LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính tất yếu của đề tài
Có thể nói, hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu đối với mọi quốc gia trong đó có Việt Nam. Theo đó, các trào lưu giao lưu kinh tế quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, góp phần quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO thì bên cạnh những thuận lợi là muôn vàn những khó khăn,thách thức đang chờ đón. Điều này sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ đến nền kin
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2648 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và bài học kinh nghiệm rút ra từ những rủi ro trong hoạt động thanh toán xuất khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ (L/C) tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế Việt Nam, đặc biệt là sẽ tác động trực tiếp đến các NHTM Việt Nam. Các NHTM sẽ phải đối mặt với những rủi ro về cấp vốn đầu tư, rủi ro đối với hoạt động thanh toán quốc tế nói chung cũng như thanh toán tín dụng chứng từ nói riêng.
Với xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá, hoạt động kinh tế quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ và chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt trong giai đoạn công nghệp hoá, hiện đại hoá của nước ta. Nền kinh tế Việt Nam đang từng bước gia nhập vào hoạt động ngày càng sôi động của nền kinh tế thế giới, đang xây dựng một nền móng vững chắc để tham gia vào WTO.Là một mắt xích không thể thiếu trong hoạt động dịch vụ của NHTM, hoạt động thanh toán quốc tế của các NH ngày càng có vị trí vô cùng quan trọng. Thông qua hoạt động thanh toán quốc tế, các NHTM đã góp phần thúc đẩy, tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại và thương mại, tăng thu nhập và phát triển ổn định trong môi trường kinh doanh ngày càng cạnh tranh khốc liệt. Với tư cách là chất xúc tác cho sự phát triển của thương mại quốc tế, hoạt động thanh toán quốc tế cũng không ngừng được mở rộng và phát triển. Thực tế hiện nay, thanh toán TDCT là phương thức thanh toán được sử dụng nhiều hơn cả - chiếm hơn 70% doanh số giao dịch kinh tế quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động TQTT nên việc nghiên cứu tìm hiểu để phát triển hoạt động TTQT luôn được các NHTM quan tâm.
Với vị trí, vai trò quan trọng của thanh toán quốc tế phục vụ kinh tế đối ngoại nên trong những năm qua VCB đã rất quan tâm đến việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của mặt nghiệp vụ này. Chính vì vậy mà thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán bằng phương thức TDCT từ nói riêng đã mang kết quả khả quan ,đáp ứng phần lớn nhu cầu thanh toán hàng XNK của nền kinh tế. Tuy nhiên, đây là nghiệp vụ phức tạp và đòi hỏi về xử lí kĩ thuật cao ,do vậy thanh toán TDCT vẫn tiềm ẩn những rủi ro cho các bên có liên quan.
Sau thời gian thực tập tại VCB, trên cơ sở những kiến thúc đã học ở trường và qua nghiên cứu ở tài liệu, kết hợp với những kinh nghiệm thực tiễn thu được trong quá trình thực tập, em đã lựa chọn đề tài “Thực trạng và bài học kinh nghiệm rút ra từ những rủi ro trong hoạt động thanh toán xuất khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam” làm chuyên đề tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Hoạt động TTQT đặc biệt là phương thức thanh toán TDCT tại NHNT VN trong thời gian vừa qua đã có những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó vẫn còn một số tồn tại nhất định và gây ra những rủi ro đáng tiếc cho không chỉ NH mà còn ảnh hưởng đến khách hàng và gây tổn hại đến nền kinh tế. Nhận thức một cách đầy đủ và toàn diện về thực trạng cũng như các rủi ro đã và có thể xảy ra đối với hoạt động TTQT bằng phương thức TDCT sẽ góp phần hoàn thiện phương thức thanh toán này cho các NHTM. Mục đích nghiên cứu của đề tài cụ thể:
Luận giải những vấn đề lý luận về hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức TDCT, đi sâu vào nghiên cứu các rủi ro trong phương thức này.
Phân tích, đánh giá thực trạng rủi ro thanh toán TDCT tại NHNT VN. Đề xuât giải pháp kiến nghị nhằm giảm bớt các rủi ro trong thanh toán TDCT.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các cơ sở lý luận về rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ tại NHNT VN và thực tiễn hoạt động này ở NHNT VN.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp lí luận Mác- Lênin, bao gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật. Đề tài còn sử dụng những phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản là phương pháp phân tích, đánh giá, thống kê, tổng hợp, so sánh, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê, … kết hợp với việc minh họa bằng sơ đồ, bảng biểu, đồ thị, các số liệu thu thập được qua quá trình thực tập nhằm làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên trực quan hơn. Cùng với việc tham khảo các tài liệu, tạp chí, em hy vọng đề tài sẽ đạt được kết quả nhất định.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung chính của đề tài bao gồm 3 phần:
- Chương 1: Lý luận chung về nghiệp vụ thanh toán TDCT và rủi ro khi áp dụng.
- Chương 2: Thực trạng rủi ro trong thanh toán TDCT tại NHNT VN.
- Chương 3: Bài học rút ra và một số giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro trong thanh toán TDCT tại NHNT VN.
Do sự hạn chế trong kiến thức nên bài chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự thông cảm và góp ý của các thầy cô giáo. Em xin trân thành cảm ơn.
Chương 1:
Lý luận chung về nghiệp vụ thanh toán TDCT và rủi ro khi áp dụng.
1.1. Những vấn đề cơ bản về thanh toán quốc tế
1.1.1 Khái niệm về thanh toán quốc tế
TTQT là việc chi trả bằng tiền liên quan đến các hoạt động mua bán hàng hoá và dịch vụ, thực hiện các nghĩa vụ tài chính giữa các tổ chức, đơn vị kinh tế và các cá nhân giữa các nước này với nước khác . Hay hiểu theo một cách khác, TTQT là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả về tiền tệ phát sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng, dịch vụ phi mậu dịch giữa các tổ chức kinh tế quốc tế, giữa các ngân hàng, các cá nhân của các nước khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng hình thức chuyển tiền hoặc bù trừ trên tài khoản các ngân hàng.
TTQT không chỉ đơn thuần như hoạt động thanh toán trong quan hệ giao dịch mua bán trong nước, mà TTQT rất phức tạp thông qua các phương thức thanh toán khác nhau. Điều này do thanh toán quốc tế có liên quan đến nhiều quốc gia khác nhau ,với những đồng tiền thanh toán khác nhau. Và hơn nữa việc thanh toán giữa các nước đều phải tiến hành thông qua các tổ chức tài chính trung gian mà chủ yếu là các NHTM. Hoạt động thanh toán thường không dùng tiền mặt ,chủ yếu là thanh quyết toán giữa các NHTM. Vì vậy thanh toán quốc tế có những đặc thù riêng.
Thanh toán quốc tế là nghiệp vụ quyết định tới hiệu quả của một thương vụ bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của đôi bên. Vì vậy trong hoạt động thanh toán quốc tế, các điều kiện về thanh toán được hình thành nhằm đảm bảo cho việc thanh toán được hợp lý cho cả đôi bên. Các điều kiện về thanh toán quốc tế bao gồm:
- Điều kiện về đồng tiền thanh toán (tỷ giá hối đoái)
- Điều kiện về thời hạn thanh toán
- Các phương thức, phương tiện và hình thức thanh toán
- Các điều kiện đảm bảo hối đoái
- Các điều kiện đảm bảo tín dụng
- Điều kiện đảm bảo giá trị thanh toán
1.1.2. Vai trò của thanh toán quốc tế
1.1.2.1 Vai trò của thanh toán quốc tế đối với nền kinh tế
TTQT góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại của các quốc gia.
Thực tế hiện nay, kinh tế đối ngoại đều trở thành mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Đây là chiến lược tất yếu để phát triển kinh tế quốc gia và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình hội nhập và cạnh tranh gay gắt như hiện nay,không ai dám phủ nhận vai trò to lớn của hoạt động ngoại thương. Thực tế đã chứng minh rằng nền kinh tế của một nước không thể phát triển với một chính sách đóng cửa, chỉ dựa vào tích lũy và trao đổi trong nước mà phải biết phát huy mặt mạnh, tận dụng những lợi thế bên ngoài, biết phát huy lợi thế so sánh và phải biết kết hợp sức mạnh trong chính các hoạt động kinh tế quốc tế. Thông qua việc bảo lãnh cho khách hàng trong nước, thanh toán cho khách hàng nước ngoài, … sẽ góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia. Việc nâng cao uy tín trong lĩnh vực thanh toán sẽ góp phần thu hút thêm nhiều đối tác đầu tư. Thêm vào đó, hoạt động thanh toán quốc tế được tổ chức một cách nhanh chóng, chính xác, an toàn sẽ trực tiếp tác động vào việc rút ngắn thời gian chu chuyển vốn, giảm bớt và khắc phục rủi ro liên quan tới sự biến động của tiền tệ, tỷ giá, đồng thời đây cũng là một động lực đối với các nhà sản xuất đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, qua đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển.
TTQT là thước đo trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Ngay từ khi bắt đầu đàm phán và kí kết hợp đồng kinh doanh XNK thanh toán đã là một điều khoản không thể thiếu trong hợp đông mà các bên tham gia phải thoả thuận để đảm bảo lợi ích của mình, điều khoản về thanh toán được thoả thuận một cách thống nhất và chặt chẽ sẽ tạo điều kiện cho các bên tham gia tiến hành tốt các điều khoản khác quy định trong hợp đồng như: Bên xuất khẩu dựa vào đó chuẩn bị hàng, lập chứng từ về hàng hoá, tiến hành giao hàng, bên nhập khẩu tiến hành các thủ tục nhận hàng, chuẩn bị thanh toán tiền hàng… Dựa vào các điều khoản về thanh toán có thể tránh cho các bên tham gia những rủi ro có thể xảy ra. Hoạt động thanh toán quốc tế nhanh chóng, chính xác, thuận tiện, đúng luật sẽ thúc đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, lưu chuyển vốn của các bên tham gia, mở rộng và củng cố quan hệ hợp tác buôn bán làm ăn giữa các nước. Hoạt động thanh toán có thể đảm bảo cho nhà kinh doanh XNK thu được tiền về và nhận được hàng hoá vì khi tham gia vào hoạt động TTQT không chỉ có người xuất khẩu và người nhập khẩu mà còn có NHTM tham gia với vai trò là trung gian đảm bảo quyền lợi của các bên. Hai bên XNK không thể tự thanh toán với nhau mà không thông qua ngân hàng vì các quốc gia có cách biệt về địa lí nên khả năng đảm bảo tránh đựơc những rủi ro xảy ra là rất khó, cũng như không có sự bảo lãnh cho các bên giao hàng và thanh toán tiền hàng.
