nghìn tỷ đồng).
Các cơ chế chính sách trong lĩnh vực đầu tư còn chậm được sửa đổi, bổ sung và hoàn chỉnh, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế của công tác quản lý hiện nay.
Công tác quản lý đầu tư còn nhiều thiếu sót, buông lỏng: công tác giám sát đầu tư, giám sát thi công chưa chặt chẽ, thiếu chế tài cụ thể để quy rõ trách nhiệm cá nhân và tập thể.
Cơ chế tín dụng đầu tư ưu đãi còn nhiều bất cập: đối tượng cho vay dàn trải, mở rộng quá mức; lãi suất cho vay thấp, kéo dài thời gian trả nợ, khoanh nợ, dùng ngân sách để trả nợ vay. Hiện tồn tại nhiều mức lãi suất trong tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, gây phức tạp trong quản lý, đồng thời dễ phát sinh tiêu cực. Về hình thức tín dụng, chủ yếu vẫn là cho vay theo dự án, hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư mới được áp dụng.
Những tồn tại trong công tác đấu thầu
Việc nhận thức công tác Đấu thầu còn nhiều hạn chế cả về nội dung đấu thầu, quy trình, trình tự và các quy định khác. Một số cán bộ thuộc đơn vị Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án thiếu tính chuyên nghiệp, chưa được đào tạo đầy đủ, thiếu kinh nghiệm nên còn nhiều hạn chế trong triển khai công tác đấu thầu.
Nhiều trường hợp không thực hiện đúng Quy chế Đấu thầu như mở thầu chậm, chỉ định thầu vượt mức cho phép, tổ chức đấu thầu mang tình hình thức, đặc biệt là hình thức đấu thầu hạn chế...
Chất lượng các công tác phục vụ cho đấu thầu (trực tiếp hoặc gián tiếp) như chất lượng của báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán còn thấp.
Các quy định trong một số hộp đồng thầu quá đơn giản, chưa đủ chặt chẽ, chưa gắn trách nhiệm giữa Chủ đầu tư và nhà thầu, dồn sức ép vào một phía, thiếu các điều kiện chi tiết gây khó khăn cho thực hiện.
Tồn tại trong giám sát và đánh giá đầu tư
Công tác giám sát và đánh giá đầu tư chưa được tất cả các Bộ, ngành và địa phương quan tâm đúng mức và thực hiện nghiêm túc theo quy định; chỉ có khoảng 30% các chủ dự án sử dụng vốn ngân sách có báo cáo về giám sát và đánh giá đầu tư. Chất lượng các báo cáo về đánh giá đầu tư còn sơ sài, chưa đủ các thông tin cần thiết để tổng hợp báo cáo.
Công tác giám sát nói chung còn chưa thường xuyên, bị động và chủ yếu tổng hợp từ các báo theo quy định, chưa có tác dụng phát hiện kịp thời và xử lý các vi phạm. Công tác giám sát cộng đồng chưa được chú trọng.
Thanh, quyết toán công trình còn chậm do thủ tục phức tạp
Việc giải ngân, thanh toán khối lượng vốn đầu tư hoàn thành còn chậm, chủ yếu do các thủ tục thanh toán phức tạp, công tác nghiệm thu của các chủ đầu tư và các ban quản lý công trình còn chậm. Chất lượng công tác tư vấn thiết kế chưa đảm bảo yếu cầu, nên trong quá trình triển khai thi công đã phát sinh nhiều khối lượng không được chủ đầu tư bổ sung kịp thời, ảnh hưởng đến công tác thanh toán.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
I. Thực trạng đầu tư xây dựng cơ bản Việt Nam nhưng năm gần đây.
1. Tổng mức vốn đầu tư và tốc độ phát triển qua các năm.
Giai đoạn 2005 - 2007, tổng vốn đầu tư XDCB từ NSNN là 237.447 tỷ đồng, chiếm trên 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó NSNN do địa phương quản lý là 151.774 tỷ đồng và các Bộ, ngành T.Ư là 85.673 tỷ đồng.
Tổng số vốn trái phiếu Chính phủ đã được giải ngân ở các địa phương là 757,850 tỷ đồng. Tổng số vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đã được giải ngân là 4.876 triệu USD. Tính đến tháng 6/2008, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh là 5.820 triệu USD, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là 384 nghìn tỷ đồng.
Từ năm 2005 đến 2007, vốn đầu tư ngân sách Nhà nước giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (bao gồm cả Bộ Thủy sản cũ) là 6.587 tỷ đồng. Khối lượng thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn 2005-2007 đạt khoảng 8.000 tỷ đồng, bằng 121% kế hoạch vốn, do nguồn vốn ngoài nước đã giải ngân vượt kế hoạch được giao.
Số dự án đầu tư giai đoạn 2005-2007 là 307 dự án, hoàn thành khoảng 200 dự án, chiếm 65% dự án triển khai, trong đó: 95 dự án thủy lợi, 46 dự án nông nghiệp, chín dự án lâm nghiệp, 20 dự án thủy sản, 13 dự án khoa học và công nghệ thuộc lĩnh vực nông nghiệp.
