Lời nói đầu
Trước đây, hiện nay và trong tương lai của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, Đảng và nhà nước ta luôn kiên trì chủ trương xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh, phát triển bền vững vì xét về lâu dài, nước ta có tài nguyên phong phú, có nhiều lợi thế to lớn về nông nghiệp (có tới 80% dân số sống ở nông thôn và khoảng 70% lao động làm việc trong ngành sản xuất nông nghiệp). Trong quá trình đổi mới kinh tế đất nước từ năm 1986 nền nông nghiệp nước ta có nhiều thành tựu to l
86 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1239 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và các giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớn, từ một nước thiếu lương thực trầm trọng cho đến nay nước ta không những đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng mà xuất khẩu đứng thứ 2 thế giới. Tuy nhiên nông nghiệp vẫn là nền nông nghiệp truyền thống với nhiều hạn chế: sản xuất nhỏ, lạc hậu, hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh thấp, trong sản xuất nông nghiệp thì trồng trọt là chủ yếu chăn nuôi chưa phát triển đó là những tồn tại mà không dễ gì khắc phục được trong thời gian ngắn. Việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp là đòi hỏi bức xúc của nông dân ta, nhà nước ta. Đây cũng là điều kiện cần đủ cho sự phát triển bền vững mà theo lý thuyết phát triển kinh tế thì phát triển bao gồm tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu.
Thái Bình là tỉnh có truyền thống sản xuất nông nghiệp từ lâu đời, là vựa lúa của đồng bằng sông Hồng cũng như cả nước. Thái Bình là tỉnh có dân số trên 1,8 triệu người, mật độ dân số đông 1176 người/1km. Cây lúa là cây độc canh đã được thâm canh ở trình độ cao vì thế năng suất cao nhất cả nước (11 đến 12 tấn/ha). Trong 7 năm gần đây liên tục đạt sản lượng trên 1 triệu tấn/năm, lương thực bình quân đầu người năm 2002 625 kg/người/năm. Tỉnh còn có tiềm năng lớn về phát triển các loại cây công nghiệp cây ăn quả, cây thực phẩm và chăn nuôi. Quá trình phát triển nông nghiệp của tỉnh trong thời gian qua đã đóng góp không nhỏ trong việc cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, cho xuất khẩu. Tuy nhiên cơ cấu sản xuất của tỉnh hiện nay chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế trên, chưa hình thành rõ nét các vùng sản xuất hàng hoá tập trung gắn với công nghiệp chế biến, thị trường tiêu thụ, hiệu quả kinh doanh thấp, sức cạnh tranh kém… Cần thiết phải có các giải pháp để thúc đẩy nhanh việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng phát huy lợi thế so sánh, xây dựng một nền sản xuất hàng hoá gắn với thị trường, khả năng cạnh tranh cao.
Vì những lý do trên em đã chọn đề tài: “Thực trạng và các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở Thái Bình”.
Mục đích nghiên cứu cuả đề tài: nghiên cứu lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá. Xác định vai trò, nhiệm vụ của các cấp, các ngành chính quyền địa phương, các cơ sở sản xuất nông nghiệp, các hộ gia đình và HTX nông nghiệp thực hiện nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Qua việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần đưa ra các giải pháp phù hợp với điều kiện cụ thể của tỉnh.
Kết cấu của đề tài gồm 3 chương :
Chương I : Cơ sở lý luận về cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Chương II : Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại Thái Bình theo hướng sản xuất hàng hoá.
Chương III: Phương hướng và một số giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với duy vật lịch sử theo quan điểm Mac - Lênin, áp dụng phương pháp điều tra phân tích, so sánh tổng hợp làm sáng tỏ nghiên cứu của đề tài. Đề tài cũng được sử dụng các tài liệu về cơ sở lý luận kinh tế, quản lý chuyên ngành, các chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh năm 2000 - 2010.
Do kiến thức bản thân còn nhiều hạn chế, việc phân tích đánh giá thực trạng kinh tế ngành nông nghiệp rất phức tạp cần được đi sâu vào nghiên cứu. Vì vậy đề tài khó tránh khỏi những sai sót, rất mong nhận được sự đóng góp quý báu của các thầy cô giáo, bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Thạc sỹ Vũ Thị Minh - Bộ môn Quản trị doanh nghiệp nông nghiệp, cùng các cô chú trong Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Thái Bình đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập cũng như thực hiện đề tài này.
Chương I : Cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
I. Khái niệm và đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông nghiệp
1. Khái niệm
1.1. Khái niệm về cơ cấu kinh tế
Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất là xu thế phổ biến, tất yếu của mỗi quốc gia, nó thúc đẩy phân công lao động xã hội, các ngành các lĩnh vực được phân chia theo tính chất sản phẩm chuyên môn kỹ thuật. Khi các ngành phân chia theo tính chất sản phẩm chuyên môn kỹ thuật đòi hỏi phải giải quyết mối quan hệ giữa chúng với nhau. Các mối quan hệ đó vừa thể hiện sự hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau song cũng cạnh tranh với nhau để phát triển. Sự phân công, mối quan hệ hợp tác trong hệ thống là tiền đề cho quá trình hình thành cơ cấu kinh tế.
Thực tế trong các tài liệu kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm cơ cấu kinh tế, các cách tiếp cận này thường bắt nguồn từ khái niệm “cơ cấu” là một phạm trù triết học. Khái niệm cơ cấu thường được sử dụng để biểu thị cấu trúc, hiện trạng, tỷ lệ và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Nó được biểu hiện như là một tập hợp các mối quan hệ hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định. Cơ cấu chính là thuộc tính của hệ thống đó. Chính vì vậy khi nghiên cứu về cơ cấu kinh tế chúng ta phải đứng trên quan điểm duy vật biện chứng.
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng, lý thuyết hệ thống kinh tế, cơ cấu kinh tế có thể được hiểu là một tổng thể được hợp thành bởi nhiều yếu tố của nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ, tương tác hỗ trợ, qua lại lẫn nhau cả về số lượng chất lượng trong những điều kiện kinh tế xã hội và không gian cụ thể. Sự vận động của nó luôn gắn liền với sự thay đổi không ngừng của lực lượng sản xuất, nhu cầu chính trị xã hội và hướng vào mục tiêu nhất định.
Một cách tiếp cận khác thì cho rằng: Cơ cấu kinh tế được hiểu một cách đầy đủ là tổng thể của hệ thống kinh tế, bao gồm nhiều yếu tố quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động hỗ trợ qua lại với nhau trong những thời gian và không gian nhất định, trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định được thể hiện cả về mặt định tính lẫn định lượng, phù hợp với chiến lược, với mục đích của nền kinh tế.
Những cách tiếp cận trên đã phản ánh được mặt bản chất cơ bản, chủ yếu của cơ cấu kinh tế, cụ thể là:
Tổng thể các nhóm ngành, các yếu tố cấu thành của hệ thống kinh tế mỗi quốc gia.
Số lượng và tỷ trọng của các nhóm, ngành và các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế trong tổng thể nền kinh tế đất nước.
Các mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các nhóm, ngành và các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế hướng vào mục tiêu xác định.
Từ ý nghĩa đó chúng ta có thể rút ra định nghĩa về cơ cấu kinh tế như sau:
“Cơ cấu kinh tế là tổng thể của các bộ phận hợp thành với vị trí, tỷ trọng tương ứng của mỗi bộ phận và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận ấy trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội”.
1.2. Khái niệm về cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Kinh tế nông nghiệp là một bộ phận của kinh tế nông thôn, là một trong những ngành kinh tế đặc trưng của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nông nghiệp cùng với kinh tế nông thôn là một trong những khu vực kinh tế quan trọng, trước hết là khu vực cung cấp lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Cùng với khu vực nông thôn là thị trường tiêu thụ rộng lớn, sản phảm công nghiệp bao gồm cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay do phát huy được lợi thế so sánh tuyệt đối và tương đối có thể khai thác được nguồn lợi nông - lâm - thuỷ sản làm tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thêm nguồn tích luỹ góp phần phát triển kinh tế đất nước. Phát triển nông nghiệp còn có vai trò to lớn, đó là cơ sở phát triển bền vững môi trường, trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá kéo theo nhiều vấn đề về ô nhiễm môi trường phá vỡ môi trường sinh thái. Phát triển nông nghiệp giúp điều hoà không khí, tái lập hệ sinh thái bền vững.
Hiện nay với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân đặc biệt là ngành công nghiệp và dịch vụ, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm xuống chủ yếu là các sản phẩm nông - lâm nghiệp nhưng không phải vì thế mà vị trí của ngành giảm xuống, nó vẫn giữ vị trí quan trọng là nơi sản xuất và cung cấp những sản phẩm thiết yếu không thể thay thế được. Vì thế cơ cấu kinh tế nông nghiệp luôn vận động thích ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã hội của từng thời kỳ.
Như vậy cơ cấu kinh tế nông nghiệp được biểu hiện một cách đầy đủ là một tổng thể các mối quan hệ trong khu vực kinh tế nông nghiệp có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau theo từng tỷ lệ nhất định về mặt lượng và liên quan chặt chẽ về mặt chất, chúng tác động qua lại lẫn nhau trong những thời gian và không gian nhất định, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nhất định, tạo thành một hệ thống kinh tế nông nghiệp, một bộ phận không thể tách rời của hệ thống kinh tế quốc dân.
1.3. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng không phải là bất biến mà sẽ vận động phát triển và chuyển hoá cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới có nhiều tính ưu việt hơn.
Sự chuyển dịch đó phải trải qua thời gian và những bước phát triển nhất định. Đầu tiên đó là sự thay đổi về lượng, khi lượng đã tích luỹ đến độ nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất. Đó là quá trình chuyển hoá dần từ cơ cấu kinh tế cũ thành cơ cấu kinh tế mới phù hợp và có hiệu quả hơn. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhanh hay chậm còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó sự tác động của con người là yếu tố nhất định.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình làm thay đổi cấu trúc và mối quan hệ của hệ thống kinh tế nông nghiệp theo một chủ định và định hướng nhất định nghĩa là đưa hệ thống kinh tế nông nghiệp đến trạng thái phát triển tối ưu đạt hiệu quả như mong muốn, thông qua tác động điều khiển có ý thức, định hướng của con người, trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng các quy luật khách quan.
2. Những đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông nghiệp .
2.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính chất khách quan được hình thành do sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội chi phối, ở một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất sẽ có một cơ cấu kinh tế tương ứng trong nông nghiệp. Điều đó khẳng định: việc xác lập cơ cấu kinh tế nông nghiệp cần tôn trọng tính khách quan của nó và càng không thể áp đặt một cách chủ quan duy ý chí.
2.2. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp bao giờ cũng mang tính lịch sử và xã hội nhất định. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tổng thể các mối quan hệ kinh tế trong nông nghiệp, được xác lập theo những tỷ lệ nhất định về mặt lượng, liên quan chặt chẽ về mặt chất, tác động qua lại lẫn nhau trong thời gian cụ thể. Tại thời điểm đó do những điều kiện về tự nhiên, kinh tế xã hội, các tỷ lệ đó được xác lập và hình thành tạo thành một cơ cấu kinh tế nhất định. Khi có sự biến đổi của những điều kiện nói trên thì lập tức các mối quan hệ này cũng thay đổi và hình thành một cơ cấu kinh tế mới thích hợp hơn với điều kiện mới.
2.3. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp không ngừng vận động, biến đổi, phát triển theo hướng ngày càng hợp lý và hiệu quả hơn. Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, con người ngày càng văn minh, khoa học công nghệ phát triển, phân công lao động càng tỷ mỉ và phức tạp, tất yếu sẽ dẫn đến cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng ngày càng hoàn thiện. Sự vận động và biến đổi không ngừng của các yếu tố đó, các bộ phận trong ngành kinh tế nói chung cũng như khu vực kinh tế nông nghiệp nói riêng, cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng sẽ vận động, biến đổi và phát triển không ngừng thông qua sự chuyển dịch của ngay bản thân nó. Cơ cấu cũ sẽ mất đi và cơ cấu mới sẽ hình thành và phát triển, đó là quá trình vận động không ngừng của sự vật. Khi cơ cấu mới trở thành lỗi thời, lạc hậu nó lại được thay thế bởi một cơ cấu mới tiến bộ hơn hoàn thiện hơn. Sự vận động và biến đổi đó là tất yếu, phản ánh sự phát triển không ngừng của văn minh nhân loại.
II. Nội dung của cơ cấu kinh tế nông nghiệp và các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế nông nghiệp..
1. Nội dung của cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
1.1. Cơ cấu ngành.
Cơ cấu ngành diễn ra sớm nhất và giữ vai trò quyết định, nó gắn liền với sự phát triển của phân công lao động xã hội, sự phân công lao động theo ngành là cơ sở để hình thành cơ cấu ngành. Sự phân công lao động phát triển ở trình độ cao, càng tỷ mỉ thì sự phân chia ngành càng đa dạng và sâu sắc.