TTQT là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến vòng quay vốn của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XNK, từ đó ảnh hưởng đến doanh thu cũng như lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu quy định điều khoản thanh toán hợp lý có thể giúp doanh nghiệp tránh được những rủi ro và mang lại lợi ích to lớn cho các doanh nghiệp. Thêm vào đó, thông qua hoạt động thanh toán, các doanh nghiệp cũng có thể đánh giá khả năng tài chính, uy tín cũng như tiềm lực của doanh nghiệp khác Trên cơ sở đó, giúp doanh nghiệp tìm được đối tác, bạn hàng kinh doanh tốt nhất
TTQT giúp cho việc quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp XNK đạt hiệu quả cao hơn
Thông qua thông tin và số liệu do ngân hàng cung cấp, các cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc giám sát tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp XNK trong nước theo đúng chính sách kinh tế đối ngoại, đồng thời có chính sách phù hợp khuyến khích và tài trợ xuất nhập khẩu phù hợp theo định hướng của nhà nước trong từng thời kì.
Như vậy, có thể thấy TTQT là một mắt xích không thể thiếu trong hoạt động kinh tế đối ngoại của các quốc gia, nó thúc đẩy sự phát triển của hoạt động kinh tế quốc tế. Một quốc gia có uy tín cao trong hoạt động kinh tế đối ngoại tất yếu sẽ thu hút nhiều đối tác hơn, vì vậy thông qua hoạt động thanh toán chúng ta cũng có thể đánh giá được khả năng tài chính, uy tín cũng như tiềm lực của mỗi doanh nghiệp kinh doanh XNK.
1.1.2.2. Vai trò của thanh toán quốc tế đối với hoạt động ngân hàng
TTQT tạo điều kiện để các NHTM mở rộng hoạt động kinh doanh và nâng cao lợi nhuận.
Có thể nói, hoạt động chính của một NHTM là huy động vốn, cho vay và đầu tư, trung gian thanh toán. Trong đó, hoạt động có mức độ rủi ro thấp nhất nhưng lại mang lại nguồn thu lớn, thu hút thêm nhiều khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường là hoạt động trung gian thanh toán. Một ngân hàng nếu là trở thành một trung gian thanh toán có uy tín cao sẽ rất dễ dàng phát triển thêm được các nghiệp vụ khác như kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh và các dịch vụ ngân hàng khác. Thông qua hoạt động TTQT, ngân hàng với vai trò là trung gian thanh toán, nhưng đồng thời là tổ chức tài chính trung gian cung cấp và tạo điều kiện cho các bên tham gia hoạt động XNK được thuận tiện và dễ dàng thông qua các hoạt động cấp vốn, cấp tín dụng dưới hình thức ứng trước, trả chậm, tài trợ ngoại thương… Vì vậy xu hướng chung của các NHTM hiện nay là phát triển dịch vụ trung gian thanh toán.
TTQT làm tăng tính thanh khoản của ngân hàng
Khi thực hiện hoạt động thanh toán cho khách hàng, thông thường, ngân hàng luôn yêu cầu một khoản tiền kí quỹ nhất định từ khách hàng. Nguồn tiền này tương đối ổn định và phát sinh đều đặn thông qua việc thực hiện các thư tín dụng nhập khẩu do ngân hàng quản lý. Mặt khác, những khoản tiền đang chờ thanh toán cho phía nước ngoài những chưa tới hạn phải thanh toán cũng góp phần làm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng.
TTQT giúp các ngân hàng nâng cao uy tín của mình trên thị trường quốc tế
Đặc trưng của hoạt động TTQT đó là, để có thể thực hiện hoạt động này, ngân hàng cần phải không ngừng cố gắng mở rộng hơn nữa quan hệ đại lý với các ngân hàng khác trên toàn thế giới. Để làm được điều này, ngân hàng đòi hỏi phải nâng cao được uy tín của mình. Như vậy, thông qua hoạt động TTQT, các NHTM sẽ có thể khai thác được các nguồn tài trợ của các ngân hàng nước ngoài và thu hút được các nguồn vốn từ thị trường tài chính thế giới, giúp đáp ứng tốt hơn cho các hoạt động khác của ngân hàng. Và thực tế hiện nay, khi Việt Nam mới gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, thì bằng cách nâng cao chất lượng TTQT, các NHTM Việt Nam sẽ chứng tỏ được uy tín, chất lượng của mình, từ đó sẽ dễ dàng hơn trong quá trình hội nhập.
Như vậy, nhận thức được vị trí to lớn của TTQT đối với nền kinh tế đất nước nói chung, hoạt động kinh tế đối ngoại và ngoại thương nói riêng, chính phủ ngày càng quan tâm đến vấn đề này, tạo điều kiện cho TTQT ngày càng mở rộng, tiến hành thuận tiện nhanh chóng bằng việc cải cách hệ thống Ngân hàng, cho phép nhiều NHTM tham gia hoạt động đối ngoại, thực hiện TTQT cũng như đề ra những quyết định kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong nghiệp vụ để TTQT phát triển trở thành công cụ đắc lực thúc đẩy kinh tế đối ngoại của đất nước. Ngân hàng với vai trò là trung gian thanh toán, là người bảo lãnh trong khâu thanh toán giữa các bên đảm bảo chắc chắn cho các bên nhận được tiền cũng như nhận được hàng. Trong điều kiện hiện nay Ngân hàng đóng một vai trò quan trọng và là một mắt xích trong hoạt động TTQT cũng như trong hoạt động kinh doanh XNK.
1.1.2.3 Xu hướng phát triển của thương mại và thanh toán quốc tế
Do xu hướng phát triển của thị trường và thương mại, các nước đều đầu tư nghiên cứu và đổi mới để ngày càng hoàn thiện hơn hoạt động TTQT. Việc lựa chọn hình thức TTQT phụ thuộc nhiều vào quyết định của các bên mua và bên bán, quyết định này lại phụ thuộc vào phạm vi giao dịch và mối quan hệ giữa các đơn vị kinh tế. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt luôn được đặt ra trong chiến lược hoạt đông kinh doanh của NHTM. Cung cấp những công cụ thanh toán hữu hiệu không chỉ đẩy mạnh tính cạnh tranh của Ngân hàng trong lĩnh vực này mà còn nâng cao uy tín của ngân hàng. Do vậy, ngay cả các NHTM có bề dày kinh nghiệm trên thế giới trong hoạt động TTQT cũng không dám chắc là có thể lường hết được những phát sinh tiêu cực do hoạt động này mang lại trong tương lai, dù rằng những tiêu cực đó có thể Ngân hàng không phải gánh chịu một cách trực tiếp, nhưng dù xét ở góc độ nào đi nữa thì Ngân hàng cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Việt Nam mới bước vào nền kinh tế thị trường từ cuối những năm 80 của thế kỉ này, việc hội nhập vào nền mậu dịch thế giới cũng muộn hơn so với rất nhiều quốc gia khác. Trong những năm gần đây, thanh toán XNK với các nước tăng lên không những về kim ngạch mà còn về cả quy mô và chất lượng.Tuy nhiên tranh chấp phát sinh ngày càng nhiều và phức tạp đây cũng là điều dễ hiểu bởi các NHTM của nước ta vẫn còn non kém về trình độ nghiệp vụ và ít kinh nghiệm. Hiện nay, khi Việt Nam đã gia nhập WTO thì vấn đề nâng cao chất lượng dịch vụ TTQT càng được các NHTM quan tâm hơn lúc nào khác. Trong tương lai không xa các giao dịch thương mại sẽ tăng lên đáng kể không chỉ về số lượng giao dịch mà còn về cả giá trị của từng giao dịch. Theo đó là cả sự tiến bộ, chuyên nghiệp của các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài, các ngân hàng quốc tế. Đây sẽ vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các NHTM Việt Nam. Như xu hướng chung của các ngân hàng trên thế giới hiện nay, các NHTM trong nước cũng sẽ đẩy mạnh phát triển hoạt động dịch vụ trong đó có hoạt động TTQT.
1.2. Các phương thức thanh toán quốc tế
Phương thức TTQT là toàn bộ quá trình, cách thức nhận, trả tiền trong giao dịch, mua bán hàng hoá, dịch vụ giữa hai bên XNK. Trong hoạt động XNK có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau. Các phương thức thanh toán dựa trên sự thoả thuận giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu, mỗi phương thức đều có ưu nhược điểm riêng thể hiện mâu thẫn về quyền lợi giữa các người nhập khẩu và người xuất khẩu. Vì vậy việc lựa chọn phương thức thanh toán có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến hiệu quả cũng như tránh được rủi ro trong kinh doanh của các bên tham gia thanh toán. Có 3 phương thức TTQT:
- Phương thức chuyển tiền (remittance)
- Phương thức thanh toán nhờ thu (Collection of payment)
- Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (Letter of credit)
1.2.1 Phương thức chuyển tiền (remittance)
1.2.1.1. Khái niệm
Chuyển tiền là một phương thức thanh toán, theo đó khách hàng ( người yêu cầu chuyển tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định và trong một thời gian nhất định.
1.2.1.2. Quy trình nghiệp vụ
Các bên tham gia
- Người chuyển tiền hay người trả tiền (Remitter): Thường là người nhập khẩu, người mua, người mắc nợ, nhà đầu tư, người chuyển kiều hối, … Người trả tiền là người yêu cầu ngân hàng chuyển tiền ra nước ngoài.
- Người thụ hưởng (Beneficiary): Là người xuất khẩu, chủ nợ, người nhận vốn đầu tư, người nhận kiều hối, … do người chuyển tiền chỉ định.
- Ngân hàng chuyển tiền (Remitting Bank): Là ngân hàng phục vụ người chuyển tiền.
- Ngân hàng trả tiền (Paying Bank): Là ngân hàng trả tiền cho người thụ hưởng và thường là ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền.
Các bước của quy trình
Ngân hàng trả tiền (Paying Bank)
Người thụ hưởng (Beneficiary)
Người chuyển tiền (Remitter)
NH chuyển tiền
(Remitting Bank)
(4)
(5)
(1)
(3)
(2)
Trong đó:
(1): (Bước này chỉ xuất hiện trong nghiệp vụ chuyển tiền ngoại thương) Nhà xuất khẩu thực hiện việc giao hàng đồng thời chuyển giao bộ chứng từ như: hóa đơn, vận đơn, bảo hiểm đơn, … cho nhà nhập khẩu.
(2): Sau khi khiểm tra bộ chứng từ (hoặc hàng hóa), nếu quyết định trả tiền thì nhà nhập khẩu viết lệnh chuyển tiền ( bằng M/T hay T/T) cùng với ủy nhiệm chi (nếu có tài khoản) gửi ngân hàng phục vụ mình.
(3) : Sau khi kiểm tra chứng từ và các điều kiện chuyển tiền theo quy định, nếu thấy hợp lệ và đủ khả năng thanh toán, ngân hàng thực hiện trích tài khoản để chuyển tiền và gửi giấy báo Nợ cho nhà nhập khẩu.
(4) : Ngân hàng chuyển tiền ra lệnh (bằng M/T hay T/T theo yêu cầu của người chuyển tiền) cho ngân hàng đại lý (ngân hàng trả tiền) để chuyển tiền cho người thụ hưởng.
(5) : Ngân hàng trả tiền ghi Có vào tài khoản của người thụ hưởng, đồng thời gửi giấy báo Có cho người hưởng lợi.
Phương thức này đơn giản, dễ thực hiện và việc chuyển tiền nhanh chóng tuy nhiên nó cũng mang nhiều nhựơc điểm, bởi rằng không có cơ sở pháp lí nào đảm bảo chắc chắn là người nhập khẩu sẽ trả sớm và đầy đủ cho người xuất khẩu. Chính vì vậy phương thức này không phải là phương thức được sử dụng phổ biến nhất trong thương mại quốc tế, hình thức chuyển tiền này thường đựoc áp dụng trong trường hợp hai bên là bạn hàng lâu năm, có sự tin cậy lẫn nhau.
1.2 Phương thức nhờ thu (Collection of payment)
Khái niệm
Nhờ thu là phương thức thanh toán, theo đó, bên bán ( nhà xuất khẩu) sau khi giao hàng hay cung ứng dịch vụ, ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình xuất trình bộ chứng từ thông qua ngân hàng đại lý cho bên mua (nhà nhập khẩu) để được thanh toán, chấp nhận hối phiếu hay chấp nhận các điều kiện và điều khoản khác.
Các bên tham gia
Người ủy thác (Principal): Là người yêu cầu ngân hàng phục vụ mình (Ngân hàng nhờ thu) thu hộ tiền , và có các vai trò:
- Là mắt xích đầu tiên trong dây chuyền nhờ thu.
- Là người khởi xướng và quy định nội dung giao dịch nhờ thu.
- Là người phát ra các chỉ thị cho tất cả các bên cùng thực hiện.
- Là người có quyền thụ hưởng nhờ thu.
- Là người chịu chi phí cuối cùng về nhờ thu.
- Ngân hàng nhờ thu ( Remitting Bank, Sending Bank): đây là ngân hàng, theo yêu cầu của Người ủy thác, chấp nhận chuyển nhờ thu đến ngân hàng đại lý (ngân hàng thu hộ). ngân hàng thu hộ là ngân hàng phục vụ người ủy thác/ người xuất khẩu/ người bán; và trong quá trình xử lý nhờ thu, NHnhờ thu chịu trách nhiệm với người ủy thác.
- Ngân hàng thu hộ ( Collecting Bank): thường là ngân hàng đại lý hay chi nhánh của ngân hàng nhờ thu có trụ sở ở nước người trả tiền. Ngân hàng thu hộ nhận nhờ thu từ ngân hàng nhờ thu và thực hiện thu tiền từ Người trả tiền theo các điều kiện ghi trong lệnh nhờ thu. Sau khi thu được tiền, NHTH phải chuyển trả cho NHNT. NHTH phải chịu trách nhiệm về nhờ thu đối với ngân hàng thu hộ.
- Ngân hàng xuất trình (Presenting Bank):
- Nếu người trả tiền có quan hệ tài khoản với ngân hàng thu hộ, thì ngân hàng thu hộ sẽ xuất trình nhờ thu trực tiếp cho người trả tiền; trong trường hợp này thì ngân hàng thu hộ đồng thời là ngân hàng xuất trình.
- Nếu người trả tiền không có quan hệ tài khoản với ngân hàng thu hộ, thì có thể chuyển nhờ thu cho một ngân hàng khác có quan hệ tài khoản với người trả tiền để xuất trình. Trong trường hợp này, ngân hàng phục vụ người trả tiền trở thành ngân hàng xuất trình, và chịu trách nhiệm trực tiếp với ngân hàng thu hộ.
- Người trả tiền hay người thụ trái (Drawee): Là người mà nhờ thu được xuất trình để thanh toán hay chấp nhận thanh toán. Người trả tièn trong ngoại thương là nhà nhập khẩu.
Quy trình nghiệp vụ
Quy trình nhờ thu phiếu trơn
(3)
Ngân hàng nhờ thu (Remitting Bank)
Người ủy thác (Principal)
Người trả tiền (Drawee)
Ngân hàng thu hộ (Collecting Bank)
(0)
(1)
(7)
(2)
(6)
(5)
(4)
Trong đó:
(0): Kết hợp hợp đồng mua bán, trong đó điều khoản thanh toán quy định áp dụng phương thức “Nhờ thu phiếu trơn”.
(1) Người ủy thác (nhà xuất khẩu) gửi hàng hóa và bộ chứng tờ thương mại trực tiếp cho người trả tiền (nhà nhập khẩu).
(2) Người xuất khẩu gửi đơn yêu cầu nhờ thu kèm chứng từ tài chính cho ngân hàng nhờ thu để thu tiền từ nhà nhập khẩu.
(3)Ngân hàng nhờ thu lập và gửi lệnh nhờ thu cùng chứng từ tài chính tới ngân hàng thu hộ để thu tiền từ nhà nhập khẩu.
(4) Ngân hàng thu hộ thông báo lệnh nhờ thu để nhà nhập khẩu:
- Trả tiền ngay (Séc, kì phiếu hay hối phiếu trả ngay); hoặc
- Ký chấp nhận hối phiếu (hối phiếu kì hạn); hoặc
- Chấp nhận các điều kiện và điều khoản khác.
(5) Nhà nhập khẩu trả tiền ngay, hoặc chấp nhận trả tiền.
(6) Ngân hàng thu hộ chuyền tiền nhờ thu, hoặc hối phiếu kì hạn đã chấp nhận cho ngân hàng nhờ thu.
(7) Ngân hàng thu hộ chuyển tiền nhờ thu, hoặc hối phiếu kì hạn đã chấp nhận cho nhà xuất khẩu.
Quy trình nhờ thu kèm chứng từ
(4)
Ngân hàng thu hộ (Collecting Bank)
Người ủy thác (Principal)
Người trả tiền (Drawee)
Ngân hàng nhờ thu (Remitting Bank)
(0)
(6)
(5)
(8)
(1)
(2)
(3)
(7)
Trong đó:
Ký kết hợp đồng mua bán, trong đó điều khoản thanh toán quy định áp dụng phương thức Nhờ thu kèm chứng từ.
Nhà xuất khẩu gửi hàng hóa cho nhà nhập khẩu.
Nhà xuất khẩu lập Đơn yêu cầu nhờ thu gửi cùng bộ chứng từ (bao gồm chứng từ thương mại cùng chứng từ tài chính, nếu có) tới ngân hàng nhờ thu.
Ngân hàng nhờ thu lập lệnh nhờ thu và gửi cùng bộ chứng từ ngân hàng thu hộ.
Ngân hàng nhờ thu thông báo Lệnh nhờ thu và xuất trình bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu.
Nhà nhập khẩu chấp hành lệnh nhờ thu bằng cách:
Thanh toán ngay (hối phiếu trả ngay, séc hoặc kì phiếu); hoặc
Chấp nhận hối phiếu (hối phiếu kì hạn); hoặc
Ký phát hành kì phiếu hoặc giấy nhận nợ.
Ngân hàng thu hộ trao bộ chứng từ thương mại cho nhà nhập khẩu.
Ngân hàng thu hộ chuyển tiền nhờ thu, hoặc hối phiếu chấp nhận, hoặc kì phiếu hay giấy nhận nợ cho Ngân hàng nhờ thu.
Ngân hàng nhờ thu chuyển tiền nhờ thu, hoặc hối phiếu chấp nhận, hoặc kỳ phiếu hay giấy nhận nợ cho nhà xuất khẩu.
Tùy theo từng hình thức nhờ thu cụ thể là Nhờ thu phiếu trơn hay nhờ thu kèm chứng từ mài rủi ro sẽ thuộc về người xuất khẩu, người nhập khẩu hay ngân hàng trung gian. Nhưng nói chung, phương thức thanh toán này thường được sử dụng khi bên mua và bên bán có sự tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau.
1.3 Phương thức tín dụng chứng từ
Có thể nói, TDCT là phương thức thanh toán phổ biến và thông dụng nhất hiện nay và được sử dụng trong hầu hết các hợp đồng buôn bán thương mại quốc tế bởi các đặc tính thuận lợi và hiệu quả của nó mang lại. Có thể coi đây là một phương thức thanh toán tương đối phức tạp phức tạp, tuy nhiên đây lại là phương thức thanh toán đem lại an toàn cho cả 2 bên, nhất là khi người mua và người bán chưa hiểu rõ về nhau, hoặc ở các giao dịch mua bán lần đầu giữa hai bên. Điều đặc biệt của phương thức thanh toán này chính là vai trò của NHTM, không chỉ đóng vai trò là trung gian thanh toán như ở các phương thức thanh toán khác, trong phương thức thanh toán TDCT, ngân hàng là một mắt xích quan trọng, có thể nói NHTM là linh hồn của phương thức thanh toán này.