Trong ba năm 2005-2007, vốn đầu tư ngân sách Nhà nước giao cho Bộ Giao thông vận tải khoảng 20 nghìn tỷ đồng (gồm cả vốn ODA) và vốn trái phiếu Chính phủ khoảng 33 nghìn tỷ đồng; đã triển khai thực hiện và hoàn thành nhiều công trình đưa vào khai thác sử dụng, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, vận tải hàng hóa, hành khách, cải thiện mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông. Ðã cơ bản hoàn thành đưa vào sử dụng Dự án đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1 từ Hòa Lạc (Hà Nội) đến Tân Cành (Kon Tum) dài 1.432 km đường, 53 cầu lớn và 261 cầu trung. Hoàn thành đưa vào sử dụng gần 100 công trình, dự án xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp, trong đó có: 56 công trình giao thông đường bộ, 42 cầu. Ðã triển kha._.i một số dự án quy mô lớn như nam sông Hậu, Quản Lộ-Phụng Hiệp, QL6 (giai đoạn 2), QL 279 (đoạn Tuần Giáo-Ðiện Biên).
Tốc độ tăng bình quân năm (%) qua các giai đoạn.
Giai đoạn
Nhà nước
Ngoài quốc doanh
Đầu tư nước ngoài
1991-1995
21,1
11,5
46,7
1996-2000
20,2
8,1
1
2001-2005
10,2
20,9
9,9
Ta có biểu đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng từng nguồn vốn như sau;
Nguồn vốn Nhà nước.
2. Cơ cấu vốn đầu tư thực hiện theo nguồn vốn đầu tư.
2.1. Nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
Từ năm 2000 trở đi tổng vốn đầu tư xã hội liên tục tăng. Năm 2001 là 170,496 tỉ đồng, năm 2002 là 199.104 tỉ đồng,năm 2003 là 231,616 tỉ đồng, năm 2004 là 275 tỉ đồng, năm 2005 là 335 tỉ đồng,…… trong đó:
Đầu tư xây dựng cơ bản là yếu tố cơ bản phát triển kinh tế xây dựng, đặc biệt là trong một nước đang phát triển có hệ thống cơ sở hạ tầng còn kém như chúng ta. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc vốn ngân sách Nhà nước năm 2005 ước thực hiện 62,93 nghìn tỷ đồng, bằng 121,2% kế hoạch cả năm, trong đó các đơn vị Trung ương 24,57 nghìn tỷ đồng bằng 123,5% kế hoạch năm; các đơn vị địa phương 38,36 nghìn tỷ đồng bằng 119,8%. Vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước năm 2006 ước tính thực hiện 64,1 nghìn tỷ đồng, bằng 114,1% kế hoạch cả năm, trong đó vốn đầu tư do trung ương quản lý xấp xỉ 18 nghìn tỷ đồng, bằng 103,3%; vốn do địa phương quản lý 46,1 nghìn tỷ đồng, bằng 119%. 540,15 tỉ đồng là số tiền huy động vốn đầu tư xây dựng cơ bản ngân sách nhà nước địa phương tháng 9.2008, tăng 9,56% so với tháng 8 và bằng 80,96% so với cùng kỳ năm 2007. Tính bình quân năm, vốn đầu tư xây dựng cơ bản (ĐTXDCB) của nước ta lên đến hơn 15000 tỷ đồng, chiếm khoảng 70% tổng đầu tư toàn xã hội, trong đó vốn đầu tư ngân sách chiếm hơn 50%. Kết cấu hạ tầng phát triển khá; hệ thống đường giao thông được cải thiện, bảo đảm giao thông thông suốt trong cả nước; hệ thống đường sắt được nâng cấp bảo đảm an toàn chạy tàu; một số cảng biển quan trong được mở rộng và hiện đại hoá; sân bay quốc tế và một số sân bay nội địa được mở rộng và nâng cấp đáp ứng nhu cầu vận tải hành khác quốc tế .
Hệ thống thuỷ lợi được nâng cấp và phát triển ở tất cả các vùng, đăc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, diện tích được tưới nước và tiêu úng tăng đáng kể, góp phần tăng diện tích canh tác và gieo trồng, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở cả thành phố, đô thị và nông thôn được nâng cấp: tất cả các huyện và 85% xã, phường có điện; cung cấp nước sạch cho nông thôn đạt 40%. Cơ sở vật chất của ngành giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ, y tế, văn hoá, xã hội, du lịch, thể dục thể thao được tăng cường. Tuy nhiên chất lượng ở một số công trình còn thấp, gây lãng phí và kém hiệu quả trong đầu tư. Theo kết quả kiểm tra năm 2002 của 995 dự án, với tổng số vốn đầu tư 20.736 tỷ đồng, đã phát hiện sai phạm về tài chính và sử dụng vốn đầu tư là 1.151 tỷ đồng, bằng khoảng 5,5% tổng vốn đầu tư các công trình được kiểm tra. Riêng 17 công trình do Thanh tra Nhà nước thực hiện kiểm tra, phát hiện sai phạm về tài chính chiếm khoảng 13%. Đó là chưa kể tới các lãng phí lớn do chậm triển khai công trình và nhất là do sai sót trong chủ trương đầu tư mà hiện chưa có cách đánh giá thống nhất.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước: Nếu như trước 1990, nguồn vốn này được xem là công cụ quản lí và điều tiết nền kinh tế thì trong giai đoạn 1991-2000, nguồn vốn này đã có mức tăng trưởng đáng kể và bắt đầu có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của nhà nước.Giai đoạn 1991-1995 nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước chiếm 5,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội thì giai đoạn 2001-2005 đã chiếm 14% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.Trong những năm tới ,xu hướng của nguồn vốn này là cải thiện về mặt chất lượng và phương thức tài trợ nhưng tỉ trọng không có sự gia tăng đáng kể.