Nhóm ngành nông nghiệp là lĩnh vực sản xuất vật chất chủ yếu, tạo ra sản phẩm thiết yếu cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, là thị trường rộng lớn tiêu thụ công nghiệp. Theo nghĩa rộng nông nghiệp bao gồm cả nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và phát triển nông thôn toàn diện.
Xét về thực chất bản thân nông nghiệp sẽ không đẩy mạnh, đẩy nhanh sự phát triển kinh tế, không tạo ra những tích luỹ cần thiết để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nếu không có sự hỗ trợ tác động của công nghiệp chế biến và dịch vụ tiêu thụ sản phẩm. Chính vì thế, phát triển nông nghiệp phải gắn với công nghiệp chế biến để làm tăng giá trị của sản phẩm, tăng sức cạnh tranh và mở rộng phạm vi hoạt động của mình trên thị trường trong nước và khu vực quốc tế.
Hiện nay trong nông nghiệp không chỉ bao gồm ngành trồng trọt và chăn nuôi mà nó còn cả dịch vụ nông nghiệp. Vì vậy cơ cấu ngành nông nghiệp bao gồm 3 nhóm ngành: trồng trọt, chăn nuôi, và dịch vụ nông nghiệp.
Trong mỗi nhóm ngành trên lại được phân thành những ngành hẹp hơn. Ngành trồng trọt được chia thành trồng cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây rau màu… Trong ngành chăn nuôi được phân chia thành chăn nuôi đại gia súc, tiểu gia súc, chăn nuôi gia cầm… Ngành trồng trọt và chăn nuôi là 2 ngành cung cấp những sản phẩm vật chất chủ yếu, cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Xu hướng tiêu dùng có tính quy luật chung, khi xã hội càng phát triển thì nhu cầu tiêu dùng về các sản phẩm chăn nuôi ngày càng tăng lên một cách tuyệt đối so với các sản phẩm nông nghiệp nói chung. Chính vì vậy sự chuyển đổi có tính quy luật trong đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp là chuyển dần từ trồng trọt sang phát triển chăn nuôi, trong ngành trồng trọt các hoạt động trồng cây lương thực chuyển sang những cây trồng có giá trị cao và phục vụ cho các ngành khác phát triển.
Ngành trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Trồng trọt cung cấp những sản phẩm cần thiết cho chăn nuôi, ngược lại ngành chăn nuôi tạo đà cho ngành trồng trọt phát triển, tuy nhiên hiện nay dịch vụ nông nghiệp cũng giữ vai trò quan trọng thúc đẩy 2 ngành trên phát triển nhanh chóng. Các dịch vụ giống, kỹ thuật, vật tư, vốn… góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo h ướng có hiệu quả hơn.
Trong một thời gian cơ cấu kinh tế nước ta chậm chuyển biến nông nghiệp chiếm vị trí chủ yếu cơ cấu ngành nông nghiệp chậm chuyển dịch nguyên nhân chủ yếu là lực lượng sản xuất kém phát triển, năng suất lao động thấp phân công lao động chưa sâu sắc, nên tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm kéo dài. Từ năm 1989 trở lại đây sản xuất lương thực đạt thành tựu to lớn đảm bảo an ninh lương thực và dư thừa để xuất khẩu do vậy cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch nhanh chóng và có hiệu quả.
1.2. Cơ cấu vùng, lãnh thổ
Sự phân công lao động theo ngành kéo theo sự phân công lao động theo lãnh thổ, đó là 2 mặt của một quá trình gắn bó hữu cơ với nhau. Sự phân công lao động theo ngành bao giờ cũng diễn ra trên vùng lãnh thổ nhất định, nghĩa là cơ cấu vùng, lãnh thổ là nơi bố trí các ngành sản xuất, dịch vụ theo không gian cụ thể nhằm khai thác mọi ưu thế vốn có.
Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, lịch sử truyền thống tự nhiên, kinh nghiệm sản xuất, tập quán… của mỗi vùng là phổ biến ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Từ ý nghĩa đó cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ mang tính phổ biến ở mỗi quốc gia không phân biệt chế độ chính trị xã hội. Việc xây dựng cơ cấu kinh tế nông nghiệp vùng lãnh thổ nhằm mục đích khai thác triệt để có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế so sánh.
Cơ cấu vùng lãnh thổ vận động, phát triển theo hướng liên kết, hỗ trợ nhau giữa các vùng nhằm khai thác triệt để tiềm năng, lợi thế của mỗi vùng, liên kết hỗ trợ nhau tạo ra sự phân công lao động theo vùng lãnh thổ.
Xu thế chuyển dịch cơ cấu vùng, lãnh thổ đi vào chuyên môn hoá, tập trung hoá hình thành chuyên vùng sản xuất hàng hoá lớn, tập trung, có hiệu quả hơn, gắn cơ cấu từng khu vực với cơ cấu kinh tế của cả nước. Trong từng vùng, lãnh thổ coi trọng chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng hợp đa dạng các nghành sản xuất.
So với cơ cấu ngành thì cơ cấu vùng lãnh thổ có tính trí tuệ hơn, có sức ỳ hơn, chậm chuyển dịch hơn vì thế bố trí các vùng chuyên môn hoá cần được xem xét thận trọng, nếu sai phạm lớn sẽ khó khắc phục và bị tổn thất lớn.
1.3. Cơ cấu thành phần kinh tế
Nếu như cơ cấu kinh tế ngành được hình thành từ sự phân công lao động xã hội, cơ cấu vùng lãnh thổ được hình thành từ sự bố trí sản xuất theo không gian địa lý thì cơ cấu thành phần kinh tế lại được hình thành từ cơ sở chế độ sở hữu. Một cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý đòi hỏi phải dựa trên cơ sở hệ thống tổ chức kinh tế với chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy sự phân công lao động xã hội… theo đó cơ cấu kinh tế thành phần kinh tế cũng là một nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu vùng, lãnh thổ. Sự tác động đó là biểu hiện sinh động của mối quan hệ giữa các loại cơ cấu trong nền kinh tế.
Trong suốt thời gian dài của thời kỳ bao cấp ở nước ta cơ cấu thành phần kinh tế nông nghiệp chậm chuyển biến với sự tồn tại thuần nhất của 2 loại hình kinh tế: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Đến đại hội VI của Đảng với việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì các thành phần kinh tế phát triển đa dạng, đa thành phần. Sự chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế trong nông nghiệp nói lên các xu hướng:
Sự phát triển của nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế hộ nổi lên trở thành kinh tế độc lập, tự chủ, đây là thành phần kinh tế năng động nhất, tạo ra sản phẩm hàng hoá phong phú cho xã hội. Trong quá trình phát triển, kinh tế hộ chuyển từ tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá nhỏ tiến tới hình thành các trang trại, gia trại sản xuất hàng hoá lớn.
Thành phần kinh tế quốc doanh khi chuyển sang cơ chế thị trường có xu hướng giảm mạnh, nhà nước đã và đang thực hiện sắp xếp, rà soát lại, hoặc chuyển dịch sang các chức năng khác cho phù hợp với điều kiện hiện nay.
Thành phần kinh tế tập thể (hay kinh tế hợp tác) cùng chuyển đổi các chức năng của mình sang các HTX kiểu mới làm chức năng hướng dẫn sản xuất và công tác dịch vụ phục vụ nhu cầu của các hộ nông dân mà trước đây chức năng chủ yếu của HTX là trực tiếp điều hành sản xuất.
Như vậy sự phát triển đa dạng của các thành phần kinh tế cùng với sự chuyển đổi chức năng của HTX làm cho cơ cấu thành phần kinh tế ở nông thôn có những bước chuyển biến mạnh mẽ, phát huy hiệu quả của các thành phần kinh tế.
1.4. Cơ cấu kỹ thuật
Cũng như cơ cấu thành phần kinh tế, trong thời gian dài cơ cấu kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp nước ta mang nặng tính thuần nông cổ truyền, phát triển lạc hậu, manh mún và mang tính bảo thủ trì trệ, về kỹ thuật mang tính đúc kết kinh nghiệm, lưu truyền từ đời này sang đời khác. Vì vậy sản xuất nông nghiệp lệ thuộc chặt chẽ vào điều kiện tự nhiên, cơ cấu kỹ thuật chậm chuyển biến ít có sự thay đổi. Đứng trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, sự phát triển nhanh chóng của tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ nông nghiệp đã tác động lớn đến nông nghiệp nước ta, xoá bỏ dần sự lạc hậu và trì trệ làm cho tính thuần nông giảm mạnh. Trên cơ sở đó vẫn giữ vững những tinh hoa của kỹ thuật truyền thống, nâng lên và đan xen với kỹ thuật hiện đại, tiên tiến. Điều đó làm cho cơ cấu kỹ thuật nước ta trong những năm qua có sự chuyển dịch mạnh mẽ.
Bốn yếu tố cơ bản hình thành cơ cấu kinh tế nông nghiệp đó là cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu kỹ thuật, cơ cấu thành phần kinh tế, các yếu tố này có quan hệ hữu cơ với nhau trong đó cơ cấu ngành giữ vai trò quyết định, cơ cấu vùng giữ vai trò quan trọng giúp cho cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế chuyển dịch đúng hướng, hợp lý trên phạm vi không gian lãnh thổ và trên phạm vi cả nước. Cơ cấu kỹ thuật giúp cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng chuyển dịch nhanh chóng hơn. Để phát triển nền nông nghiệp toàn diện phải chú ý đến các yếu tố cấu thành nó, để chuyển mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá phải chuyển dịch mạnh mẽ hơn nữa 4 loại cơ cấu nói trên có như vậy nông nghiệp mới phát triển bền vững và lâu bền.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế nông nghiệp và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
2.1. Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đế cơ cấu kinh tế nông nghiệp và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Điều kiện tự nhiên (đất đai, thời tiết, khí hậu, vị trí địa lý) ở mỗi vùng khác nhau vì vậy mà cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở mỗi vùng mỗi địa phương cũng mang tính đặc trưng riêng. Lịch sử hình thành các loại đất, quá trình khai phá và sử dụng các loại đất ở các địa bàn khác nhau, ở đó cơ cấu kinh tế nông nghiệp không giống nhau. Các tiêu thức của đất đai cần được phân tích, đánh giá về mức độ thuận lợi hay khó khăn cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là: Tổng diện tích đất tự nhiên, đất nông nghiệp, đặc điểm về chất đất (nguồn gốc của đất, hàm lượng các chất dinh dưỡng có trong đất, khả năng mà cây trồng có thể sử dụng các chất dinh dưỡng của đất …). Khi đánh giá mức độ thuận lợi hay khó khăn của đất đai phải gắn với từng loại cây trồng cụ thể.
Điều kiện về thời tiết, khí hậu gắn chặt chẽ với điều kiện hình thành và sử dụng đất, trong nông nghiệp đất đai tuy được xem xét trước nhưng mức độ ảnh hưởng của nó đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp không mang tính quyết định bằng điều kiện thời tiết, khí hậu. Những thông số cơ bản của khí hậu như: nhiệt độ bình quân hàng năm, hàng tháng, nhiệt độ cao nhất, thấp nhất trong thời kỳ, độ ẩm không khí, thời gian chiếu sáng, những hiện tượng đặc biệt của khí hậu như: sương muối, mưa đá, tuyết…đều phải được phân tích, đánh giá mức độ ảnh hưởng đến phát triển của từng loại cây trồng cụ thể.
Ngoài đất đai, khí hậu các nguồn tài nguyên cũng cần được xem xét như: nguồn nước, hàm lượng muối khoáng có trong đất và một số tài nguyên khác.
Đối với cơ cấu kinh tế nông nghiệp và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thì các yếu tố về điều kiện tự nhiên được xem như cơ sở tự nhiên của phân công lao động trong nông nghiệp. Đa phần cơ cấu kinh tế nông nghiệp cho đến thời điểm hiện nay đều xuất phát từ sự khác biệt về điều kiện tự nhiên. Bởi vậy phải khai thác những mặt tích cực trong tự nhiên, khắc phục những mặt hạn chế có như thế mới hình thành một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý trong các vùng, các quốc gia trên thế giới.
2.2. Những nhân tố về điều kiện kinh tế xã hội .
Có nhiều nhân tố thuộc về điều kiện kinh tế xã hội có ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế nông nghiệp và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong đó phải kể đến các nhân tố cơ bản sau: thị trường, hệ thống chính sách của nhà nước, cơ sở hạ tầng, nguồn lao động, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, mối quan hệ đối ngoại, sự phát triển các khu công nghiệp và đô thị .