Bên cạnh các nghiệp vụ truyền thống thì đối với các NHTM TTQT đang ngày trở thành một nghiệp vụ quan trọng và ngày càng được quan tâm và đầu tư nhiều hơn. Đồng thời đây cũng là một nghiệp vụ mang lại thu nhập cho các NHTM. Ngoài ra, nếu một NHTM phát triển tốt nghiệp vụ này thì sẽ tạo điều kiện tốt để nâng cao chất lượng các nghiệp vụ khác như tài trợ xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ, bảo lãnh, mở rộng quan hệ tài khoản, quan hệ ngân hàng đại lý, kinh doanh ngoại tệ, … Vì những lý do đó có thể nói TTQT là một nghiệp vụ ngoại bảng đặc trương cho các NHTM ngày nay. Do đó, đề tài này sẽ đi sâu vào tìm hiểu kĩ về phương thức thanh toán này.
2. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
2.1. Khái niệm
Phương thức TDCT là một sự thỏa thuận, trong đó, theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở L/C), một ngân hàng ( ngân hàng phát hành L/C) sẽ phát hành một bức thư, gọi là L/C ( Letter of Credit), theo đó, NHPH cam kết trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu cho một bên thứ ba ( người thụ hưởng L/C) khi người này xuất trình cho NHPH bộ chứng từ thanh toán phù hợp với điều kiện và điều khoản quy định trong L/C. Hay theo UCP 600, điều 2 quy định: “Tín dụng chứng từ là một sự thỏa thuận bất kì, cho dù được mô tả hoặc gọi tên như thế nào, thể hiện một cam kết chắc chắn và không hủy ngang của NHPH về việc thanh toán khi xuất trình phù hợp”.
2.2. Thư tín dụng
2.2.1. Khái niệm thư tín dụng
Thư tín dụng ( Letter of Credit) là bất kì một sự cam kết nào, dù được mô tả như thế nào, theo đó một ngân hàng (NHPH) hành động theo yêu cầu và chỉ thị của một khách hàng hoặc thay mặt chính mình:
- Trả tiền cho một người thứ ba hoặc theo lệnh của người này, hoặc chấp nhận và trả tiền những hối phiếu do người này kí phát.
- Chỉ định một ngân hàng khác (NHđCĐ) thực hiện việc trả tiền đó, hoặc chấp nhận hối phiếu.
- Chỉ định cho ngân hàng khác chiết khấu khi các chứng từ quy định được xuất trình nếu các điều kiện của thư tín dụng được thực hiện đúng.
2..2.2. Những nội dung chủ yếu của thư tín dụng
- Số hiệu L/C: Mỗi L/C đều có số hiệu riêng có tác dụng ghi vào các chứng từ có liên quan và để thuận tiện trong việc trao đổi thư từ, điện tín.
- Địa điểm phát hành L/C: Đây là một nội dung bắt buộc trong L/C. Đây là nơi NHPH viết cam kết trả tiền cho người xuất khẩu. Địa điểm phát hành L/C có ý nghĩa trong việc xác định nguồn luật điều chỉnh khi có tranh chấp xảy ra.
- Ngày phát hành L/C: Là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của NHPH đối với người xuất khẩu. Đây cũng chính là ngày bắt đầu L/C có hiệu lực.
- Tên và địa chỉ của những người có liên quan: Đây là một nội dung bắt buộc phải có trong L/C.
- Số tiền của L/C: Số tiền trong L/C phải được ghi vừa bằng số vừa bằng chữ và phải thống nhất với nhau. Tên của đơn vị tiền tệ phải rõ ràng, cụ thể.
- Thời hạn hiệu lực của L/C: Thời hạn hiệu lực của L/C là thời hạn mà NHPH cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu khi có xuất trình phù hợp. Thời hạn hiệu lực của L/C tính từ ngày L/C đó được phát hành đến hết ngày hiệu lực của L/C.
- Thời hạn giao hàng: Là thời hạn quy định người xuất khẩu phải chuyển giao hàng hóa cho người nhập khẩu. Thời hạn giao hàng có mối quan hệ chặt chẽ với thời hạn hiệu lực của L/C.
- Thời hạn trả tiền của L/C: Nội dung này tùy thuộc vào hợp đồng thương mại. Có thể là trả nay hoặc trả sau.
- Mô tả hàng hóa: Là những nội dung liên quan cụ thể đến hàng hóa như: số lượng, khối lượng, giá cả, mã hàng, bao bì, miêu tả hàng hóa, … Ngoài ra trong phần mô tả hàng hóa còn phải chỉ rõ phương thức vận chuyển được sử dụng là gì, phương tiện, cách thức giao hàng.
- Yêu cầu về bộ chứng: Nội dung này bao gồm các loại chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình, số lượng mỗi loại chứng từ, yêu cầu đối với từng loại chứng từ.
- Nguồn luật điều chỉnh L/C: Tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên tham gia. Nếu sử dụng nguồn luật điều chỉnh là UCP thì phải ghi rõ là L/C đó áp dùng bản UCP nào.
2.2.3. Thư tín dụng và hợp đồng thương mại
Có thể nói hợp đồng thương mại là cơ sở ra đời của thư tín dụng. Khi người xuất khẩu và người nhập khẩu quyết định lựa chọn hình thức thanh toán là TDCT, thì sau khi kí kết xong hợp đồng thương mại, một L/C sẽ được lập dựa trên cơ sở nội dung có trên hợp đồng thương mại đã ký. Tuy nhiên, khi một L/C được hình thành thì L/C đó hoàn toàn độc lập với hợp đồng thương mại đó.
L/C sẽ được NHPH lập ra dựa trên những nội dung ghi trong đơn yêu cầu mở L/C do người nhập khẩu lập. Và NHPH cũng chỉ căn cứ vào đơn yêu cầu mở L/C để hình thành nên L/C chứ không dựa vào hợp đồng thương mại. Như vậy, có thể nội dung của L/C không hoàn toàn giống với hợp đồng thương mại. Và có trường hợp nếu người mua và người bán sau khi đã yêu cầu phát hành L/C lại thay đổi một số nội dung trong hợp đồng thương mại, nếu không có yêu cầu gửi đến ngân hàng phát hành thì cũng không nhất thiết L/C cũng phải thay đổi theo sự thay đổi của hợp đồng thương mại. Tương tự như vậy, một sự hủy bỏ hợp đồng thương mại không có nghĩa là hủy bỏ L/C, và ngược lại. Thêm vào._. đó, ngân hàng sẽ thanh toán cho người xuất khẩu khi và chỉ khi người xuất khẩu đưa ra được một xuất trình phù hợp và trong thời hạn hiệu lực của L/C cho dù thực tế người xuất khẩu có giao đúng hàng hóa như trong hợp đồng thương mại quy định hay không. Hay nói cách khác, ngân hàng chỉ kiểm tra bộ chứng từ chứ không kiểm tra hàng hóa.
2.2.4.Thư tín dụng và đơn yêu cầu mở thư tín dụng
Sau khi đã lựa chọn phương thức thanh toán TDCT, để hình thành nên một L/C, người nhập khẩu phải viết đơn yêu cầu ngân hàng phục vụ mình mở một L/C. Như vậy, đơn yêu cầu mở L/C là hợp đồng ràng buộc nghĩa vụ giữa người nhập khẩu và NHPH. Căn cứ để viết đơn yêu cầu mở L/C là hợp đồng thương mại đã kí, nguồn luật điều chỉnh và người xuất khẩu sẽ phải điền vào mẫu đơn yêu cầu mở L/C của ngân hàng phục vụ mình. Đơn yêu cầu mở L/C là cơ sở để một L/C ra đời. Tuy nhiên đơn yêu cầu mở L/C và L/C lại là hai hợp đồng hoàn toàn độc lập với nhau. Nếu như đơn yêu cầu mở L/C được hình thành trước và là một hợp đồng kinh tế trong nước do đó được điều chỉnh bằng các nguồn luật nội địa thì ngược lại, L/C lại ra đời sau khi đơn yêu cầu mở L/C được lập, và L/C là một hợp đồng kinh tế quốc tế giữa NHPH và người xuất khẩu, do đó L/C được điều chỉnh bởi các nguồn luật quốc tế.
2.2.5. Các loại thư tín dụng
2.2.5.1. Các loại thư tín dụng cơ bản
- Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable L/C)
Là loại L/C mà ngân hàng mở và người mua có quyền tự ý đề nghị NHPH L/C sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ L/C mà không cần có sự chấp nhận của ngườibán. Tuy nhiên trên thực tế loại L/C này không thông dụng vì nói tiềm ẩn rủi ro cao cho người xuất khẩu.
- Thư tín dụng không huỷ ngang (Irrevocable L/C)
Đây là loại L/C sau khi đã phát hành thì mọi việc liên quan đến sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ L/C chỉ có thể thực hiện khi có sự đồng ý của các bên có liên qua. Đây là loại L/C được sử dụng phổ biến hiện nay do nó đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia.
2.2.5.2. Các loại thư tín dụng đặc biệt
- Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C)
Là loại thư tín dụng không hủy ngang mà sau khi đã sử dụng hết giá trị của nó hoặc đã hết thời hạn hiệu lực thì nó tự động có giá trị như cũ và tiếp tục tuần hoàn trong một thời gian nhất định và cứ như vậy, nó tuần hoàn cho đến khi nào tổng giá trị hợp đồng được thực hiện hoàn tất. Loại L/C này có hai loại là L/C tuần hoàn có tích luỹ và loại L/C tuần hoàn không tích luỹ. Loại L/C này thường được dùng trong việc mua bán những mặt hàng có số lượng lớn, giá trị lớn, có quan hệ cung cấp hàng hóa dịch vụ thường xuyên, giao hàng nhiều lần với số lượng đều đăn. Loại L/C này giúp cho doanh nghiệp tránh được ứ đọng vốn, giảm chi phí tạo lập L/C mới, đơn giản hóa thủ tục.