Nguồn vốn tín dụng nhà nước, nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư thông qua việc huy động khấu hao tài sản cố định, đất đai, nhà xưởng chưa sử dụng, thì Nhà nước điều hành có mức độ; hai nguồn vốn này chiếm khoảng 17% thời kỳ 1991-1995 và 31,72% thời kỳ 1996-2000. Như vậy chung cho cả 3 nguồn vốn mà Nhà nước có thể điều hành với những mức độ khác nhau chiếm khoảng 49% so với tổng nguồn, còn tất cả các nguồn vốn khác điều hành gián tiếp thông qua cơ chế, chính sách.
Nguồn vốn đầu tư huy động để đưa vào cho vay các chương trình, dự án đầu tư trong năm 2005 là 30.000 tỷ đồng chiếm 10% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước 25.000 tỷ đồng (bao gồm 18.000 tỷ đồng nguồn vốn trong nước; 7.000 tỷ đồng vốn ODA cho vay lại) và Ngân hàng chính sách xã hội cho vay 5.000 tỷ đồng.
Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước: năm 2005 khoảng 59.000 tỷ đồng (chưa kể nguồn vốn vốn tín dụng nhà nước mà các DNNN vay từ Quỹ hỗ trợ phát triển), trong đó vốn của một số Tổng công ty lớn như sau: Tổng công ty Điện lực Việt Nam đạt 17.000 tỷ đồng, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đạt 25.000 tỷ đồng, Tổng công Thép Việt Nam là 2.200 tỷ đồng, Tổng công ty Than Việt Nam là 600 tỷ đồng, …
2.2. Nguồn vốn tư nhân.
Theo ước tính của Bộ kế hoạch và đầu tư, tiết kiệm trong dân cư và các doanh nghiệp dân doanh chiếm bình quân khỏng 15% GDP, trong đó phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư gián tiếp vào khoảng 3,7%GDP, chiếm khoảng 25% tổng tiết kiệm của dân cư, phần tiết kiệm của dân cư tham gia trực tiếp đầu tư khoảng 5% GDP và bằng 33% tổng tiết kiệm. Trong giai đoạn 2001-2005 nguồn vốn này chiếm khoảng 26% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 2005 đầu tư ngoài quốc doanh là khoảng 105 nghìn tỷ đồng, gần gấp đôi vốn đầu tư của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Có được thành tựu trên là nhờ 38 nghìn doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh với tổng số vốn đăng ký là 103,5 nghìn tỷ đồng cùng với sự ra đời của Luật doanh nghiệp và luật đầu tư khuyến khích đầu tư phát triển của Nhà nước.
2.3. Theo nguồn vốn nước ngoài.
Nguồn vốn ODA.
Kể từ khi nối lại viện trợ cho Việt Nam năm 1993 đến năm 2006, các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết dành cho Việt Nam trên 33,5 tỷ USD. nguồn vốn ODA cam kết giải ngân vào việt nam không ngừng tăng. Năm 2004, tổng ODA cam kết đạt trên 28,78 tỷ USD (trong đó có khoảng trên 15% là viện trợ không hoàn lại) và năm 2004 đạt mức kỉ lục 3,44 tỷ USD. Riêng năm 2007, mức cam kết đã lên tới gần 4,45 tỷ USD, tăng trên 700 triệu USD so với năm 2006 và là mức cao nhất trong các kỳ hội nghị CG.
- Huy động ODA vào cơ sở hạ tầng kinh tế.
Các dự án hạ tầng kinh tế được lập và kêu gọi vốn theo các dự án, các dự án hạ tầng kinh tế chú trọng theo thứ tự vào lãnh vực năng lượng (chủ yếu đập thủy điện và nhà máy nhiệt điện) giao thông (chủ yếu đường bộ và cầu), hải cảng, phi cảng, viễn thông, cấp thoát nước đô thị, thủy lợi... là những lãnh vực có truyền thống được ưu tiên vay vốn ODA.
Các dự án năng lượng điện: các dự án này có tính khẩn cấp, có vai trò rất lớn trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế. Chính phủ đã vận dụng rất nhiều hình thức nguồn vốn và hình thức đầu tư để xây dựng đường dây để tạo mạng lưới điện quốc gia thống nhất (500kv, 220kv, 66kv) và nhất là các nhà máy điện.
Tuy vốn đầu tư của các hình thức khác cũng rất quan trọng, nhưng vốn ODA vẫn chiếm tỉ lệ rất lớn với các công trình nhà máy điện như nhiệt điện Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2, thủy điện Yaly, Hàm Thuận - Đami (650 triệu USD, 85% vốn ODA Nhật Bản)...
Các dự án giao thông: trên 20 dự án xây dựng cơ sơ hạ tầng cho giao thông vận tải từ nguồn ODA đã triển khai có tổng giá trị trên 1 tỉ USD, và hơn 10 dự án khác cũng được cam kết tài trợ với ngân khoản trên 1 tỉ USD.
Một số công trình cơ sở hạ tầng về giao thông nông thôn và các công trình điện lực, thủy điện, điện khí hóa nông thôn, mơ rộng mạng điện thoại về nông thôn là những dự án phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế nhưng lại mang ý nghĩa phát triển xã hội một cách sâu sắc, không chỉ thuần túy có ý nghĩa về kinh tế mà còn có tác dụng rất lớn về xã hội, hạn chế bất bình đẳng trong phát triển kinh tế với tốc độ nhanh và không đồng đều...
