Thực trạng và các giải pháp đẩy mạnh đầu tư phát triển nông nghiệp ở Hải Dương hiện nay

lời mở đầu Hải Dương là một tỉnh thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng, trong tam giác kinh tế của miền Bắc là Hà Nội -Hải Phòng -Quảng Ninh. Địa bàn tỉnh có nhiều tuyến giao thông thuỷ bộ quan trọng đi qua, Hải Dương nằm dọc theo quốc lộ 5, cách Hà Nội 56 km về phía tây và Hải Phòng 45 km về phía Đông, phía Bắc của tỉnh có quốc lộ 18 chạy qua nối sân bay Nội Bài và cảng Cái Lân (Quảng Ninh). Mặt khác, tỉnh có một mạng lưới sông ngòi dày đặc với nguồn nước phong phú cùng với đất đai khá màu mỡ và

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và các giải pháp đẩy mạnh đầu tư phát triển nông nghiệp ở Hải Dương hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mang đặc trưng khí hậu của vùng đồng bằng sông Hồng là điều kiện để Hải Dương phát triển một nền nông nghiệp toàn diện. Nguồn tài nguyên khoáng sản tuy không nhiều song có trữ lượng lớn và dễ khai thác rất thuận lợi cho phát triển công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng. Như vậy có thể thấy, Hải Dương là một tỉnh có nhiều tiềm năng và điều kiện để phát triển kinh tế. Tuy nhiên hiện nay, Hải Dương về cơ bản vẫn là một tỉnh sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, vì vậy sự phát triển của ngành nông nghiệp có vai trò cực kỳ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh, nhất là giai đoạn từ nay đến năm 2010. Trong cơ cấu kinh tế tỉnh Hải Dương, hiện nay ngành nông nghiệp tạo ra hơn 32% GDP toàn tỉnh (2002), dân số hoạt động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn chiếm gần 80% dân số. Sản xuất nông nghiệp trong những năm qua có những tiến bộ đáng kể, sản lượng lương thực không ngừng được tăng lên, từ 726.412 tấn năm 1995 lên 842.826 tấn năm 2000, tốc độ tăng bình quân là 3,5%/năm. Ngành nông nghiệp tỉnh không những cung cấp đủ lương thực, thực phẩm cho người dân mà còn có dự trữ và một phần cung cấp cho thị trường. Nhờ giải quyết cơ bản vấn đề lương thực, cơ cấu kinh tế bước đầu đã được chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá. Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp nông thôn từng bước được tăng cường đầu tư. Các chương trình mục tiêu cho phát triển nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là chương trình xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm đã tích cực triển khai và đạt kết quả khá. Tuy nhiên nông nghiệp nông thôn hiện nay của tỉnh vẫn còn tồn tại, nảy sinh một số vấn đề bức xúc. Cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng tuy được đầu tư song phân bố không đều, manh mún hoặc xuống cấp, trang thiết bị cơ khí, công cụ, áp dụng chuyển giao công nghệ, đổi mới giống cây, con vật nuôi và đặc biệt là bảo quản chế biến hàng hoá nông sản thực phẩm v. v…còn nhiều tồn tại. Vì vậy, trong nông nghiệp nông thôn hiện nay, sản xuất nhỏ và lao động thủ công vẫn là phổ biến dẫn đến năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất thấp đã làm chậm quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Khắc phục những khó khăn tồn tại trên để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn toàn diện và vững chắc theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong giai đoạn tới, một trong những giải pháp quan trọng là cần tăng cường đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn phục vụ cho nhu cầu phát triển nông nghiệp, tạo ra động lực mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển của khu vực này lên một bình diện mới. Đây cũng là lý do tôi xây dựng và hoàn thành chuyên đề thực tập của mình là đề tài: "Thực trạng và các giải pháp đẩy mạnh đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương hiện nay". Mục đích nghiên cứu đề tài: 1- Nhằm góp phần nhận thức được vai trò của đầu tư và đầu tư phát triển với phát triển nông nghiệp. 2- Phân tích thực trạng đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp của tỉnh Hải Dương trong giai đoạn 1996 -2002, từ đó rút ra những kết quả đạt được, hạn chế tồn tại và đưa ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh đầu tư cho phát triển sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn từ nay đến 2010 của tỉnh Hải Dương. Nội dung nghiên cứu của đề tài: Về nội dung đầu tư phát triển nông nghiệp rất rộng và phong phú, chuyên đề chỉ tập trung nghiên cứu về đầu tư vào các lĩnh vực có tác động trực tiếp tới phát triển nông nghiệp: 1- Lý luận chung về đầu tư và đầu tư phát triển nông ngiệp . 2- Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp của tỉnh Hải Dương từ năm 1996 đến năm 2002; Tập trung vào phân tích cơ cấu vốn đầu tư; thực trạng đầu tư theo các ngành, lĩnh vực và vốn đầu tư theo vùng kinh tế. 3- Các giải pháp đẩy mạnh đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp: Quy hoạch, lập và quản lý dự án đầu tư, cơ cấu lại vốn đầu tư và lĩnh vực đầu tư, huy động vốn, hoàn thiện hệ thống chính sách trong nông nghiệp. Kết cấu đề tài: Ngoài các phần mở đầu, kiến nghị và kết luận, đề tài gồm các phần chính sau: Chương I: Lý luận chung về đầu tư và đầu tư phát triển nông nghiệp. Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn 1996-2002. Chương III: Phương hướng và các giải pháp đẩy mạnh đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp đến 2010. Phương pháp nghiên cứu: Để hoàn thành đề tài này, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Hoàng Văn Định và chú Nguyễn Đình Kiêm, Trưởng phòng NN & PTNT, Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Hải Dương đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Do hạn chế về mặt thời gian và trình độ nhận thức có hạn nên trong quá trình thực hiện đề tài sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, các cô và bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Hải Dương, tháng 06 năm 2003. Sinh viên: Vũ Đức Quý Chương I Lý luận chung về đầu tư và đầu tư phát triển nông nghiệp I. lý luận chung về đầu tư phát triển. 1. Khái niệm, vai trò của đầu tư phát triển. 1.1. Khái niệm. Đầu tư là hoạt động kinh tế cơ bản không thể thiếu trong nền kinh tế mỗi quốc gia cũng như đối với từng tổ chức cá nhân. Có thể có những khái niệm đầu tư khác nhau theo từng khía cạnh hoạt động của nó. - Theo khía cạnh tài chính: Đầu tư là một chuỗi các hoạt động về chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời. -Theo khía cạnh tiêu dùng: Đầu tư là hạn chế mức tiêu dùng trong hiện tại để thu được mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Tuy nhiên, có thể đưa ra một khái niệm chung nhất về đầu tư như sau: Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực khác ở hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó (hoặc tham gia hay khai thác một tài sản) nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định lớn hơn các nguồn lực bỏ ra. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ… Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, của cải vật chất khác…), tài sản vô hình (trình độ văn hoá, chuyên môn, bí quyết, quy trình công nghệ, khoa học kỹ thuật…) và các nguồn lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.Trong những kết quả đã đạt được trên đây những kết quả là tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực tăng thêm có vai trò quan trọng mọi lúc, mọi nơi không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế và những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế thụ hưởng. Như vậy, nếu xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có các hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để làm tăng tài sản vật chất, nguồn nhân lực, tài sản trí tuệ hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và các nguồn nhân lực sẵn có thuộc phạm vi đầu tư phát triển. Từ đó ta có khái niệm về đầu tư phát triển như sau: Đầu tư phát triển là việc sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ nhằm duy trì hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo ra tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm, nâng cao đời sống của các thành viên trong xã hội. 2. Vai trò của đầu tư phát triển trong nền kinh tế quốc dân. Đối với bất kỳ một quốc gia nào, đầu tư luôn là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò này được thể hiện qua các mặt sau đây; 2. 1. Đối với toàn bộ nền kinh tế. Đầu tư phát triển tác động đến tổng cung và tổng cầu: Về mặt cầu: đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của nền kinh tế. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng: Tăng sản lượng sẽ tạo công ăn việc làm và kèm theo sự biến động (tăng) giá cả.Trong hình trên, đường D dịch chuyển sang D’ kéo theo sản lượng tăng từ Q0- Q1 và giá cả các yếu tố đầu vào tăng từ P0- P1, điểm cân bằng dịch chuyển từ E0- E1. E2 S' E1 P1 E0 Q2 O S Q1 Q0 Q P P2 P0 D' D Về mặt cung: Đầu tư tăng sẽ dẫn đến tăng vốn vật chất bao gồm tài sản cố định (máy móc, nhà xưởng, thiết bị công cụ...) và hàng hoá tồn kho trong sản xuất. Khi các năng lực mới đi vào hoạt động tác động đến tổng cung, ở hình vẽ, tổng cung tăng lên thể hiện bởi đường S dịch chuyển đến S’. Nguyên nhân do tăng sản lượng và việc làm, kéo theo tăng sản lượng từ Q1 đến Q2 và do đó giá cả giảm từ P1 xuống P2. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Đến lượt mình tiêu dùng sẽ kích thích sản xuất hơn nữa, thu hút nguồn lao động và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên. Như vậy, đầu tư trở thành nhân tố cơ bản của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. b. Đầu tư tác động hai mặt đến sự ổn định nền kinh tế: Do có sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đến tổng cung và tổng cầu trong nền kinh tế nên mọi sự thay đổi của đầu tư dù là tăng hay giảm vừa có thể là yếu tố duy trì sự ổn định vừa có thể là yếu tố gây bất ổn nền kinh tế của một quốc gia.Khi tăng đầu tư dẫn đến cầu của các yếu tố liên quan tăng làm sản xuất các ngành này tăng lên, thu hút thêm lao động, giảm thất nghiệp, nâng cao đời sống của người lao động, giảm tệ nạn xã hội và tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Mặt khác, khi tăng đầu tư cầu của các yếu tố đầu vào tăng làm cho giá cả hàng hoá có liên quan tăng (chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật tư…) đến một mức nào đó gây nên lạm phát. Lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, tiền lương thực tế của công nhân giảm, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. c. Tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế: Trong nghiên cứu về mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng, mô hình Harrod- Domar chỉ ra rằng: Tốc độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào đầu tư, tổng sản lượng và hệ số ICOR: Mức tăng vốn đầu tư Mức tăng GDP ICOR = Mức tăng vốn đầu tư ICOR Từ đó suy ra: Mức tăng GDP = Nếu ICOR không đổi (trong khoảng thời gian ngắn nhất định), mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Như vậy trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, đầu tư là mối quan trọng nhất, được điều chỉnh cụ thể trong mối tương quan giữa gia tăng vốn đầu tư và tốc độ tăng trưởng GDP. Theo tính toán của các nhà kinh tế thế giới về đầu tư và tăng trưởng, nếu: - ICOR nằm giữa 1- 1,25: Tăng trưởng ở đây chủ yếu dựa vào nguồn lực lao động, vốn ít. Đây là đặc trưng của các nước nghèo, kinh tế còn ở giai đoạn chưa phát triển. - ICOR nằm giữa 2,5- 4,5: Mức sử dụng tư bản tăng lên, đây là đặc trưng của các nước phát triển. Và ICOR > 4,5: Tỷ lệ sử dụng vốn đầu tư lớn, công nghệ hiện đại, trình độ phát triển cao. Trong những năm qua, hệ số ICOR của Việt Nam cho thấy đang ở danh giới giữa một nước chậm phát triển chuyển sang nước đang phát triển. Đây là giai đoạn tăng sử dụng vốn