Thị trường là lĩnh vực trao đổi sản phẩm hàng hoá dịch vụ theo một giá cả nhất định và tại một thời điểm nhất định thực hiện giá trị của sản phẩm. Thông qua thị trường người sản xuất sẽ phải trả lời các câu hỏi: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Nghĩa là chỉ sản xuất những sản phẩm mà thị trường cần. Trong cơ chế tập trung bao cấp trước đây người sản xuất chỉ tạo ra sản phảm họ muốn (tự cung tự cấp) bởi vậy mà sản xuất với quy mô nhỏ phân tán, khi chuyển sang cơ chế thị trường sản xuất được tập trung hơn, quy mô lớn hơn khối lượng sản phẩm tạo ra nhiều hơn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Thị trường điều tiết sản xuất, người sản xuất nói chung và người sản xuất nông nghiệp nói riêng phải lựa chọn bố trí những cây trồng, vật nuôi hoặc những loại hình dịch vụ nông nghiệp hợp lý cho năng suất, phẩm chất tốt đáp ứng nhu cầu thị trường góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng ngày càng hiện đại hơn. Thực tiễn cho thấy nếu sản xuất ra không đạt yêu cầu về chất lượng, sản phẩm có giá thành cao thì dù công tác tiếp thị được tiến hành hoàn hảo đến mấy cũng vô ích. Vì vậy khi giải quyết thị trường cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải đặt nó trong toàn bộ quá trình kinh doanh để xem xét và giải quyết.
ảnh hưởng của chính sách kinh tế: trong điều kiện kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước sử dụng các chính sách kinh tế và công cụ khác để thực hiện chức năng quản lý kinh tế vĩ mô. Chính sách kinh tế là hệ thống các biện pháp kinh tế được thực hiện bằng các văn bản pháp quy, quy định tác động cùng chiều vào nền kinh tế nhằm thực hiện các mục tiêu đã định. Chức năng chủ yếu của các chính sách kinh tế vĩ mô là tạo động lực kinh tế mà cốt lõi là lợi ích kinh tế cá nhân mà tiến hành các hoạt động kinh tế phù hợp với định hướng của Nhà nước thông qua pháp luật kinh doanh, xác lập hành lang khuôn khổ cho các chủ thể kinh tế hoạt động. Pháp luật kinh doanh cũng là chỗ dựa pháp lý của các chủ thể kinh tế trong hoạt động kinh doanh. Các chính sách kinh tế vĩ mô thể hiện sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh thị trường trên cơ sở đảm bảo các yếu tố thị trường, phát huy mặt tích cực, hạn chế tiêu cực nhằm mục đích tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường tăng trưởng với tốc độ cao và ổn định.
Nhà nước ban hành một số chính sách khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp: chính sách đất đai quy định nông dân được giao đất, sử dụng một cách ổn định, lâu dài, yên tâm đầu tư thâm canh sản xuất ra nhiều sản phẩm, đảm bảo cho họ có các quyền (chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp) nhằm thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ tập trung ruộng đất. Việc thực hiện các quyền trên còn thúc đẩy nhanh quá trình phân công lao động, chuyển dịch cơ cấu theo hướng sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hoá. Chính sách đầu tư, tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đến thâm canh sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp nông thôn. Chính sách thị trường hết sức quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nhiều nơi sau khi chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi thành công đạt giá trị sản lượng rất cao nhưng không bán được sản phẩm hoặc có bán được thì chỉ đủ để trang trải chi phí, không có lãi. Những cơn sốt về vật tư xảy ra bất ngờ thường làm cho người sản xuất phải mua với giá cao, lưu thông hàng hoá bị ách tắc gây khó khăn cho sản xuất.
- Cơ sở hạ tầng là một trong những nhân tố quan trọng trong sự hình thành cơ cấu kinh tế nông nghiệp và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp . Khu vực nào có cơ sở hạ tầng phát triển tốt thì sự chuyển dịch diễn ra nhanh chóng, hệ thống đường giao thông nông thôn, giao thông nội đồng thông suốt thuận lợi cho công việc sản xuất, vận chuyển tiêu thụ sản phẩm, hệ thống tưới tiêu được chủ động không gây ảnh hưởng đến sản xuất, hệ thống thông tin liên lạc kịp thời, thường xuyên sẽ giúp nông dân nắm bắt các yêu cầu của thị trường …
- Dân số và nguồn lao động không những là chủ thể sản xuất mà còn là yếu tố hàng đầu của lực lượng sản xuất, là yếu tố năng động quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mọi quá trình sản xuất chung quy lại gồm 3 thành phần cơ bản: đối tượng lao động, tư liệu lao động và lao động của con người trong đó con người bằng hoạt động của mình sáng chế và sử dụng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra các sản phẩm tiêu dùng cho mình và cho xã hội. ở nước ta nguồn tài nguyên thiên nhiên khá phong phú, trong đó loại có hạn, loại có thể tái tạo được, loại phát triển thêm như tài nguyên đất, rừng. Nhưng việc khai thác sử dụng tái tạo lại các nguồn tài nguyên thiên nhiên như thế nào do con người quyết định. Hiện nay tiến bộ khoa học kỹ thuật có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế nói chung cũng như sự phát triển nông nghiệp nói riêng, để có thể ứng dụng được các thành tựu của cách mạng khoa học kỹ thuật không phải chỉ có vốn, kinh nghiệm tổ chức quản lý giỏi là đủ mà quan trọng hơn phải có lực lượng lao động có chất lượng.
- Ngoài những nhân tố trên, trong nhóm nhân tố thuộc về điều kiện kinh tế xã hội phải kể đến các nhân tố như sự phát triển của công nghiệp và đô thị đặc biệt là sự phát triển của công nghiệp chế biến. Phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản giúp tiêu thụ sản phẩm dễ dàng mặt khác làm tăng khối lượng sản phẩm giảm hao hụt trong quá trình sản xuất kéo dài thời vụ tiêu thụ sản phẩm thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ. Các mối quan hệ kinh tế đối ngoại cũng làm tăng khả năng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, hình thành thị trường tiêu thụ rộng lớn vươn ra cả thế giới, tranh thủ ứng dụng các thành tựu khoa học tiên tiến vào sản xuất .
2.3. Nhân tố thuộc về tổ chức kỹ thuật
Nhân tố này bao gồm: Hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một phạm trù khách quan nhưng lại là sản phẩm hoạt động của con người. Sự tồn tại, vận động và biến đổi của cơ cấu kinh tế nông nghiệp được quyết định bởi sự tồn tại, hoạt động của các chủ thể kinh tế trong nông nghiệp là cơ sở để phát triển và hình thành ngành kinh tế, vùng kinh tế và thành phần kinh tế. Các chủ thể kinh tế trong nông nghiệp tồn tại và hoạt động thông qua các hình thức tổ chức sản xuất dưới mô hình tổ chức tương ứng.
Từ năm 1989 (từ sau khoán 10 của bộ chính trị) đến nay kinh tế hộ được thừa nhận và trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, kinh tế tư nhân được tạo điều kiện hình thành và phát triển, kinh tế quốc doanh và tập thể được cải biến phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ mới. Sự thay đổi về mô hình sản xuất mạnh mẽ tạo ra những thay dổi bước đầu trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Trong nông nghiệp tỷ trọng ngành trồng trọt giảm xuống, tỷ trọng ngành chăn nuôi tăng lên, dịch vụ nông n._.ghiệp ngày một phát triển, số lượng các trang trại ngày một tăng công nghệ tiến bộ ngày càng được ứng dụng rộng rãi. Những tiến bộ trong khâu sản xuất và cung ứng giống cây trồng, vật nuôi mới, xu hướng lai tạo, bình tuyển giống cây trồng cho sản phẩm phù hợp với kinh tế thị trường, tiến bộ công nghệ trong sản xuất cây con mới, hệ thống quy trình kỹ thuật tiên tiến cũng được hoàn thiện và phổ biến nhanh đến người sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chế biến được mở rộng, hình thành các vùng chuyên canh khai thác tốt lợi thế tiềm năng của vùng.
Như vậy khoa học kỹ thuật đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và ứng dụng vào sản xuất góp phần hoàn thiện các phương pháp sản xuất, khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội.
III. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá là một tất yếu khách quan.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội nó gắn liền chi phối sự hình thành của cơ cấu kinh tế. Trong nền kinh tế tự cung tự cấp, lực lượng sản xuất kém phát triển, nông nghiệp chậm phát triển, chỉ từ khi chuyển từ nền sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá thì lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội mới phát triển ở trình độ cao. Mặt khác sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội là một xu thế tất yếu khách quan của sự phát triển xã hội do đó chuyển dich cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng là một tất yếu khách quan trong xu thế phát triển chung của xã hội. Ngoài ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn bắt nguồn từ thực trạng kém hiệu quả nhưng còn nhiều tiềm năng.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn bị chi phối bởi yếu tố thị trường trong đó có quan hệ cung cầu, quan hệ giá cả. Những biến đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng phải đảm bảo và tuân thủ các mối quan hệ đó, khi thu nhập tăng sẽ làm giảm dần nhu cầu tiêu thụ lúa gạo và các sản phẩm lương thực ở dạng thô đồng thời làm thay đổi cơ cấu bữa ăn theo hướng có nhiều thực phẩm có hàm lượng dinh dưỡng cao như thịt, rau cao cấp, trái cây… Vì thế trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, giảm tỷ trọng ngành trồng trọt. Về phía cung cùng với sự tăng lên về nhu cầu sản phẩm của dân cư, sự khan hiếm của các yếu tố sản xuất sẽ góp phần làm mất đi cơ cấu kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp thay vào đó hình thành cơ cấu mới tiến bộ hơn thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng.
Mặc dù tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp giữa các địa phương ở nước ta khác nhau tương đối lớn song hầu hết các vùng đều chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo cùng một hướng là sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường. Nhưng chúng ta không thể phó mặc để cơ chế thị trường tự phát điều chỉnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp mà phải có sự quản lý của nhà nước. Để có một cơ cấu kinh tế hiệu quả trong nền kinh tế thị trường thì cơ cấu đó phải thoả mãn yêu cầu của thị trường đề ra. Như vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải căn cứ vào thị trường, thoả mãn tốt mọi yêu cầu của thị trường.
2. Thực chất của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá.
2.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế nông nghiệp tự cấp, tự túc
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc là cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong đó tỷ trọng của những cây trồng, vật nuôi phụ thuộc vào nhu cầu của người sản xuất do đó sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, năng suất thấp.
2.2. Khái niệm về cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá là cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong đó tỷ trọng cây trồng, vật nuôi phụ thuộc vào nhu cầu thị trường, như vậy sản xuất sẽ tập trung thành từng vùng, với quy mô lớn gắn với công nghiệp chế biến, bảo quản.
Cuối những năm 1970 sản xuất ở nước ta lấy tự cấp tự túc làm mục tiêu chính, với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã làm kinh tế đất nước suy giảm, nông nghiệp cũng trong tình trạng như vậy. Từ sau Đại hội VI Đảng và nhà nước ta thực hiện đường lối đổi mới kinh tế khởi nguồn từ nông nghiệp nông thôn. Mốc lịch sử đánh dấu sự đổi mới kể từ khi có chỉ thị 100 (gọi tắt là khoán trong nông nghiệp) của Ban bí thư Trung Ương Đảng (1981) rồi Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (1988) về đổi mới quản lý kinh tế chuyển từ sản xuất nhỏ tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá ngày càng góp phần làm tăng thu nhập cho nông dân, cải thiện đời sống kinh tế xã hội.
2.3. Thực chất của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá là sự chuyển dịch những cây trồng, vật nuôi theo hướng tăng tỷ trọng những cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao làm hàng hoá, giảm tỷ trọng những cây trồng, vật nuôi giá trị thấp tự sản tự tiêu.
IV. Các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu kinh tế nông nghiệp và hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
ã Chỉ tiêu phản ánh cơ cấu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
* Chỉ tiêu phản ánh cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Cơ cấu giá trị sản phẩm
Cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá
Cơ cấu đất đai
Cơ cấu vốn đầu tư
Cơ cấu lao động
* Chỉ tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp .
Sự thay đổi của các chỉ tiêu trên phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Trong quá trình phân tích phải thấy rõ những chỉ tiêu đó tăng, giảm như thế nào và mối quan hệ nội tại trong từng chỉ tiêu có thay đổi không.
ã Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của cơ cấu kinh tế nông nghiệp và hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
* Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Năng suất cây trồng, vật nuôi
Năng suất lao động
Năng suất đất đai
Năng suất sử dụng vốn
Giá trị các loại sản phẩm/ ha đất canh tác
Thu nhập bình quân
* Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tốt lên, tuy nhiên xét trong quan hệ với các chỉ tiêu khác thì sự tăng lên đó chưa hẳn đã là hợp lý mà phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các chỉ tiêu. So sánh mức độ khác nhau về hiệu quả kinh tế của các chỉ tiêu sẽ phản ánh tính hợp lý hay không của cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong trong cả nước, từng vùng, từng địa phương trong từng thời kỳ nhất định.
V. Tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam và một số nước Đông Nam á
1. ở Việt Nam
Phát huy lợi thế to lớn của nền nông nghiệp nước ta về tiềm năng thiên nhiên, truyền thống làm nông nghiệp từ lâu đời, về tính cần cù, năng động, sáng tạo của nông dân nhằm mục tiêu xây dựng một nền nông nghiệp mạnh, phát triển bền vững, áp dụng công nghệ cao, từng bước hiện đại hoá vươn lên trở thành một nền nông nghiệp với những ngành sản xuất hàng hoá lớn, có sức cạnh tranh ngày càng cao trong quá trình hội nhập quốc tế. Việc lựa chọn cơ cấu, qui mô và chủng loại các ngành hàng sản xuất nông nghiệp phải khai thác được lợi thế của cả nước, từng vùng, bám sát nhu cầu thị trường trong nước và thế giới.