Căn cứ chiến lược phát triển kinh tế theo định hướng XHCN nên các dự án của VN chú ý việc xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội, quan tâm thích đáng đến vấn đề mất quân bình và chênh lệch trình độ phát triển, chênh lệch thu nhập trong phát triển giữa các vùng, các ngành và các tầng lớp để bảo đảm ổn định xã hội và giử vững tiến trình phát triển.
Bộ kế hoạch và đầu tư đã xác định trong cơ sở hạ tầng thì các công trình giao thông vẫn là lĩnh vực ưu tiên hàng đầu vì các công trình giao thông có tác dụng rất lớn và trước tiên đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một vùng.
Ba nguồn tài trợ lớn nhất cho tới nay là Nhật Bản, WB và ADB, 3 nguồn tài trợ này chiếm đến 70% tổng vốn ODA đã được cam kết. Các dự án kinh tế có tỉ lệ phân bổ vốn ODA trong tổng nguồn vốn ODA như sau:
- Hạ tầng công nghiệp (chủ yếu năng lượng điện): 25%
- Hạ tầng giao thông (chủ yếu đường bộ): 15%
- Nông lâm thủy lợi: 12%
+ Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.
Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn FDI vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm 2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với năm trước;
Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8 tỷ USD vượt 73% so với kế hoạch, vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục tiêu. Nhìn chung trong 5 năm 2001-2005, vốn đầu tư nước ngoài cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn FDI vào nước ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch- dịch vụ cao cấp .v.v.). Điều này cho thấy dấu hiệu của “làn sóng ĐTNN” thứ hai vào Việt Nam. Năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi so với năm 1996. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới.
+ Nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng thương mại quốc tế.
Nguồn vốn này có đặc điểm là không có gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội, thủ tục cho vay thường tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cho vay cao. Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu trong ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này dùng để đầu tư phát triển.
3. Qúa trình sử dụng vốn trong các giai đoạn đầu tư.
Quá trình sử dụng vốn trong giai đoạn đầu tư vẫn còn nhiều yếu kém được thể hiện qua việc sử dụng các nguồn vốn không hiệu quả. Quá trình thất thoát và lãng phí liên tục diễn ra trong qúa trình thự hiện đầu tư, các dự án liên tục bi chậm tiến độ như:
Năm 2005 có 2.280 dự án chậm tiến độ, chiếm 9,2% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong năm. Năm 2006 có 3.595 dự án chậm tiến độ, chiếm 13,1%. Năm 2007 có 3.979 dự án chậm tiến độ, chiếm 13,9%. Nhà máy xử lý nước thải khu đô thị Bắc Thăng Long - Vân Trì hoàn thành bàn giao từ tháng 10-2005 với giá trị 65,55 tỷ đồng và 1.255 triệu yên nhưng không thể vận hành do chưa được cung cấp nguồn điện, nhà máy cấp nước giai đoạn 1 khu đô thị Bắc Thăng Long - Vân Trì thực tế công suất mới đạt 22,32% làm chậm phát huy hiệu quả và lãng phí vốn đầu tư... Dự án cầu Thanh Trì và tuyến phía Nam vành đai 3 Hà Nội với số vốn đầu tư 7.660 tỷ đồng chậm trễ nhiều tháng, tính toán sơ bộ mỗi ngày chậm phải trả 1,5 tỷ đồng tiền lãi vay...
3.1. Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư.
a. Trong khâu khảo sát thiết kế
Theo điều tra của bộ xây dựng, rất nhiều các công trình xây dựng xảy ra tình trạng thất thoát lãng phí và sử dụng vốn không hiệu quả. Trong 31 dự án đã được thanh tra, kiểm tra thì có tới 40% dự án sai sót ở khâu thiết kế, riêng tại Hòa Bình 100% dự án được thanh tra kiểm tra đều có biểu hiện sai phạm về thực tế, về thiết kế. Điển hình có thể kể đến dự án khôi phục và cải tạo quốc lộ 1 đoạn đường Hà Nội - Lạng Sơn do khâu khảo sát không kỹ dẫn đến tình trạng phải thay đổi thiết kế, dẫn đến thất thoát, lãng phí. Các dự án xây dựng cầu Non Nước (Ninh Bình), cầu Tân Đệ (Thái Bình) do tài liệu kỹ thuật về địa chất nền móng không đúng thực tế khiến cho các nhà thầu phải khoan thăm dò lại, lập lại bản vẽ thi công, thời gian thi công phần ngầm bị kéo dài gấp đôi thời gian đã xác định ban đầu.
Như vậy, việc sủ dụng vốn không hiệu quả trong khâu khảo sát chủ yếu là do chất lượng của công tác khảo sát, khảo sát sơ sài, khảo sát sai sót không đúng quy chuẩn tiêu chuẩn… dẫn đến thiết kế sai, chất lượng thiết kế không đảm bảo an toàn, phương án thiết kế không hợp lý, sử dụng tiêu chuẩn thiết kế không phù hợp làm cho chất lượng công trình không đảm bảo, phải khắc phục, sửa chữa, trong nhiều trường hợp phải thay đổi cả thiết kế làm phát sinh chi phí.
