Thực trạng và các giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản của VN tại Mỹ

mục lục Lời mở đầu 1 Nội dung 3 I. Một số khái niệm về thị trường 3 2. Đặc điểm của thị trường thuỷ sản tại Mỹ 4 3. Sự cần thiết phải mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản tại Mỹ của Việt Nam 7 II. Khái quát thực trạng thị trường xuất khẩu thuỷ sản tại Mỹ của Việt Nam 8 1. Khái quát thị trường xuất khẩu thuỷ sản tại Mỹ của Việt Nam 8 2. Thực trạng thị trường xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản của Việt nam sang Mỹ 9 III. Các giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu sản p

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1277 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và các giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản của VN tại Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hẩm thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ 18 1. Các giải pháp chủ yếu 18 2. Một số suy nghĩ của bản thân 23 Kết luận 24 Tài liệu tham khảo 25 lời mở đầu Trong nền kinh tế của Việt Nam, thuỷ sản là thế mạnh và là ngành kinh tế mũi nhọn. Với lợi thế Việt Nam có hơn 3260 Km bờ biển, 112 cửa sông, lạch, hơn 2 triệu km2 thềm lục địa, hơn một triệu km2 mặt nước, sự phong phú về các loại thuỷ hải sản nên ngành thuỷ sản của nước ta có điều kiện rất thuận lợi để phát triển và thực tế nó đã trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Từ năm 1990 đến nay ngành ngư nghiệp đã phát triển mạnh. Hàng năm Việt nam đã đánh bắt từ 1,2 triệu đến 1,7 tấn hải sản. Trong những năm qua ngành thuỷ sản đã đạt được tốc độ phát triển cao, ổn định và mức tăng tổng bình quân hàng năm về tổng sản lượng thuỷ sản trên 4%/năm, giá trị kim ngạch xuất khẩu bình quân chiếm 10-15% trong ttổng kim ngạch xuẩt khẩu của Việt nam hàng năm, đứng thứ 29 trên thế giới về xuất khẩu với 1% giá trị xuất khẩu thuỷ sản của thế giới. So với các nước Đông Nam á thì Việt Nam đứng hàng thứ tư sau Thái Lan, Inđônêsia, Malaisia về đánh bắt và xuất khẩu thuỷ sản. Trong điều kiện hiện nay, đời sống nhân dân ta ngày càng được nâng cao, nhu cầu về thực phẩm cũng tăng lên nhanh chóng cả về mặt số lượng và chất lượng, đặc biệt là nhu cầu về các loại thuỷ hải sản. Sản phẩm thuỷ sản của nước ta hiện nay không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu một số lượng lớn những sản phẩm có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao ra nước ngoài( tôm , cua , cá, mực...). Theo báo của tổng cục hải quan năm 1998, mặt hàng thuỷ sản Việt Nam đã có mặt trên 34 nước trên thế giới với tổng kim ngạch 856,6 triệu USD và hiện nay đã có mặt trên 64 quốc gia. Thị trường nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam là các nước Châu Âu, 13 nước Châu á và Mỹ, trong đó Mỹ đang là thị trường mục tiêu mà chúng ta hướng vào. Với thực trạng Việt Nam đang trên đà phấn đấu để gia nhập WTO thì việc xúc tiến quan hệ thương mại với Mỹ là điều quan trọng, cùng với một số mặt hàng xuất khẩu khác, sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam cần phải khẳng định được vai trò và vị thế của mình trên đất Mỹ. Đó là mục tiêu quan trọng của ngành thuỷ sản nước ta và cũng là lý do để em chọn và nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và các giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tại Mỹ”. nội dung I_ Một số vấn đề lý luận chung. 1_Khái niệm về thị trường. a. Thị trường nói chung. Từ xưa đến nay đã có rất nhiều định nghĩa, quan niệm về thị trường khác nhau nhưng ta có thể hiểu một cách chung nhất về bản chất của thị trường như sau: Thị trường là lĩnh vực trao đổi mà thông qua đó người bán và người mua có thể trao đổi sản phẩm, dịch vụ cho nhau tuân theo các quy luật kinh tế hàng hóa. Như vậy, ta có thể hiểu thị trường được biểu hiện trên ba nét lớn sau: - Thị trường là lĩnh vực trao đổi được tổ chức theo quy luật kinh tế hàng hoá như: quy luật giá trị; quy luật cạnh tranh.... - Thị trường là sự trao đổi ngang giá và tự do đối với sản phẩm làm ra; gắn sản xuất với tiêu dùng, buộc sản xuất phải phục