Hội nghị lần thứ 5 của ban chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam (khoá VII) đã quyết định những vấn đề cơ bản về chiến lược phát triển kinh tế xã hội, nông nghiệp nông thôn đến năm 2000 theo hướng đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
Trong khu vực nông nghiệp, quá trình chuyển dịch cơ cấu đã đạt được tiến bộ đáng kể. Cơ cấu nông - lâm - ngư nghiệp tiếp tục chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp.
Bảng 1: Tỷ trọng nông, lâm, thuỷ sản theo giá trị sản xuất toàn ngành từ 1991 đến 1999
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
1991
1995
1996
1997
1999
Nôngnghiệp
85,5
84,3
84,8
84,6
84,0
Lâm nghiệp
7,0
6,8
6,0
5,5
5,6
Thuỷ sản
7,5
8.9
9,2
9,9
10,4
Nguồn: Thực trạng CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn Việt Nam
Ngành nông nghiệp giảm từ 85,5% (1991) xuống còn 84,0% (1999)
Ngành lâm nghiệp giảm từ 7,0% (1991) xuống 5,6% (1999)
Ngành thuỷ sản tăng mạnh từ 7,5% (1991) lên 10,4% (1999)
Riêng trong nông nghiệp, cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi tiếp tục chuyển dịch theo hướng đưa chăn nuôi lên thành ngành sản xuất chính cân đối hơn với trồng trọt, trong khi trồng trọt vẫn phát triển nhanh.
Trong sản xuất lương thực, sản xuất lúa tăng nhanh và ổn định cả về diện tích và năng suất. Năm 1996 cả nước gieo cấy 6,3 triệu ha thì năm 1999 tăng lên 7,2 triệu ha do khai hoang, tăng vụ.
Cơ cấu mùa vụ và cây trồng đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng tăng diện tích lúa đông xuân và hè thu, giảm diện tích lúa màu do năng suất thấp. Nhờ vậy mà năng suất bình quân cả năm thời kỳ 1991-1999 đạt 36,4 tạ/ ha.Việt Nam trở thành nước xuất khẩu lúa gạo nhanh nhất trong khu vực và đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo. Một số cây công nghiệp ngắn ngày đang phát triển mạnh thông qua việc xây dựng và sắp xếp lại các nhà máy chế biến, xây dựng vùng nguyên liệu ổn định, đẩy mạnh đầu tư thâm canh.
Trong nhiều năm gần đây ngành trồng trọt chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng cây lương thực tăng tỷ trọng cây công nghiệp, cây ăn quả và hoa màu. Năm 1976 tỷ trọng cây lương thực chiếm 88,0% diện tích gieo trồng của cả nước đến năm 1996 còn 73,51%, cây công nghiệp tăng từ 6,7% (năm 1976) đến 15,78% (năm 1996), cây ăn quả tăng từ 2% (năm 1976) lên 3,16% (năm 1996). Do cả nước tích cực thực hiện chuyển đất sản xuất lúa kém hiệu quả sang sản xuất các loại cây, con có hiệu quả cao hơn, như đất khô hạn chuyển sang trồng màu, đất trũng, ven biển chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản, đất đô thị chuyển sang trồng hoa, cây cảnh…
Nét nổi bật cuả ngành chăn nuôi trong những năm gần đây là tốc độ tăng trưởng chăn nuôi cao hơn trồng trọt. Năm 1992: trồng trọt là 7,1% chăn nuôi là 12,8%; năm 1996: 5,2% và 5,3%; năm 1999: 5,7% và 6,2%. Chăn nuôi đã thoát dần khỏi kiểu tự cung tự cấp và chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá, bước đầu đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sản xuất hàng hoá.
Diện tích, sản lượng và giá trị xuất khẩu ngành thuỷ sản các năm đều tăng, nuôi trồng thuỷ sản đang trở thành ngành sản xuất hàng hoá lớn, nuôi tôm, cua cá xuất khẩu có hiệu quả cao đã kích thích người nuôi trồng thuỷ sản đầu tư nhiều vốn phát triển.
Bên cạnh những tiến bộ đạt được nông nghiệp nước ta còn bộc lộ nhiều khó khăn, thách thức trong đó cơ cấu nông nghiệp đang tồn tại nhiều bất hợp lý nghiêm trọng.
Cơ cấu kinh tế nông thôn nói chung và cơ câú kinh tế nông nghiệp nói riêng có chuyển biến nhưng còn rất chậm.
Cơ cấu ngành nông nghiệp chưa thoát khỏi tình trạng độc canh, tự cấp tự túc, sản xuất hàng hoá nhỏ.
Tình trạng phát triển rời rạc, không gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ vẫn đang là phổ biến. Công nghiệp nông thôn mới bước đầu phát triển, sản xuất, chế biến nông sản theo kiểu thủ công, phân tán, công nghệ lạc hậu và có nguy cơ làm huỷ hoại môi trường sinh thái.
Vì vậy, để khắc phục tình trạng này cần phải có sự tập trung hơn bằng nhiều giải pháp tích cực:
Phát triển nông nghiệp toàn diện và vững chắc gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ nông sản
Tăng cường đầu tư cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn
Hoàn thiện tổng thể qui hoạch về sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản làm cơ sở cho kế hoạch hoá và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.
Hoàn thiện cơ chế chính sách về nông nghiệp nông thôn như: chính sách đầu tư, chính sách tài chính tiền tệ, tiêu thụ hàng nông sản, chính sách đất đai…
2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở một số nước Đông Nam á
Malaixia
Malaixia có cơ cấu thiên về nông nghiệp, trong những năm qua đóng góp tương đối của nông nghiệp vào nền kinh tế liên tục giảm từ 20,8% năm 1995 xuống chỉ còn 12% năm 1998.Trong khi đó đóng góp của ngành chế tạo vào GDP tăng từ 19,7% năm 1995 đến 48,5% năm 1996. Tuy số công nhân làm việc trong ngành nông nghiệp tăng từ 5,74 triệu người tới 7,9 triệu người nhưng tỷ lệ việc làm trong ngành nông nghiệp giảm so với các ngành khác giảm từ 31,3% năm 1985 xuống còn 18% năm 1995. Sự giảm dần lao động trong lĩnh vực nông nghiệp cho thấy xu hướng tăng dần giá ngày công lao động. Từ năm 1990 đến năm 1995 là 20% dân cư Malaixia chuyển từ nông thôn ra thành thị, các đồn điền công nghiệp phải tăng lương công nhân 30%, mức tăng lương tăng hơn mức tăng năng suất lao động trong khi chi phí lao động chiếm 40 - 60%, làm cho giá thành sản phẩm tăng nhanh.
Malaixia đi theo định hướng tập trung sản xuất hàng hoá có sức cạnh tranh cao để xuất khẩu, nông nghiệp trong nhiều thập kỉ qua đã tập trung sản xuất các cây công nghiệp phục vụ xuất khẩu như cây cọ, dầu , cao su, ca cao chiếm 77% diện tích cả nước. Các loại cây xuất khẩu chính đóng góp 71% GDP nông nghiệp, riêng cọ dầu chiếm từ 30,5 đến 42,1% tổng giá trị của toàn ngành. Cây lương thực gồm lúa, dừa hoa và cây ăn quả được coi là chủ đạo, những cây khác như: thuốc lá, cà phê, chè chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng diện tích. Năm 1995 cây lương thực chiếm chưa đầy 30% tổng giá trị gia tăng nông nghiệp trong đó gạo và rau chỉ chiếm 10% GDP nông nghiệp. Sản xuất ca cao và cao su giảm dần. Sản phẩm thịt cũng tăng rõ đáp ứng mức sông ngày càng tăng nhưng bị gián đoạn trong 3 năm khủng hoảng kinh tế. Sản lượng ngô trồng làm thức ăn gia súc tăng nhanh nhất là khi kinh tế phục hồi nhưng lượng nhập khẩu ngô vẫn tăng đều để đáp ứng nhu cầu thức ăn gia súc. Đường, đậu tương không tăng sản lượng mà tăng nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu trong nước. Malaixia có sản lượng gỗ cứng nhiệt đới lớn trên thế giới. Từ việc xác định tính chất sản phẩm hàng hoá cao, gắn sản xuất và tiêu dùng trong nước với thị trường quốc tế, nông nghiệp Malaixia tập trung vào phát triển trang trại, dồn điền tư bản nông nghiệp có qui mô sản xuất lớn, công nghệ cao nhờ đó mà tạo ra sức cạnh tranh rất mạnh cho một mũi nhọn xuất khẩu. Điểm hay của nông nghiệp Malaixia là chú trọng phát triển công nghiệp chế biến, tăng khả năng cạnh tranh mạnh và giá trị xuất khẩu cao. Điểm yếu là phải luôn sẵn sàng ứng phó với mọi biến động trên thị trường quốc tế. Năm 2000 nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao hơn mức dự đoán đạt tới 5,8% trong đó nông nghiệp tăng 2%.
Chiến lược phát triển nông nghiệp ở Malaixia trong 10 năm tới:
- Trước hết tối ưu hoá việc sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, tập trung vào phục hồi và cải tạo đất hoang, mở rộng đất trồng cây hàng năm, tiến hành qui hoạch tổng thể đất đai, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nước để tăng năng suất cho cây trồng duy trì nguồn tài nguyên cho tương lai.
Tăng cường phát triển ngành chế biến dựa vào tài nguyên của từng địa phương, kết hợp giữa sản xuất và chế biến đóng vai trò quan trọng cho việc thay thế nhập khẩu.
Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, đặc biệt là nghiên cứu, ứng dụng công nghệ. Các lĩnh vực được tập trung phát triển bao gồm: quản lý tài nguyên, phương pháp sản xuất, chế biến đóng gói, phát triển giống cây trồng, vật nuôi.
Đề cao vai trò của tư nhân trong quá trình chuyển đổi nông nghiệp thành lĩnh vực thương mại hoá, có khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa và quốc tế.
Đổi mới tiếp thị: Truyền bá thông tin thị trường, nghiên cứu phân tích tổ chức hướng vào thị trường tiềm năng, xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường giám sát chất lượng và tiêu chuẩn sản phẩm.
Phát triển ngành lương thực năng động đáp ứng đầy đủ thị trường tiêu thụ trong nước và phát triển xuất khẩu.
Indonexia:
Thời kỳ 1985 - 1996 ngành nông nghiệp tăng trưởng với tốc độ bình quân 2,7%/năm, trong khi đó các ngành phi nông nghiệp tăng trưởng với tỷ lệ 7,8%. Đóng góp của nông nghiệp đối với GDP giảm từ 22% năm 1985 xuống còn 16% năm 1996. Năm 1998 nông nghiệp chiếm 19% GDP. Mặc dù đóng góp của ngành trong GDP đang giảm nhưng nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản vẫn là ngành lớn trong nền kinh tế.
Nông nghiệp Indonexia sản xuất chủ yếu các sản phẩm: Lúa gạo, dầu, cọ, dừa, cao su, cà phê, đường, hoa quả. Trong đó thế mạnh của Indonexia là xuất khẩu hạt tiêu, hoa quả, gỗ, thời gian qua dầu cọ và cao su tăng ổn định, lượng cà phê, sắn giảm chuyển sang đất đai trồng cọ dầu. Nhập khẩu lượng lúa gạo lớn, lúa mì, đường, thức ăn gia súc.
ở Indonexia hướng mạnh vào phát triển các cây lấy gỗ, chăn nuôi, đó là những mặt hàng có lợi thế ở nước này.
Chiến lược phát triển nông nghiệp mới của Indonexia là tạo điều kiện thu hút đầu tư có hiệu quả hơn, tạo điều kiện cho các hộ qui mô nhỏ và giảm tỷ lệ đói nghèo. Có sự thay đổi về tự do hoá thương mại:
Tự do buôn bán nông sản giữa các vùng
Tự do hoá thương mại đối với phân bón, hoá chất nông nghiệp, giống, tư nhân hoá các xí nghiệp phân bón
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu giống, chấm dứt độc quyền của các công ty giống nhà nước, cho các thành phần khác tham gia vào thị trường này.
Tăng cường cho vay tín dụng cho nông dân từ 1,4 triệu Rp/ha lên 2 triệu Rp/ha, tăng tổng lượng tín dụng cho vay từ 1,9 nghìn tỷ lên 3 nghìn tỷ.
Tăng hiệu quả của công tác quản lý thuỷ lợi nhằm nâng cao hiệu quả và năng suất trong nông nghiệp.