- Thư tín dụng chuyển nhượng ( Transferable L/C)
Là loại L/C không hủy ngang cho phép chuyển từ người hưởng lợi ban đầu sang một hay nhiều bên khác theo yêu cầu của người hưởn lợi thứ nhất. Đây là loại L/C được sử dụng trong trường hợp khi người hưởng lợi thứ nhất không tự cung cấp được háng hóa mà chỉ là người môi giới và người này muốn chuyển nhượng từng phần hay toàn bộ quyền lợi của mình cho người hưởng lợi thứ hai. Sự chuyển nhượng này phải được thực hiện theo những điều khoản của L/C gốc ngoại trừ những điều khoản sau có thể thay đổi: tên và địa chỉ của người hưởng ban đầu, đơn giá, thời hạn hiệu lực của L/C… L/C chuyển nhượng chỉ được phép chuyển nhượng một lần, chi phí chuyển nhượng thường là do người hưởng lợi đầu tiên chi trả. L/C chuyển nhượng phải có lệnh đặc biệt của Ngân hàng mở L/C và trên L/C phải ghi chữ “transferable”.
- L/ C giáp lưng (Back to back L/C )
Là loại L/C không hủy ngang được mở ra căn cứ vào L/C khác là đảm bảo. Sau khi nhận được một L/C (L/C gốc) của ngân hàng nước ngoài phát hành, nhà xuất khẩu sử dụng L/C này để thế chấp mở một L/C khác cho người thụ hưởng ở nước ngoài với nội dung tương tự như L/C gốc. L/C mở sau được gọi là L/C giáp lưng. L/C giáp lưng phải thoả mãn những điều kiện là 2 L/C phải mở thông qua một Ngân hàng trực tiếp phục vụ tổ chức xuất khẩu và số tiền trên L/C thứ nhất phải lớn hơn hoặc bằng L/C thứ hai. Loại L/C này thường được sử dụng trong trường hợp người mua muốn mua hàng ở nước ngoài nhưng vì lí do gì đó họ không thể mở được L/C trực tiếp cho người hưởng mà phải thông qua người trung gian hay sử dụng trong mua bán chuyển khẩu.
- L/C điều khoản đỏ (Red clause L/C)
Là loại L/C mà NHPH cho phép NHTB ứng trước cho người thụ hưởng để mua hàng hóa, nguyên liệu phục vụ sản xuất hàng hóa theo L/C đã mở. Và khoản tiền ứng trước được lấy chính từ tài khoản của người mở L/C. Việc ứng trước tiền được NHPH ủy quyền cho NHTB thực hiện. Sau đó (hoặc trước đó) NHPH sẽ (hoặc đã) trích tài khoản của người mở L/C chuyển (hoặc hoàn trả) cho NHTB. Được gọi là L/C điều khoản đỏ là vì trước đây L/C này thường được in bằng mực đỏ để thu hút sự chú ý. Ngày nay loại L/C này còn có nhiều tên gọi khác như L/C điều khoản ứng trước (Advance Clause), hay L/C điều khoản đặc biệt (Special Clause). Ngày nay L/C điều khoản đỏ được sử dụng khá rộng rãi trong thương mại quốc tế, nhất là trong các quan hệ mua bán các hàng hóa như nông sản, lâm, thổ sản, các mặt hàng có tính thời vụ như cà phê, lúa, gạo, …
- L/C dự phòng (Standby L/C)
Là một L/C do ngân hàng phát hành theo yêu cầu của người mở L/C. Trong đó, L/C này cam kết thanh toán cho người thụ hưởng trong thời hạn hiệu lực của L/C khi người thụ hưởng xuất trình được: chứng từ yêu cầu thanh toán và chứng từ chứng minh việc không thực hiện nghĩa vụ của người mở L/C.
- Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C)
Là loại L/C có giá trị hiệu lực khi L/C đối ứng với nó được mở ra. Loại L/C này có nghĩa là người xuất khẩu khi nhận được L/C do người nhập khẩu mở thì phải mở lại L/C tương ứng thì mới có giá trị. Loại này thường được chỉ sử dụng trong phương thức mua hàng đổi hàng hoặc gia công. Trong quan hệ giao dịch này người bán đồng thời là người mua và ngược lại.
- Thư tín dụng không thể hủy ngang có xác nhận(Confirmed irrevocable L/C)
Là loại L/C không thể huỷ bỏ, được một Ngân hàng khác đảm bảo trả tiền L/C theo yêu cầu của Ngân hàng mở L/C. Ngân hàng xác nhận chịu trách nhiệm trả tiền cho người bán nếu như Ngân hàng mở L/C không trả tiền. Loại L/C này người xuất khẩu kí phát hối phiếu đòi tiền Ngân hàng mở L/C nhưng gửi thẳng tới Ngân hàng xác nhận để thanh toán. Do quyền lợi của nguời xuất khẩu đảm bảo hơn nên loại L/C này được sử dụng rộng rãi trong TTQT. Đây là loại L/C đảm bảo nhất cho quyền lợi của người xuất khẩu.
2.3. Các nguồn luật điều chỉnh L/C
Tuy là phương thức thanh toán được sử dụng phổ biến nhất hiện nay trong TTQT nhưng TDCT là là một phương thức thanh toán khá phức tạp, có sự tham gia của rất nhiều chủ thể (người xuất khẩu, người nhập khẩu, các NHTM. Do mỗi quốc gia có một hệ thống phát luật riêng, thêm vào đó là tập quán thương mại của mỗi vùng miền cũng có nhiều điểm khác nhau, điều này quả thực đã tác động trực tiếp đến các nghiệp vụ TDCT. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải xây dựng một quy tắc chung để điều chỉnh các chủ thể tham gia phương thức thanh toán này. Nội dung của quy tắc chung này là phải nhằm chuẩn hóa, đơn giả hóa các tập quán, các nghiệp vụ phát sinh từ phương thức này nhằm tránh các hiểu lầm giữa các bên cũng như để làm căn cứ để giải quyết các mâu thuẫn khi có phát sinh.
Năm 1933, lần đầu tiên phòng thương mại quốc tế ICC ( The International chamber of Commerce) đã ban hành bản Quy tắc thực hành và thống nhất về tín dụng chứng từ (Uniform Customs and Practice For Documentary Credit - UCP) bản đầu tiên. Cùng với hệ thống phát luật từng quốc gia, UCP trở thành nguồn luật điều chỉnh hoạt động thanh toán TDCT. Đúng như mục đích ra đời của mình, UCP tập hợp đầy đủ các thông lệ và tập quán quốc tế trong giao dịch TDCT. Nó bao gồm các điều khoản vừa có tính chất tổng quát quy định nghía vụ, trách nhiệm và quyền lợi giữa các bên vừa đưa ra những chỉ dẫn cụ thể cho các giao dịch, các hoạt động phát sinh hay có liên quan đến phương thức này. Tuy nhiên, có một điều đặc biệt về nguồn luật điều chỉnh hoạt động của phương thức thanh toán TDCT đó là UCP là một văn bản có tính chất pháp lý tùy ý. Các bên tham gia có thể lựa chọn sử dụng hay không sử dụng nguồn luật này , hoặc lựa chọn sử dụng một phần hay toàn bộ UCP. Tuy nhiên một khi đã lựa chọn sử dụng UCP như một nguồn luật điều chỉnh cho hoạt động thanh toán của mình thì lúc đó UCP sẽ mang tính chất pháp lý bắt buộc và sẽ ràng buộc trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên có liên quan.
Để theo sát sự phát triển của hoạt động thanh toán TDCT vốn thay đổi từng ngày, từ bản xuất bản đầu tiên năm 1933 đến nay, UCP đã được thay đổi nhiều lần: 1951, 1964, 1983 (UCP 400), 1993 (UCP 500), 2007 (UCP 600). Và thực tế hiện nay bản UCP mới nhất (UCP 600) đang được các NHTM dùng làm cơ sở để thực hiện hoạt động TDCT.
2.4. Các bên tham gia trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
- Người mở thư tín dụng/ Người làm đơn/ Người yêu cầu (Applicant): Là bên mà L/C được phát hành theo yêu cầu của họ. Thông thường là người nhập khẩu, yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát hành một L/C và có trách nhiệm pháp lý về việc NHPH trả tiền cho người thụ hưởng L/C. Người này sẽ có trách nhiệm thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho bộ chứng từ phù hợp với những điều kiện quy định trong L/C.
-Ngân hàng phát hành (Issuing Bank): Là ngân hàng theo yêu cầu của người làm đơn mở một thư tín dụng, có nghĩa là NHPH đã cấp tín dụng cho người mở. Thông thường NHPH được lựa chọn dựa vào thỏa thuận của bên mua và bên bán, đồng thời quy định trong hợp đồng thương mại. Tuy nhiên nếu không có quy định này thì người mua được phép lựa chọn NHPH. NHPH có trách nhiệm thanh toán hoặc ủy quyền cho chính nhánh của mình ở nước ngoài thanh toán khi người thụ hưởng xuất trình được bộ chứng từ phù hợp với các quy định của L/C. Và ngược lại, NHPH có quyền từ chối bộ thanh toán cho người thụ hưởng khi bộ chứng từ được xuất trình không hoàn hảo.
- Người thụ hưởng/ Người hưởng/ Người hưởng lợi ( Beneficiary): Là người hưởng lợi từ L/C được phát hành. Thông thường là người xuất khẩu hoặc là người do người xuất khẩu ủy quyền, chỉ định. Người xuất khẩu có nghĩa vụ giao hàng đúng theo quy định của L/C. Sau khi đã giao hàng, nếu người xuất khẩu xuất trình được bộ chứng từ phù hợp với quy định của L/C và trong thời hạn hiệu lực của L/C thì sẽ được thanh toán.