tùng nhu cầu tiêu dùng. - Một thị trường cân đối thì giá cả của nó phải phản ánh chí phí sản xuất xã hội trung bình, do đó buộc người sản xuất phải giảm chi phí, tiết kiệm nguồn lực, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. b. Thị trường xuất khẩu thuỷ sản Thị trường xuất khẩu thuỷ sản về cơ bản vẫn mang bản chất của thị trường nói chung nhưng nội dung của nó hẹp hơn. Ta có thể hiểu thị trường xuất khẩu thuỷ sản là một lĩnh vực trao đổi mà thông qua đó người cung cấp ở nước này và người có nhu cầu ở nước khác về sản phẩm và dịch vụ thuỷ sản có thể trao đổi, mua bán với nhau tuân theo các qui luật kinh tế hàng hoá. Thị trường trao đổi thuỷ sản thế giới rất rộng lớn bao gồm 195 nước xuất khẩu và 180 quốc gia nhập khẩu thuỷ sản trong đó nhiều quốc gia vừa xuất vừa nhập khẩu thuỷ sản như Mỹ, Pháp, Anh...Năm 1999, lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản thế giới đạt hơn 50 tỷ đô la, giảm 2,8% so với 51,4 tỷ năm 1997. Hiện nay, Thái Lan là nhà xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất với kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ đô la, tương đương 8% tổng kim ngạch thế giới. Sau đó là Mỹ, Nauy, Trung Quốc,Pêru, Đài Loan, Canađa, Chilê, Inđônêxia, Nga, Hàn Quốc... Quốc gia nhập khẩu lớn nhất là Nhật Bản, chiếm 30% tổng kim ngạch buôn bán quốc tế, vượt xa mức 14% thị phần của nước đứng thứ hai là Mỹ. Năm 1999, nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore...giảm sút nhưng đã được bù đắp phần nào bởi nhu cầu tăng mạnh ở thị trường Mỹ. Các nước nhập khẩu thuỷ sản lớn của thế giới đứng sau Nhật và Mỹ lần lượt là Pháp, Italia, Đức, Anh, Hồng Kông, Hà Lan... 2_Đặc điểm của thị trường thuỷ sản tại Mỹ. Thị trường Mỹ luôn là môt thị trường hấp dẫn không chỉ đối với các nước châu á ( trong đó có Việt Nam) mà còn là mục tiêu của nhiều nước trong các châu lục khác.Trong số các thị trường tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam thì Mỹ là thị trường khá rộng lớn và giàu tiềm năng, chỉ đứng sau Nhật Bản. Nước Mỹ với 280 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người vào loại cao nhất thế giới, đời sống vật chất của người dân Mỹ ở mức rất cao nên nhu cầu về các loại thực phẩm là rất lớn cả về số lượng và chất lượng, trong đó đặc biệt là nhu cầu về sản phẩm thuỷ sản. Sức mua của người dân Mỹ lớn, giá cả ổn định, mặt hàng chất lượng càng cao, càng đắt giá thì lại càng dễ tiêu thụ. Mỹ cũng có một ngành thuỷ sản khá phát triển, tuy nhiên nó vẫn không đủ để đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dân về chủng loại và chất lượng ở một số mặt hàng thuỷ sản. Chính vì thế Mỹ vẫn phải nhập khẩu từ các nước khác. Khi đời sống lên cao thì nhu cầu về các loại hải sản tăng lên mạnh mẽ. Các loại hải sản xuất hiện trên thị trường với nhiều chủng loại khác nhau tạo nên sự phong phú và đa dạng. Có rất nhiều loại sản phẩm trên thị trường được chế biến với công nghệ khác nhau mang những thương hiệu khác nhau của rất nhiều hãng trong và ngoài nước. Hơn nữa người dân Mỹ lại rất tự do trong việc lựa chọn các mặt hàng tiêu dùng cho mình, họ có thể lựa chọn một sản phẩm trong hoặc ngoài nước tuỳ ý miễn là đáp ứng được nhu cầu của họ. Do đó rất nhiều các tổ chức kinh doanh trong và ngoài nước Mỹ đổ xô vào thị trường tiêu thụ béo bở này tạo nên một môi trường cạnh tranh khá căng thẳng. Việt Nam với những lợi thế riêng về chất lượng sản phẩm tự nhiên, hàng năm nước ta vẫn xuất sang Mỹ một số lượng lớn sản phẩm thuỷ sản được chế biến dưới nhiều hình thức khác nhau. Chỉ tính riêng năm 1999 nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ lên tới con số kỷ lục 9,3 tỷ USD. Vào được thị trường Mỹ tức là hàng hóa uy tín chất lượng cao, bởi vì phải đảm bảo vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn HACCP. Nhìn một cách tổng quát, Mỹ là thị trường tiêu thụ rộng lớn và giàu tiềm năng của ngành xuất khẩu thuỷ sản nước ta. Bên cạnh đó, thị trường Mỹ cũng là một thị trường khá khắt khe. Thị trường Mỹ tuy rộng lớn nhưng nhu cầu của người tiêu dùng Mỹ lại rất cao. Một sản phẩm thuỷ sản phải đạt tiêu chuẩn về mẫu mã, chất lượng, độ an toàn thực phẩm và hàm lượng chất dinh dưỡng thì mới có đủ khả năng xuất hiện và cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Nếu không có đủ tất cả các yêu cầu trên thì sản phẩm đó sẽ bị các sản phẩm của các hãng khác cạnh tranh loại bỏ, hoặc bị chính người tiêu dùng Mỹ tẩy chay, khả năng tồn tại và phát triển của sản phẩm đó là rất khó khăn. Đó là về phía những người tiêu dùng còn về phía Chính phủ Mỹ cũng có rất nhiều những qui định đặt ra cho các sản phẩm thuỷ sản nhập khẩu. Khi đưa sản phẩm thuỷ sản vào thị trường Mỹ, chúng ta phải quan tâm và hiểu được hệ thống pháp luật của Mỹ. Hệ thống luật của Mỹ khá phức tạp, chặt chẽ và mới lạ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Vì vậy nếu không nghiên cứu tìm hiểu rõ thì các doanh nghiệp sẽ phải gánh chịu những thua thiệt nặng nề trong kinh doanh. Có thể đơn cử một số luật sau: _Luật chống độc quyền đưa ra các chế tài hình sự khá nặng đối với những hành vi độc quyền hoặc cạch tranh không lành mạnh trong kinh doanh, cụ thể là phạt tiền đến 1 triệu USD đối với các công ty,100.000 USD hoặc tù 3 năm đối với cá nhân. _Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm, theo đó người tiêu dùng bị thiệt hại có thể kiện nhà sản xuất về mức bồi thường thiệt hại quy định gấp nhiều lần thiệt hại thực tế. _Luật liên bang và các tiểu bang của Mỹ được áp dụng cùng một lúc trong lĩnh vực thuế kinh doanh đòi hỏi ngoài việc nắm vững luật của tiểu bang mà các doanh nghiệp có quan hệ kinh doanh còn phải nắm vững luật của Liên bang nữa. Vì vậy có thể nói chưa có sự phù hợp cao giữa việc xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam với yêu cầu nhập khẩu của thị trường Mỹ. Thị trường Mỹ là một thị trường “khó tính” của thế giới. Hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Mỹ phải qua sự kiểm tra chặt chẽ của cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa kỳ(FDA) theo các tiêu chuẩn HACCP. Vấn đề vệ sinh thực phẩm, ô nhiễm môi trường, bảo vệ sinh thái...là những lý do mà Mỹ thường đưa ra để hạn chế nhập khẩu. Bên cạnh đó, hàng hoá từ nước ngoài xuất khẩu vào Mỹ sẽ phải trải qua một số thủ tục hải quan khá chặt chẽ. Hệ thống thuế quan của Mỹ(gọi tắt là HTS ) hiện không chỉ được thi hành ở Mỹ, mà hầu hết các quốc gia thương mại lớn của thế giới đang áp dụng... .Nhiều loại thuế của Mỹ đánh theo tỷ lệ trên giá trị hàng hoá, tức là mức thuế được xác định dựa trên tỷ lệ phần trăm trên giá trị hàng nhập khẩu, mức thuế suất biến động từ 1-40%, trong đó mức thông thường từ 2-7% giá trị hàng nhập khẩu. Một số hàng hoá khác phải chịu thuế gộp- tức là loại thuế kết hợp cả mức thuế tỷ lệ trên giá trị và mức thuế theo số lượng. Có những hàng hoá phải chịu thuế định ngạch- đó là loại thuế suất cao hơn được áp dụng đối với hàng nhập khẩu sau khi một lượng hàng hoá cụ thể thuộc loại đó đã được nhập khẩu vào Mỹ trong cùng năm đó. Hầu hết các đối tác thương mại của Mỹ đều được hưởng quy chế đối xử thương mại bình thường(NTR). Hàng hoá của các nước thuộc diện NTR khi xuất khẩu vào Mỹ chỉ phải chịu mức thuế thấp hơn nhiều so với hàng hoá của các nước không có NTR của Mỹ. Khi có sự điều chỉnh giảm hay huỷ bỏ một loại thuế quan nào đó thì sự thay đổi đó sẽ được áp dụng bình đẳng đối với tất cả các nước được hưởng NTR của Mỹ. Hiện nay, các nước tham gia WTO đều được hưởng NTR của Mỹ. Các nước đang được hưởng NTR của Mỹ phải đáp ứng hai điều kiện cơ bản: đã ký hiệp định thương mại song phương với Mỹ và phải tuân thủ các điều kiện Jacson-Vanik trong luật thuơng mại năm 1974 của Mỹ. Hơn nữa, tính cạnh tranh trên thị trường Mỹ rất cao, nhiều nước trên thế giới có lợi thế tương tự như Việt Nam cũng đều coi thị trường Mỹ là thị trường chiến lược trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản cũng như những hàng hoá khác. Ta bước vào thị trường Mỹ chậm hơn so với các đối thủ, khi mà thị trường đã ổn định về: người mua, người bán, thói quen, sở thích, sản phẩm_đây cũng được coi là thách đố đối với hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung, hàng