Chương II: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Thái Bình trong thời gian qua
I. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội có ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
1. Vị trí địa lý.
Thái Bình là tỉnh đồng bằng ven biển, có toạ độ địa lý 2017 đến 2214 vĩ độ bắc và 10606 đến 10639 kinh độ đông. Phía đông giáp vịnh Bắc bộ, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Nam Định và Hà Nam, phía Bắc giáp Hải Dương, Hưng Yên và thành phố Hải Phòng. Từ Tây sang Đông dài 54 km, từ Bắc xuống Nam dài 49 km. Có đường quốc lộ số 10 chạy dọc tỉnh, nối liền Thái Bình với các tỉnh lân cận thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán, phát triển nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Diện tích đất tự nhiên là 1542,24 km(số liệu năm 2000) và ở trong vùng ảnh hưởng của tam giác tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long. Ngoài ra Thái Bình còn có trên 52 km bờ biển thuận lợi cho phát triển kinh tế vùng biển, giao thông đường biển góp phần không nhỏ trong GDP của toàn tỉnh.
Về đặc điểm địa hình: Thái Bình có địa hình tương đối bằng phẳng, với độ dốc nhỏ hơn 1%, cao trình biến thiên phổ biến từ 1m đến 2m so với mặt nước biển và thấp dần từ Bắc xuống Nam, hàng năm thường được phù sa Sông Hồng bồi đắp tạo thành vùng đất đai màu mỡ, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, địa hình bằng phẳng còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc giữ nước, tưới nước cho cây trồng, cải tạo, xây dựng các cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ và hiệu quả hơn. Tuy nhiên Thái Bình là tỉnh thuần đồng bằng lại giáp vịnh bắc bộ nên khả năng chống chịu thời tiết đặc biệt là bão lũ thường xuyên xảy ra gây khó khăn cho sản xuất.
2. Khí hậu thuỷ văn
Thuỷ văn: Thái Bình được bao quanh bởi hệ thống sông biển khép kín, có 5 cửa sông lớn (Văn úc, Diêm Điền, Ba Lạt, Trà Lý, Lân) trong đó có 4 cửa sông lớn chảy qua địa phận tỉnh. Phía Bắc và Đông Bắc có sông Hoá - phân lưu của sông luộc, chạy qua địa phận dài 35,3 km. Phía Tây và Tây Bắc có sông Luộc phân lưu của sông Hồng chảy qua địa phận dài 53km. Phía Tây và Tây và Nam là đoạn hạ lưu của sông Hồng chảy qua dài 67km. Các sông chảy qua địa phận tỉnh đều chịu ảnh hưởng của thuỷ triều nhưng hướng ra biển thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế giữa các vùng.
Khí hậu: Thái Bình nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng năm 23 - 24, nhiệt độ thấp nhất 4 và cao nhất 38 - 39, lượng mưa cả năm giao động từ 1500-1900mm, lượng mưa cao nhất 2528mm và thấp nhất là 1173mm. Độ ẩm không khí nhiều năm từ 85-90%, mùa xuân mưa phùn liên tục độ ẩm đạt 97-100%, độ ẩm này ít nhưng ảnh hưởng rất lớn đến cây trồng thời kỳ thụ phấn. Số giờ nắng giao động từ 1600-1800h/ năm. Tóm lại với tính chất nhiệt đới nóng ẩm quanh năm, khí hậu Thái Bình thích hợp với nhiều loại cây trồng nhiệt đới, có thể gieo trồng nhiều vụ trong năm, vật nuôi sinh trưởng phát triển nhanh cho sản phẩm đa dạng phong phú. Khí hậu thuận lợi khi đưa các giống mới có năng suất, phẩm chất cao vào thử nghiệm sau đó nhân rộng theo các mô hình thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Khí hậu ôn hoà còn giúp cho các vi sinh vật phát triển góp phần vào cải tạo đất, kích thích sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi. Bên cạnh những thuận lợi khí hậu còn có những bất lợi: mưa lớn gây lũ lụt, hay khô hạn về mùa đông. Độ ẩm không khí cao, nên nhiều sâu bệnh, chuột bọ phá hoại phát triển nhanh, phá hoại mùa màng gây thất thu lớn cả ngoài đồng lẫn khi bảo quản.
3. Các nguồn tài nguyên
Tài nguyên đất: Thái Bình có địa hình tương đối bằng phẳng, thành phần cơ giới và chất đất ít phức tạp hơn so với các vùng trung du, miền núi. Về thành phần cơ giới của đất chủ yếu là đất thịt (đất thịt nặng, đất thịt nhẹ, đất thịt trung bình trong đó tỷ lệ đất thịt trung bình đến đất thịt nặng là lớn nhất 34%). Thái Bình được phù sa sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp nên đất đai tương đối màu mỡ rất phù hợp cho thâm canh lúa và các cây công nghiệp ngắn ngày, đồng cỏ phát triển đáp ứng nhu cầu thức ăn cho chăn nuôi.
Tổng diện tích đất tự nhiên của Thái Bình là 154351,43 ha với cơ cấu các loại đất như sau:
- Đất nông nghiệp : 103995,60 ha chiếm 67,38%
- Đất lâm nghiệp có rừng: 2500,62 ha chiếm 1,62%
- Đất chuyên dùng: 25978,25 ha chiếm 16,83%
- Đất ở: 12445,32 ha chiếm 8,07%
- Đất chưa sử dụng, sông suối, núi đá: 9431,64 ha chiếm 6,1%
Diện tích đất tự nhiên phân bố tương đối đồng đều giữa các huyện từ 20 đến 25 nghìn ha/huyện. Thị xã Thái Bình là đơn vị có diện tích nhỏ nhất, gần 4200 ha. Hai huyện ven biển là Tiền Hải và Thái Thụy còn có điều kiện mở rộng diện tích lấn ra biển.
Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh năm 2001 là 154351,43 ha, trong đó diện tích đất được sử dụng chiếm 93,9%, diện tích đất chưa sử dụng là 6,1%. Trong số diện tích đất chưa sử dụng thì diện tích đất bằng chưa sử dụng là 3228,86 ha chiếm 2,09% diện tích đất tự nhiên, hầu hết là đất bãi bồi ven biển, đang ngập mặn, chưa có khả năng khai thác sử dụng. Song đây là tiềm năng quý đối với một tỉnh dân số cao như tỉnh Thái Bình do đó cần chú ý đưa vào đầu tư sử dụng quĩ đất này.
Đất lâm nghiệp ở Thái Bình chủ yếu là đất rừng ngập mặn, phòng hộ ven biển tập trung ở hai huyện ven biển Thái Thụy và Tiền Hải, chiếm 1,62% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh. Khả năng mở rộng diện tích đất lâm nghiệp có thể đạt 7 - 8 nghìn ha (theo khả năng lấn biển). Đây là hệ sinh thái nhạy cảm cần được khai thác và sử dụng hợp lý.
Đất chuyên dùng hiện tại chiếm 16,83% diện tích đất tự nhiên của tỉnh. Trong tương lai khi các khu công nghiệp của tỉnh phát triển, các đô thị ( thị xã, thị trấn, thị tứ) và các đường giao thông… được mở rộng, khả năng đất chuyên dùng sẽ chiếm khoảng 17 - 18% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh tăng lên khoảng 9 - 10% trong những năm tới.
Bảng 2: Diện tích đất nông nghiệp của tỉnh Thái Bình
tính đến ngày 01/10/2001
TT
Loại đất
Diện tích (ha)
Tỷ lệ(%)
Tổng diện tích
103995,60
100,00
1
Đất trồng cây hàng năm
93775,00
90,17
-Đất ruộng lúa, hoa màu
88445,68
85,05
-Đất trồng cây hàng năm #
5329,32
5,12
2
Đất vườn tạp
3296,19
3,17
3
Đất trồng cây lâu năm
197,42
0,19
4
Đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôI
48,57
0,05
5
Đât có mặt nước nuôi trông ts
6678,42
6,42
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Thái Bình
Số liệu trên đã phản ánh khá rõ nét về tình hình sử dụng đất nông nghiệp của tỉnh Thái Bình hiện nay. Đất canh tác hàng năm vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối 90,17% trong tổng quĩ đất nông nghiệp, trong đó đất ruộng lúa và hoa màu đã chiếm 85,04% còn lại là đất trồng cây hàng năm khác. Trong cơ cấu đất nông nghiệp đất vườn tạp là 3296,19 ha, đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 6678,42 ha được đưa vào sử dụng thì phần lớn là diện tích nuôi thả cá, phần còn lại được dùng vào nuôi một số cây con đặc sản nhưng giá trị kinh tế thu được chưa cao và ổn định.
Như vậy thực tế cho thấy tiềm năng về đất đai để phát triển sản xuất nông nghiệp của tỉnh còn rất lớn, nếu có sự đầu tư thoả đáng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và có sự quan tâm tạo điều kiện của nhà nước để hộ nông dân tích tụ ruộng đất, sản xuất hàng hoá với qui mô lớn tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm, tăng nhanh giá trị sản xuất và thu nhập trên mỗi diện tích đất canh tác.
Ngoài đất đai, khí hậu thì nguồn nước cũng ảnh hưởng lớn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp (bao gồm nguồn nước mặt, nguồn nước ngầm và khả năng đưa nước từ nơi khác đến). ở Thái Bình thì nguồn nước khá phong phú, tuy nhiên để đảm bảo đủ nước cho cây trồng, vật nuôi thì phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của cơ sở hạ tầng kỹ thuật đặc biệt là hệ thống công trình thuỷ lợi.
4. Cơ sở vật chất - kỹ thuật.
Sự phát triển của sản xuất nông nghiệp bước đầu tạo ra tích luỹ nội bộ trong nông nghiệp, nông thôn tạo điều kiện cho nông dân tham gia tích cực cùng với nhà nước đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Từ năm 1990 đã huy động được 4500 tỷ đồng đầu tư xây dựng cơ bản nông nghiệp, nông thôn, đầu tư 500 tỷ đồng cho xây dựng hệ thống công trình thuỷ lợi. Thái Bình được Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đánh giá là tỉnh dẫn đầu cả nước về phong trào làm thuỷ lợi. Trong những năm qua Thái Bình đã thực hiện kiên cố kênh mương phấn đấu năm 2005 - 2010 kiên cố kênh chính đạt 100% đảm bảo cho việc giữ nước và cung cấp nước tưới đầy đủ cho cây trồng, vật nuôi. Mặc dù đầu tư cho hệ thống công trình thuỷ lợi lớn nhỏ hàng trăm tỷ đồng song hệ thống thuỷ lợi của tỉnh vẫn chưa đáp ứng nhu cầu cho sản xuất và đời sống, tổng diện tích chủ động tưới tiêu chiếm khoảng 98% diện tích đất canh tác, một số trạm bơm bị xuống cấp hoặc không phù hợp với hình thức tổ chức cũng như cơ cấu kinh tế nông nghiệp mới.
- Điện: Điện lực phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi cải tạo sản xuất trong nông nghiệp nông thôn. Điện đã cung cấp năng lượng để mở rộng hoạt động của hệ thống tưới tiêu, mở rộng mạng lưới điện đã thúc đẩy việc áp dụng các máy động lực phục vụ cho chế biến nông sản và các dịch vụ khác tại chỗ. Thái Bình có mạng lưới điện phát triển mạnh, toàn diện hiện có 7000 km đường dây điện cao thế, hạ thế, 2000 trạm biến áp. Đến tháng 12 năm 1994 Thái Bình đã hoàn thành qui hoạch lưới điện của tỉnh giai đoạn 1991 - 1995, toàn tỉnh có 385 xã phường, trị trấn đã xây dựng đường dây điện tới, có 99,5% số hộ nông dân đã có điện sinh hoạt và điện phục vụ cho sản xuất nông nghiệp ngày một tăng. Với cơ cấu cây trồng mới ngày càng sử dụng nhiều điện nước, chăn nuôi theo phương pháp công nghiệp phải sử dụng nhiều điện để sưởi ấm và thắp sáng. Tuy vậy mạng lưới trạm biến áp chưa đủ công suất phục vụ cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, đường dây tải điện hạ thế thiếu khá nhiều, quản lý điện năng kém làm tăng “chi phí đầu vào” của giá điện mà nhân dân phải gánh chịu.
- Giao thông: Thái Bình là tỉnh dẫn đầu cả nước về phong trào làm đường giao thông nông thôn. Toàn tỉnh có 7 huyện, 1 thị xã với 285 xã phường, thị trấn thì 100% số xã, phường có đường ô tô đến các trung tâm, trong đó đường rải nhựa và bê tông hoá toàn bộ, giao thông nội đồng cũng được qui hoạch và cải tạo lại phù hợp với mục đích của sản xuất nông nghiệp. Từ năm 2000 trở lại trước kinh tế Thái Bình chậm phát triển, sản xuất nông nghiệp lạc hậu, trì trệ một phần cũng do giao thông thấp kém, hệ thống cầu phà là rào cản lớn đối với vận chuyển hàng hoá, đi lại, không thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đến năm 2002 ngành giao thông vận tải quyết định đầu tư với tổng số vốn xây dựng cơ bản và duy tu, sửă chữa cầu đường lên tới 93933 triệu đồng, các công trình trọng điểm như cầu Tân Đệ, Quốc lộ số 10 đã được khánh thành và đưa vào sử dụng, làm mới 18 cây cầu và 42,2 km đường giao thông nông thôn trong tỉnh, Cảng Diêm Điền được đầu tư mở rộng, nạo vét thuận lợi cho tàu bè qua lại. Như vậy, tình hình giao thông ở Thái Bình được cải thiện rõ rệt thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, việc tiêu thụ sản phẩm được dễ dàng hơn, sản xuất nông nghiệp có điều kiện đi sâu vào chuyên môn hoá, kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài.