đầu tư nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế. Chỉ tiêu ICOR của Việt Nam qua các năm: Năm ICOR Năm ICOR 1991 2,5 1996 3,0 1992 2,1 1997 3,8 1993 3,1 1998 4,7 1994 2,9 1999 5,4 1995 2,8 2000 4,0 Việt Nam hiện nay đang được đánh giá là nước đang phát triển. Mặc dù mức vốn hàng năm cho tăng trưởng kinh tế có xu hướng tăng nhưng nguồn vốn đầu tư nói chung còn thấp do tích luỹ nội bộ của đất nước thấp. Trong điều điều kiện đó, để đạt tỷ lệ tăng GDP tăng thêm 7- 7,5% mỗi năm, ước tính tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP phải đạt 25- 30%. d. Đầu tư tác động đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế: Có thể nói chuyển dịch cơ cấu kinh tế là mục tiêu hàng đầu và xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế của một vùng hay của một quốc gia. Vì suy cho cùng, mục tiêu của hoạt động đầu tư phát triển là phát triển nền kinh tế với một cơ cấu kinh tế phù hợp với quá trình phát triển của xã hội. Một quốc gia được coi là có nền kinh tế phát triển khi có cơ cấu công nghiệp, dịch vụ chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, với một nền nông nghiệp có xuất phát điểm thấp, đầu tư trong nông nghiệp hiện nay chính là nhằm đổi mới tư duy sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, chuyển nền nông nghiệp từ chỗ tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá, đáp ứng nhu cầu phát triển mới của xã hội mà trước hết là đảm bảo nhanh chóng thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để thực hiện mục tiêu đó, bước đầu tiên phải đầu tư chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng đạt hiệu quả cao mà thực chất là chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Trên phương diện lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giái quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng và tiểu vùng. Đầu tư có thể phát huy lợi thế so sánh tương đối về vị trí, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực khác của những vùng kém phát triển, đưa vùng này thoát khỏi tình trạng đói nghèo. Đầu tư cũng giúp các vùng giàu tiềm năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy các vùng xung quanh cùng phát triển. e. Đầu tư tăng cường khả năng khoa học, công nghệ: Đối với các nước đang phát triển trình độ khoa học công nghệ còn lạc hậu thì đầu tư là điều kiện tiên quyết để phát triển và tăng cường khả năng công nghệ cho đất nước. Có hai con đường cơ bản để có được công nghệ là tự nghiên cứu phát minh và nhập công nghệ từ nước ngoài, cả hai hình thức này có đặc điểm chung là cần phải có vốn đầu tư. Trong nông nghiệp, việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật còn yếu kém hơn các ngành khác. Để sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao, cần phải tập trung cho đầu tư phát triển khoa học, công nghệ nhằm cơ giới hoá sản xuất, cải tiến về giống, kỹ thuật, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. 2.2. Đối với các cơ sở kinh doanh dịch vụ. - Đầu tư quyết định sự ra đời tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở, tức là một cơ sở sản xuất kinh doanh muốn ra đời phải có nhà xưởng, đội ngũ lao động…nên cần phải có vốn. Mặt khác, trong quá trình hoạt động các cơ sở phải sửa chữa, nâng cấp trang thiết bị…đến đây lại phải có vốn đầu tư. Như vậy có thể thấy rằng, đầu tư đóng vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế, là hoạt động tất yếu mà mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội phải thực hiện. 2. Đặc điểm của đầu tư phát triển. - Đầu tư phát triển thường dùng một khối lượng vốn lớn và vốn này nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển. - Là hoạt động mang tính chất lâu dài được thể hiện ở thời đoạn tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường kéo dài trong nhiều năm tháng. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi vốn hoặc đến khi thanh toán tài sản do vốn đầu tư cũng kéo dài và có khi phát huy tác dụng vĩnh viễn. - Các kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian của tự nhiên và kinh tế-xã hội (do ảnh hưởng của lạm phát, khủng hoảng kinh tế, thiên tai…). - Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm có khi hàng trăm năm và thậm trí tồn tại vĩnh viễn như các công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới. Điều này nói lên thành quả lớn lao của đầu tư phát triển. - Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng được hoạt động ngay tại nơi chúng được tạo lên. Các yếu tố địa hình, địa chất tại đó không chỉ ảnh hưởng đến tới quá trình thực hiện đầu tư mà còn ảnh hưởng tới sự hoạt động của các công trình được đầu tư sau này. 3. Phân loại các hoạt động đầu tư. Khái niệm về đầu tư cho thấy tính đa dạng của hoạt động kinh tế này. Hoạt động đầu tư có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau, mỗi cách phân loại đều có ý nghĩa riêng trong việc theo dõi, quản lý và thực hiện các hoạt động đầu tư. Trong phạm quốc gia, hoạt động đầu tư được chia làm 3 loại: Đầu tư tài chính, đầu tư thương mại và đầu tư phát triển. 1.2.1 Đầu tư tài chính: Là loại đầu tư do người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước hoặc lãi suất phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng cổ phiếu, trái phiếu cho người khác…). Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ tiền ra để đầu tư. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. 1.2.2. Đầu tư thương mại: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá giữa mua và bán. Loại đầu tư cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương) mà chỉ làm tăng tài sản của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với nhà đầu tư và giữa nhà đầu tư với khách hàng. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung. 1.2.3. Đầu tư phát triển: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động đầu tư nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm và tăng thu nhập, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đầu tư phát triển khác với đầu tư tài chính và đầu tư thương mại ở chỗ nó đem lại lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Loại đầu tư này có ý nghĩa đặc biệt đối với nền kinh tế vì nó sẽ quyết định sự tăng trưởng, phát triển ổn định và thực lực của nền kinh tế xét trong thời gian dài. Đầu tư cho phát triển nông nghiệp là một hoạt động đầu tư phát triển. Hoạt động này ngoài việc đem lại lợi ích cho những người nông dân đang tham gia sản xuất nông nghiệp còn tạo thêm công ăn việc làm cho lực lượng lớn lao động trong các ngành nghề khác, có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển nông nghiệp nói riêng và kinh tế cả nước nói chung. 4. Nguồn vốn đầu tư phát triển. 4.1. Khái niệm vốn đầu tư . - Trên giác độ vĩ mô: Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của toàn xã hội, các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, tiết kiệm của dân cư, huy động từ nước ngoài… Được thể hiện bằng tiền tệ, hàng hoá hữu hình, hàng hoá vô hình và các hàng hoá đặc biệt khác. - Trên giác độ vi mô: Vốn đầu tư là nguồn lực tích luỹ được từ các cơ sở (tài sản thừa kế, tích luỹ từ lợi nhuận, vốn góp); vốn vay (trong nước, nước ngoài); tài trợ, viện trợ ( trong nước, nước ngoài). 4.2. Nguồn vốn đầu tư. Các nguồn vốn đầu tư cho phát triển bao gồm: Nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế của nước ta hiện nay thì nguồn vốn trong nước được xác định là có vai trò quyết định và nguồn vốn nước ngoài được đánh giá là quan trọng. Văn kiện Hội nghị đại biểu Đảng toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII) đã chỉ rõ: "Để công nghiệp hoá hiện đại hoá cần huy động nhiều nguồn vốn, gắn với sử dụng có hiệu quả, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn từ nước ngoài là quan trọng". 4.2.1. Nguồn vốn trong nước: Nguồn vốn trong nước là phần tiết kiệm trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) sau khi dành cho tiêu dùng thường xuyên và cho các mục đích khác. Nguồn vốn trong nước chủ yếu phụ thuộc vào mức tăng trưởng kinh tế. Bởi vì, khi thu nhập bình quân đầu người còn thấp, lại có tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, thì toàn bộ thu nhập đó chỉ có thể đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng tối thiểu của con người. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với nước ta vì thu nhập bình quân là quá thấp so với các nước khác trên thế giới. Nguồn vốn trong nước bao gồm: 4.2.1.1. Nguồn vốn Nhà nước: - Tiết kiệm từ Ngân sách: Tiết kiệm từ ngân sách là chênh lệch giữa thu và chi của ngân sách Nhà nước, chi ngân sách Nhà nước chủ yếu là chi thường xuyên và chi cho đầu tư phát triển. Trong trường hợp bội chi ngân sách Nhà nước thì tiết kiệm của Chính phủ vẫn là số dương. Nguồn này chủ yếu sử dụng cho xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực có sự tham gia của Nhà nước. Nó cũng chi cho công tác lập và thực hiện dự án, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội, vùng lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn. Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước là nguồn vốn tập trung lớn nhất để phát triển kinh tế. - Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Vốn này có tác dụng làm giảm đáng kể sự bao cấp trực tiếp của Nhà nước, chuyển sang hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Khuyến khích sự phát triển kinh tế-xã hội của ngành, vùng theo định hướng chiến lược phát triển kinh tế. - Vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước: Vốn này hình thành từ vốn sở hữu và tiết kiệm của doanh nghiệp Nhà nước (phần lợi nhuận bổ xung vốn kinh doanh), vốn đi vay, tăng vốn cổ đông (phát hành cổ phiếu mới), vốn tài trợ từ Ngân sách của Chính phủ. Trong đó, vốn tiết kiệm của doanh nghiệp chưa nhiều vì nhiều doanh nghiệp này làm ăn còn thua lỗ, tình trạng thâm hụt vốn Nhà nước còn phổ biến ở nhiều doanh nghiệp. 4.2.1.2. Vốn đầu tư của doanh nghiệp: - Vốn sở hữu và tiết kiệm: Là các khoản thu nhập của doanh nghiệp được giữ lại sau khi đóng thuế và trả lãi cổ phần, cổ tức. - Vốn đi vay: Đối với doanh nghiệp làm ăn có hiêu quả, lợi nhuận hiện tại và tiết kiệm tăng thì họ thường vay mượn nhiều. Còn các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả lại giảm vay nợ và tăng vốn cổ đông bằng cách sử dụng nhiều hơn lợi nhuận hiện tại và tiết kiệm cho đầu tư. Tăng vốn cổ đông bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Điều này làm giảm bớt sự kiểm soát của các cổ đông cũ và giảm bớt thu nhập từ các cổ phiếu của họ. Việc phát hành cổ phiếu như vậy thực chất là bán bớt một phần doanh nghiệp. 4.2.1.3. Vốn đầu tư của hộ gia đình: Là một phần thu nhập của hộ gia đình không bị tiêu dùng, được tiết kiệm để đầu tư và tích luỹ từ các hoạt động kinh doanh không phải là công ty (tổ hợp). Tại các nước đang phát triển hình thức kinh doanh không phải là công ty phổ biến tương đối rộng rãi. Với sự trỗi dậy của kinh tế tư nhân, đây là một trong những nguồn vốn cơ bản trong nước ở nước ta giai đoạn hiện nay. Để tạo nhiều nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội, văn kiện Đại hội Đảng lần thư VIII đã chỉ rõ: "Để tạo vốn cho đầu tư phát triển, giải pháp cơ bản và lâu dài là phải làm ăn có hiệu quả, phát triển kinh tế, thực hành tiết kiệm cả trong chi tiêu của Nhà nước, trong sản xuất kinh doanh và trong tiêu dùng của dân cư…". 4.2.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài: 4.2.2.1. Vốn đầu tư gián tiếp. Bao gồm các khoản viện trợ, vay nợ và đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay ưu đãi theo thể thức ODA (viện trợ phát triển) thường ở dạng vốn hoặc viện trợ kỹ thuật. Đây là nguồn vốn bổ xung quan trọng cho nguồn vốn trong nước. Nguồn này thường được tập trung vào ngân sách để đầu tư hoặc cho vay. Vay nợ là số vốn mà doanh nghiệp đứng ra vay trực tiếp của nước ngoài (có thể bằng tiền hoặc khoa học công nghệ). 