thuỷ sản nói riêng của Việt Nam trên thị trường Mỹ. 3_ Sự cần thiết phải mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản tại Mỹ của Việt Nam. Thực tế cho thấy sản lượng tiêu thụ thuỷ sản trên thị trường thế giới nói chung và thị trường Mỹ nói riêng ngày càng tăng, việc đó có nhiều nguyên nhân, nhưng có hai nguyên nhân chính đó là gia tăng dân số và thu nhập. Dự báo vào năm 2005 mức tiêu thụ thực phẩm trên trị trường thế giới là 100 triệu tấn/năm( chưa kể đến thức ăn cho chăn nuôi là 25-30 triệu tấn/năm) và tổng mức tiêu thụ thuỷ sản của thế giới là 125-135 triệu tấn/năm. Ngành ngư nghiệp của Việt Nam mới bắt đầu phát triển mạnh từ năm 1990 đến nay và xuất khẩu thuỷ sản cũng không ngừng tăng lên từ đó. Mặt hàng xuất khẩu về thuỷ sản của Việt Nam khá phong phú về chủng loại. Sản lượng tôm đông lạnh chiếm từ 80-90% khối lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu, về giá xuất khẩu thì tôm cũng là mặt hàng được giá nhất trong ba chủng loại chính xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam. Trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam thì thuỷ sản là ngành có vị trí rất quan trọng. Chúng ta có thể thấy rằng Mỹ là thị trường tiềm năng đối với Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam 2000 mới đạt khoảng 700 triệu USD nhưng khả năng nhập khẩu của thị trường này năm 2000 đã là 1300triệu USD (Việt Nam mới chỉ chiếm 0,06% thị phần nhập khẩu của Mỹ). Dự tính rằng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ ở cuối năm 2005 là 3 tỷ USD và năm 2010 là 6 tỷ USD- đây là dự báo mà một nhóm các nhà nghiên cứu đã đề xuất. Việc buôn bán thuỷ sản trên thế giới vẫn tiếp tục tăng như hiện nay. Các nước xuất khẩu mạnh và năng động vẫn là các nước đang phát triển - những nước đang cần ngoại tệ, còn những nước nhập khẩu là những nước phát triển. Trong xu thế đó, để tăng hơn nữa kim ngạch xuất khẩu ngành thuỷ sản nói riêng và phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung thì vấn đề mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản nước ngoài, đặc biệt đối với thị trường Mỹ là vô cùng cần thiết. II_ Khái quát thực trạng thị trường xuất khẩu thuỷ sản tại Mỹ của Việt Nam. 1_ Khái quát thị trường xuất khẩu thuỷ sản tại Mỹ của Việt Nam. Ngành thuỷ sản Việt Nam bắt đầu xuất khẩu sang Mỹ từ năm 1994 với giá trị ban đầu còn thấp, mới chỉ có 6 triệu USD. Từ đó giá trị thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng liên tục qua các năm. Năm 1998 lên tới 82 triệu USD và đưa Việt Nam lên vị trí thứ 19 trong các nước xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ. Năm 1999 Mỹ nhập khẩu từ Việt Nam 130 triệu USD thủy sản các loại, năm 2000 đạt 302,4 triệu USD và trong 6 tháng đầu năm 2001 xuất khẩu thuỷ Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng đạt 31 nghìn tấn về khối lượng, với giá trị 210,4 triệu USD. Hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chủ yếu là tôm đông lạnh. Mặt hàng xuất khẩu lớn thứ hai là cá ngừ tươi đạt 6,3 triệu USD trong 2 tháng đầu năm 2001 cũng tăng vượt bậc so với cùng kỳ năm 2000 (chỉ có 1,5 triệu USD), cá biển đông lạnh có giá trị xuất khẩu đứng thứ 3 với giá trị 2,5 triệu USD trong hai tháng đầu năm 2001, trong đó cá ba sa philê đông lạnh là mặt hàng Việt Nam vẫn chiếm lĩnh thị trường Mỹ với giá trị xuất khẩu 1,7 triệu USD. Mặt hàng cua biển cũng đạt mức tăng trưởng cao trong xuất khẩu sang Mỹ( bao gồm cua sống, cua đông lạnh, cua luộc, thịt cua đông) đạt giá trị xuất khẩu 1,8 triệu USD. Ngoài ra còn một số mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu khác cũng mang lại giá trị lớn cho ngành xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. 