- Trường học: Trong tỉnh có 100% số phường xã, thị trấn có trường tiểu học và trung học cơ sở. Tổng số trường học phổ thông năm 2000 - 2001 là 903 trường đến năm 2001 - 2002 giảm còn 896 trường ( giảm số trường mầm non và tăng số trường cấp I, II, III). Số trường trung học chuyên nghiệp có 4 trường (có 3284 học sinh theo học, 152 giáo viên tham gia giảng dạy, mỗi năm có khoảng gần 1000 học sinh tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp). Có 3 trường đại học và cao đẳng trong đó có hơn 3000 sinh viên theo học với 530 giáo viên, sinh viên tốt nghiệp hàng năm khoảng 1629 người). Ngoài ra còn có các trường dạy nghề (trường đào tạo công nhân kỹ thuật khu vực nhà nước, trường công nhân xây dựng, trường dạy chữ dạy nghề, hàng năm có khoảng 500 sinh viên tốt nghiệp).
Hệ thống chính sách có ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Chính sách ban hành phù hợp sẽ thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch, ngược lại chính sách không phù hợp sẽ là trở ngại lớn, Nhưng sự phù hợp cũng chỉ là tương đối có khi chính sách là động lực với đối tượng này nhưng lại gây bất lợi cho đối tuợng khác. Để phục vụ cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển tổng thể nền kinh tế xã hội tỉnh uỷ Thái Bình đã ban hành Nghị Quyết 07-NQ/TU về việc dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp, có thể nói đây là chính sách quan trọng tạo điều kiện cho nền nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá.
Từ sau những năm 1981 (chỉ thị 100) đất nông nghiệp được giao ổn định và lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Việc giao đất ổn định và lâu dài đã khuyến khích được nông dân phát huy quyền tự chủ, tích cực đầu tư tiền vốn, công sức, kinh nghiệm, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển sản xuất kinh doanh thích ứng với cơ chế thị trường. Vì vậy mà sản xuất nông nghiệp ở tỉnh ta những năm qua phát triển mạnh, cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch tích cực, xuất hiện nhiều gương điển hình, nhiều trang trại, gia trại, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, bộ mặt nông thôn có bước thay đổi đáng kể, đời sống nông nhân được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân ở tỉnh ta thời gian qua còn bộc lộ nhiều bất cập: đất sản xuất nông nghiệp ở hầu hết các địa phương rất manh mún, nhỏ lẻ, chia cắt bởi nhiều bờ thửa, mất ._.
23000
483000
- Vụ xuân
2500
32500
3500
48750
- Vụ hè thu
4500
85500
4750
95000
- Vụ đông
11000
242000
14750
339250
2. Khoai tây
4650
60941
6000
84000
6000
9000
3. Đậu thực phẩm
1007
1247
1500
1950
1500
2100
Nguồn: Phòng KH-ĐT Sở NN-PTNT tỉnh Thái Bình
2.2. Ngành chăn nuôi
Phát triển chăn trở thành sản xuất chính trong nông nghiệp. Thay đổi cơ cấu đàn gia súc, gia cầm trong đó phát triển mạnh đàn lợn: 770 nghìn con trong đó lợn ngoại chiếm 15-20%, đàn bò 80 nghìn con trong đó bò lai sin 80%, đàn gia cầm 10 triệu con. Sản lượng thịt xuất khẩu đạt 10-15 nghìn tấn, giá trị xuất đạt 10-15triệu USD.
- Đưa nhanh các giống gia súc, gia cầm có chất lượng cao vào sản xuất, trước mắt tập trung để tăng nhanh đàn lợn hướng nạc, bò laisind và các giống gà thả vườn, các con đặc sản khác.
- Chuyển mạnh từ chăn nuôi tận dụng sang chăn nuôi công nghiệp và bán công nghiệp.
- Tổ chức sản xuất thức ăn chăn nuôi tại tỉnh để từng bước tự đáp ứng yêu cầu thức ăn chăn nuôi, để hạ giá thành sản phẩm chăn nuôi (trong kết cấu giá thành chăn nuôi chi phí thức ăn chiếm tới 70-75%).
- Từng bước hình thành các vùng chăn nuôi sản xuất tập trung đủ quy mô để tạo vùng nguyên liệu cho chế biến, trước mắt là hình thành các vùng chăn nuôi lợn ngoại quy mô trang trại và hộ gia đình.
- Nâng cấp và mở rộng các cơ sở chế biến thịt lợn xuất khẩu gắn kết chặt chẽ với vùng nguyên liệu để giải quyết tốt mối quan hệ sản xuất thị trường.
Bảng 19: Dự kiến sản xuất ngành chăn nuôi
Phương án 1
Phương án 2
2005
2010
2005
2010
1. Tổng đàn lợn(con)
837780
1046320
851230
1114860
- Lợn thịt
639425
809680
650450
857310
- Lợn nái
196630
240680
200030
256470
+ 100%nái ngoại
15000
33000
20000
50000
- Lợn đực
725
960
750
1080
Sản lượng thịt(tấn)
94600
137990
98350
152740
2. Đàn gia cầm(1000con)
8268.3
10335.3
8552.2
11059.3
- Gà
7098.3
8872.8
7382.2
9596.8
- Vịt
1170
1462.5
1170
1462.5
Sản lượng thịt(tấn)
10138.0
12668
10406
13468.0
Trứng (1000quả)
161596
201931
167155
216151
Nguồn: Phòng KH-ĐT Sở NN-PTNT tỉnh Thái Bình
2.3. Dịch vụ nông nghiệp .
Từng bước tăng dần tỷ trọng dịch vụ trong sản xuất nông nghiệp trên cơ sở củng cố và tăng cường hệ thống dịch vụ từ tỉnh đến cơ sở, tăng năng lực của các công ty vật tư nông nghiệp như: Dịch vụ làm đất cung ứng giống cây trồng vật nuôi, vật tư nông nghiệp, chú trọng các dịch vụ chế biến và tiêu thụ nông sản phấn đấu đến năm 2010 là 4,7%, tỷ trọng sản xuất nông nghiệp là dịch vụ.
2.4. Đẩy mạnh khai thác nuôi trồng thuỷ sản
Vùng nuôi trồng thuỷ sản ven biển .
- Vùng bãi triều ngoài đê biển: mở rộng thêm 1000 – 2000 ha đưa diện tích khoanh nuôi bãi triều lên 4000-5000 ha tập trung ở hai huyện Thái Thuỵ, Tiền Hải ;
+ Đầu tư cho hệ thống thuỷ lợi cải tạo ao nuôi. Hoàn chỉnh mô hình nuôi tôm công nghiệp 90 ha , năng suất phấn đấu đạt 3tấn tôm / ha
+ Đưa 1000 ha vào nuôi tôm bán thâm canh , năng suất 1tấn / ha
+ Cải tạo 3000 ha nuôi tôm theo mô hình sinh thái năng suất 300 –500 kg/ ha
- Vùng lúa nhiễm mặn: chuyển đổi 1032 ha vùng ven biển đất nhiễm mặn và đồng muối sang nuôi tôm sú . Sản lượng tôm đạt 1000 – 1500 tấn / năm .
Vùng nuôi trồng thuỷ sản nội đồng .
- Diện tích chuyển đổi từ đất lúa úng trũng sang nuôi trồng thuỷ sản 1000 ha .
+ Bố trí 1500 – 2000 ha (trong đó có 1000 ha mới chuyển đổi) để nuôi tôm càng xanh , cá chim trắng và một số giống có chất lượng cao như: Rôfi đơn tính, cá trắm đen… để cung cấp cho các thành phố, khu công nghiệp phục vụ xuất khẩu .
+ Phấn đấu đến năm 2005 tổng sản lượng thuỷ sản đạt 28000 –30000 tấn trong đó tôm các loại có 4000-5000 tấn .
+ Bình quân 1 ha mặt nước đạt 48-50 triệu đồng .
III. Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Thái Bình.
1. Giải pháp về vốn.
Vốn có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Thiếu vốn sẽ làm hạn chế tốc độ chuyển dịch, một số mô hình chuyển đổi kém hiệu quả một phần là do thiếu vốn, cơ sơ hạ tầng kém phát triển cũng do thiếu vốn… Bởi vậy phải có giải pháp thực về vốn.
- Trước hết phải huy động vốn nhàn rỗi trong nhân dân thông qua hệ thống tín dụng ngân hàng. Đây là nguồn vốn rất lớn chưa được khai thác triệt để, khuyến khích các cá nhân, tổ chức bỏ vốn vào kinh doanh, tích cực phát huy hiệu quả của đồng vốn.
- Về đầu tư vốn:
+ Đầu tư vốn ngân sách qua hình thức cấp phát cho nông nghiệp. Trong nông nghiệp hiện nay do khả năng đầu tư vốn nội bộ ngành còn rất hạn chế trong khi điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật còn kém, cần 1 lượng vốn lớn. Vì đầu tư qua ngân sách là một hình thức cấp phát có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong những năm qua ở tỉnh đã chú ý đến loại hình nhưng nhìn chung chưa lớn và chưa có trọng điểm, theo thứ tự ưu tiên tránh tình trạng đầu tư vốn một cách dàn trải dẫn đến tính kém hiệu quả trong đầu tư vốn. Để tạo niềm tin cho nhà nước đầu tư vốn ngân sách qua hình thức này thì tỉnh phải có dự án mang tính khả thi cao, và điều đặt ra là những năm tiếp theo tỉnh phải có quy hoạch cụ thể, xắp xếp các công trình theo thứ tự ưu tiên một cách khoa học thẩm mĩ.
+ Về đầu tư vốn qua tín dụng ưu đãi. Đây là đầu tư vốn của nhà nước cho đối tượng vay gắn liền với việc hoàn trả vốn và phần lãi vay ưu đãi. Do vậy đòi hỏi đối tượng vay vốn phải có trách nhiệm trong sử dụng vốn, làm cho đồng vốn sinh lợi. Đầu tư qua hình thức này có ý nghĩa quan trọng, nó cho phép người sản xuất kinh doanh có thể có một khoản vốn tương đối lớn với lãi suất khá tạo điều kiện để họ sản xuất thu hồi vốn và lợi nhuận, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức lúc mới khởi nghiệp. Nhà nước cần cho vay qua hình thức tín dụng ưu đãi để họ có thể phát huy khả năng của mình. Hình thức này nên mở rộng ở những vùng chuyên canh cây trồng phục vụ cho công nghiệp chế biến.
+ Đầu tư vốn qua tín dụng kinh doanh: Nguồn đầu tư này chủ yếu thu hút từ tiền gửi của dân cư vào Ngân hàng Thương Mại, nên một mặt phải quan tâm đến chính sách huy động vốn trong dân cư. Trong điều kiện sản xuất hàng hoá vốn tín dụng kinh doanh có vai trò hết sức quan trọng, là chất xúc tác mạnh mẽ để tiến hành hoạt động kinh doanh. Các nguồn lực mà thiếu vốn thì nguồn lực đó khó phát huy tác dụng. Trên thực tế vay vốn ở các ngân hàng huyện,thị cũng còn nhiều khó khăn như: thủ tục vay rườm rà, thời gian giải ngân dài nhiều khi làm cho người dân phải bỏ qua cơ hội làm ăn mà họ có ý địng từ trước. Đối với những khoản vay nhỏ hơn tuy có thể dẽ dàng nhưng lượng vốn đó sẽ không tương xứng với mục đích kinh doanh của người vay vốn đây là mâu thuẫn hiện còn tồn tại. Để đồng vốn phát huy hiệu quả nhất thiết đầu tư vốn phải hướng vào tập trung chấp nhận vay qua hình thức tín dụng của các tổ chức như: HTX khuyến nông, xí nghiệp…Đối với HTX ngân hàng phát triến nông thôn chấp nhận vay vốn bằng tín chấp để HTX mua sắm tư liệu sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật tạo điều kiện để HTX hoạt động theo mô hình HTX kiểu mới, phát huy vốn của mình trong nông nghiệp - nông thôn.
+ Đầu tư vốn tập trung vào những huyện còn khó khăn để tạo ra sự phát triển đồng đều hơn. Các vùng trong tỉnh thì tập trung vào những ngành có thế mạnh, những dự án có hiệu quả hay đầu tư cho cơ sở hạ tầng…
+ Vấn đề về chuyển tải vốn: Ngân hàng cần thực hiện một số mô hình tín dụng và các hình thức chuyển tải vốn tới người nông dân bằng nhiều cách tạo điều kiện vay vốn dễ dàng nhưng vẫn đảm bảo an toàn về nguồn vốn. Có hai hình thức cho vay đến hộ như sau: cho vay trực tiếp tại ngân hàng, thành lập tổ chức cho vay lưu động và cho vay trực tiếp thông qua nhóm tương hỗ tổ tín chấp do nhân dân tự nguyện thành lập, cho vay thông qua các tổ chức kinh tế, tài chính trung gian, HTX nông nghiệp ,nông trường quốc doanh, xí nghiệp, HTX tín dụng làm dich vụ hưởng hoa hồng.