4.2.2.2. Vốn đầu tư trực tiếp (FDI): Đây là nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng, giúp đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ, bồi dưỡng đào tạo kỹ thuật… và tạo thị trường lâu dài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được thực hiện dưới hình thức đầu tư cả gói với 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài và đầu tư từng phần hoặc liên doanh. Trong nguồn vốn đầu tư nước ngoài còn một lượng khá lớn nữa là vốn của Việt kiều. Người Việt Nam hiện đang lao động và định cư ở nước ngoài khá đông, Đảng và Nhà nước cần có những chính sách thoả đáng để thu hút vốn đầu tư của họ, góp phần tạo thêm vốn đầu tư cho đất nước. II. đầu tư phát triển nông nghiệp. 1.Vị trí của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Nông nghiệp là một ngành xuất hiện sớm nhất trong lịch sử xã hội loài người, phạm vi của nông nghiệp được coi là rộng lớn nhất trên thế giới. Ngày nay ở nhiều quốc gia vẫn còn tồn tại những vùng, những khu vực chưa được tiếp thu và áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật của nền văn minh công nghiệp trong phát triển kinh tế, trạng thái ban đầu của nền văn minh nông nghiệp vẫn còn đậm nét. Mặt khác trong sản xuất nông nghiệp vẫn còn nhiều đặc điểm riệng biệt gây khó khăn lớn chi việc áp dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật. Chính vì vậy mà ngày nay không chỉ ở những nước chậm phát triển mà ngay ở các nước công nghiệp phát triển, ngành nông nghiệp vẫn là ngành có trình độ phát triển thấp hơn rất nhiều so với các ngành khác về trang bị, về năng suất, trình độ lao động cũng như tỷ lệ vốn đầu tư… Nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: Trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp. ngư nghiệp (thuỷ sản), do đó quan điểm phát triển nông nghiệp bao hàm cả phát triển nông - lâm - ngư ngiệp, đồng thời nông nghiệp cũng gắn liền với nông thôn, môi trường tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Chính vì thế, phát triển nông nghiệp không thể tách rời với sự phát triển toàn diện kinh tế, xã hội nông thôn, bảo vệ và sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái. Đối với Việt Nam, là nước có nền nông nghiệp nhiệt đới, do đó có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Từ một nền nông nghiệp truyền thống đã dựa trên những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã từng bước chuyển sang sản xuất hàng hoá, là nền nông nghiệp mà sự phát triển của nó gắn liền với việc phát triển kinh tế- xã hội khu vực nông thôn. Xác định vai trò của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân là vấn đề có tính chiến lược mà mỗi quốc gia đều phải quan tâm. Vấn đề xác định vai trò của ngành nông nghiệp ở từng thời kỳ cho phép lựa chọn hợp lý cơ cấu vốn đầu tư, hệ thống chính sách và các biện pháp phát triển ngành nông nghiệp. ở hầu hết các quốc gia, nông nghiệp nông thôn luôn là khu vực kém phát triển hơn so với khu vực công nghiệp, dịch vụ. Sự chênh lệch này thể hiện ở mức sống của người dân, mức độ hiện đại hoá trong sản xuất… Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò, vị trí hết sức quan trọng của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, điều này thể hiện trên những mặt sau: - Nông nghiệp là ngành cung cấp lương thực, thực phẩm cho xã hội-nhu cầu cơ bản của con người. Theo C. Mác: "Nông nghiệp là ngành cung cấp tư liệu sinh hoạt cho con người…", "Việc sản xuất ra tư liệu sinh hoạt là điều kiện đầu tiên của sự sống và của mọi lĩnh vực sản xuất nói chung…". Điều này khẳng định vai trò cực kỳ quan trọng của nông nghiệp và nâng cao mức sống của dân cư, bảo đảm sự ổn định về kinh tế-xã hội. - Nông nghiệp là nguồn cung cấp nguyên liệu quý cho công nghiệp (công nghiệp chế biến thực phẩm, công nghiệp nhẹ khác). Nguồn nguyên liệu có dồi dào, đa dạng và ổn định thì sự phát triển của các ngành công nghiệp mới được đảm bảo. Vì vậy, sự phát triển của chúng lệ thuộc chặt chẽ vào sự phát triển của nông nghiệp. - Nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc cung cấp lao động cho các khu vực kinh tế khác. Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, phần lớn dân cư sống bằng nông nghiệp, khu vực nông thôn thực sự là nguồn nhân lực dự trữ dồi dào cho khu vực công nghiệp, dịch vụ và thành thị. Tuy nhiên, việc chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế và quá trình thực hiện công nghiệp hoá của mỗi nước. - Nông nghiệp nông thôn là thị trường tiêu rộng lớn để tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. ở các nước đang phát triển, giá trị sản xuất nông nghiệp thường chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu tổng sản quốc nội và dân cư hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp cũng chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu dân cư. Phát triển mạnh nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho tầng lớp cư dân nông thôn sẽ làm cho nhu cầu về các sản phẩm nông nghiệp tăng, thúc đẩy công nghiệp phát triển, từng bước nâng cao chất lượng để có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế. - ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, nông nghiệp được coi là ngành có thể cung cấp vốn lớn nhất và đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn vì ở giai đoạn này, các loại nông sản hàng hoá dễ ra nhập thị trường hơn so với các hàng hoá công nghiệp. Tuỳ theo lợi thế so sánh của mình, mỗi nước có thể xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, thu ngoại tệ hay đổi lấy sản phẩm công nghiệp để đầu tư lại cho nông nghiệp và các ngành kinh tế khác của nền kinh tế quốc dân. Nguồn vốn từ nông nghiệp có thể được tạo ra bằng nhiều cách như: tiết kiệm của nhân dân để đầu tư vào các hoạt động phi nông nghiệp, thuế nông nghiệp, thuế nông sản nhập khẩu…Việc huy động vốn từ nông nghiệp là cần thiết và đúng đắn, trên cơ sở thực hiện bằng cơ chế thị trường, chứ không phải bằng sự áp đặt của Chính phủ. Và đồng thời, ở các nước đang phát triển, nơi mà quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm chạp thì nông nghiệp vẫn là ngành có hàng hoá xuất khẩu chủ yếu, tạo tích luỹ cho tái sản xuất và phát triển nền kinh tế, ổn định xã hội. Ngoài ra, nông nghiệp có vai trò to lớn và là cơ sở cho phát triển bền vững của môi trường. Sản xuất nông nghiệp gắn liền với việc sử dụng và quản lý các tài nguyên thiên nhiên như đất đai, nguồn nước, rừng, động thực vật… cũng như việc sử dụng nhiều hoá chất như thuốc trừ sâu bệnh, phân hoá học… là những chất gây ô nhiễm đất và nguồn nước. Vì vậy phát triển nông nghiệp nếu có sự quản lý tốt sẽ góp phần giữ gìn và bảo vệ môi trường, phát triển một nền nông nghiệp bền vững. Nhiều nước trên thế giới đã có những bài học kinh nghiệm trong việc xác định vai trò của ngành nông nghiệp qua các thời kỳ phát triển để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong thời kỳ đầu, các nước đặc biệt đề cao hoạt động đầu tư cho nông nghiệp nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất cho nông dân. Tiếp sau đó, khi chuyển sang thời kỳ đẩy nhanh công nghiệp hoá thì tỷ lệ đầu tư cho ngành nông nghiệp và cơ cấu giá trị ngành nông nghiệp so với các ngành khác giảm, nhưng việc phục vụ phát triển nông nghiệp vẫn là định hướng quan trọng nhằm hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp và dịch vụ. Trong tương lai, tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế sẽ ngày càng giảm nhưng nó vẫn là lĩnh vực hoạt động chủ yếu quyết định sự ổn định kinh tế- hội và đảm bảo môi sinh và cân bằng sinh thái. Đối với Việt Nam, với hơn 75% dân số hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, thì ngành nông nghiệp lại càng có vị trí quan trọng trong sự ngh._.iệp phát triển kinh tế đất nước. Mặt khác sự phát triển của ngành nông nghiệp có liên quan chặt chẽ đến các ngành khác và việc làm, thu nhập của phần lớn đa số người dân. Chính vì vậy, ngành nông nghiệp có tầm quan trọng hàng đầu đối với quá trình phát triển kinh tế và ổn định chính trị xã hội. Nhận thức được điều đó, Đảng và Nhà nước ta qua các kỳ Đại hội luôn đề cao vai trò của nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận tiên phong trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 2. Vai trò của đầu tư phát triển nông nghiệp Đầu tư phát triển có vai trò rất to lớn trong phát triển kinh tế-xã hội. Các lý thuyết kinh tế đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế-xã hội và là chìa khoá của tăng trưởng và phát triển. Nông nghiệp Việt Nam đã và đang đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế. Vai trò của đầu tư phát triển nông nghiệp được thể hiện trên các mặt sau: 2.1. Đầu tư phát triển nông nghiệp sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế quốc dân hợp thành bởi 3 ngành chính: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Nền kinh tế không thể tăng trưởng được nếu không có sự đóng góp của nông nghiệp. Mặc dù tỷ trọng nông nghiệp đang có xu hướng giảm dần trong quá trình công nghiệp hoá, chiếm tỷ trọng nhỏ trong GDP nhưng nông nghiệp vẫn được xem là ngành sản xuất cơ bản trong quá trình phát triển kinh tế. Để nền kinh tế có sự tăng trưởng phù hợp với tiềm năng của mình, tốc độ phát triển nông nghiệp phải vượt qua ngưỡng tối thiểu nào đó. Theo nghiên cứu rộng rãi của các tổ chức kinh tế thế giới, tại các nước có được tỷ lệ tăng trưởng trên 5% thì tốc độ phát triển nông nghiệp đều trên 2-2,5% mỗi năm. Điều đó nói lên rằng đầu tư cho phát triển nông nghiệp phải tương xứng với sự đóng góp của nó trong nền kinh tế. Nếu muốn tỷ lệ tăng trưởng cao hơn nữa thì đòi hỏi đầu tư trong nông nghiệp phải cao hơn. Phát triển một nền nông nghiệp mạnh và bền vững là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên sự thần kỳ của các nước Đông á theo tổng kết của Ngân hàng thế giới và đây cũng là bài học cho thực tiễn ở Việt Nam. Thực tế nhiều năm ở nước ta cho thấy, khi nông nghiệp được đầu tư nhiều, nông nghiệp phát triển, thì nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Để đạt được tốc độ tăng trưởng bình quân 7,5% của kế hoạch giai đoạn 2001 - 2005 thì tốc độ tăng GDP nông nghiệp tăng bình quân ít nhất là 4,8%/ năm. Để đạt được điều đó, vốn đầu tư phát triển nông nghiệp phải chiếm tỷ trọng từ 20% trở lên, khẳng định vai trò của đầu tư phát triển nông nghiệp là rất quan trọng cùng với sự đóng góp của công nghiệp, dịch vụ. 2.2. Đầu tư phát triển nông nghiệp là yếu tố quyết định sử dụng đầy đủ và hợp lý các nguồn lực. Tốc độ tăng trưởng và phát triển nông nghiệp trước hết phụ thuộc vào quy mô về số lượng và chất lượng các yếu tố nguồn lực được huy động vào sản xuất. Việc sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các yếu tố nguồn lực là yêu cầu khách quan đòi hỏi các cơ sở nông nghiệp phải coi trọng việc bảo vệ và phát triển hợp lý, bảo đảm mối quan hệ hài hoà giữa các yếu tố nguồn lực. Trong nông nghiệp nước ta, kinh tế hộ nông dân và kinh tế trang trại đang là lực lượng sản xuất chủ yếu và cung cấp nguồn nông sản cho nền kinh tế quốc dân. Do vậy, cần thiết phải đào tạo và bồi dưỡng kiến thức kỹ thuật và quản lý cho các chủ hộ nông dân, trang trại và lực lượng lao động nông nghiệp để họ thực sự làm chủ về sản xuất và kết quả tài chính. Đồng thời phải đầu tư củng cố, nâng cấp và xây dựng mới hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, nhanh chóng phát huy có hiệu quả trong quá trình sử dụng các yếu tố nguồn lực của nông nghiệp. Và như vậy, đầu tư phát triển nông nghiệp là yếu tố quyết định sử dụng đầy đủ và hợp lý các yếu tố nguồn lực trong nông nghiệp. 