2_ Thực trạng thị trường xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ. a_ Những thuận lợi. Thực tế, việc xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam được diễn ra trên nền tảng của rất nhiều điều kiện thuận lợi. Thuận lợi đầu tiên phải kể đến đó là thuận lợi về điều kiện tự nhiên. Đặc điểm về mặt tự nhiên của nước ta như đã nói ở trên đảm bảo cho nguồn tài nguyên hải sản rất phong phú. Các vùng biển Việt Nam có năng lực tái sinh học cao của vùng sinh thái nhiệt đới và môi trường biển còn tương đối sạch, do đó hải sản được đánh giá là an toàn cho sức khoẻ_ một ưu điểm hàng đầu trên thị trường sản phẩm thuỷ sản thế giới hiện nay. Trong vùng biển đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1 triệu km2 tổng trữ lượng thuỷ sản biển được đánh giá khoảng 4 triệu tấn, trong đó trữ lượng thuỷ sản ở tầng nổi chiếm 62,7% và tầng đáy chiếm 37,3% đảm bảo cho khả năng khai thác 1,4 đến 1,6 triệu tấn thuỷ sản các loại hàng năm trong đó có nhiều loại hải sản quí có giá trị kinh tế cao như tôm hùm, cá ngừ, sò huyết...Với 1,4 triệu ha mặt nước nội địa, tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản rất dồi dào, khoảng 1,5 triệu tấn mỗi năm. Như vậy, Việt Nam có lợi thế rất lớn về sông, hồ, biển. Hệ thống sông ngòi được phân bố trên cả nước, bờ biển kéo dài từ Bắc vào Nam. Những tiềm năng lớn như thế này nếu được khai thác triệt để thì khả năng xuất khẩu thuỷ sang Mỹ sẽ được gia tăng một cách đáng kể. Bên cạnh đó chúng ta có thuận lợi rất lớn về nguồn nhân lực. Chúng ta có một đội ngũ công nhân dồi dào về số lượng với bản chất cần cù chịu khó không ngại gian khổ. Đội ngũ công nhân trong ngành thuỷ sản đã góp phần tạo nên thành công trong hoạt sản xuất-xuất khẩu. Đội ngũ nhân lực trong ngành không ngừng được nâng cao về trình độ kỹ thuật và chuyên môn. Tuy nhiên hiện tại, để đáp ứng việc khai thác chế biến thủy sản phục vụ cho xuất khẩu chúng ta còn thiếu một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao, đặc biệt trong hoạt động quản lý của các doanh nghiệp. Về vấn đề sản xuất để phục vụ cho xuất khẩu, từ năm 1986, Việt Nam đã có 41 nhà máy chế biến thuỷ sản với công suất 280 tấn/ngày. Nắm bắt được tính cách và tiềm năng của thị trường Mỹ, Việt Nam đã cử chuyên gia thuỷ sản đầu tiên tham gia lớp tập huấn quốc tế về HACCP( Hazard Analysis critical control Point) từ năm 1991. Năm 1996 số nhà máy chế biến đã tăng lên đến 196 chiếc với công suất chế biến khoảng 1841 tấn/ngày. Ngành thuỷ sản cũng đã thành lập cơ quan kiểm tra chất lượng hàng thuỷ sản, cho nên năm 1998 đã có 27 nhà máy đông lạnh chế biến thuỷ sản đạt tiêu chuẩn HACCP, năm 1999 lên đến 47 nhà máy, năm 2000 có 67 nhà máy đạt tiêu chuẩn HACCP. Nhờ nguồn đầu tư kịp thời về vốn đã đưa lại những kết quả rõ nét: số tàu thuỷ sản tăng thêm là hơn 1,2 triệu CV(163,36%), trong đó cơ cấu tàu có công suất lớn khai thác xa bờ đã tăng lên rõ rệt, xây dựng được 27 cảng cá trong đó có nhiều cảng đã hoàn thành và đưa lại hiệu quả cao. Về nuôi trồng thuỷ sản tính đến tháng 12/2000: diện tích nuôi trồng thuỷ đã tăng lên hàng chục nghìn ha, chuyển đổi cơ bản diện tích trồng lúa năng suất thấp và đất hoang hoá sang nuôi trồng thuỷ sản bước đầu có hiệu quả .Về chế biến thuỷ sản, trong 5 năm đã tăng thêm 80 nhà máy chế biến với công suất chế biến 300 tấn/ngày, đưa tổng số cơ sở chế biến lên 266 cơ sở, trong đó 220 nhà máy có trang bị nhà xưởng hiện đại, trang bị dây chuyền công nghệ cao, có 50 doanh nghiệp chế biến đủ tiêu chuẩn xuất khẩu thuỷ sản vào EU, 77 doanh nghiệp xuất khẩu vào Bắc Mỹ. Nhờ vậy, năm 2000, ngành thuỷ sản đã được những thành công lớn cả về sản lượng, diện tích nuôi trồng và đặc biệt là giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt mức kỷ lục 1,475 tỷ USD. Rõ ràng, đầu tư đã được chứng minh là có hiệu quả. Trong các nhân tố thuận lợi chúng ta phải kể đến nhân tố có tính chất quan trọng bậc nhất, ảnh hưởng trực tiếp nhất đến quá trình xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản, đó là nhân tố chủ trương và đường lối của Đảng, Nhà nước. Chính phủ Việt Nam đã ra rất nhiều những quyết định, chính sách nhằm thúc đẩy ngành xuất khẩu thuỷ hải sản. Có thể đơn cử một số quyết định như sau: _Nghị định số 13/CP ra ngày 2/3/1993 đã khơi dậy tiềm năng của cả nước về phát triển lĩnh vực thuỷ sản đặc biệt là hướng về xuất khẩu. _Quyết định số 400/TTg ra ngày 7/8/93 cho phép miễn thuế tài nguyên, thuế