2. Tiến hành rà soát, điều chỉnh hoàn thiện quy hoạch theo vùng
Việc quy hoạch nông nghiệp theo vùng nhằm mục đích khai thác và sử dụng một cách hợp lý mọi tài nguyên đất đai, cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn, sức lao động, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm, sản phẩm hàng hoá xuất khẩu với chất lượng cao, giá thành hạ. Bởi vậy phải có những định hướng phát triển vùng nông nghiệp, đây là cơ sở quan trọng để có hướng đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, áp dụng khoa học công nghệ và các chính sách kinh tế thích hợp đồng thời là cơ sở quan trọng để các đơn vị kinh tế tổ chức sản xuất kinh doanh theo đúng hướng chung. Trong khi quy hoạch thường xuất hiện hai trường hợp: một là quy hoạch quá chi tiết, quá cụ thể không sát với tình hình thực tế làm hạn chế tính chủ động sáng tạo của các địa phương và các đơn vị kinh tế, hai là định hướng quá chung không giúp gì được cho các địa phương, các đơn vị kinh tế dễ xảy ra tình trạng tự phát, tản mạn.
Trên cở sở quy hoạch phát triển nông nghiệp nông thôn Thái Bình 2000-2010, Uỷ ban nhân dân tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo các ngành có liên quan như nông nghiệp, địa chính, thương mại, thuỷ sản, khoa học công nghệ và môi trường phối hợp với uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã thường xuyên tổ chức rà soát để điều chỉnh bổ sung và hoàn thiện quy hoạch phát triển nông nghiệp nông thôn Thái Bình đến năm 2010 và định hướng cho những năm tiếp theo. Định hướng cho những sản phẩm hàng hoá cho mỗi vùng, không định hướng những sản phẩm thứ yếu hoặc sản phẩm có tính chất tiêu dùng nội bộ. Hoàn chỉnh quy hoạch thuỷ lợi, rà soát lại tổng quan cơ cấu giống cây con, quy hoạch các vùng sản xuất hàng hoá trọng điểm, tập trung làm căn cứ bố trí các hệ thống cơ sở công nghiệp chế biến.Trên cơ sở đó phải xây dựng các dự án ưu tiên để tổ chức thực hiện như: dự án lúa cao sản, lúa đặc sản, dự án vùng cây ăn quả,cây dược liệu, dự án nuôi trồng thuỷ sản thâm canh, dự án về “lợn hướng nạc”, “bò laisin”, dự án kiên cố hoá kênh mương…
Các chương trình dự án kinh tế trên phải được sự chỉ đạo của đảng bộ và sự nhất trí của nhân dân trong tỉnh, dự án phải dựa trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ và từng bước hướng ra xuất khẩu. Các chương trình, dự án đều phải gắn liền với sản xuất chế biến và thị trường, ưu tiên thực hiện các dự án sử dụng vốn ít mà mang lại hiệu quả cao, nhất là hiệu quả xã hội, tạo ra được nhiều việc và tăng thu nhập cho người nông dân góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
3. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng phục vụ cho quá trình chuyển dich cơ cấu kinh tế nông nghiệp .
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhanh hay chậm một phần rất quan trọng phụ thuộc vào việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng .Cơ sở hạ tầng phát triển sẽ tạo môi trường thuận lợi cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.Trước tiên phải xây dựng hệ thống đường giao thông, thuỷ lợi, điện… ở những vùng trọng điểm sản xuất hàng hoá hoặc những vùng tiềm năng lớn.
- Về giao thông: Cần xây dựng các trục đường giao thông chính kết hợp nhà nước và nhân dân cùng làm, huy động mọi nguồn vốn nguồn lực tại chỗ để phát triển giao thông nông thôn, cải tạo nâng cấp các tuyến đường huyện, xã, phát triển giao thông nội đồng đảm bảo cho hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng như việc đi lại thuận lợi của nhân dân.
- Điện: cung cấp điện đầy đủ cho sản xuất và sinh hoạt, cần ưu tiên điện cho chế biến nông sản, các ngành công nghiệp, phục vụ sản xuất ở nông thôn. Tuy nhiên hiện nay giá điện còn quá cao, nhà nước cần có chính sách về giá điện tạo ra sự công bằng giữa thành thị và nông thôn. Từng bước giảm giá điện ở nông thôn để người dân được khuyến khích dùng điện.
- Thuỷ lợi: Tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống thuỷ lợi, kiên cố hoá kênh mương, phục vụ kịp thời cho việc tưới tiêu cho 100% diện tích đất canh tác của tỉnh theo yêu cầu sinh thái của từng loại cây trồng.Từng bước đưa công trình công nghệ thông tin vào quản lý điều hành hệ thống thuỷ lợi trong tỉnh.
- Tiếp tục phát triển các cơ sở hạ tầng khác như mở rộng mạng lưới chợ, xây dựng các cơ sở chế biến nông sản. Đầu tư xây dựng và mở rộng các cơ sở sản xuất giống chất lượng tốt (sản xuất giống lúa, cây ăn quả, cây dược liệu, giống thuỷ sản…). Đa dạng hoá các hình thức đầu tư để xây dựng, nâng cấp các cơ sở chế biến nông sản, thức ăn gia súc để hạ giá thành thức ăn. Ngoài ra, việc xây dựng hệ thống trường học, trạm y tế, bưu chính viễn thông, hệ thống cấp nước cho sinh hoạt là vấn đề cấp thiết, bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Do đó cần phải được quan tâm thoả đáng và đầu tư thích hợp nhằm tạo ra hệ thống kết cấu hạ tầng vững chắc ổn định góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dich cơ cấu nông nghiệp tỉnh Thái Bình.
4. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách ruộng đất.
Thực hiện tốt việc dồn điền, dồn thửa, cấp giấy chứng nhận sử dụng đất lâu dài cho nông dân theo luật định với đầy đủ 5 quyền: Chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp và cho thuê giúp nông dân yên tâm đầu tư thâm canh trên thửa ruộng của mình.Việc chuyển dịch phải gắn với quy hoạch, mở mang ngành nghề, xây dựng các mô hình chuyển đổi có hiệu quả kinh tế cao. Ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các địa phương đáp ứng kịp thời, đầy đủ việc dồn điền, đổi thửa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đât nông nghiệp.
Từng bước xác lập và hình thành hệ thống thị trường đất đai, tạo điều kiện cho quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất - tiền đề quan trọng để nông nghiệp chuyển dịch mạnh sản xuất hàng hoá, tạo thế phân công mới trong nông nghiệp. Quá trình vận động của kinh tế thị trường tất yếu diễn ra sự phân hoá của người sử dụng đất, khi người sản xuất chuyển sang kinh doanh công nghiệp dịch vụ có lợi hơn nên đã giải phóng ra khỏi ruộng đất để kinh doanh chuyên nghề. Một số không có năng lực để làm chủ và kinh doanh ruộng đất sẽ trở thành người làm thuê và buộc phải chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác sử dụng có hiệu quả hơn. Thực tế đặt ra là một mặt phải làm thế nào để thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất vào những hộ làm ăn giỏi để tạo ra ngày càng nhiều nông sản hàng hoá, mặt khác phải giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho nhân dân, nhất là hộ chuyển sang phi nông nghiệp hoặc phải khuyến khích các tầng lớp dân cư đều phải tự vươn lên làm giàu cho bản thân và cho xã hội.
5. Giải pháp về thị trường
Tích cực tìm kiếm mở rộng thị trường trong và ngoài tỉnh trên cở sở đẩy mạnh sản xuất hàng hoá dịch vụ với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Tổ chức lại thị trường đảm bảo cạnh tranh lành mạnh kiểm soát độc quyền trong kinh doanh…
Để thực hiện tốt chiến lược thị trường cần tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau:
- Tổ chức tốt các hoạt động thông tin về thị trường: Nhà nước cần cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường và giá cả, những định hướng sản xuất cơ bản cho từng vùng sản xuất nông nghiệp. Sự ra đời của hệ thống dự báo thị trường, tư vấn cho nông dân là rất cần thiết. Cách tổ chức này sẽ đảm nhận cho việc nghiên cứu, phân tích và dự báo tình hình biến động, sự chuyển dịch của thị trường cũng như tư vấn cho người nông dân về công nghệ và phương thức sản xuất thích hợp. Nó đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành, cơ quan chức năng và địa phương. Việc cung cấp thông tin thị trường phải làm thường xuyên, chính xác và thuận lợi để nông dân kịp thời tham khảo, chọn lọc khi quyết định sản xuất.
- Sản xuất nông nghiệp có đặc điểm mang tính thời vụ nên lúc thời vụ sản xuất ra nhiều sản phẩm, lúc trái vụ rất khan hiếm. Trong khi đó nhu cầu vê sản phẩm của người tiêu dùng đòi hỏi phải có quanh năm.Vì vậy phải tăng cường công nghệ chế biến bảo quản nông sản đảm bảo cung cấp nông sản thường xuyên và ổn định. Đồng thời phải đa dạng hoá và nâng cao chất lượng hàng hoá nông sản đảm bảo tính an toàn thực phẩm cao, nhằm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Nhu cầu thị trường ngày càng tăng nhanh về số lượng, chất lượng cơ cấu và tính kịp thời. Sở dĩ các nông sản phẩm khó cạnh tranh với các loại sản phẩm cùng loại của nước ngoài là do chất lượng sản phẩm của ta chưa cao mặc dù giá thành không thua kém. Để nâng cao khả năng cạnh tranh thì phải đầu tư hơn nữa vào việc nâng cao chất lượng cây, con giống, kỹ thuật canh tác gieo trồng chăn nuôi.
- Hình thành các thị tứ trong toàn huyện, mở rộng mạng lưới chợ, các xí nghiệp thu mua nông sản, biến những nơi này thành trung tâm công nghiệp dịch vụ nhằm lưu thông, tiêu thụ sản phẩm dễ dàng.
- Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm, nắm bắt nhanh và dự báo sớm nhu cầu thị trường để bố trí sản xuất . Chấn chỉnh kịp thời các hoạt động kiểm tra, kiểm soát gây ách tắc cho quá trình lưu thông tiêu thụ hàng hoá.
Nhà nước cần phải đầu tư vốn cho thu mua hàng nông sản vào vụ thu hoạch rộ ở các vùng chuyên canh, mua hàng cho nông dân khi thị trường xuống cấp đảm bảo bù đắp chi phí và có lãi, mở rộng hệ thống dự trữ quốc gia để giải quyết kịp thời những hậu quả do thiên tai gây nên, hạn chế cơn sốt vật tư, hàng tiêu dùng, ổn định sản xuất nông nghiệp, mở rộng tín dụng ưu đãi tạo điều kiện cho nông dân mua vật tư kịp thời, thuê các dịch vụ cần thiết.
- Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế và người sản xuất tham gia tìm kiếm thị trường, tìm kiếm hợp đồng sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
6. áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, chế biến.
Trong điều kiện khoa học kỹ thuật đang phát triển như vũ bão, việc ứng dụng các thành tựu của nó vào đời sống kinh tế xã hội là một tất yếu. Sự xuất hiện các thành tựu khoa học công nghệ mới có tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động, cho phép tạo ra sự phân công mới. Đó cũng là yếu tố vật chất quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng.
Những thành tựu của cách mạng sinh học đã lai tạo, lựa chọn nhiều giống cây con mới có năng suất, chất lượng cao, có khả năng thích ứng rộng. ứng dụng nhiều công nghệ mới vào sản xuất, triển khai áp dụng các giống ngắn ngày, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, đưa giống lúa xuân muộn với công nghệ sản xuất tiên tiến để có điều kiện phát triển vụ đông. áp dụng các biện pháp thâm canh mở rộng như qui trình phân bón hợp lý, các biện pháp phòng trừ tổng hợp IPM, các qui trình sản xuất thức ăn cho chăn nuôi, vacxin phòng bệnh cho gia súc, tự sản không phải nhập ngoại…
Công nghệ chế biến, bảo quản đã nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá các mặt hàng đáp ứng yêu cầu trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên chất lượng sản phẩm còn thấp, mẫu mã bao bì còn xấu điêù đó cho thấy hàm lượng khoa học công nghệ kết tinh trong sản phẩm chưa cao.