b. Trong khâu đền bù giải phóng mặt bằng và chậm tiến độ thi công
trong khâu này thường biểu hiện dưới dạng bớt xén tiền đền bù của dân, đền bù không thỏa đáng, khai khống số lượng hộ được đền bù, và chi phí đền bù để rút tiền của Nhà nước hoặc móc ngoặc với người được đền bù, nâng giá trị đền bù cho dân, khai khống diện tích, khối lượng cần được giải tỏa để ăn chia chênh lệch, điển hình như công trình dự án khôi phục và cải tạo quốc lộ 1 đoạn Hà Nội - Lạng Sơn: ban giải phóng mặt bằng tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh để xảy ra 3 vụ án tham nhũng với số tiền thất thoát (khoảng 0.09% tổng mức đầu tư). Trong khi đó, do tài sản đền bù trên mặt đất là cây cối, hoa màu, nhà của khi giải tỏa phải phá bỏ hoặc dỡ bỏ không còn cơ sở để kiểm tra nên giữa hai bên (bên đền bù và bên được đền bù) thường móc ngoặc khai khống, định giá đền bù khống để tham ô tiền của Nhà nước. Do đó, cần có biện pháp để ngăn chặn tình trạng trên, có như thế mới có thể sử dụng nguồn vốn có hiệu quả.
Hay như ở dự án ở Dung Quất, do thiếu một tầm nhìn mang tính chiến lược, lại không dứt khoát trong khâu đền bù nên mới có chuyện dân thì cù cưa, còn tỉnh thì lúng túng, trong khi các nhà đầu tư lại thúc bên lưng, phải giao mặt bằng để họ triển khai dự án. Việc thiếu dứt khoát trong công tác đền bù này đã dẫn đến một tiền lệ xấu mà tỉnh Quảng Ngãi đang "gánh". Dự án Nhà máy thép Tycoons (thuộc khu công nghiệp Dung Quất) chiếm trên 300ha, số vốn lên đến 3,3 tỉ USD, nhưng chỉ "đụng" có trên 70 hộ dân tại hai xã Bình Thuận và Bình Đông. Sau nhiều lần ra "trát" buộc tháo dỡ, đa số hộ dân thuộc hai xã nói trên cũng phải ra đi. Chỉ riêng 7 hộ dân ở thôn Tân Hy, xã Bình Đông thì vẫn cố thủ. Tỉnh Quảng Ngãi đành "nhún" một bước nữa là chi thêm tiền! 7 hộ này, do "cù cưa" nên được nhận thêm hàng chục triệu đồng. Thấy các hộ kia ở ráng thì được thêm tiền, 69 hộ đã di dời trước đó lục tục kéo về dựng lều ở tạm để đòi thêm đền bù!
Tại xã Bình Trị, nơi có dự án nhà máy polypropylen 200 triệu USD đang triển khai, việc "cù cưa" của dân ngày càng phức tạp hơn. Cứ tưởng "bài học Tycoons" nói trên sẽ giúp những nhà quản lý ở Quảng Ngãi "tỉnh ra", ai ngờ lại lặp y chang như ở Bình Đông. Giải phóng mặt bằng có 19ha, chuyển 69 hộ dân, nhưng ông Chủ tịch tỉnh đã hứa với Thủ tướng đến lần thứ 6 mà vẫn chưa "xeo" được 21 trường hợp còn lại tại đây!
Những ngày áp Tết, tỉnh lại "nhún" một nước: Ai dỡ dọn nhà, ngoài tiền đền bù theo quy định sẽ được hỗ trợ thêm (tránh dùng từ "thưởng") 6 triệu đồng. Một số hộ đã dỡ dọn để được 6 triệu đồng, dù Tết cận kề. Thấy "đi sau mà được thêm 6 triệu", hàng chục hộ dân đã đi trước bèn quay về và đòi thêm tiền!
Dự án nhà máy polypropylen đã có phương án cách nay đã 10 năm, địa điểm thì cũng đã chọn. Nếu lúc giải phóng mặt bằng cho nhà máy lọc dầu (NMLD) hiện nay mà làm luôn cho nhà máy polypropylen này thì dân hết khiếu kiện. Đằng này, đất mỗi ngày một giá, giá đất vọt lên thì tỉnh mới... triển khai đền bù! Nếu đền bù ngay thời điểm áp giá năm 2006 thì toàn bộ 19ha của nhà máy polypropylen này chỉ mất có 11 tỉ, năm 2007 đã lên 22 tỉ và tiền đền cho dân vẫn chưa xong. Giờ đất năm 2008 đã khác trước rồi mà đền theo giá 2007 là dân không chịu dỡ dọn!
Như vậy, bàn giao mặt băng xây dựng không đúng thời hạn quy định làm chậm tiến độ thi công của công trình gây lãng phí trong xây dựng.
Dự án đầu tư xây dựng số 5 sử dụng vốn JBIC của Nhật Bản do bàn giao mặt bằng chậm so với tiến độ của hợp đồng nên Nhà nước đã phải đền bù cho nhà thầu 570.595.797 yên Nhật. Tiến độ xây dựng chậm công trình diễn ra phổ biến ở rất nhiều dự án. Một nửa các dự án thanh tra bị chậm tiến độ, thậm chí có tỉnh 100% dự án được thanh tra đều bị chậm tiến độ xây dựng (tỉnh Vĩnh Long).
Các Bộ có nhiều công trình có thời gian thi công kéo dài là: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn có 60/135 dự án nhóm B kéo dài trên 4 năm, (chiếm 44.4), có 171/197 dự án nhóm C (chiếm 87.0%) kéo dài hơn 2 năm, trong đó có 86 dự án nhóm C kéo dài hơn 3 năm, một số công trình nhóm B kéo dài trên 6 năm, 10 năm…
c. Trong công tác quy hoạch
Quy hoạch là một trong những khâu quan trọng để đảm bảo đầu tư có hiệu quả và phát triển bền vững. Nó là căn cứ để định hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hằng năm, kế hoạch sử dụng đất đai trong cả nước, đồng thời là căn cứ kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và hỗ trợ phát triển ODA.