2.3. Đầu tư phát triển nông nghiệp góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Trong giai đoạn công nghiệp hoá, khi nông nghiệp được tăng cường đầu tư, kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp, dịch vụ bởi vì nông nghiệp vừa là nơi cung cấp các yếu tố đầu vào vừa là thị trường tiêu thụ rộng lớn cho khu vực công nghiệp và dịch vụ, nhất là ở khu vực nông thôn. Qua đó, quy mô và tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ tăng lên trong nền kinh tế. Đầu tư cho nông nghiệp không chỉ làm thay đổi cơ cấu của nền kinh tế mà còn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành nông nghiệp. Xu hướng đầu tư cho nông nghiệp hiện nay là tăng tỷ trọng đầu tư cho chăn nuôi, giảm tỷ trọng đầu tư cho trồng trọt, tăng tỷ trọng đầu tư cho lâm nghiệp, thuỷ sản và tăng tỷ trọng đầu tư cho nông nghiệp thuần vì các lâm nghiệp và thuỷ sản là những ngành hiện nay mang lại giá trị kinh tế cao hơn. 2.4. Đầu tư phát triển nông nghiệp góp phần giải quyết các vấn đề xã hội ở nông thôn. Khu vực nông nghiệp, nông thôn hiện nay đang tồn tại nhiều vấn đề nan giải như: thất nghiệp, đói nghèo, phân hoá giàu nghèo… Do đặc điểm của nông nghiệp mang tính thời vụ xuất hiện thời gian nông nhàn dẫn đến thất nghiệp mang tính thời vụ ở khu vực nông nghiệp, nông thôn gây ra một sức ép lớn về giải quyết việc làm. Thông qua đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, các làng nghề truyền thống, thâm canh tăng vụ… để tăng hệ số sử dụng lao động trong nông nghiệp, từ đó góp phần giải quyết việc làm. Mục tiêu đặt ra là nâng tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của lực lượng lao động ở nông thôn đạt 80% vào năm 2005 và 85% và năm 2010. Để đạt được mục tiêu trên thì vấn đề đầu tư phát triển nông nghiệp được đặt ra hơn bao giờ hết. Đói nghèo và phân hoá giàu nghèo vẫn đang diễn ra trong khu vực nông nghiệp. Để phá vỡ được cái vòng luẩn quẩn này thì chỉ có giải pháp là tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, như vậy đầu tư phát triển góp phần xoá đói giảm nghèo. Để từ nay đến 2010 giảm 2/5 tỷ lệ nghèo theo tiêu chuẩn quốc tế và 3/5 theo chuẩn mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm (2001- 2005), một trong những giải pháp là tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn. Bên cạnh đó, đầu tư phát triển nông nghiệp còn góp phần tăng cường khoa học công nghệ vào sản xuất, đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, nâng cao chất lượng nông sản phẩm, đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi, góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 2.5. Đầu tư phát triển nông nghiệp góp phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Việc thực hiện đầu tư thâm canh theo hướng hiện đại hoá nông nghiệp: cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, hoá học hoá và sinh học hoá đã tạo ra bước tiến nhảy vọt về năng suất cây trồng, vật nuôi và năng suất lao động. Song nó cũng tạo ra sự mất cân bằng sinh thái khá lớn (đất bị rửa trôi, bạc màu, dư lượng hoá chất độc hại trong các sản phẩm nông nghiệp, ô nhiễm môi trường…). Tuy nhiên, nếu có sự đầu tư thâm canh tốt, biết lợi dụng, tôn trọng và tác động phù hợp với quy luật tự nhiên thì sẽ góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường và hướng tới phát triển bền vững. 3. Đặc điểm đầu tư phát triển nông nghiệp. Nông nghiệp Việt Nam có đặc điểm riêng khác với các ngành sản xuất, kinh doanh khác, vì thế hoạt động đầu tư cho nông nghiệp cũng có những đặc thù riêng phản ánh đặc thù của sản xuất nông nghiệp: Thứ nhất, do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp coi đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu nên đầu tư cho nông nghiệp cũng có những đặc điểm đặc thù với hoạt động đầu tư vào các lĩnh vực khác, đó là trong quá trình đầu tư nhất là trong khâu lập kế hoạch đầu tư, cần phải nghiên cứu một cách chi tiết từng đặc điểm của khu vực đất đai dự kiến đầu tư, từ đó các định cơ cấu đầu tư phù hợp với từng vùng, từng khu vực. Thứ hai, do đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cơ thể sống, tuân theo những quy luật sinh trưởng, phát triển nhất định và hoạt động đầu tư chỉ có thể can thiệp ở mức độ cho phép, sự tác động của vốn đầu tư vào quá trình sản xuất nông nghiệp và hiệu quả kinh tế của nó không phải bằng cách trực tiếp mà thông qua cây trồng, vật nuôi. Cơ cấu vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào nhiều yếu tố: phù hợp với đặc điểm của từng loại đất đai, với từng đối tượng sản xuất là sinh học (cây, con). Thứ ba, hoạt động sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ cao, chu kỳ sản xuất dài nên nó cũng quy định đặc điểm đầu tư trong sản xuất nông nghiệp là mang tính thời điểm, mặt khác làm cho sự tuần hoàn của vốn đầu tư chậm chạp, thời gian thu hồi lâu. Tuy nhiên, ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, con người đã giảm bớt được đặc tính này bằng cách đầu tư áp dụng các thành tựu kỹ thuật trong công tác giống, đầu tư thâm canh, tăng vụ nuôi trồng trong các lồng kính, nhà lưới… Thứ tư, hoạt động đầu tư tư trong nông nghiệp có đặc điểm là đòi hỏi lượng vốn đầu tư tương đối lớn, mức độ rủi ro cao, thời gian thu hồi vốn thường kéo dài, tỷ suất lợi nhuận lại thấp hơn rất nhiều so với các ngành khác. Đây là một điều khó khăn cho ngành nông nghiệp trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế khác. Từ đây ta thấy, muốn có nền nông nghiệp phát triển ổn định, năng suất cao thì vai trò của Nhà nước là rất quan trọng. Nhà nước cần phải đầu tư xây dựng các công trình mang tính trọng điểm phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống dân cư nông thôn như hệ thống thuỷ lợi, nghiên cứu giống mới, chế biến bảo quản nông sản, tìm thị trường tiêu thụ… đồng thời phải có cơ chế chính sách thích đáng để khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển nông nghiệp. Từ các đặc điểm trên, trong hoạt động quản ký của Nhà nước cũng như trong hoạt động đầu tư cần phải nắm bắt kịp thời các đặc điểm và tình hình chung của địa phương, của vùng cũng như toàn bộ nền kinh tế để vận dụng một cách linh hoạt trong quá trình đầu tư cũng như quá trình phát triển của cây con, từ đó có phương hướng đầu tư thích hợp, mang lại hiệu quả cao cho nền kinh tế. 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư phát triển nông nghiệp. Đầu tư nói chung và đầu tư phát triển nông nghiệp nói riêng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố về tự nhiên, kinh tế-xã hội. 4.1. Điều kiện tự nhiên: Điều kiện tự nhiên bao gồm nhiều yếu tố như vị trí địa lý, địa hình, thời tiết, đất đai… Đây là yếu tố hình thành nên tính đặc thù của sản xuất nông nghiệp ở từng vùng, từng quốc gia. Vùng nào có vị trí địa lý thuận lợi, khí hậu ôn hoà, đất đai dễ canh tác… là nhân tố tích cực thu hút đầu tư và ngược lại. Điều kiện tự nhiên cũng ảnh hưởng đến quá trình thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư. Điều kiện tự nhiên khó khăn, dẫn đến chi phí đầu tư lớn, vận hành các kết quả đầu tư không hiệu quả dẫn đến khó thu hút đầu tư. 4.2. Các yếu tố kinh tế-xã hội. 4.2.1. Hệ thống cơ sở hạ tầng: Bao gồm hệ thống giao thông, điện, nước, thông tin,… có ảnh hưởng đến đầu tư. Cơ sở hạ tầng phát triển làm chi phí đầu tư giảm sẽ thúc đẩy đầu tư và ngược lại. Trong nông nghiệp, hệ thống cơ sở hạ tầng còn bao gồm: hệ thống thuỷ lợi, đê điều, các trại cung ứng giống, các đơn vị khuyến nông. Hệ thống cở sở này được tổ chức tốt sẽ thúc đẩy đầu tư trong nông nghiệp. 4.2.2. Trình độ phát triển của khoa học công nghệ: Sự phát triển của khoa học công nghệ đem đến cho mỗi quốc gia tiềm năng và khả năng phát triển những loại hình sản xuất mới, nuôi trồng và phát triển những loại giống cây con mới và áp dụng những công nghệ mới vào sản xuất và như vậy đòi hỏi phải có một tỷ lệ vốn đầu tư thích hợp để áp dụng các thành tựu khoa học mới vào sản xuất và phục vụ đời sống. 4.2.3. Các chính sách kinh tế vĩ mô: Hệ thống luật pháp và chính sách kinh tế có ảnh hưởng lớn đến đầu tư thể hiện ở Nhà nước cho phép và khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực ngành nghề nào. Trong hệ thống pháp luật kinh tế như: Luật đất đai (cơ sở pháp lý đầu tư trong nông nghiệp), Luật hợp tác xã, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật đầu tư nước ngoài… hệ thống văn bản dưới luật đã và đang phát huy tác dụng khuyến khích đầu tư trong nông nghiệp. Nhà nước có thể khuyến khích đầu tư thông qua các cơ chế và đòn bẩy kinh tế như ưu đãi thông qua giảm lãi suất trong đầu tư, miễm giảm thuế đầu tư vào nông nghiệp ở các vùng khó khăn. Bên cạnh đó Nhà nước có thể sử dụng chính sách trợ cấp, trợ giá các yếu tố đầu vào cho đầu tư phát triển nông nghiệp. IV. Tình hình chung về đầu tư phát triển nông nghiệp Việt Nam. 1. Về nguồn vốn đầu tư. Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp nước ta trong những năm qua đã có sự gia tăng đáng kể, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của ngành nông nghiệp. Từ năm 1991 đến năm 2000, vốn đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn ước đạt 65,2 nghìn tỷ đồng (mặt bằng giá 1995) tương đương khoảng 6 tỷ USD, chiếm khoảng 10,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; trong đó giai đoạn 1991-1995 chiếm 8,4% và 1996- 2000 chiếm 11,5%, với tốc độ tăng trong giai đoạn 1996-2001 lên tới 20,8% (Bảng 1). Bảng 1: Vốn đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp Hạng mục 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số (tỷ VNĐ) 68.047 79.367 96.870 97.336 103.771 Nông lâm nghiệp, thuỷ sản (tỷ VNĐ) 5.209 5.723 7.084 7.629 7.733 So với tổng số (%) 7,7 7,2 7,3 7,8 7,5 Nguồn: Theo Thời báo Tài chính 6/2001. Có thể nói rằng, trong 5 năm qua đã có sự tập trung cao hơn cho đầu tư phát triển nông nghiệp, đặc biệt trong 2 năm gần đây tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội cho lĩnh vực này đã tăng lên 15% (kể cả đầu tư cho thuỷ lợi). Nguồn vốn ngân sách tăng đáng kể cho nông nghiệp, nông thôn. Xét nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước dành cho nông nghiệp và nông thôn: Nếu năm 1990, nguồn vốn này là 402 tỷ đồng (chiếm 17,34% tổng vốn đầu tư toàn xã hội từ ngân sách) thì các năm 1996 đạt 2.882,4 tỷ đồng (bằng 10% tổng vốn, trong đó có tới 1.737 tỷ đồng dành đầu tư cho thuỷ lợi, chiếm 60%; 439 tỷ đồng giành cho trồng trọt, trong đó đầu tư vào trạm, trại phục vụ trồng trọt là 146,3 tỷ đồng, chăn nuôi 213 tỷ đồng, chiếm 7,4%; đầu tư cho lâm nghiệp là 498 tỷ đồng, chiếm 17,2%) và đến năm 1998 số vốn này chiếm 15,3%. Lượng vốn này chủ yếu dành cho việc xây dựng và nâng cấp các công trình thuỷ lợi để tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng quan trọng nhất phục vụ tưới tiêu nước, phát triển sản xuất nông nghiệp. Năm 1998, nguồn vốn đầu tư cho thuỷ lợi đã tăng lên đáng kể đạt mức 2.800 tỷ đồng, năm 1999 khoảng 4.000 tỷ đồng và năm 2000 khoảng 3.800 tỷ đồng. Xét cả giai đoạn 1991-2000, vốn đầu tư cho lĩnh vực này năm 2000 đã tăng gấp 2 lần năm 1997 và gấp 6 lần năm 1991(Bảng 2). Bảng 2: Vốn đầu tư cho thuỷ lợi so với tổng vốn đầu tư từ NSNN. Hạng mục 5 năm 91-95 5 năm 96-2000 Trong đó 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số (tỷ VNĐ) 42.000 110.000 16.500 17.400 19.500 27.900 28.700 Đầu tư thuỷ lợi (tỷ VNĐ) 4.168 14.900 1.708 2.573 2.800 4.000 3.800 Tỷ trọng (%) 10,00 13,5 10,35 14,78 14,4 14,4 13,24 Nguồn: Theo Thời báo Tài chính 6/2001. Trong cơ cấu đầu tư hiện nay, đầu tư cho thuỷ lợi chiếm hơn 70% đầu tư toàn ngành. Xét cả giai đoạn 1991-2000, tổng số vốn đầu tư cho thuỷ lợi vào khoảng 20.000 tỷ đồng ( khoảng 1,7 tỷ USD), trong đó giai đoạn 1991-1995 đạt khoảng 5.000 tỷ đồng