doanh thu và thuế lợi tức, hoàn thuế xuất khẩu trong 3 năm đối với hoạt động đánh bắt thuỷ hải sản xa bờ. _ Quyết định 428/TTg ra ngày 7/8/95 về đầu tư “ Khôi phục và hoàn thiện cơ sở hạ tầng nghề cá” bao gồm việc xây dựng các cảng cá, cho vay vốn dài hạn với lãi suất ưu đãi, thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển công nghệ chế biến sau thu hoạch... _ Quyết định số 251/1998/QĐ-TTg về các chính sách thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản. Ta thấy rằng đường lối đúng đắn của Đảng và Chính phủ đã tạo ra một cơ hội thuận lợi cho mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường thế giới đặc biệt là thị trường Mỹ mà đặc biệt là hàng thuỷ sản Việt Nam. Mặt khác ngành thuỷ được hỗ trợ bởi biện pháp chính sách của Nhà nước: hỗ trợ nghiên cứu và chuyển giao công nghệ hỗ trợ xây dựng quy hoạch, hỗ trợ đầu tư xúc tiến thương mại...Những hỗ trợ này tăng khả năng xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay Chính phủ đang thông qua cơ chế điều hành xuất - nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2005. Với cơ chế mới này mọi doanh nghiệp đều có thể tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, tiến tới xoá bỏ các rào cản pháp lý, thủ tục gây trở ngại cho hoạt động xuất nhập khẩu. Khả năng tiếp cận các thị trường quốc tế trong đó có Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ thuận lợi hơn. Môi trường đầu tư của Việt Nam: môi trường pháp lý, môi trường hành chính, môi trường tài chính ngân hàng, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực...ngày càng hoàn thiện, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong đó có các nhà đầu tư Mỹ vào Việt nam sản xuất hàng xuất khẩu thuỷ sản. Chính sách ưu đãi đầu tư đối với Việt kiều ngày càng thể hiện tính ưu việt: thu hút hàng ngàn kiều bào chuyển vốn về nước, tạo ra hàng trăm dự án sản xuất linh hoạt trong đó có nhiều dự án sản xuất hàng xuất khẩu thuỷ sản nhằm tiêu thụ tại thị trường Mỹ. Có khoảng 1,5 triệu người Việt kiều sống tại mỹ đa số họ đều có lòng yêu nước, hướng về cội nguồn, nếu có sự kết hợp tốt thì Việt kiều ở Mỹ sẽ là cầu nối cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trường Mỹ. Bản thân nội lực của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp thuộc ngành thuỷ sản nói riêng của Việt nam đã được nâng lên đáng kể sau 10 năm thực hiện chính sách mở cửa hội nhập: trình độ tay nghề công nhân, trang thiết bị, máy móc đã được nâng lên đáng kể, nhiều sản phẩm có chất lượng cao đã đáp ứng được yêu cầu thị trường trong đó có thị trường Mỹ. Sự tăng trưởng của xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ gắn liền với sự tiến bộ trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam –Hoa Kỳ, đặc biệt sau khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký vào ngày 13/7/2000. Sự kiện này mở ra những cơ hội kinh doanh mới, nhất là sau khi hiệp định được thông qua bởi hai nhà nước Việt Nam –Hoa Kỳ. Đối với Việt Nam và các nước xuất khẩu thuỷ sản khác, thì thị trường Mỹ là thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ hai trên thế giới và cũng là thi trường tiêu thụ đa dạng về mặt hàng, giá trị và chất lượng. Ngay sau khi hiệp định song phương có hiệu lực, quy chế tối huệ quốc( MFN ) trong thương mại hàng hoá đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng thuỷ sản Việt Nam vao thị trường đầy hấp dẫn này với sự ưu đãi về mức thuế nhập khẩu MFN, chẳng hạn đối với thịt cua thuế suất MFN là 7,5%,phi MFN là 15%; ốc: thuế suất tương ứng là 5% và 20%; cá philê tươi và đông: 0%và 0-5,5% cent/kg; cá khô 4-7% và25-30%... Hiệp định thương mại Việt –Mỹ khuyến khích việc tổ chức xúc tiến hoạt động thương mại giữa hai nước như: hội chợ, triển lãm, trao đổi thương mại tại lãnh thổ hai nước, cho phép các công dân, công ty hai nước quảng cáo sản phẩm, dịch vụ bằng cách thoả thuận trực tiếp với các tổ chức thông tin quản cáo bao gồm: truyền hình, phát thanh , đơn vị kinh doanh in ấn và bảng hiệu. Mỗi bên cũng cho liên hệ và cho bán trực tiếp hàng hoá dịch vụ giữa công