Tuy nhiên công tác quy hoạch còn nhiều bất cập, cần nhanh chóng khắc phục như quy hoạch đi trước một bước, tầm nhìn ngắn thiếu tính chiến lược, chưa phù hợp với cơ chế thị trường, chất lượng quy hoạch thấp thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ; ý thức chấp hành quy hoạch chưa nghiêm.
3.2. Trong giai đoạn thực hiện đầu tư
Giai đoạn thực hiện đầu tư gồm các khâu khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng và tiến hành đền bù, giải phóng mặt bằng, kí kết hợp đồng giữa các bên, thanh toán quyết toán công trình. Thì ở đây, thất thoát, lãng phí cũng xảy ra ở tất cẩ các khâu trên.
Trong việc bố trí và sử dụng vốn:
Bất cập trong việc bố trí kế hoạch vốn ở một số địa phương. Năm 2002, tỉnh Lào Cai phê duyệt kế hoạch đầu tư xây dựng trong khi không có kế hoạch vốn, phải nợ khối lượng xây dựng cơ bản 178 tỷ đồng. Trong khi nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước đã bố trí tương đối đầy đủ, nhưng việc bố trí vốn ở một số địa phương không phù hợp dẫn đến nhiều công trình khởi công không được bố trí vốn. Do đó, khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành không có nguồn vốn để thanh toán dứt điểm. Có một nghịch lý là trong khi Nhà nước đang thiếu vốn đầu tư thì có những dự án ở những địa phương, ngành, vốn đầu tư lại chờ khối lượng thanh toán, gây thất thoát. Việc năm sau cấp phát kế hoạch cho năm trước là khá phổ biến.
Việc triển khai kế hoạch giải ngân hàng năm thường bị chậm, đồng thời với việc chậm và thiếu vốn sẽ gây hiện tượng tiêu cực là đi chạy chỉ tiêu kế hoạch, chạy vốn. Đây là một trong những nguyên nhân gây thất thoát và lãng phí và làm cho đồng vốn sử dụng kém hiệu quả vì đã có tiêu cực trong việc phân cấp vốn, dẫn tới việc phân phối kém khách quan, không đúng quy định, không đúng nhu cầu, dẫn tới bố trí kế hoạch phân tán, dàn trải không theo tiến độ của dự án, kéo dài thời gian xây dựng, làm tăng chi phí không cần thiết, chậm đưa công trình vào sử dụng gây thất thoát, lãng phí.
Việc thực hiện quy chế đấu thầu
Thanh tra nhà nước trong 2 năm 2002 - 2003 đã tiến hành thanh tra kiểm tra 31 dự án thì có tới 40% dự án sai sót trong việc thực hiện quy chế đấu thầu. Điển hình như tỉnh Quảng Ninh 70% các dự án được thanh tra kiểm tra có vi phạm, những sai sót trong việc thực hiện quy chế đấu thầu là một trong nhưng nguyên nhân gây thất thoát và sai sót về kinh tế có liên quan đến việc thục hiện quy chế đấu thầu như thu phí của phụ thầu sai chế dộ, điểu chỉnh giá dự thâu sai quy định, hưởng lợi từ việc nhượng thầu sai phép... đã làm thất thoát tổng cộng 81,81 tỷ đồng năm 2003, chiếm gần 1% tổng mức đầu tư của dự án được thanh tra kiểm tra.
Khâu tuyển chọn nhà thầu và hợp đồng trong xây lắp còn những vấn đề như quy định giá gói thầu, giá bỏ thầu giá trúng thầu, thẩm dịnh kết quả đấu thầu, hợp đồng xây lắp có điều chỉnh giá, phương thức liên doanh nhà thầu… đang gặp khó khăn và là nguyên nhân dẫn đến thất thoát lãng phí.
3.3. Trong giai đoạn vận hành kết quả đầu tư
Sự lãng phí thể hiện rõ nhất khi hàng loạt công trình xây dựng xong đưa vào sử dụng không đạt hiệu quả kinh tế - xã hội do không khai thác hết công suất, thiếu nguyên liệu, nguyên nhân là do quy hoạch kém, không đồng bộ, không gắn kết với quy hoạch phát triển ngành, vùng. Sau khi đầu tư xong mới thấy chưa tính hết quy hoạch vùng nguyên liệu cung cấp. Yếu tố đầu vào, đầu ra của sản phẩm không có nên nhà máy không hoạt động được.
Theo kết quả kiểm tra của Bộ xây dựng, có tới 6 trong tổng số 43 công trình xây xong rồi đóng cửa. Trong đó có 2 dự án nằm trong số 4 công trình có mức đầu tư lớn nhất.
Công trình Nhà máy gạch Granit Thiên Thạch của Công ty Xây lắp I Nam Định xây dựng xong và đã sản xuất nhưng sản phẩm không tiêu thụ được do chất lượng kém và giá thành sản phẩm cao, thị trường không chấp nhận nên nhà máy phải ngừng hoạt động.