Để đưa nhanh tiến bộ công nghệ vào sản xuất nông nghiệp thì phải: tiếp tục đẩy mạnh liên kết với các viện nghiên cứu, các trường đại học, để tiếp thu giống cây, con mới có năng suất, chất lượng cao đưa về sản xuất trong tỉnh, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ sinh học. Đến năm 2005 phải xây dựng khu nông nghiệp công nghệ cao đối với một số cây, con chủ yếu. Coi việc huấn luyện kỹ thuật và qui trình sản xuất cho nông dân là việc làm thường xuyên, bố trí kinh phí để triển khai các dự án. Tăng cường năng lực sản xuất giống, chủ động phục vụ yêu cầu quá trình chuyển đổi bao gồm: Dự án sản xuất và tự túc giống (lúa lai, ngô lai, đậu tương, giống tôm xuất khẩu…). Phấn đấu trở thành trung tâm sản xuất giống chất lượng cao phục vụ yêu cầu tại chỗ và cung cấp giống cho tỉnh khác.
7. Củng cố quan hệ sản xuất trong nông nghiệp nông thôn
Đẩy mạnh quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước (sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm) theo hướng cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê để doanh nghiệp có thêm nguồn lực để mở rộng sản xuất kinh doanh. Củng cố, kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm giống cây trồng, gia súc, trung tâm thuỷ sản, công ty quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty cơ điện, công ty vật tư tỉnh nhằm đảm bảo giữ vai trò chủ đạo trong các khâu cấp giống, vật tư nông nghiệp, khâu làm đất, chế biến và tiêu thụ.
Kinh tế hợp tác và HTX là thành phần không thể thiếu được trong sản xuất hàng hoá. Sự liên kết của kinh tế hộ là cơ sở hình thành phát triển kinh tế hợp tác và HTX theo yêu cầu mới nhằm tạo ra năng suất, chất lượng cao của cây trồng, vật nuôi đem lại lợi ích thiết thực cho nông dân và cho xã hội. Bởi vậy phải tăng cường sự chỉ đạo và thực hiện để sớm hoàn thành việc chuyển đổi HTX theo luật, HTX chuyển sang làm chức năng dịch vụ. Từng bước phát triển đa dạng các loại hình HTX nông nghiệp theo tinh thần Nghị Quyết số 04-NQ/TU của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh( khoá XV) đã đề ra để thực sự tạo động lực cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ nông nghiệp thích ứng với chế thị trường định hướng XHCN.
Khuyến khích và tạo thuận lợi cho các hộ mở rộng sản xuất theo qui mô trang trại, gia trại. Tỉnh sớm có giải pháp phù hợp động viên các hộ dồn đổi ruộng đất cho nhau khắc phục tình trạng manh mún về ruộng đất, kiến nghị với nhà nước nâng thời gian thuê thầu từ 5 năm lên đến 25năm và hướng dẫn việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi tạo điều kiện thuận lợi về vốn, kỹ thuật để các hộ mở rộng sản xuất kinh doanh.
Tăng cường bồi dưỡng tập huấn kỹ thuất sản xuất, nghiệp vụ quản lý cho các hộ nông dân và quản lý HTX, quản lý doanh nghiệp, xây dựng mô hình chuyển đổi cơ cấu phù hợp có hiệu quả để áp dụng cho địa phương mình
8. Tăng cường đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho nguồn lao động nông nghiệp nông thôn trong tỉnh.
Thực tế rằng trình độ học vấn của lực lượng lao đông nông nghiệp nông thôn còn rất thấp, số lao động có trình độ kỹ thuật chuyên môn không nhiều, hầu hết lao động nông thôn từ lâu làm công việc trồng trọt, chăn nuôi không cần học qua trường lớp, mà theo kiểu “ cha truyền con nối” làm theo kinh nghiệm nên năng suất lao động và hiệu quả thấp.
Nguồn lao động được đào tạo đã thực sự làm chủ trong tổ chức sản xuất, vận hành các thiết bị kỹ thuật trong các qui trình công nghệ cơ giới hóa nông nghiệp bao gồm máy cày, máy tuốt lúa, máy chế biến sản phẩm nông nghiệp sau thu hoạch. Lực lượng lao động có kỹ thuật cũng giữ vai trò quan trọng trong việc áp dụng đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào việc sinh học hoá trồng trọt, chọn giống và nhân giống lúa mới, giống vật nuôi để thử nghiệm và sản xuất đại trà, có tác dụng không ngừng làm tăng sản lượng sản phẩm nông nghiệp. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay đòi hỏi lao động có trình độ văn hoá, trình độ kỹ thuật cao, có thể xử lý nhanh những biến động của thị trường, sản xuất ra những sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao, mẫu mã đẹp. Không ngừng nâng cao thu nhập cho người lao động góp phần quan trọng vào sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Để nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người lao động nông nghiệp nông thôn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cần phải áp dụng hệ thống đồng bộ nhiều biện pháp. Các biện pháp chủ yếucó thể tóm tắt như sau:
- Xây dựng chương trình và nội dung học tập thiết thực cho nông dân trong tỉnh. Chương trình và nội dung học tập còn phù hợp với trình độ của lao động nông nghiệp nông thôn, phục vụ cho nông nghiệp nông thôn. Những kiến thức được trang bị tuỳ theo đối tượng và thời gian học tập, trước mắt cần trang bị cho đại đa số các nông dân trực tiếp sản xuất trên đồng ruộng, các kiến thức về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi như bò laisind, lợn nạc, vịt siêu trứng… bảo vệ thực vật, đào tạo bồi dưỡng cho bộ phận nông dân nhất là lao động trẻ một số nghề thủ công, chế biến, dịch vụ , bồi dưỡng cho quản lý, lãnh đạo đặc biệt là các cán bộ cấp huyện, cán bộ cơ sở các kiến thức về quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh. Tăng cường khả năng liên kết giữa Nhà nước - nông dân - nhà khoa học để tiếp thu kiến thức mới về khoa học kỹ thuật và quản lý kinh tế .
- Đa dạng hoá hình thức và thời gian đào tạo, bồi dưỡng do đối tượng cần đào tạo, bồi dưỡng có nhiều loại (lao động là cán bộ quản lý kinh tế, lao động trực tiếp trồng trọt chăn nuôi ). Về thời gian học tập khác nhau nên cần đào tạo chính qui tập trung, có người vừa sản xuất, công tác vừa học tập các kiến thức cơ bản nên cần có các lớp bồi dưỡng, tại chức với thời gian học tập linh hoạt. Tỉnh quan tâm đầu tư, nâng cao đổi mới trang thiết bị học tập, có kế hoạch tuyển chọn các cán bộ kỹ thuật và người lao động giỏi ở cơ sở, có kiến thức phát triển nông nghiệp nông thôn theo cơ chế thị trường.
- Ban hành chính sách khuyến khích, động viên người được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật, phát huy tài năng vì sự nghiệp phát triển nông nghiệp nông thôn. Các chính sách, chế độ quan trọng cần quan tâm giải quyết đối với người học là chế độ học miễn phí, trợ cấp tiền cho đối tượng cần đào tạo, bồi dưỡng, cấp học bổng, miễn học phí cho những người cam kết sẽ về công tác tại tỉnh sau khi tốt nghiệp. Đối với người chuyên làm công tác giảng dạy cho nông nghiệp nông thôn cần quan tâm chế độ tiền lương, phụ cấp chế độ đào tạo, bồi dưỡng để năng cao trình độ của giáo viên. Đối với người sử dụng lao động cần tin tưởng và phân công hợp lý trình độ của người lao động được đào tạo, bồi dưỡng. Có thể nói đây là điểm trọng yếu để người lao động phát huy hết tiềm năng của mình sau khi được đào tạo, bồi dưỡng.
9. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền đối với việc điều chỉnh, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp, triển khai tổ chức thực hiện cụ thể, rộng khắp đến các ngành, các đoàn thể, các huyện , thị xã và cơ sở trong toàn tỉnh, tạo ra sự thống nhất cao trong quá trình thực hiện.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền làm cho mỗi cán bộ Đảng viên và nhân dân hiểu đúng, thực hiện chủ trương ban chấp hành Đảng bộ tỉnh. Tích cực chuyển đổi các giống cây con có hiệu quả cao vào sản xuất .
- Tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ dồn điền đổi thửa gắn với qui hoạch và vùng chuyển đổi cụ thể từ cơ sở, tạo điều kiện tốt nhất về qui mô, diện tích cho các hộ chuyển đổi đước thuận lợi và đạt hiệu quả cao. Lãnh đạo các cấp từ tỉnh, huyện, xã phát động mạnh mẽ, sâu rộng phong trào thi đua xây dựng cánh đồng, thôn xã đạt giá trị sản xuất 50 triệu đồng/ha canh tác/ năm. Hướng chỉ đạo cụ thể là: mỗi huyện, thị xã chỉ đạo một số xã, mỗi xã chỉ đạo một số thôn, mỗi thôn chỉ đạo một số cánh đồng, mỗi đoàn thể nhân dân chỉ đạo một số hộ gia đình đoàn viên, hội viên. Hàng năm từ tỉnh đến cơ sở tổ chức sơ kết, tổng kết phong trào thi đua, có chế độ khen thưởng cho các địa phương đạt danh hiệu trên.
UBND tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng chủ động phối hợp và hỗ trợ các huỵen, thị xã, các đơn vị cơ sở tháo gỡ khó khăn trong quá trình thực hiện. Sở NN-PTNT theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc triẻn khai thực hiện và thường xuyên báo cáo kết quả về ban thường vụ tỉnh để tỉnh có các biện pháp thích hợp phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng như sự nghiệp phát triển nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn mới.
Kết luận
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá là yêu cầu tất yếu để phát triển nhanh và bền vững nền nông nghiệp Thái Bình, là nhiệm vụ quan trọng vừa có tính cấp bách vừa có tính lâu dài của sản xuất nông nghiệp. Với những quan điểm về chỉ đạo và thực tiễn sinh động trong các năm qua góp phần quan trọng vào việc xác định, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý đảm bảo sự - phát triển kinh tế của tỉnh, cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho nông dân, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, tăng cường an ninh quốc phòng và giữ vững ổn định chính trị xã hội nông thôn.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể tóm tắt như sau: tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm xuống, tỷ trọng ngành thuỷ sản tăng lên rõ rệt. Trong ngành nông nghiệp tỷ trọng ngành trồng trọt có xu hướng giảm, tăng dần tỷ trọng của ngành chăn nuôi, dịch vụ. Trong ngành trồng trọt cây lương thực có xu hướng giảm về diện tích, tăng diện tích cây ăn quả, cây công nghiệp, cây rau màu. Chăn nuôi chuyển sang phương pháp chăn nuôi công nghiệp. Nuôi trồng thuỷ sản phát triển mạnh
Kiến nghị
Để thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông thôn theo đúng hướng và có hiệu quả em đưa ra một số đề xuất:
Tỉnh phải hỗ trợ vốn cho diện tích tận dụng đưa vào sản xuất cải tạo diện tích đào ao, hồ đầm, sông cụt chuyển sang sản xuất nông nghiệp.
Hỗ trợ vốn cho diện tích lúa chuyển sang đất rau màu, cây công nghiệp, cây cảnh, cây dược liệu, nuôi thuỷ sản mặn, ngọt.
Đầu tư xây dựng và nâng cao khả năng hoạt đông của các cơ sở chế biến, tiêu thụ nông sản hàng hoá tạo thị trường đầu ra cho tiêu dùng nông sản.
Đề nghị tỉnh bố trí phần kinh phí chi cho hoạt động quản lý xây dựng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở các cấp. Công tác khuyến nông phải được tổ chức lại sao cho thực sự có hiệu quả.
Trung ương và tỉnh phân cấp để UBND huyện công nhận trang trại và gia trại là cơ sở có đủ tư cách pháp nhân để vay vốn sản xuất kinh doanh
Nhà nước và tỉnh cần xây dựng các chính sách: bảo trợ hàng hoá nông sản, chính sách thuế, thuỷ lợi phí, tín dụng… tăng cường bồi dưỡng kiến thức cho người nông dân góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
- Qui vùng sản xuất hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế nông nghiệp – Nhà xuất bản Thống kê HN năm2002.
2. Giáo trình Quản trị kinh doanh nông nghiệp - Nhà xuất bản Thống kê HN năm 2001.
3. Báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện nghị quyết 04-NQ/TU của tỉnh uỷ Thái Bình về chuyển đổi cơ cấu cây trông, vật nuôi (tháng1 năm 2003)
4. Giáo trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta hiện nay- Nhà xuất bản Thống kê HN năm 1994.
5. Báo cáo qui hoạch phát triển nông nghiệp nông thôn 2001-1010
6. Các Nghị Quyết của tỉnh Đảng bộ: NQ 04,NQ 07, NQ 10
7. Đổi mới phát triển nông nghiệp nông thôn- Nhà xuất bản Thống kê HN năm 1996.
8. Niên giám thống kê tỉnh Thái Bình 1995-2001
9. Tạp chí:
- Nông nghiệp nông thôn số 8/2002, số9/2001,số2/2001
Kinh tế phát triển :số 1/2001, số 11/2001 số 5/2001
Kinh tế thế giới: số 2/2003, số 5/2001
Nghiên cứu kinh tế :số3/2001, số 6/2002
10. Các bài báo đăng trên báo nhân dân và báo Thái Bình
Mục lục
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37122.doc