dân, công ty của bên kia tới người sử dụng cuối cùng. Đây là cơ hội cho cả doanh nghiệp Việt Nam và Mỹ có diều kiện tìm hiểu sâu về thị trường của nhau để mở rộng buôn bán giữa hai nước. Hiệp định thương mại Việt –Mỹ khẳng định cơ chế chính sách mới của Việt Nam, đánh dấu bước ngoặc trong quan hệ Việt Nam –Hoa Kỳ. Việc chúng ta thực hiện các điều khoản của hiệp định là điều kiện ban đầu cho việc gia nhập WTO sau này. Kể từ khi ký kết đến khi có hiệu lực hiệp định phải trải một thời gian thử thách hơn một năm. Nó được quốc hội hai nươc phê chuẩn rất kỹ trước khi thông qua, có thể nói đó là nỗ lực rất lớn của Đảng và chính phủ ta, cũng như thượng hạ viện Hoa Kỳ. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ được thực thi, cánh cửa đi vào thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam được mở rộng hơn. Thuế nhập khẩu sẽ giảm đi 30-40% khi Việt Nam đưa hàng hoá vào thị trường Mỹ. Theo phòng thương mại Mỹ tại TP Hồ chí Minh sau khi hiệp thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực thì năm nhóm ngành trong đó có ngành thuỷ sản được hưởng lợi nhiều nhất vì thuế nhập khẩu vào thị trường Mỹ sẽ giảm mạnh. Môi trường kinh doanh và đầu tư được cải thiện tăng khả năng thu hút vốn đầu tư chẳng những đối với những doanh nghiệp Mỹ mà còn thu hút vốn đầu tư từ các quốc gia khác. Vì trước khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực thì hàng hoá Việt Nam đưa vào thị trường Mỹ không được hưởng quy chế MFN. Cho nên nhiều nhà đầu tư nước muốn sản xuất hàng hoá sang Mỹ không muốn đầu tư vào Việt Nam. Hiệp định thương mại được thông qua thì hàng xuất khẩu từ Việt Nam sang Mỹ được hưởng quy chế MFN, vấn đề còn lại là ta tiếp tục hoàn chỉnh môi trường đầu tư mà ta đã cam kết theo tinh thần của hiệp định: tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng để luồng vốn đầu tư của các thành phần kinh tế có điều kiện phát triển như nhau. Đơn giản hoá thủ tục và theo lộ trình thì bỏ giấy phép đầu tư, các doanh nghiệp kể cả các doanh nghiệp FDI chỉ đăng ký kinh doanh đầu tư. Sau khi hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực chắc chắn rằng ngày càng có nhiều doanh nghiệp đầu tư vào thị trường Mỹ. Bởi vì, trước hết các thông tin về thị trường, khách hàng, đối tác sẽ được cập nhật hơn. Sự am hiểu thi trường Mỹ sẽ tăng lên đối vơi các doanh nghiệp Việt Nam hiệp định thương mại như nhịp cầu nối giữa các doanh nghiệp hai nước tạo điều kiện cho sự hợp tác kinh doanh xuẩt khẩu phát triển hơn. Đó là những điều kiện rất thuận lợi mà hiệp định thương mại Việt – Mỹ mang lại cho chúng ta. Những điều kiện thuận lợi như đã phân tích ở trên, ngành xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản đã đạt được những thành tựu to lớn. Từ năm 1996 đến năm 2000 ngành luôn hoàn thành kế hoạch nhà nước giao, năm sau cao hơn năm trước và đạt được mức tăng trưởng cao (bình quân 9,17%/năm), giá trị kim ngạch xuất khẩu bình quân tăng 21,85%/năm. Xuất khẩu thuỷ sản năm 2000 đạt 1,475 tỷ USD, bằng 1/10 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và vươn lên đứng hàng thứ 3 trong các ngành xuất khẩu của Việt nam. Sau năm năm 1996-2000 tổng mức đầu tư của ngành thuỷ sản là 9.185.640 triệu đồng trong đố đầu tư nước ngoài là 545 tỷ đồng( chiếm5,93%). Trong hơn 9 nghìn tỷ đồng được huy động để đầu tư phát triển, ngành chủ yếu vận dụng nội lực là chủ yếu, vốn đầu tư trong nước là hơn 8600 triệu đồng chiếm tới 90,07% tổng mức đầu tư. Để có được nguồn vốn ngân sách thì ngành đã có biện pháp huy động nguồn vồn trong dân đạt 1700 tỷ đồng ( chiếm tỷ trọng 18,62%). Trong giai đoạn 1999-2000, ngành thuỷ sản của nước ta sẽ phấn đấu đưa tỷ trọng của ngành trong GDP lên 2,5-3% và đảm bảo tốc độ tăng tổng sản lượng bình quân của ngành lên 4,5-5,1%/năm, trong đó khai thác hải sản tăng 1,7%/năm và nuôi trồng thuỷ sản tăng 8,5%/năm. Đến năm 2010 tỷ trọng nuôi trồng thuỷ sản trong tổng sản lượng của ngành cần đạt 50%. Đồng thời phấn đấu đưa tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản lên tốc độ trung bình là 15-20%/năm, tốc độ tăng việc