và thời kỳ 1996-2000 đạt khoảng 14.900 tỷ đồng, gấp 2,4 lần số vốn thực hiện trong giai đoạn 1991-1995. Khi mà nguồn vốn ngân sách Nhà nước còn nhiều hạn chế thì nguốn vốn của hộ gia đình đầu tư cho nông, lâm nghiệp và thuỷ sản có xu hướng tăng dần cùng với các chính sách của Nhà nước khuyến khích nông dân đầu tư và làm giàu chính đáng. Vốn đầu tư của dân không chỉ tăng lên về số lượng mà có sự chuyển dần theo cơ cấu hợp lý hơn: Tập trung vào các vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá lớn như lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, cà phê ở Tây Nguyên, cao su, điều ở Nam bộ, nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng ven biển… và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, các công trình phục vụ sản xuất nông nghiệp trong đó chủ yếu là thuỷ lợi hoá nội đồng, cải tạo đồng ruộng, khai hoang phục hoá mua sắm máy móc phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp, phát triển ngành nghề nông thôn… Tuy nhiên, do thu nhập của người nông dân còn thấp nên việc đầu tư bằng vốn tự có của hộ chỉ chiếm tỷ lệ dưới 50%, còn lại là vốn vay ngân hàng. Những năm gân đây, vốn đầu tư đã có sự tập trung vào mở rộng quy mô sản xuất hàng hoá theo mô hình trang trại (trồng cà phê, cao su, điều, vải, nhãn, nuôi trồng thuỷ sản…) chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cũng đang góp phần quan trọng thúc đẩy quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung. Phương thức đầu tư chủ yếu của nguồn vốn này là hỗ trợ kỹ thuật, giống cây con, cung ứng trước vật tư, phân bón để đảm bảo sản xuất nguyên liệu, bao tiêu sản phẩm, xây dựng mô hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn, nhất là vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Một nguồn vốn cũng rất quan trọng với phát triển nông nghiệp, nông thôn là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài- FDI. Nếu năm 1989, cả nước mới chỉ có 5 dự án với số vốn vẻn vẹn 2,8 triệu USD thì đến năm 1998 đã có 225 dự án với tổng số vốn lên tới 2,4 tỷ USD (gồm 910 triệu USD cho lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và khoảng 1,5 tỷ cho các lĩnh vực chế biến nông sản phẩm), chiếm khoảng 7% vốn đăng ký cả nước. Các dự án FDI chủ yếu tập trung vào trồng và chế biến cao su, cà phê, chè, mía đường, mì chính, chăn nuôi gia súc, gia cầm theo phương pháp công nghiệp, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến hải sản… với mục đích nâng cao năng lực sản xuất và chế biến nông lâm thuỷ sản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm theo yêu cầu của thị trường quốc tế. Hiệu quả sử dụng vốn FDI cũng đáng khích lệ: Năm 1999 doanh thu các dự án này đạt khoảng 600 triệu USD, lợi nhuận trên 30 triệu USD, kim ngạch xuất khẩu đạt gần 300 triệu. Bước sang năm 1998 và cho đến năm 2000 tình hình thu hút vốn FDI có phần ảm đạm hơn do khủng hoảng tài chính. Theo số liệu thống kê của Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, vốn đầu tư nước ngoài đăng ký chỉ đạt 2,4 tỷ USD, trong khi đó lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chỉ có 36 dự án với tổng vốn dăng ký 55,4 triêu USD (chiếm 2,3% tổng vốn FDI đăng ký). Ngoài các dự án sử dụng vốn FDI, trong những năm qua, nguồn vốn vay, viện trợ, hợp tác khoa học kỹ thuật của các tổ chức quốc tế (UNDP, PAM, FAO, ADB, WB, IMF, OECF…) trong lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn tiếp tục gia tăng góp phần hỗ trợ nông lâm nghiệp phát triển. Đến nay, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã thu hút trên 1,5 tỷ USD vốn cam kết hỗ trợ phát triển chính thức. Nguồn vốn này chủ yếu tập trung vào nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn (nhất là miền núi), thuỷ lợi, nước sạch vệ sinh môi trường. 2. Về tình hình đầu tư. Nhìn toàn diện có thể thấy những khoản đầu tư khá lớn vào nông nghiệp, đặc biệt trong việc phát triển các công trình thuỷ lợi, trồng cây công nghiệp, phát triển nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản… đã tạo sự phát triển tương đối nhanh và ổn định. Mặt khác, hiệu quả đầu tư cao hơn trên phương diện đánh giá hiệu quả sử dụng đồng vốn được nâng cao (hệ số ICOR dưới 2 trong khu vực nông nghiệp, nông thôn. Mặc dù có sự gia tăng về số tuyệt đối, song tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp từ ngân sách đang giảm dần, trong khi tỷ trọng của ngành nông lâm ngư nghiệp trong cơ cấu GDP toàn quốc vẫn chiếm khoảng 25% và đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu cả nước khoảng 40-50%. Khối lượng vốn đầu tư ít, tỷ trọng thấp nhưng lại tiến hành đầu tư dàn trải, phân tán không tập trung cho các vùng trọng điểm và các công trình quan trọng để phục vụ sản xuất hàng hoá. Tỷ lệ đầu tư cho khoa học kỹ thuật phục vụ nông nghiệp còn thấp nên chưa khơi dậy được những tiềm năng sẵn có về tri thức để tăng trưởng nông nghiệp với nhịp độ cao hơn.Lượng vốn đầu tư từ nước ngoài cho nông nghiệp chiếm tỷ trọng thấp, không tập trung vào những mục tiêu tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Phương pháp đầu tư đã có sự tập trung vào các chương trình mục tiêu trọng điểm thông qua các dự án như phủ xanh đất trống đồi núi trọc, nước sạch nông thôn, dự án thuỷ lợi, trồng mới 5 triệu ha rừng… song vẫn chưa phát huy tối đa hiệu quả đồng vốn, nhất là các dự án xoá đói giảm nghèo được thực hiện cho các khu vực miền núi (chương trình 135). Như vậy, trong những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển và khẳng định được vai trò chủ đạo của mình trong quá trình phát triển kinh tế đất nước cũng như làm thay đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Có được kết quả này là do Nhà nước đã quan tâm đầu tư và có chính sách khuyến khích đầu tư trong nông nghiệp. Tuy nhiên nếu so sánh giữa tỷ lệ đóng góp vào GDP của nông nghiệp và tỷ lệ vốn đầu tư cho nông nghiệp vẫn chưa thoả đáng và phải được quan tâm đầu tư hơn nữa, có như vậy ngành nông nghiệp nước ta mới có đủ điều kiện phát huy hết vai trò của mình trong nền kinh tế. Bảng 3: Cơ cấu GDP các ngành kinh tế nước ta. Đơn vị tính: % Ngành Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Nông nghiệp 27,8 25,8 25,8 25,4 25,1 24,3 23,3 Công nghiệp 29,7 32,1 32,6 34,5 35,5 36,6 37,7 Dịch vụ 42,5 42,1 41,6 40,1 40 39,1 39 Nguồn: Niêm giám thống kê năm 2001, NXB Thống kê Hà Nội. Theo bảng 3, trong khi cơ cấu GDP của ngành nông nghiệp chiếm tương đối lớn trong tổng nền kinh tế nhưng tỷ tệ vốn đầu tư cho ngành nông nghiệp lại ở mức rất thấp, chỉ đạt xấp xỉ 10% tổng vốn đầu tư qua các năm. Về mức độ đầu tư cho nông nghiệp còn nhiều tồn tại: Vốn đầu tư ít, cơ cấu vốn đầu tư còn chưa hợp lý, mất cân đối trong đầu tư giữa các vùng… Chương II Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương (giai đoạn 1996- 2002) I. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế -xã hội có ảnh hưởng đến đầu tư phát triển nông nghiệp của tỉnh. 1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên. 1.1. Vị trí địa lý. Hải Dương là tỉnh nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, có diện tích tự nhiên 1.660,78 km2, toạ độ địa lý ở 20o57' độ vĩ bắc và 106o18' độ kinh đông, gồm một thành phố và 11 huyện. Hải Dương tiếp giáp với các tỉnh: Quảng Ninh, Bắc Giang ở phía bắc; Hải Phòng ở phía đông; Thái Bình ở phía nam và Hưng Yên, Bắc Ninh ở phía tây. Tỉnh có 2 tuyến quốc lộ lớn chạy qua: quốc lộ 5A nối Hà Nội với Hải Phòng và quốc lộ 18 nối Bắc Ninh với Quảng Ninh. Nằm trên hành lang Hà Nội - Hải Phòng, Hải Dương có vị trí quan trọng trong tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc Với vị trí địa lý như trên, tỉnh Hải Dương có điều kiện khá thuận lợi mở mang giao lưu, quan hệ thị trường trong nước và nước ngoài với hướng giao lưu chủ yếu là Đông -Tây và hướng Bắc. Nằm trong trục kinh tế trọng điểm Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh là điều kiện tốt để tiếp thu các tiến bộ khoa học công nghệ, đồng thời các đô thị lớn cũng là thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá lớn và đây là nơi thu hút nguồn lao động của tỉnh. Như vậy có thể thấy, Hải Dương có những lợi thế rất lớn trong hoạt động sản xuất nông nghiệp nói riêng và phát triển nền kinh tế chung của toàn tỉnh. 1.2. Địa hình. Phần lớn địa hình Hải Dương có địa hình bằng phẳng trừ 2 huyện Chí Linh và Kinh Môn có đồi núi. Hướng địa hình nghiêng và thấp dần từ Tây bắc xuống Đông nam. Hải Dương có vị trí địa lý giáp với khu vực miền núi và đồng bằng đã phân địa hình thành 2 vùng rõ rệt: -Vùng phía Đông Bắc là đồi núi, đây là rìa của cánh cung Đông Triều, chiếm 10% diện tích lãnh thổ, Gồm 3 vùng nhỏ: vùng đồi núi thấp, vùng đồi bát úp lượn sóng và vùng núi đá vôi. - Vùng đồng bằng nằm trong hạ lưu của hệ thống sông Thái Bình, chiếm 90% diện tích lãnh thổ. Do tạo thành các nếp lượn sóng nên có thể chia làm 3 tiểu vùng: + Vùng có địa hình tương đối cao từ phía bắc huyện Bình Giang, Cẩm Giàng, nam Chí Linh, Nam Sách, Gia Lộc và phần Tây Bắc Tứ Kỳ. Địa hình phần lớn là đất vàn và đất vàn cao của tỉnh, cốt đất trung bình từ 2-2,5 m thuộc hệ thống phù sa sông Thái Bình. Đây là vùng canh tác lúa 3 vụ thuận lợi nhất của tỉnh. + Tiểu vùng có địa hình trung bình: Gồm phần nam huyện Ninh Giang, huyện Thanh Miện có địa hình phần lớn thuộc đất vàn cao và vàn thấp, cốt đất trung bình từ 1,5- 2 m, canh tác khá thuận lợi nhưng dễ úng ngập vào mùa mưa. + Tiểu vùng thấp gồm các huyện Tứ Kỳ, phần nam Kinh Môn, đông Nam Sách, và Thanh Hà, có địa hình dạng vàn thấp và trũng, cốt đất bình quân từ 1- 1,5 m. Vùng này có khu vực bãi triều nên là vùng đất trũng và có ảnh hưởng của mặn, thuận lợi cho việc khai thác mặt nước để phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Với địa hình khá đa dạng như trên Hải Dương có điều kiện để đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, thâm canh được nhiều vụ trong năm (theo các số liệu thống kê của tỉnh thì vụ đông có thể đạt từ 70-75% diện tích canh tác). Song bên cạnh đó, tỉnh cũng gặp khó khăn trong việc tiêu nước, chưa lựa chọn chế độ canh tác thích hợp để đối phó với thời tiết mưa bão, úng ngập. 1.3. Khí hậu, thuỷ văn và nguồn nước. Hải Dương nằm trong vùng khí hậu đồng bằng Bắc Bộ, có đặc điểm nổi bật là khí hậu nóng ẩm, có một mùa đông lạnh và chịu ảnh hưởng mạnh của gió mùa. Nhiệt độ bình quân năm là 23oC, trong đó có 4 tháng nhiệt độ trung bình dưới 20oC (tháng 12, 1, 2, 3), biên độ nhiệt trong năm từ 11- 12oC. Tổng lượng nhiệt trong năm 8.500oC cho phép trồng 3 vụ cây hàng năm, đồng thời mùa đông nhiệt độ xuống thấp tạo điều kiện cho các loại cây á nhiệt đới phân hoá mầm, ra hoa tốt và cho phép trồng nhiều loại cây ôn đới. Lượng mưa bình quân là 1.500- 1.700 mm, tập trung từ tháng 4 đến 9 (chiếm hơn 81% lượng mưa cả năm). Dựa vào nhiệt độ bình quân dưới 16oC và lượng mưa bình quân nhỏ hơn 1.500 mm, khí hậu Hải Dương có thể chia làm 2 vùng: + Vùng khí hậu bán sơn địa: Gồm huyện Chí Linh và các xã vùng đồi huyện Kinh Môn, có nhiệt độ thấp hơn các huyện khác, năm rét đậm thường có sương muối, tính chất hạn rõ ràng hơn các huyện khác. Vì vậy, thời vụ thường bắt đầu muộn hơn và thu hoạch sớm hơn. + Vùng khí hậu đồng bằng: Gồm các huyện còn lại của tỉnh, có nền nhiệt lượng cao, mưa phùn đông xuân nhiều hơn. Như vậy, Hải Dương có điều kiện nuôi trồng các loại động thực vật có nguồn gốc tự nhiên từ các miền địa lý khác nhau. Khí hậu ôn đới và á nhiệt đới thuận lợi cho việc phát triển sản xuất đa dạng. Đặc biệt vào mùa đông có khí hậu khô lạnh, vụ đông trở thành vụ chính trồng được nhiều loại cây màu ngắn ngày cho sản lượng và giá trị cao, góp phần vào xuất khẩu chung của toàn tỉnh. Tuy nhiên, yếu tố hạn chế sản xuất nông nghiệp vào mùa khô còn xảy ra tình trạng thiếu nước và vào mùa mưa thường hay bị bão, lũ lụt gây ngập úng nội đồng và uy hiếp hệ thống đê điều, thuỷ lợi. Hải Dương là tỉnh có hệ thống sông ngòi dày đặc với hơn 500 km sông lớn và trên 2.000 km sông nhỏ cùng với hàng ngàn ao hồ lớn nhỏ. + Mạng lưới sông chính gồm: Sông Thái Bình có 3 nhánh là sông Kinh Thầy, sông Gùa và sông Mía. Các sông này có đặc điểm là lòng sông rộng, độ dốc nhỏ và uốn lượn, đáy sông thấp hơn nhiều so với mực nước biển; Sông Luộc (là một nhánh của sông Hồng) có chiều rộng trung bình từ 150-250m, sâu từ 4-6m chạy dọc danh giới phía nam của tỉnh. + Hệ thống sông nội đồng: Đa số chảy theo hướng Tây bắc- Đông nam (hướng dốc của địa hình), xuất phát từ các trạm bơm hay cống lấy nước qua đê được điều tiết. Sông nội đồng có hai hệ thống chủ yếu: gồm các sông thuộc hệ thống Bắc Hưng Hải và các sông thuộc hệ thống tả ngạn sông Thái Bình. Do nằm gần các cửa biển, các cửa sông Thái Bình và các nhánh đều bị ảnh hưởng của thuỷ triều. Vào mùa khô nước mặn thâm nhập gây nhiễm mặn nhiều nơi, đặc biệt là vùng phía bắc huyện Kinh Môn, đông nam huyện Tứ Kỳ và Thanh Hà. + Nguồn nước ngầm: Hải Dương nằm trong vùng có đặc điểm địa chất thuỷ văn đa dạng và phức tạp (có 6 đơn vị chính). Qua phân tích cho thấy, nguồn nước ngầm có biên độ mặn nhạt không rõ ràng, có nhiều vùng tầng nông nhiễm mặn, tầng sâu nhạt hoặc ngược lại. Về cơ bản, tầng nông có thể khai thác và xử lý làm nước sinh hoạt chứ ít có ý nghĩa trong phục vụ sản xuất nông nghiệp (chủ yếu là sử dụng nguồn nước mặt). 