Tương tự như vậy, nhà máy chế biến cà chua 200 tấn/ngày của Tổng công ty Xuất nhập khẩu rau quả (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) đặt tại Công ty Xuất khẩu rau quả Hải Phòng hoàn thành từ năm 2001 nhưng mỗi năm chỉ hoạt động 5-6 ngày (đạt 4,5% công suất) do không có nguyên liệu.
Hậu quả là công ty không có khả năng trả nợ và cũng không có biện pháp giải quyết. Cũng tại Hải Phòng, công trình công viên nước Rồng Biển (thuộc cụm công trình khách sạn - du lịch và công viên của thành phố) do lựa chọn địa điểm không phù hợp với loại hình và quy mô đầu tư, lựa chọn thiết bị không phù hợp nên không thu hút được khách.
3.4. Trong khâu thanh quyết toán vốn đầu tư
Thực hiện giám sát thi công không đúng với thiết kế dẫn đên tính trạng lãng phí còn khá phổ biến. Theo kết quả thanh tra ở Hà Nội thì phần lớn các công trình xây dựng của Hà nội trong năm 2002 - 2003 đều có sai sót này. Về chi phí nhập vật tư tại các công trình cũng gây lãng phí, thất thoát trong quá trình thực hiện như nhập thừa vật liệu, thiết bị tại các công trình.
Khi nghiệm thu, thanh quyết toàn thì chưa đúng quy trình, chế độ bảo hành công trình không nghiêm. Thất thoát do lập quyết toán sai so với thực tế đã thi công nguyên nhân do tính toán nhầm lẫn, quên loại trừ những khối lượng phải trừ ram tính thừa thành phần công việc, tính sai chênh lệch giữa giá vật tư thực tế trên thị trường và giá vật tư trong quyết toán công trình. Thất thoát do quyết toán khống như không làm vẫn quyết toán, quyết toán sai chủng loại vật tư, áp dụng định mức sai, đơn giá, vi phạm chứng từ hóa đơn tài chính.
Ví dụ như Dự án tăng cường năng lực quản lý giao thông đô thị Tp.HCM. Dự án này được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 2- 1998 với tổng vốn đầu tư 20,7 triệu USD (vay Ngân hàng Thế giới 18,63 triệu và ngân sách thành phố cấp 2,07 triệu USD).
Trong quá trình thực hiện, UBND TP đã 6 lần ra quyết định điều chỉnh dự án và tổng mức đầu tư được điều chỉnh cuối cùng là 16,293 triệu USD, tương đương 248,459 tỉ đồng. Dự án có bốn mục tiêu chính: xây dựng hệ thống điều khiển giao thông và cải tạo đèn tín hiệu khu vực trung tâm TP; cải tạo bốn hành lang và 14 nút giao thông độc lập; nâng cao năng lực thi hành công cụ cho CSGT; tăng cường năng lực cho bộ phận quản lý giao thông của Sở Giao thông công chính.
Theo kết luận thanh tra, công tác quản lý và thực hiện dự án đã xảy ra nhiều sai phạm. Điển hình như công tác thiết kế và phê duyệt thiết kế kỹ thuật có nhiều bất cập; việc phải thay đổi, điều chỉnh thiết kế nhiều lần làm kéo dài thời gian, tăng chi phí dự án.
Cụ thể, gói thầu tư vấn thiết kế hành lang I đã áp dụng đơn giá lát gạch vỉa hè không đúng với bản vẽ thiết kế làm giá dự toán tăng trên 847 triệu đồng, gây thiệt hại cho ngân sách trên 815 triệu đồng. Ở hạng mục này, Công ty Xây dựng công trình giao thông Sài Gòn (XDCTGT SG) trúng thầu nhưng sau đó lại khoán gọn cho các đội xây dựng thuộc công ty, để các đội này lập hóa đơn thanh toán vượt quá định mức trên 484 triệu đồng.
Gói thầu cung cấp và lắp đặt hệ thống tín hiệu giao thông được điều chỉnh từ 124 nút đèn tín hiệu xuống còn 118 nút, làm dôi dư vật tư thiết bị, gây lãng phí chi phí lắp đặt 1.573 Euro và trên 34,7 triệu đồng; một số hạng mục xây dựng tiểu đảo, lắp con lươn giao thông xong phải phá bỏ, làm tăng chi phí trên 332,8 triệu đồng. Số lượng thiết bị vật tư dự phòng và vật tư dư dôi do thay đổi thiết kế tổng trị giá trên 120.569 Euro, không đưa vào công trình nhưng người ta lại dùng kinh phí của dự án để thanh toán cho nhà thầu theo hợp đồng.
Từ những sai phạm trên, Thanh tra Chính phủ đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo UBND TP tổ chức kiểm điểm, chấn chỉnh công tác quản lý Nhà nước trong việc phê duyệt dự toán chi phí sai quy định, vượt định mức trên 7,4 tỉ đồng, dẫn đến việc sử dụng kinh phí cho BQL dự án tăng, gây lãng phí ngân sách Nhà nước trên 5,9 tỉ đồng; điều chỉnh dự án nhiều lần dẫn đến lãng phí chi phí tư vấn.