làm trong nghề cá lên trung bình là 2,65%/năm trong cả thời kỳ 1999-2010 . Mục tiêu lớn nhất đưa tổng sản lượng thuỷ sản đạt từ 1,8-1,9 triệu tấn vào năm 2005. Đạt được những thành tựu đó nhờ có sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước, sự phối hợp giúp đỡ của các bộ ban ngành ở trung ương, các cấp chính quyền ở địa phương, có sự nỗ lực chung của các cán bộ công nhân viên ngành và hàng triệu lao động trong cả nước. Hy vọng trong thời gian tới ngành thuỷ sản sẽ đáp ứng yêu cầu đặt ra, với những tiềm năng sẵn có của mình Việt Nam có thể cải thiện được vị trí của mình trên thị trường Mỹ. b_ Những khó khăn. Bên cạnh những điều kiện hết sức thuận lợi mà những yếu tố chủ quan cũng như khách quan đã mang lại thì ngành xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản nước ta còn gặp một số những vấn đề khó khăn làm cản trở quá trĩnh xúc tiến đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường thế giới, đặc biệt là thị trường Mỹ. Xuất phát từ đặc điểm về điều kiện tự nhiên, một vấn đề đặt ra là sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ đa số các là các sản phẩm khai thác từ thiên nhiên, đất đai, tài nguyên biển. Sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu chủ yếu được chế biến dưới dạng mới qua sơ chế nên hiệu quả thấp, giá cả còn bấp bênh, giá xuất khẩu không ổn định. Tính cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam còn thấp trên cả hai khía cạch giá cả và chất lượng so với sản phẩm cùng loại có xuất xứ từ các quốc gia khác . Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường hơn 10 năm qua. Hoạt động xuất nhập khẩu theo đó cũng mới phát triển. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ bắt đầu từ năm 1994. Bởi vậy chúng còn gặp rất nhiều khó khăn, sức ép từ thị trường, đối thủ cạnh tranh. Phải nói rằng chúng ta chưa có kinh nghiệm trên thị trường quốc tế , đặc biệt thị trường Hoa Kỳ. Khi xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ, mà ở đây là thuỷ sản vấn đề thị trường có tác động mạnh nhất đến sự tồn tại của hàng Việt Nam trên đất Mỹ. Trở ngại lớn nhất là chúng ta đang phải đối chọi với những đối thủ cạnh tranh mạnh hơn chúng ta rất nhiều. Sức mạnh của đối thủ cạnh tranh thể hiện ở thâm niên chất lượng sản phẩm và các yếu tố khách quan khác. Việt Nam không phải là đối tác duy nhất của Mỹ, xuất khẩu thuỷ sang Mỹ có nhiều đối thủ rất mạnh so với chúng ta như Canađa, Trung Quốc...Thị phần thuỷ sản của Việt Nam trên thị trường Mỹ còn rất khiêm tốn. Đó là một đòi hỏi, thách thức rất lớn đối với nhà hoạch định chiến lược của Việt Nam. Thị trường Mỹ tuy rộng lớn nhưng chúng ta chưa mở rộng được quy mô, nguyên nhân ở đây có thể là chúng ta yếu kém về khâu tổ chức bán hàng, marketing sản phẩm, do chất lượng hàng hoá chưa bằng một số đối thủ cạch tranh ở một khía cạnh nào đó, cũng có thể do nguyên nhân khách quan xuất phát từ thị trường Mỹ. Một khó khăn mà chúng ta còn gặp phải đó là vấn đề về chất lượng và độ an toàn, vệ sinh thực phẩm. Mặc dù cơ quan FDA của Mỹ đã công nhận hệ thống HACCP của VIệt Nam, nhưng chất lượng sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam còn hạn chế do trình độ công nghệ chế biến và bảo quản còn thấp, chủ yếu là công nghệ đông lạnh. Bên cạnh đó trong lĩnh vực tiếp thị, mặc dù đã có trên 50 doanh nghiệp Việt Nam đang xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ nhưng hầu như chưa có doanh nghiệp nào mở được văn phòng dại diện tại nước Mỹ. Do vậy các doanh nghiệp Việt Nam ít có cơ hội giao thương với những nhà phân phối Mỹ, nhất là tìm hiểu các luật chơi của thị trường này.Đó là một thiệt thòi mà chúng ta cần phải cố gắng khắc phục. Trong khâu chế biến, công nghệ chế biến thuỷ sản nhập từ nước ngoài vừa cũ vừa lạc hậu, do đó không đảm bảo được chất lượng sản phẩm phục vụ cho việc xuất khẩu. Việt Nam được ví như bãi thải công nghiệp, nên ngành thuỷ sản cũng không tránh khỏi sự lạc hậu, sự cũ kỹ về công nghệ. Như vậy muốn có sản phẩm chế b._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24262.doc
Tài liệu liên quan