- Ngân hàng thông báo (Advising bank): Là ngân hàng thực hiện thông báo L/C cho người thụ hưởng theo yêu cầu của NHPH. NHTB thường là NH đại lý hay một chi nhánh của NHPH ở nước nhà xuất khẩu. Nhiệm vụ của NHTB là kiểm tra tính chân thực trên bề mặt của L/C từ NHPH và chuyển toàn bộ nội dung L/C đã nhận cho người xuất khẩu dưới hình thức văn bản.
- Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank): Là ngân hàng đứng ra cùng NHPH cam kết trả tiền cho người xuất khẩu khi bộ chứng từ hoàn hảo được xuất trình, có nghĩa là ngân hàng xác nhận sẽ đứng ra thanh toán cho người xuất khẩu nếu NHPH không đủ khả năng thanh toán.
- Ngân hàng chiết khấu (Negotiation Bank): Một ngân hàng được chỉ định khi kiểm tra bộ chứng từ có điều kiện và điều khoản quy định trong L/C hay không. Nếu phù hợp, thì tùy theo chất lượng bộ chứng từ và uy tín của khách hàng mà ngân hàng chiếu khấu sẽ trả tiền hoặc ứng trước cho bộ chứng từ đến 100% giá trị hóa đơn hay hối phiếu tuỳ theo hình thức truy đòi hay miễn truy đòi.
- Ngân hàng trả tiền/ Ngân hàng thanh toán ( Paying Bank): Có thể chính là NHPH hoặc là một ngân hàng được NHPH chỉ định trả tiền cho người xuất trình hoặc chiết khấu hối phiếu.
- Ngân hàng được chỉ định ( Nominated Bank): Là ngân hàng mà tại đó L/C có giá trị thanh toán hoặc chiết khấu, hoặc là bất cứ ngân hàng nào nếu L/C có giá trị tự do. NHđCĐ có thể là NHXN, ngân hàng trả tiền, NHCK, ngân hàng chấp nhận hoặc ngân hàng trả chậm.
- Ngân hàng hoàn trả (Reimbursing Bank): Là ngân hàng được NHPH hay NHXN chỉ định thay mặt mình trả tiền cho ngân hàng đòi tiền.
2.5. Quy trình thực hiện nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ
(7)
Ngân hàng phát hành (Isuing Bank)
Người yêu cầu mở L/C (Applicant)
Người thụ hưởng (Beneficiary)
NHTB (Advising Bank),
NHXN (Confirming Bank), NHđCĐ (Nominated Bank)
HĐTM
(5’)
(5)
(3)
(2)
(6)
(1)
(8)
(9)
(4)
Trong đó:
Sau khi hợp đồng thương mại đã được tạo lập.
(1): Người nhập khẩu làm đơn yêu cầu mở L/C gửi ngân hàng phục vụ mình.
(2): Sau khi nhận được đơn yêu cầu mở L/C của người nhập khẩu. Công việc của NHPH là:
- Kiểm tra đơn yêu cầu mở L/C: Kiểm tra về nội dung đơn xem những điều khoản trong đơn yêu cầu có đầy đủ, rõ ràng, chính xác và phù hợp với hợp đồng thương mại đã kí hay không. Ngoài ra NHPH còn kiểm tra xem nội dung của đơn yêu cầu có chứa đựng những nội dung gây rủi ro cho NH, hoặc cho người làm đơn hay không. Sau đó nếu phát hiện ra có vấn đề gì NHPH sẽ tư vấn cho khách hàng.
- Phân loại khách hàng: Sau khi đã kiểm tra xong đơn yêu cầu mở L/C, ngân hàng sẽ xác định khách hàng của mình (người làm đơn) thuộc nhóm khách hàng nào để xác định tỷ lệ kí quỹ. Việc phân loại khách hàng phụ thuộc vào năng lực tài chính, uy tín, mối quan hệ của khách hàng đó với ngân hàng, …
- Lập L/C: Căn cứ vào các nội dung trong đơn yêu cầu mở L/C, ngân hàng sẽ phát hành ra một L/C.
- NHPH sau khi phát hành L/C sẽ gửi L/C này cho NHTB
(3): NHPH sau khi nhận được L/C từ NHPH sẽ có nhiệm vụ kiểm tra tính chân thực bề ngoài của L/C và thông báo cho người thụ hưởng.
NHTB phải kiểm tra tính chân thực bề ngoài của L/C nhận được trước khi gửi đi cho người thụ hưởng. Khi NHTB đồng thời là NHđCĐ (NHCK), thì việc kiểm tra tính chân thực bề mặt của L/C nhận được sẽ đảm bảo tính an toàn cho chính mình. Còn trong trường hợp khi NHTB chỉ làm duy nhất mỗi chức năng thông báo thì trên thực tế, NHTB sẽ thực hiện chức năng tư vấn thông qua việc kiểm tra nội dung L/C xem nội dung L/C có tiềm ẩn rủi ro nào cho người thụ hưởng hay không. NHTB sẽ cảnh báo cho người thụ hưởng về tính khả thi của L/C (chính là khả năng đòi được tiền của L/C đó). Tuy nhiên, nếu như NHTB không thể xác minh được tính chân thực bề ngoài của L/C thì phải ghi rõ là thông báo sơ bộ chưa có hiệu lực thi hành và không ràng buộc bất cứ trách nhiệm nào về phía ngân hàng để tránh việc người thụ hưởng hiểu nhầm rằng đó là L/C có hiệu lực và đã được xác minh tính chân thực bề mặt.
(4): Sau khi nhận được L/C từ NHTB, người xuất khẩu sẽ kiểm tra lại các nội dung trong L/C. Nếu đồng ý với các điều kiện được quy định trong đó thì người xuất khẩu sẽ tiến hàng việc giao hàng.
(5): Sau khi giao hàng, người xuất khẩu sẽ phải lập bộ chứng từ phù hợp với những quy định của L/C và chuyển chứng từ tới NHđCĐ hoặc NHXN (nếu có). Các ngân hàng này sẽ có trách nhiệm kiểm tra bộ chứng từ xem có đúng theo những yêu cầu của L/C không. Đây là một công việc rất quan trọng để ngân hàng đưa ra quyết định có trả tiền cho người xuất khẩu hay không. Thông thường ngân hàng sẽ kiểm tra bộ chứng từ được xuất trình như sau:
- Kiểm tra xem các chứng từ có thống nhất với nhau hay không. Nội dung của từng chứng từ có mâu thuẫn với các chứng từ còn lại hay không.
- Kiểm tra sự phù hợp của các chứng từ với các quy định được nêu trong L/C, của UCP hoặc các nguồn luật điều chỉnh khác.
(5’): Thực chất bước này chỉ xuất hiện khi khách hàng thực hiện việc chiết khấu bộ chứng từ. Tùy thuộc vào đánh giá của NHCK về chất lượng bộ chứng từ mà NHCK sẽ lựa chọn hình thức chiết khấu có truy đòi hay chiết khấu miễn truy đòi.
(6): Chuyển chứng từ sang cho NHPH. NHPH sẽ kiểm tra lại bộ chứng từ để quyết định xem có thanh toán hay không.
(7): Sau khi thực hiện kiểm tra lại bộ chứng từ, NHPH sẽ thông báo lại cho NHđCĐ. Nếu bộ chứng từ là hoàn hảo thì:
- Đối với B/L trả ngay thì trong vòng 5 ngày phải thực hiện việc thanh toán
- Đối với B/L chấp nhận thì phải thông báo chấp nhận.
- Nếu là B/L trả chậm thì đến hạn thanh toán phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Còn nếu như NHPH kiểm tra lại thấy bộ chứng từ không phù hợp với các quy định trong L/C thì cũng phải thông báo cho NHđCĐ.
(8): Người làm đơn hoàn thành thủ tục thanh toán cho NHPH
(9): NHPH chuyển giao bộ chứng từ cho người nhập khẩu để người nhập khẩu đi lấy hàng.
2.6. Đặc trưng của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
Có thể nói, trong các phương thức TTQT thì TDCT là phương thức thanh toán đặc biệt nhất. Nếu như ở các phương thức thanh toán khác như chuyển tiền hay nhờ thu, vai trò của NHTM chỉ dừng lại ở vị trí người trung gian thì trong phương thức TDCT vai trò của NHTM trở nên rõ nét. Không còn ở vị trí trung gian cho người nhập khẩu và người xuất khẩu, NHTM đã trở thành một mắt xích quan trọng, không thể thiếu trong phương thức này. Khi NHPH phát hành ra một L/C cũng là lúc NHTM đó bị ràng buộc trách nhiệm thanh toán cho người xuất khẩu ở nước ngoài.
Một điểm đặc biệt nữa của phương thức thanh toán này đó là việc thanh toán có liên quan đến việc xuất trình chứng từ. Sự tồn tại của các chứng từ này cũng như sự phù hợp của nó với các thời hạn tín dụng tạo nên cơ sở và nền tảng cho phương thức TDCT. Các NHTM tham gia vào phương thức TDCT không quan tâm đến vấn đề hàng hóa. Công việc của NHTM chỉ là kiểm tra sự phù hợp của bộ chứng từ được xuất trình với những điều khoản đã quy định trong L/C. Bộ chứng từ cần được xuất trình bao gồm:
- Hối phiếu thương mại
- Hoá đơn thương mại
- Bảo hiểm đơn
- Vận đơn (Bill of Lading)
- Giấy chứng nhận kiểm định, giấy chứng nhận xuất xứ (Certificate of Ogriginal) và bảng kê khai hàng hoá (Packing List)
Chứng từ là bộ phận rất quan trọng trong phương thức TDCT. Trên lí thuyết để thực hiện thanh toán thì Ngân hàng luôn đòi hỏi người xuất khẩu xuất trình một bộ chứng từ hoàn hảo. Vậy như thế nào được coi là một bộ chứng từ hoàn hảo (hay là một xuất trình phù hợp)? Bộ chứng từ hoàn hảo là bộ chứng từ thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau :
Phải xuất trình đúng thời hạn hiệu lực
Nội dung của chứng từ phải phù hợp với từng điều khoản quy định trong L/C như: Số lượng chứng từ, người kí phát, ngày tháng lập chứng từ…….