II. Đánh giá chung về đầu tư xây dựng cơ bản
1. Những thành tựu đạt được
Về việc thực hiện pháp luật về quy hoạch, kế hoạch đầu tư XDCB sử dụng vốn Nhà nước: Trong 3 năm từ 2005 - 2007, việc thực hiện pháp luật về quy hoạch đã có chuyển biến. Chất lượng công tác quy hoạch được nâng lên so với trước, các bản quy hoạch dần hoàn chỉnh, có tính khoa học và thực tiễn cao hơn. Kế hoạch đầu tư XDCB nhìn chung đã bám sát quy hoạch, phân kỳ đầu tư phù hợp với quy hoạch chung. Đã hoàn thành việc rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH đến năm 2010 và đang triển khai xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH đến năm 2020 của 6 vùng kinh tế; lập quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của 58 tỉnh, thành phố đến năm 2020, xây dựng quy hoạch phát triển một số hành lang kinh tế, 102 quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực cũng được các bộ, ngành lập, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Việc huy động, phân bổ vốn đầu tư tại các bộ, ngành, địa phương về cơ bản đã tuân thủ các quy định pháp luật, thực hiện phân bổ vốn cho các D.A có đủ thủ tục đầu tư trong danh mục kế hoạch hàng năm. Việc bố trí vốn đầu tư tập trung hơn cho các công trình trọng điểm, ưu tiên cho công trình thiết yếu phục vụ dân sinh (giao thông, thuỷ lợi, bệnh viện, trường học,...). Nhiều D.A không có trong quy hoạch được duyệt đã bị đình hoãn khởi công; những D.A chưa thật sự cấp bách đã được ngừng triển khai để bố trí vốn giải quyết nợ đọng XDCB và điều chuyển vốn cho những D.A sắp hoàn thành, D.A cấp bách, có hiệu quả. Năm 2007, bình quân vốn cho 1 D.A nhóm A là 207 tỷ đồng, gấp 2,13 lần năm 2005, trong đó 79% D.A là chuyển tiếp, 21% là khởi công mới; bình quân vốn 1 D.A nhóm B là 11,9 tỷ đồng; 71,4% là chuyển tiếp, 28,6% là khởi công mới; bình quân vốn 1 D.A nhóm C là 3,65 tỷ đồng; 62,5% là chuyển tiếp, 37,5% là khởi công mới.
Việc bố trí vốn để trả nợ đọng đã có những chuyển biến. Năm 2004, số nợ đọng XDCB trên 11.000 tỷ đồng, hiện nay các Bộ, cơ quan trung ương về cơ bản không còn nợ đọng XDCB. Tính đến tháng 6/2008, số nợ đọng các công trình nguồn vốn NSNN đã hoàn thành do địa phương quản lý khoảng 3.800 tỷ đồng.
Chủ trương, quyết định đầu tư đã được cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng hơn, bám sát quy hoạch, kế hoạch được duyệt. Hầu hết các D.A bố trí trong kế hoạch đều có quyết định đầu tư theo pháp luật. Việc thông qua chủ trương và quyết định đầu tư đã dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, ở địa phương danh mục các D.A XDCB từ nguồn vốn Nhà nước đều được trình HĐND xem xét, thông qua.
Giám sát của Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội cũng cho thấy đã có những chuyển biến và tiến bộ rõ từ việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, lập quy hoạch, kế hoạch đến quản lý và tổ chức thực hiện... Vốn đầu tư XDCB từ NSNN đã được quan tâm bố trí và tăng đều qua các năm, bố trí tập trung hơn, hiệu quả kinh tế hơn, đã cơ bản giải quyết nợ đọng XDCB của các bộ, ngành. Công tác chỉ đạo, điều hành của các Bộ, ngành, địa phương đã tập trung, quyết liệt hơn. Công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát đã được quan tâm và tiến hành thường xuyên hơn, qua đó đã phát hiện những sai phạm trong đầu tư XDCB và kịp thời đưa ra các biện pháp xử lý. Tuy nhiên, nhìn chung ở mức độ khác nhau, một số hạn chế, yếu kém của công tác đầu tư XDCB sử dụng vốn Nhà nước đã được nêu trong Báo cáo kết quả giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội Khóa XI và trong Nghị quyết số 36/2004/QH11 của Quốc hội khóa XI chậm được khắc phục, tình trạng bố trí dàn trải các nguồn vốn vẫn còn, hiệu quả đầu tư thấp. Hệ thống văn bản pháp luật vẫn còn tình trạng mâu thuẫn, thiếu đồng bộ, còn nhiều thủ tục phức tạp trong công tác đầu tư XDCB...
2. Tồn tại và nguyên nhân
2.1. Tồn tại
Đầu tư còn dàn trải chậm chưa được khắc phục, lãng phí và thất thoát lớn. Nhiều công trình, dự án chất lượng không đảm bảo, vừa đưa vào khai thác đã tốn kém nhiều tỷ đồng để sửa chữa. Công tác quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn vay cho đầu tư, đặc biệt là vốn ODA còn bị buông lỏng, hiệu quả sử dụng chưa cao.
Tình trạng XDCB và sử dụng vốn Nhà nước vi phạm chậm tiến độ ngày càng gia tăng. năm 2005 có 1.882 dự án vi phạm, chiếm 14,5% dự án thực hiện đầu tư trong năm; năm 2006 có 3.173 dự án vi phạm, chiếm 18,19%; năm 2007 có 4.763 dự án, chiếm 16,6%.
Tiến độ thi công các dự án sử dụng vốn nhà nước rất chậm, thủ tục đầu tư xây dựng rườm rà, hiệu quả đầu tư của nhiều dự án thấp, còn thất thoát, lãng phí so với đầu tư bằng nguồn vồn khác, đầu tư thiếu đồng bộ. Tình trạng bố trí vốn dàn trải vẫn còn khá phổ biến”. N._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22450.doc