1.4. Đặc điểm về đất đai. Theo kết quả bổ sung chuyển đổi bản đồ đất tỉnh Hải Dương từ hệ thống phân loại cũ sang hệ thống phân loại mới thống nhất toàn quốc của Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, đất đai Hải Dương nằm trên 2 vùng địa hình cơ bản là địa hình đồi núi: 18.320 ha, chiếm 11% diện tích tự nhiên và địa hình đồng bằng: 147.900 ha, chiếm 89% diện tích. Toàn tỉnh có 18 loại đất chính chia làm 7 nhóm, trong đó đất phù sa (gồm đất phù sa được bồi, không được bồi, đất phù sa gley của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình) chiếm tỷ tệ lớn nhất: 76.886 ha- chiếm 70,6%, có độ phì khá và trung bình, thích hợp với trồng các loại cây lương thực hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày; đất mặn và phèn: 8.046 ha- chiếm 4,85%, nếu được cải tạo có thể trồng lúa hoặc chuyển sang kết hợp nuôi trồng thuỷ sản; đất xám: 8.986 ha- chiếm 5,42%, chỉ có thể trồng màu và cây công nghiệp ngắn ngày và cải tạo lại bằng việc luân canh trồng các cây họ đậu. Còn lại là một số loại khác như đất đỏ, đỏ vàng, đất bị xói mòn… có thể trồng một số loại cây ăn quả hoặc cải tạo lại hoặc phủ xanh bằng cây lâm nghiệp. Nhìn chung, tài nguyên đất của Hải Dương có độ phì khá lại có địa hình đa dạng nên có thể bố trí được nhiều loại cây trồng: cây lương thực, cây ăn quả, cây công nghiệp, rừng đa tác dụng với hệ thống canh tác khá đa dạng. Bên cạnh đó còn một số loại đất chiếm tỷ lệ không nhỏ (khoảng 21.556 ha, tương đương gần 19%) còn trở ngại cho sản xuất nông nghiệp, cần phải được đầu tư nâng cấp cải tạo. Hải Dương có mật độ dân số rất cao, trung bình hơn 1000 người/km2 (số liệu thốn kê năm 2000), diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người là 625 m2, bình quân 1 nhân khẩu nông nghiệp: 570 m2, chỉ bằng 63% so với mức bình quân chung của cả nước. Đây là bài toán lớn đặt ra trong việc lập quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp, nhằm tăng hiệu quả sử dụng đất, tăng canh gối vụ đa đạng hoá các loại cây trồng, vật nuôi. 1.5. Tài nguyên rừng, sinh vật và các khoáng sản khác. - Tài nguyên rừng và sinh vật: Là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng nhưng Hải Dương có diện tích rừng ở vùng đồi núi thuộc 2 huyện Chí Linh và Kinh Môn. Theo số liệu thống kê năm 2000, diện tích rừng tập trung có 13.975 ha, trong đó đất có rừng: 9.867 ha (rừng tự nhiên: 3.103 ha, rừng trồng: 6764 ha). Diện tích rừng tự nhiên có trữ lượng 198.542 m3, đây là trữ lượng nghèo, các loại cây thuộc nhóm V trở lên, rất ít thuộc nhó._.các công trình cũ, kết hợp với đầu tư xây dựng mới, hiện đại hoá hệ thống các công trình bao gồm: Kiên cố hoá kênh mương, nâng cấp thiết bị trạm bơm và hệ thống công. Hệ thống công trình được đầu tư xây dựng phải đảm bảo tưới tiêu khoa học, phù hợp với đặc điểm địa hình từng vùng, đặc điểm sinh lý cây trồng và tiết kiệm nước. Kết hợp tốt tưới tiêu tự chảy và động lực, giữa công trình lớn và nhỏ, giữa Nhà nước và nhân dân cùng làm. Tóm lại, trong công tác quy hoạch cần phải xác định được hướng trọng tâm phát triển các ngành, lĩnh vực mang tính đột phá để tập trung đầu tư đẩy nhanh tốc độ phát triển nông nghiệp của tỉnh. Quy hoạch phải thể hiện được tính chiến lược, mục tiêu phát triển lâu dài. Cùng với công tác cũng cần phải tăng cường công tác quản lý quy hoạch một cách chặt chẽ, tránh tình trạng đầu tư bừa bãi, tràn lan. Theo dõi sát tình hình thực hiện các công trình, dự án trong vùng quy hoạch để có những điều chỉnh cho phù hợp. Tuy nhiên, quy hoạch phát triển một ngành nào đó phải đạt được sự ổn định cần thiết, nếu không nó sẽ không còn là quy hoạch nữa, điều này đòi hỏi các nhà lập quy hoạch, kế hoạch phải có tầm nhìn chiến lược, lâu dài. Các dự án đầu tư phát triển nông nghiệp được xây dựng và thực hiện phải phù hợp với quy hoạch tránh tình trạng "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược" đã diễn ra ở một số nơi, đồng thời phải coi trọng công tác bảo vệ môi trường và phát triển bền vững trong việc xét các yếu tố liên quan đến công tác quy hoạch. 2. Nâng mức đầu tư vốn cho phát triển nông nghiệp tương xứng với vai trò sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi một mặt tăng vốn đầu tư cả về số lượng và tỷ trọng, mặt khác phải điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Nội dung của điều chỉnh cơ cấu đầu tư là tăng số lượng và tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp sao cho hàng hoá có chất lượng cao, chi phí thấp, có sức cạnh tranh trên thị trường và phát triển toàn diện kinh tế nông thôn tỉnh, cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ hợp lý. 2.1. Đầu tư hình thành và phát triển các vùng sản xuất nông sản hàng hoá. Ưu tiên cho các vùng sản xuất hàng hoá tập trung (các huyện đồng bằng), có chất lượng cao đảm bảo nhu cầu lương thực trong tỉnh và xuất khẩu, hình thành các vùng nguyên liệu tập trung cho công nghiệp chế biến (tiểu vùng ven quốc lộ 5), điều chỉnh diện tích đất trồng lúa nhằm sử dụng có hiệu quả. Tập trung đầu tư cho các loại cây trồng, vật nuôi mà tỉnh có nhiều lợi thế so sánh, có thị trường tiêu thụ, khả năng cạnh tranh tốt như: Các loại rau màu, cây thực phẩm, gia vị (dưa chuột, ớt, cà chua, hành, tỏi…); cây ăn quả (vải, nhãn) và các loại thuỷ đặc sản: lươn, ếch, baba… Chú trọng đầu tư cho các sản phẩm có nhiều tiềm năng xuất khẩu như: lạc, vừng, đậu tương, tơ tằm… góp phần chuyển từ một nền kinh tế phát triển theo số lượng sang chất lượng. Đầu tư thoả đáng cho chăn nuôi gia súc, gia cầm từ quy mô lớn đến vừa và nhỏ với chất lượng cao (từ thủ công, bán công nghiệp của hộ nông dân đến công nghiệp của các trang trại), gắn liền với công nghiệp chế biến thức ăn gia súc, chế biến sản phẩm phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Dành vốn thoả đáng cho công tác nghiên cứu và áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, nhất là giống cây, giống con, phân bón, bảo vệ thực vật, khuyến nông. 2.2. Đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản trở thành ngành chính trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh. Tập trung đầu tư phát triển đưa thuỷ sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Điều chỉnh lại và tăng cơ cấu Ngân sách đầu tư cho thuỷ sản, hỗ trợ tích cựu cơ sở hạ tầng phục vụ ngành này. Ưu tiên đầu tư cho các loại thuỷ sản nước ngọt, nước lợ (ở các vùng cửa sông) mà Hải Dương có tiềm năng lớn như cá, tôm, các loại thuỷ đặc sản… để tăng tích luỹ tái đầu tư mở rộng của ngành. Thực hiện xoá đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế bãi bồi ven sông. Đầu tư đồng bộ hình thành các vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung, vùng sản xuất giống cùng các cơ sở chế biến… tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ khai thác, nuôi trồng và chế biến tiêu thụ nông sản. Bên cạnh đó việc tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn phải đi trước một bước. Thuỷ lợi vẫn tiếp tục được coi trọng nhưng cần điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư cho phù hợp hơn. Củng cố hệ thống đê sông Thái Bình, sông Luộc. Đồng thời cũng cần tập trung đầu tư các kết cấu hạ tầng khác như giao thông nông thôn, điện, thông tin liên lạc… 3. Cơ cấu lại nguồn vốn đầu tư. Song song với việc tích cực huy động các nguồn, cần phải coi trọng việc sử dụng vốn đầu tư để đảm bảo cho các nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp được quản lý và sử dụng có hiệu quả. Trong đầu tư cho phát triển nông nghiệp của tỉnh Hải Dương từ nay đến năm 2010, việc sử dụng các nguồn vốn đầu tư, cần tuân thủ theo đúng mục tiêu kế hoạch đặt ra trong các chương trình, dự án. Sử dụng vốn đồng thời phải kết hợp với việc cơ cấu lại các nguồn vốn đầu tư cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển cụ thể. Các nguồn vốn đầu tư vào các lĩnh vực trong nông nghiệp cần được cơ cấu lại như sau: 3.1. Với nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Nguồn vốn này cần được tập trung đầu tư cho xây dựng các công trình hạ tầng phục vụ sản xuất: đầu tư xây dựng những công trình đầu mối thuỷ lợi, các công trình thuộc hệ thống giống cây con, trồng mới chăm sóc bảo vệ rừng, nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. - Với nguồn vốn ngân sách do địa phương quản lý: tập trung tu bổ các tuyến đê địa phương quản lý, nâng cấp cải tạo xây dựng các công trình thuỷ nông, xây dựng cơ sở vật chất cho các cơ sở sản xuất giống cây con của tỉnh, hỗ trợ đầu tư kiên cố hoá kênh mương cho các hợp tác xã. - Nguồn vốn do các Bộ, ngành Trung ương quản lý: Tập trung tu bổ các tuyến đê do Trung ương quản lý, đầu tư cho các công trình thuỷ lợi lớn đảm bảo tưới tiêu cho các vùng, khu vực rộng liên huyện hoặc liện tỉnh. - Nguồn vốn Ngân sách đầu tư theo các chương trình mục tiêu: cần tập trung cho trồng mới, bảo vệ rừng phòng hộ và rừng đặc dụng, hỗ trợ cho đầu tư cải tạo đất hoang hoá. Ngoài ra, vốn ngân sách cung cần đầu tư hỗ trợ cho một số ngành, lĩnh vực tác động đến phát triển sản xuất nông nghiệp: Công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm, xây dựng cơ sở hạ tầng cho giao thông, nước sạch nông thôn. 3.2. Nguồn vốn tín dụng. -Với nguồn tín dụng ưu đãi: Hướng sử dụng nguồn vốn này là đầu tư cho kiên cố hoá hệ thống kênh mương, hỗ trợ đầu tư cho cơ sở hạ tầng, phát triển các làng nghề, phát triển nuôi trồng thuỷ sản. -Với nguồn vốn tín dụng: Cho các thành phần kinh tế vay để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trong trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ như: Cho các hộ vay để phát triển sản xuất, phát triển kinh tế trang trại, cho các hợp tác xã vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh dịch vụ nông nghiệp… 3.3. Nguồn vốn các doanh nghiệp: Đặc điểm của nguồn vốn này trên địa bàn tỉnh đạt thấp, vì vậy trong giai đoạn tới cần tập trung cho đầu tư sửa chữa, xây dựng các cống tưới, tiêu nhỏ, kiên có hoá kênh mương cấp II, thay đổi thiết bị cho một số trạm bơm nhỏ, mua sắm các thiết bị nhỏ khác phục vụ sản xuất v.v… 3.4. Nguồn vốn huy động từ nhân dân: Nguồn vốn này trong giai đoạn tới cần huy động để sử dụng cho xây dựng các công trình sau đầu mối các trạm bơm, nạo vét kênh mương nhỏ nội đồng, kênh tưới cấp III; đầu tư cho cải tạo đất hoang hoá, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mở rộng quy mô sản xuất… Việc quản lý nguồn vốn này phải thực hiện đúng quy chế dân chủ ở cơ sở và các quy định của Nhà nước theo mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội của từng địa phương, theo từng đề án, dự án cụ thể cho từng lĩnh vực. 3.5. Nguồn vốn nước ngoài. Nguồn vốn ODA: Sẽ tập trung xây dựng các công trình thuỷ lợi lớn ở các vùng còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế-xã hội như xây dựng hệ thống thuỷ lợi, hồ đập ở miền núi, các tuyến kênh tưới tiêu lớn cho khu vực vùng sâu, vùng xa. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư cho sản xuất giống cây, con (gia súc, gia cầm, thủy sản), đầu tư vào các dự án chế biến nông sản thực phẩm, sản xuất chế biến thức ăn gia súc, sản xuất máy nông cụ, nông nghiệp. 4. Nâng cao chất lượng lập, thẩm định dự án và quản lý vốn đầu tư phát triển nông nghiệp. Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt các quy định hiện hành của Nhà nước về quản lý đầu tư và xây dựng. Công tác này phải được thường xuyên đổi mới cho phù hợp với tình hình thực tế. - Tập trung rà soát, sắp xếp lại các dự án đầu tư cho nông nghiệp theo hướng tập trung vốn cho các ngành lĩnh vực như: thuỷ lợi, cây con giống, các chương trình mục tiêu quốc gia (327, 135, 773…). Công tác xây dựng kế hoạch đầu tư phải đi trước một bước, đây là vấn đề quan trọng trong việc đảm bảo chủ động trong lập các dự án đầu tư, tiến độ thực hiện các dự án và phát huy hiệu quả vốn đầu tư trong nông nghiệp. Bố trí kế hoạch chuẩn bị đầu tư cho các dự án ngay từ quý II năm trước. Kế hoạch vốn đầu tư cho xây dựng các công trình phục vụ cho phát triển sản xuất nông nghiệp phải được ưu tiên, bố trí vốn ngân sách đầy đủ theo đúng tiến độ thực hiện công trình. Tăng cường công tác quản lý vốn đầu tư, tập trung cho những công trình trọng điểm phục vụ ngay cho yêu cầu sản xuất (phòng chống lụt bão, úng hạn, dịch bệnh). Việc bố trí vốn đầu tư phải tập trung theo thứ tự ưu tiên, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình, đảm bảo đúng tiến độ được giao theo kế hoạch. - Đối với các dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn chủ yếu thuộc loại dự án phát triển với nguồn vốn đầu tư từ ngân sách. Do vậy tình trạng lập dự án với mục đích xin vốn diễn ra một cách phổ biến, trong nhiều trường hợp, tính đối phó, sự hình thức trong lập dự án đã làm cho dự án thiếu sự khoa học tính khả thi thấp. Do vậy công tác thẩm định dự án là hết sức quan trọng trong việc đánh giá, xem xét lại dự án dựa theo tính khả thi, tình hiệu quả và sự phù hợp với quy hoạch, kế hoạch chung. Cần tiến hành phân cấp và uỷ quyền thực hiện quản lý đầu tư và xây dựng trên địa bàn tỉnh, gắn trách nhiệm cụ thể cho cơ quan thực hiện công tác thẩm định về chất lượng, tính khả thi thực sự của dự án. Để đảm bảo được chất lượng và tiến độ thẩm định, trong thời gian tới phải cần sự nỗ lực, đổi mới cơ chế làm việc của các cơ quan chịu trách nhiệm thẩm định, nâng cao trình độ và kỹ năng làm việc của các chuyên viên và nâng cao hiệu quả của công tác quản lý đầu tư. - Cải tiến các thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa, một dấu", rút ngắn thời gian cấp phép đầu tư. Giao cho từng ngành giải quyết và chịu trách nhiệm cụ thể về kết quả công việc, dần tiến tới hạn chế chế độ làm việc theo liên ngành như hiện nay. Thực hiện cấp phép đầu tư, giải phóng mặt bằng nhanh nhất có thể , tạo điều kiện cho các nhà đầu tư triển khai nhanh các dự án. Tăng cường công tác giám sát từ khâu lập dự án đến khi kết thúc dự án đưa vào sử dụng để đảm bảo đầu tư có hiệu quả, tránh thất thoát và lãng phí vốn. - Tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp: Nghiên cứu, sửa đổi cơ chế quản lý với các xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi; phân loại rõ ràng các tồn tại về tài chính để trên cơ sở đó xử lý các tồn tại theo nguyên nhân khách quan và quy trách nhiệm theo các nguyên nhân chủ quan, rà soát lại hệ thống định mức, xây dựng mức thu thuỷ lợi phí bằng tiền để thực hiện cơ chế khoán thu chi cho các doanh nghiệp… 6. Giải pháp về huy động vốn đầu tư phát triển nông nghiệp. Do yêu cầu đầu tư cho các lĩnh vực nông nghiệp và căn cư vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế của tỉnh trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, cần có biện pháp huy động vốn đầu tư theo mô hình tổng lực, tức là phải huy động tất cả mọi nguồn vốn đầu tư như nguồn vốn trong nước, nguồn nước ngoài, nguồn vốn tại chỗ, nguồn vốn tự có, nguồn nơi khác, trong đó nguồn vốn trong nước có vai trò quyết định, nguồn tại chỗ là cơ bản, nguồn bên ngoài là quan trọng. Đồng thời, cũng phải nhấn mạnh rằng, nguồn vốn từ ngân sách là nhân tố dẫn đường và là mọi nền tảng cho mọi kế hoạch đầu tư trong nông nghiệp, cụ thể: 6.1. Đối với nguồn vốn trong nước. 6.1.1. Tăng cường vốn đầu tư từ ngân sách cho nông nghiệp: Nhiệm vụ trước mắt của nông nghiệp tỉnh Hải Dương là phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà bản thân nông nghiệp còn nghèo, tự nó không thể giải quyết được. Vì vậy, vai trò của Nhà nước trong chính sách đầu tư cho nông nghiệp có tính quyết định. Trong những năm gần đây, vốn đầu tư từ ngân sách cho phát triển nông nghiệp không ngừng được tăng lên, song so với yêu cầu tăng trưởng kinh tế và vị trí của ngành trong nền kinh tế của tỉnh thì đầu tư cho nông nghiệp vẫn chưa thoả đáng. Do vậy, cần thay đổi một cách cơ bản chính sách trong đầu tư, trong đó tăng tỷ trọng vốn đầu tư từ nguồn vốn ngân sách cho phát triển nông nghiệp cho tương ứng với tỷ lệ nông nghiệp trong GDP của tỉnh. 6.1.2. Đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn nhàn rỗi trong dân vào nông nghiệp: Thông qua các kênh huy động vốn khác nhau như: tiền gửi tiết kiệm, công trái, trái phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng ghi thu bằng đồng nội tệ, vang, ngoại tệ… với các loại thời gian huy động khác nhau. Nhà nước cần có các chính sách như bảo hiểm tiền gửi ưu đãi đối với các dự án đầu tư dài hạn vào sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Ưu tiên các hình thức thu hút vốn trung và dài hạn nhằm phục vụ cho các mục tiêu phát triển nông nghiệp dịch vụ và dịch vụ ngành nghề trong nông nghiệp, nông thốn của vùng. Tăng lãi suất tiền gửi để thu hút lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư. Đây là giải pháp thu hút vốn khá mạnh, vì vậy cần hỗ trợ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng ở các cơ sở để thực hiện giải pháp này. Thực tế cho thấy, mặc dù các khoản tiết kiệm trong dân thường nhỏ nhưng tổng lượng vốn này lại rất lớn do đó chính sách thu hút tiền gửi phải rất linh hoạt, đảm bảo niềm tin, sự thuận lợi và lợi ích của nông dân. Ngoài ra, cũng cần có cơ chế để các tổ chức tín dụng ở các lĩnh vực khác có thể sử dụng hình thức tín dụng triết khấu của các tổ chức tín dụng ở nông thôn để tái đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. 6.1.3. Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống tài chính tín dụng để nông dân có thể tiếp cận nhanh nhất nguồn vốn đầu tư: Hiện nay, thiếu vốn là vấn đề rất nan giải trong sản xuất nông nghiệp vì thu nhập của người nông dân còn thấp, khả năng tích luỹ rất hạn chế. Vậy làm thế nào để người nông dân có thể tiếp cận nhanh nhất nguồn vốn đầu tư là vấn đề cấp bách. Vốn đầu tư cho nông nghiệp được hình thành từ nhiều kênh, nhưng trong những năm gần đây của Hải Dương ta thấy, nguồn vốn tín dụng ngày càng gia tăng. Vì vậy, tỉnh nên tăng cường các biện pháp tài chính, tín dụng đi sâu nghiên cứu thoái gỡ những vướng mắc hiện tại trong huy động vốn tín dụng nhằm tăng cường vốn đầu tư cho nông nghiệp. - Tín dụng ngân hàng: Để nông dân có thể vay được vốn của ngân hàng, các quy chế và thủ tục vay vốn của ngân hàng tiếp tục phải được cải thiện: + Về mức vay: xây dựng định mức cho vay thích hợp với nhu cầu vay của người nông dân căn cứ theo loại hình sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư (mở rộng hay đầu tư chiều sâu). + Về lãi suất vay: Theo quy định chung, lãi suất vay của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông đối với vùng nông hiện nay là 1%. Thực tế thì đây là mức lại suất sàn, không thể hạ thấp hơn được nữa. Tuy nhiên, lãi suất này vẫn là cao đối với các hộ sản xuất nhỏ, vùng sâu vùng xa, có điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng không thuận lợi. Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các hộ nông dân ở các vùng này trong thời hạn nhất định từ 3 đến 5 năm từ khi bắt đầu vay vốn. + Về thời hạn vay: Tạo điều kiện cho nông dân vay vốn dài hạn, nhất là đối với các hộ trồng rừng, cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả lâu năm. Có thể cho vay kết hợp cả cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn để các hộ có thể thực hiện chủ trương lấy ngắn nuôi dài. + Về phương thức vay: Ngân hàng nên cải tiến và đa dạng hoá các phương thức cho vay đối với các hộ nông dân trong đó mở thêm các phương thức vay - trả linh hoạt đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nông dân. + Về thủ tục: Giảm tối đa các thủ tục cho vay của ngân hàng, loại bỏ các giấy tờ gây chồng chéo không cần thiết. - Các tổ chức tín dụng khác: Ngoài ngân hàng, cung cấp vốn tín dụng trong nông nghiệp còn nhiều tổ chức khác như: quỹ tín dụng nhân dân, quỹ quốc gia giải quyết việc làm, các hội phụ nữ đoàn thể, các tổ chức phi chính phủ của nước ngoài. Tuy nhiên, với các tổ chức này chỉ dừng lại ở các hộ nghèo với nguồn vốn vay hạn chế. Trong thời gian tới, Nhà nước cần tìm cách khuyến khích các tổ chức này mở rộng đối tượng cho vay với quy mô vốn lớn hơn. Nguồn vốn tín dụng là nguồn vốn rất quan trọng trong dân, vì vậy tỉnh cần tập trung quản lý các nguồn vốn đầu tư, các nguồn tài trợ cho các định chế tài chính này, tránh phân tán, chồng chéo trong việc bố trí vốn đầu tư thông qua phát triển thị trường vốn ở nông thôn, có sự cạnh tranh và tham gia cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng của mọi thành viên. Kiện toàn hành lang pháp lý cho tổ chức và hoạt động đầu tư tín dụng trong nông nghiệp, nông thôn. 6.2. Thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Khuyến khích đầu tư nước ngoài, coi đầu tư nước ngoài là một bộ phận kinh tế lâu dài của tỉnh. 6.2.1. Đối với nguồn vốn ODA: Tích cực chủ động trong việc tiếp cận nguồn vốn ODA cho nông nghiệp. Cần tập trung thu hút vốn ODA cho xoá đói giảm nghèo, cơ sở hạ tầng nông thôn, thuỷ lợi. Cần có biện pháp đồng bộ để nâng cao tốc độ giải ngân. Hài hoà thủ tục từ khâu lập dự án cho đến khâu xét thầu, có chính sách và biện pháp hữu hiệu đối với công tác di dân, tái định cư, giải phóng mặt bằng cho việc thực hiện dự án. Kiện toàn nâng cao năng lực quản lý của các Ban quản lý dự án. Cần đối thoại thường xuyên với các nhà tài trợ, đồng thời cũng cần nâng cao năng lực của bên tiếp nhận như tăng vốn đối ứng lên một tỷ lệ nhất định, nắm bắt rõ các thông lệ và quy định quốc tế của nhà tài trợ. 6.2.2. Đối với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI: Tiếp tục triển khai việc thực hiện Nghị định 09/2001/NĐ - CP của Chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2001-2005. Cần tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào đầu tư chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và nông thôn của tỉnh, chủ yếu tập trung vào công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản. Để thu hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp, tỉnh cần thực hiện tốt một số giải pháp sau: Cải thiện môi trường đầu tư, nhất là hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng (giao thông, điện, thông tin liên lạc…), xoá bỏ cơ chế 2 giá với sản phẩm và dịch vụ. Tháo gỡ các khó khăn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đang triển khai hoạt động trong nông nghiệp. Tăng cường công tác vận động xúc tiến đầu tư nước ngoài. Công bố rộng rãi các danh mục dự án, chương trình kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp. 7. Hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp. Xuất phát từ thực trạng khó khăn và đi tìm định hướng để thúc đẩy hoạt động đầu tư phát triển ngành nông nghiệp Hải Dương thì cùng với công tác quản lý và quy hoạch thì định hướng mới phải bao quát được chủ trương chính sách liên quan đến đầu tư, có sự tập trung thống nhất quản lý của Nhà nước đối với mọi nguồn vốn đầu tư trong nông nghiệp, áp dụng cơ chế một cửa đối với các hoạt động đầu tư, đồng thời tuân thủ các định chế tài chính thích ứng với cơ chế thị trường để thu hut các nguồn vốn đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn. Như vậy, ngoài các chính sách tổng hợp cần thực hiện tốt những chính sách mang tính cụ thể hơn như sau: 7.1. Chính sách ruộng đất. Với hoạt động sản xuất nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được, vì vậy cần phải đề ra chính sách ruộng đất phù hợp hơn, tạo điều kiện cho người dân phát huy năng lực sản xuất. Cụ thể là tiếp tục giao khoán ruộng đất lâu dài cho người nông dân, cũng như quyền thừa kế chuyển nhượng trong thời gian Nhà nước quy định, để từ đó nông dân hăng hái và an tâm bỏ vốn vào đầu tư thâm canh, mở rộng diện tích sản xuất chú trọng đến việc quy hoạch đất đai, cây trồng. Đối với đất nông nghiệp thường gồm 2 loại: Đất canh tác và đất khai hoang, do đó đối với mỗi loại đất này phải có những chính sách khác nhau. Với đất canh tác cần có chủ trương nhất quán từ Trung ương đến cơ sở quy định thời gian sử dụng đất hợp lý để người dân có sự lựa kế hoạch đầu tư cho mình. Trong thời gian sử dụng, không được chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp mà không có giấy phép, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân có thể chuyển quyền sử dụng ruộng đất để kích thích những người có kinh nghiệm tham gia sản xuất, đồng thời cũng cần hạn chế tình trạng mua bán đất nông nghiệp tràn lan xảy ra ở một số nơi hiện nay. Với đất khai hoang thì thời gian giao quyền sử dụng đất phải kéo dài hơn 2-3 lần so với đất canh tác và phải có sự phân biệt với từng vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi. Đối với các vùng đất làm trang trại thì thời gian giao đất cần thông qua hợp đồng sử dụng đất, trong đó cần có những quy định có tính chất pháp lý chặt chẽ vừa đảm bảo được quyền lợi vừa đảm bảo được nghĩa vụ với người sử dụng đất theo Nghị định 22/ CP của Chính phủ. 7.2. Chính sách thuế nông nghiệp. - Xây dựng biểu thuế sử dụng đất nông nghiệp sao cho đảm bảo trong điều kiện bình thường, người sản xuất có một phần lãi để tái sản xuất, thực hiện động viên hợp lý với những người sử dụng đất có hiệu quả, ưu đãi thuế với những vùng có điều kiện sản xuất khó khăn, trình độ canh tác thấp. - Tiếp tục thực hiện chính sách miễm giảm thuế nông nghiệp trong hạn điền để các hộ nông nghiệp có điều kiện bỏ thêm vốn để đầu tư vào sản xuất. Cần thực hiện miễn giảm đối với việc sử dụng đất khai hoang, sử dụng đất chuyên dùng sang sản xuất nông nghiệp, hay miễm giảm với các hộ gặp nhiều khó khăn hoặc những khu vực gặp thiên tai, hạn hán. Hiện nay, ngoài khoản thuế phải nộp cho Nhà nước, người nông dân còn phải nộp nhiều loại lệ phí khác ở địa phương. Vì vậy, cần rà soát lại và xoá bỏ những loại lệ phí bất hợp lý, tổ chức lại việc thu thuế đúng chính sách.Việc thu thuế nông nghiệp hàng năm của tỉnh không nhiều (khoảng 2% tổng thu), nên cần giảm thiểu thuế sử dụng đất nông nghiệp cho nông dân mà trước hết là bộ phận trồng lúa để người dân đỡ đi một khoản đóng góp, có điều kiện tập trung sản xuất, cần khuyến khích người dân sử dụng nguồn này để đầu tư cho cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp. Nếu giải pháp này được thực hiện thì mặc dù Nhà nước mất đi một phần nhỏ trong tổng thu ngân sách nhưng lại khơi dậy được vốn đầu tư trong khu vực dân cư. Hơn nữa ta có thể thấy trong khi Nhà nước có chủ trương khuyến khích đầu tư phát triển nông nghiệp một cách tối đa, trong khi hàng năm Nhà nước phải bỏ ra hàng nghìn tỷ đồng (lớn hơn rất nhiều so với thuế sử dụng đất nông nghiệp) để đầu tư cho thuỷ lợi, trợ giá nông sản, phân bón… thì tại sao không giảm các khoản đóng góp của nông dân để họ tự đầu tư cải tạo mở rộng sản xuất. 7.3. Chính sách thị trường. Mở rộng thị trường là vấn đề hết sức quan trọng để thúc đẩy sản xuất, nâng cao đời sống, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, tăng cường đầu tư tái sản xuất mở rộng. Muốn mở rộng được thị trường phải giải quyết tổng hợp nhiều vấn đề quan trọng sau đây: - Phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt là giao thông đường sá, phương tiện vận chuyển, hệ thống chợ nông thôn, các tụ điểm dân cư, các cửa hàng buôn bán vật tư và nông sản phẩm. - Đầu tư phát triển hệ thống thông tin và dự báo về thị trường, giá cả hàng hoá đến tận các thôn xóm, hộ gia đình, mở rộng các dịch vụ tư vấn mua bán ở các vùng. - Đảm bảo thị thị trường nội tỉnh và trong vùng thông suốt. Thực hiện một giá, giá thị trường theo quy luật cung cầu, tránh mọi trường hợp độc quyền về giá, đặc biệt là những mặt hàng do Nhà nước quản lý. Cần điều tiết thị trường dựa trên quy luật cung cầu để tránh những biến động lớn về giá cả, đặc biệt với các sản phẩm thiết yếu. 7.4. Chính sách khoa học và công nghệ. Trước mắt tỉnh cần tập trung vào các hướng chủ yếu sau đây: - Nghiên cứu và áp dụng hệ thống giống cây trồng có năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, thời gian sinh trưởng ngắn thích hợp với nhiều vùng khác nhau. - Nghiên cứu và áp dụng hệ thống bảo vệ thực vật, thú y cho từng loại cây con, hệ thống các biện pháp cải tạo đất và bón phân phù hợp với từng loại cây trồng; nghiên cứu, áp dụng các quy trình sản xuất trồng trọt, chăn nuôi thích hợp với từng loại cây con, từng vùng để đảm bảo hiệu quả cao. - Đầu tư nâng cao trình độ công nghệ chế biến và bảo quản nông, lâm, thuỷ sản thích hợp với điều kiện từng vùng, kết hợp tốt giữa sơ chế và tinh chế; Cải tiến hệ thống công cụ lao động nhằm tăng năng suất lao động, cải thiện điều kiện làm việc của người lao động - Nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật cho người lao động, mở rộng hệ thống thông tin khoa học kỹ thuật và quản lý, đặc biệt chú ý thông tin kịp thời tình hình thị trường và giá cả, tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận thị trường và trao đổi hàng hoá. Mở rộng mạng lưới khuyến nông đến từng cơ sở xã, phường, đến từng hộ nông dân, đặc biệt quan tâm đến vùng sản xuất chuyên môn hoá và xuất khẩu. Tóm lại, nông nghiệp, nông thôn phát triển nhanh hay chậm phụ thuộc rất lớn vào sự đầu tư của Nhà nước, cũng như các cơ chế, chính sách. Vì vậy, để nông nghiệp phát triển ổn định và bền vững thì giải pháp với các cơ chế chính sách là hết sức quan trọng. Cần hiểu rằng, cơ chế chính sách ở đây là một hệ thống các chính sách đồng bộ, có ảnh hưởng lẫn nhau và mục đích tác động cuối cùng là thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Hệ thống chính sách bao gồm: chính sách ruộng đất, chính sách thuế, chính sách đầu tư, chính sách hỗ trợ sản xuất… một hệ thống chính sách đồng bộ và thiết thực là điều kiện cơ bản thúc đẩy sản xuất có hiệu quả hơn. Kết luận Trong nhiều năm qua, nhất là trong giai đoạn 1996- 2002, tỉnh Hải Dương đã huy động nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư cho phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh trong đó có ngành nông nghiệp. Những kết quả đầu tư trong nhiều năm qua đã thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển nhanh và ổn định. Bước đầu đã hình thành các vùng chuyên canh sản xuất cây lương thực, rau màu, cây ăn quả và cây công nghiệp ngắn ngày. Sản xuất nông nghiệp hiện nay trong tỉnh đã cung cấp đủ nhu cầu của người dân về lương thực, thực phẩm và có một phần cung cấp cho thị trường trong nước và phục vụ xuất khẩu. Những kết quả quan trọng đã đạt được trong sản xuất nông nghiệp trong những năm qua đã góp phần thực hiện thắng lợi toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng của tỉnh, làm thay đổi cơ bản đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, trong những năm qua do khả năng kinh tế của tỉnh còn có hạn, nguồn thu chi ngân sách trên địa bàn còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu thu chi, nguồn vốn ngân sách dành cho đầu tư phát triển chưa nhiều, nhất là đầu tư sản xuất nông nghiệp, Mặt khác, một số giải pháp chính sách đã thực hiện trong đầu tư cho phát triển nông nghiệp nhưng còn nhiều thiếu sót tồn tại. Điều đó dẫn đến vốn đầu tư cho nông nghiệp rất thấp so với nhu cầu, nhiều công trình lớn và quan trọng chưa có vốn để triển khai xây dựng. Cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn còn yếu kém. Trong nông nghiệp hiện nay, sản xuất nhỏ và lao động thủ công vẫn là phổ biến, năng suất, chất lượng sản phẩm thấp, hiệu quả sản xuất không cao đã làm hạn chế quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Từ phân tích về thực trạng đầu tư cho phát triển nông nghiệp trong những năm qua của tỉnh Hải Dương trên cơ sở những điều kiện tự nhiện, kinh tế-xã hội của tỉnh, chuyên đề đã dưa ra một số giải pháp đầu tư cho phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương đến năm 2010 nhằm khắc phục khó khăn hiện nay để tăng cường đầu tư cho phát triển nông nghiệp. Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn phục vụ cho yêu cầu phát triển của nông nghiệp, tạo ra động lực mạnh mẽ để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn toàn diện và vững chắc nhằm chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Trên đây là toàn bộ nội dung của đề tài "Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp của tỉnh Hải Dương hiện nay". Nhằm góp phần nhận thức được các vấn đề lý luận về đầu tư và đầu tư phát triển nói chung và đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp nói riêng, phân tích, đánh giá tình hình thực trạng đầu tư cho phát triển sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn 1996- 2002 của tỉnh Hải Dương và đề xuất các giải pháp đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp của tỉnh Hải Dương đến 2010. Do nhận thức còn nhiều hạn chế, những nội dung đưa ra trong đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được các thầy cô giáo và bạn đọc tham gia đóng góp ý kiến và tạo điều kiện quan tâm giúp đỡ hoàn thiện ./. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế phát triển, Khoa kinh tế phát triển, trường ĐHKTQD Hà nội, NXB Thống Kê 3/2001. 2. Nông nghiệp Việt Nam bước vào thế kỷ XXI. 3. Đầu tư trong nông nghiệp, thực trạng và phát triển- NXB CTQG 1995. 4. Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, NXB Thống Kê- Hà Nội 1998. 5. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2001-2010. NXB CTQG Hà Nội 2002. 6. Tạp chí kinh tế dự báo số 342 tháng 1/ 2002 của Bộ Kế hoạch và đầu tư. 7. Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2002. 8. Quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh Hải Dương đến năm 2010. 9. Nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh Hải Dương, thời kỳ 2001-2005. 10.Chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá đến năm 2010 của tỉnh Hải Dương. 11. Chương trình hành động của tỉnh Hải Dương về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001- 2010. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37079.doc