Tuy nhiên trên thực tế có tới 80% bộ chứng từ lưu thông trên thế giới là có sai sót. Nhưng hơn 79% bộ chứng từ sai vẫn được chấp nhận thanh toán. Như vậy việc thanh toán phụ thuộc vào thiện chí của Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu.
Thêm một điều đặc trương cho phương thức thanh toán TDCT đó là TDCT không chỉ dừng lại là một phương thức thanh toán đơn thuần mà còn là một hình thức tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu của NHTM dành cho các doanh nghiệp. Trong phương thức này Ngân hàng sử dụng uy tín của mình để tạo nên sự tin tưởng giữa các bên tham gia quan hệ mua bán bằng cách phát hành L/C, trong đó quy định những điều khoản cần thiết để tiến hành thanh toán. Ngân hàng đảm bảo việc thanh toán đối với người bán và người mua bằng việc xuất trình chứng từ đại diện hàng hoá. Khi mở L/C doanh nghiệp nếu phải kí quỹ 100% số tiền trong L/C thì không có nghĩa là doanh nghiệp không nhận được sự tài trợ từ phía ngân hàng, mà lúc này NHPH đang tài trợ về mặt uy tín cho doanh nghiệp. Còn nếu doanh nghiệp nhập khẩu khi mở L/C không phải thực hiện việc kí quỹ (kí quỹ 0%) thì có nghĩa là doanh nghiệp đã được NHTM tài trợ cả về uy tín lẫn tài trợ về mặt thương mại.
2.7. Rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
Rủi ro đối với nhà nhập khẩu:
Việc thanh toán của ngân hàng cho nhà xuất khẩu chỉ căn cứ vào bộ chứng từ xuất trình mà không căn cứ và việc kiểm tra thực tế hàng hóa. Ngân hàng chỉ kiểm tra tính hợp lệ bề ngoài của chứng từ. Nếu nhà xuất khẩu chủ tâm gian lận có thể xuất trình chứng từ giả mạo cho ngân hàng chỉ định để thanh toán. Như vậy, sẽ không có sự đảm bảo nào cho nhà nhập khẩu rằng hàng hóa sẽ đúng như hợp đồng về số lượng, chủng loại và không bị hư hỏng gì. Trong trường hợp này nhà nhập khẩu vẫn phải hoàn trả đầy đủ tiền đã thanh toán cho NHPH.
Rủi ro đối với nhà xuất khẩu:
Khi nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ không phù hợp với L/C thì mọi thanh toán đều có thể bị từ chối và nhà xuất khẩu sẽ phải tự giải quyết. Nhà xuất khẩu phải trả các khoản chi phí như tàu lưu quá hạn, phí lưu kho, mua bảo hiểm hàng hóa,… trong khi không biết nhà nhập khẩu có đồng ý nhận hàng hay từ chối nhận hàng vì lý do bộ chứng từ bị sai sót. Nếu NHPH hoặc NHXN mất khả năng thanh toán thì mặc dù bộ chứng từ được xuất trình có hoàn hỏa cũng không được thanh toán.
Rủi ro đối với NHPH:
NHPH là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu, nó cung cấp tín dụng cho người nhập khẩu. NH này thường được 2 bên nhập khẩu và xuất khẩu thỏa thuận lựa chọn và được quy định trong hợp đồng, nếu chưa có sự quy định trước, người nhập khẩu có quyền lựa chọn. Rủi ro đối với NHPH là ở chỗ NHPH phải thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng theo quy định của L/C trong trường hợp nhà nhập khẩu chủ tâm không thanh toán hoặc mất khả năng thanh toán. Vì thế, trước khi chấp nhận phát hành L/C, NH cần thẩm định một cách chặt chẽ giống như việc cấp một khoản tín dụng cho khách hàng.
Rủi ro đối với NHTB:
NHTB là ngân hàng được NHPH yêu cầu thông báo một L/C do NH phát hành mở cho người bán. NHTB phải chịu trách nhiệm về tính chân thật, hợp lệ của thư tín dụng (bao gồm cả việc xác minh chữ kí, khóa mã, mẫu điện,…) trước khi gửi thông báo cho nhà xuất khẩu. Rủi ro đối với NHTB xảy ra khi gặp phải một L/C giả (hoặc sửa đổi giả) mà không có ghi chú gì. Theo thông lệ quốc tế thì NHTB phải chịu trách nhiệm hoàn toàn với các bên liên quan.
Rủi ro đối với NHđCĐ:
NhđCĐ không có một trách nhiệm nào phải thanh toán cho nhà xuất khẩu trước khi nhận được tiền từ NHPH. Tuy nhiên trong thực tế, các NHđCĐ thường ứng trước tiền cho nhà xuất khẩu với điều kiện có truy đòi (with recourse) để trợ giúp cho nhà xuất khẩu. Do đó, ngân hàng này thường phải tự chịu rủi ro tín dụng đối với NHPH hoặc nhà xuất khẩu.
Rủi ro đối với NHXN:
NHXN thường là ngân hàng lớn có uy tín hoặc ngân hàng có quan hệ tiền gửi, tiền vay với NHPH, được NHPH yêu cầu xác nhận và cam kết trả tiền cho người bán nếu NHPH không thực hiện được nghĩa vụ của mình. Đối với NHXN, khi tham gia xác nhận là họ đã tự ràng buọc trách nhiệm của mình vào nghĩa vụ thanh toán L/C khi có tranh chấp giữa hai bên. Rủi ro đối với NHXN xảy ra khi có tranh chấp giữa hai bên. Rủi ro của NHXN xảy ra khi họ không nắm vững được năng lực tài chính của NHPH mà xác nhận theo yêu cầu của NHPH để rồi khi xảy ra hậu quả thì lại phải chịu trách nhiệm thanh toán thay cho NHPH hoặc có thể do NHPH không có thiện chí trả tiền hoặc NHPH đang rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
Rủi ro đối với NHCK:
NHCK là NH được chỉ định cụ thể hoặc có thể là bất cứ ngân hàng nào nếu L/C quy định là chiết khấu tại bất cứ ngân hàng nào. Rủi ro của NHCK phụ thuộc vào thiện chí trả tiền của NHPH và của nhà nhập khẩu. Rủi ro của NHCK có thể gặp phải đó là NHPH có thể từ chối thanh toán bộ chứng từ, hoặc có thể bộ chứng từ có thể bị thất lạc trong quá trình vận chuyển tới cho NHPH.
Ngoài các rủi ro có thể xảy ra trong quy trình nghiệp vụ thanh toán chứng từ gây ảnh hưởng đến các bên như đã trình bày ở trên, các rủi ro khác có thể gặp phải trong phương thức thanh toán này là:
Rủi ro đạo đức:
Rủi ro đạo đức là những rủi ro xảy ra khi một trong các bên tham gia cố tình không thực hiện nghĩa vụ của mình, gây ảnh hưởng đến các bên còn lại. Rủi ro đạo đức cũng có thể xuất phát từ phía người bán, phía người mua hoặc từ phía ngân hàng.
Rủi ro chính trị, pháp lý:
Rủi ro chính trị, pháp lý trong TDCT là những rủi ro xảy ra khi có sự biến động về tình hình kinh tế, chính trị, pháp lý của các nước có liên quan. Như ta có thể thấy tại những nước đang phát triển, hệ thống pháp lý chưa ổn định, thường xuyên sửa chữa, bổ sung sẽ dễ dàng gây ra rủi ro cho các bên tham gia. Vì những thay đổi này có thể làm cho một trong các bên tham gia từ chối không thực hiện nghĩa vụ của mình. Bên cạnh đó những sự kiện như xung đột, mâu thuẫn chính trị giữa các phe phái, chiến tranh, bạo loạn, đình công, … nếu xảy ra sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thanh toán. Ngoài ra các biến động kinh tế, thị trường của quốc gia, khu vực hay thế giới cũng luôn đe dọa đến hoạt động thanh toán TDCT.
2.8. Tính ưu việt của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
Không phải ngẫu nhiên mà TDCT là phương thức thanh toán được sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Bên cạnh những rủi ro có thể xảy ra như đã nêu ở trên thì xét một cách toàn diện TDCT là một phương thức có nhiều ưu điểm, so với các phương thức thanh toán khác, có thể nói, TDCT là phương thức đảm bảo quyền lợi cho các bên, giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra cho các bên tham gia. Nếu được lựa chọn và sử dụng đúng, L/C có thể đem lại nhiều lợi ích và đặc biệt là sự an toàn cần thiết cho tất cả các bên tham gia – đảm bảo là người xuất khẩu phải thực hiện hợp đồng nghiêm túc và người nhập khẩu sẽ phải thanh toán tiền. Tuy nhiên, để có được các lợi ích này cả hai bên nhất thiết phải thực hiện theo đúng các nguyên tắc và các quy trình.
Đối với nhà xuất khẩu
Trong phương thức này người bán hoàn toàn được đảm bảo thanh toán khi xuất trình được một bộ chứng từ hoàn hảo trong thời hạn hiệu lực bất kể người nhập khẩu có muốn trả tiền hay không. Người mua không được từ chối thanh toán vì bất cứ lí do gì. Chậm trễ trong việc chuyển chứng từ được hạn chế tối đa. So với doanh nghiệp xuất khẩu thì các NHTM có uy tín cao hơn rất nhiều. Đây là lý do khiến nhiều nhà xuất khẩu muốn lựa chọn phương thức này. Ngoài ra, thông qua hình thức TDCT người xuất khẩu cũng có thể nhận được tài trợ của ngân hàng (trong trường hợp NH chấp nhận chiết khẩu), hoặc của người nhập khẩu (L/C điều khoản đỏ).
Đối với các NHTM
Thông qua phương thức TDCT, NHTM không chỉ tăng thêm thu nhập cho mình mà còn làm đa dạng hóa danh mục đầu tư. Thêm vào đó, nếu bảm bảo được chất lượng thanh toán TDCT sẽ tạo điều kiện tốt cho các NH nâng cao uy tín của mình đối với các NH ở các quốc gia khác, điều này là tiền đề để NH có thể mở rộng mạng lới chi nhánh, đại lý của mình, có nghĩa là mở rộng thêm thị trường. Ngoài ra, hoạt động TTQT còn giúp NH phát triển các nghiệp vụ khác như kinh doanh ngoại tệ, tín dụng,..
Về phía người nhập khẩu
Thông qua việc sử dụng hình thức thanh toán TDCT, người nhập khẩu sẽ nhận được sự tài trợ của NH về mặt tài chính cũng như uy tín. Đây là một điều rất quan trọng nhất là đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có tiếng tăm trên thị trường. Ngoài ra, khi sử dụng hình thức thanh toán này, thì chỉ khi hàng hóa thực sự được giao thì người nhập khẩu mới phải trả tiền. Người nhập khẩu có thể yên tâm là người xuất khẩu sẽ phải làm tất cả những gì theo quy định trong L/C để đảm bảo việc người xuất khẩu sẽ được thanh toán tiền (nếu không người xuất khẩu sẽ mất tiền).
Chương 2:
Thực trạng rủi ro trong thanh toán TDCT tại NHNT VN
2.1 Tổng quan về tình hình hoạt động của NHNT VN
2.1.1 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của NHNTV
Ngày 1/4/1963, theo đề nghị của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam, Ngân Hàng Ngoại Thương chính thức được thành lập đựa trên quyết định số 115/CP do Hội Đồng chính phủ ban hành ngày 30/10/1962 trên cở sở tách ra từ Cục quản lý Ngoại hối trực thuộc Ngân Hàng Trung Ương (nay là NHNN). Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam được thành lập với tên giao dịch là VIETCOMBANK (VCB). Theo quyết định nói trên, NHNT đóng vai trò là ngân hàng chuyên doanh đầu tiên và duy nhất của Việt Nam tại thời điểm đó hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bao gồm cho vay tài trợ xuất nhập khẩu và các dịch vụ kinh tế đối ngoại khác (vận tải, bảo hiểm,…), TTQT, kinh doanh ngoại hối, quản lý vốn ngoại tệ gửi tại các ngân hàng nước ngoài, làm đại lý cho Chính Phủ trong các quan hệ thanh toán, vay nợ, viện trợ với các nước xã hội chủ nghĩa (cũ)… Ngoài ra, NHNT còn tham mưu cho Ban lãnh đạo NHNN về các chính sách quản lý ngoại tệ, vàng bạc, quản lý quỹ ngoại tệ của Nhà nước và về quan hệ với NHTW các nước, các Tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. Chính từ vị thế đặc biệt kê trên, VCB đã sớm trở thành NHTM duy nhất tại VN sánh vai với các ngân hàng quốc tế trong khu vực.
Vào ngày 14/11/1990, chủ tịch hội đồng bộ trưởng ra quyết định 403- CT. Từ lúc này, NHNT bắt đầu hoạt động theo pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính, với chức năng kinh doanh tiền tệ tín dụng, TTQT và dịch vụ ngân hàng với các thành phần kinh tế chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại của VN. Ngày 21/9/1996, được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN đã ký quyết định số 286/QĐ- NH5 về việc thành lập lại NHNT theo mô hình Tổng công ty 90, 91 được quy định tại Quyết định số 90/QĐ- TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ. Trong quá trình đổi mới, có nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp phải không ít khó khăn, nhưng có thể nói thành công lớn nhất của NHNT là đã biết thay đổi tư duy kinh tế, lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm nguyên tắc và mục tiêu hoạt động.
Kể từ lúc thành lập đến nay, có thể nói NHNT đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn. Được đánh giá là một trong những NHTM có thế mạnh trong hoạt động kinh doanh tiền tệ ở VN. NHNT cũng là NHTM luôn luôn cải tiến và áp dụng những công nghệ ngân hàng tiên tiến hiện đại, không ngừng hoàn thiện và phát triển quy trình công nghệ của mình. NHNT đã xây dựng và đào tạo được một đội ngũ nhân viên năng động, tận tình.
Năm 1997, NHNT đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thẻ quốc tế VISA và MASTER CARD. Tính đến thời điểm hiện nay, NHNT là ngân hàng cung cấp dịch vụ thẻ tín dụng và mạng lướu cơ sở tiếp nhận thẻ lớn nhất tại VN. Trong giai đoạn thế giới đang chuyển mình trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, NHNT đã thu hẹp khoảng cách với các NHTM khác trong khu vực và trên thế giới về mặt kĩ thuật nghiệp vụ Ngân hàng. NHNT đã đầu tư xây dựng một hệ thống trang thiết bị máy moc hiện đại với các hệ thống liên lạc với các ngân hàng khác trên thế giới nhanh chóng hơn trước rất nhiều. Điều này giúp cho NHNT có thể mở rộng thị trường ra nước ngoài một cách thuận lợi.
Đến thời điểm cuối năm 2007, NHNT đã phát triển lớn mạnh theo mô hình đa năng . Ngoài ra, NHNT còn tham gia góp vốn liên doanh, liên kết với các đơn vị trong và ngoài nước trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau như kinh doa._.lý cho hoạt động thanh toán quốc tế còn nhiều bất cập
Tuy NHNT ra đời từ năm 1963 nhưng mãi đến năm 1998 Luật ngân hàng mới ra đời. Song Luật ngân hàng hàng còn nhiều điểm còn chưa sát với những hoạt động thực tế của NH nên trong hoạt động của NH còn gặp nhiều khó khăn. Đối với hoạt động thanh toán quốc tế, hiện tại hầu chưa có một văn bản trong nước nào điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia trong hoạt động TTQT nói chung và hoạt động tín dụng chứng từ nói riêng. Trong lúc đó các nước khác trong khu vực và quốc tế đã có luật hoặc các văn bản dưới luật quy định các trách nhiệm và nghĩa vụ và chế tài xử lý các mối quan hệ trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Hiện nay ở Việt Nam, trong hoạt động thanh toán TDCT, các bên liên quan hầu hết đều lấy UCP làm căn cứ quy định trách nhiệm, quyền hạn. Tuy nhiên, như đã tìm hiểu ở phần trên, UCP không phải là thông lệ quốc tế, không phải là luật. Người ta có thể sử dụng hoặc không sử dụng UCP tùy thích. Hơn nữa, cho đến nay vẫn chưa có các văn bản thừa nhận việc áp dụng các quy định của UCP, và do đó, nếu có vi phạm thì việc xử phạt cũng chưa có một chế tài nào để căn cứ. Các văn bản quy định, hướng dẫn giao dịch thanh toán quốc tế là rất cần thiết, không chỉ đối với những chủ thể trực tiếp tham gia vào đoạt động thanh toán quốc tế mà còn đối với các cơ quan quản lý nhà nước. Trong thực tế, do thiếu các các văn bản pháp lý cần thiết, nên rủi ro xảy đến với các NHTM là rất lớn. Cụ thể với NHNT, trong hoạt động thanh toán, do có những mâu thuẫn giữa thông lệ quốc tế và Việt Nam nên NHNT gặp phải rất nhiều khó khăn. Một ví dụ cho rủi ro dạng này đó là như ta đã biết trong phương thức thanh toán TDCT, ngân hàng chỉ có trách nhiệm kiểm tra bộ chứng từ và nếu bộ chứng từ là hoàn hảo thì ngân hàng phải có nghĩa vụ trả tiền. Còn việc thực tế hàng hóa nếu không đúng trong hợp đồng thương mại thì tranh chấp đó là của hai bên xuất khẩu và nhập khẩu và hoàn toàn không liên quan đến ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam lại không phải như vậy. Đã từng xảy ra rất nhiều doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam khi nhận hàng và kiểm tra hàng hóa thấy không đúng với hợp đồng đã kiện lên tòa án Việt Nam. Và tòa án Việt Nam đã ra quyết định không cho NHNT VN thanh toán cho ngân hàng nước ngoài. Như vậy, khi thực hiện phán quyết của tòa án VN, NHNT vô hình chung đã làm trái với thông lệ, luật pháp quốc tế. Và NHNT thực tế đã bị các ngân hàng nước ngoài kiện ra tòa án quốc tế. Điều này ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến uy tín của NHNT trên thị trường quốc tế. Do đã từng xảy ra rất nhiều trường hợp như vậy , nên khi NHNT phát hành một L/C sẽ không được ngân hàng nước ngoài chấp nhận, và nếu có chấp nhận họ sẽ yêu cầu L/C đó được xác nhận bởi một ngân hàng thứ 3 mà họ đánh giá là có uy tín cao hơn. Ngoài việc mất thêm chi phí xác nhận, thì vấn đề uy tín của NHNT cũng bị ảnh hưởng rất lớn.
Bên cạnh đó, nước ta tuy đã có văn bản quy định về quản lý ngoại hối nhưng các văn bản này còn có nhiều bất cập. Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, nên có nhiều điểm chồng chéo nhau nên khó áp dụng vào thực tế hoạt động của ngân hàng trong hoạt động thanh toán TDCT. Việc chuyển tiền ra nước ngoài tuy được quy định khá chặt chẽ với nhiều thủ tục đã cô tình làm cản trở, hạn chế sự phát triển của hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy đã có quy định về chuyển tiền ra nước ngoài nhưng lại chưa có văn bản pháp luật nào quy định về việc chuyển tiền ra nước ngoài liên quan đến hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ. Điều này đã tạo khe hở cho các doanh nghiệp tìm cách lách luật. Cụ thể là chưa có một văn bản pháp luật nào nói rõ NHTM có cần phải kiểm tra giấy phép, Quota nhập khẩu của doanh nghiệp mở L/C hay không. Thông thường trong hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ, nguồn luật thường được áp dụng là UCP, nhưng UCP hoàn toàn không đề cập đến vấn đề này. Do đó, nếu NH không kiểm tra vấn đề này, doanh nghiệp sẽ có thể mở nhiều L/C ở nhiều NH khác nhau trong khi chỉ có một Quota nhập khẩu. Nếu sự việc được đưa ra tòa án thì doanh nghiệp sẽ phải trực tiếp chịu trách nhiệm, tuy nhiên NH cũng sẽ bị liên đới, có thể làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
Vì vậy, việc xây dựng một văn bản pháp luật cụ thể điều chỉnh các hoạt động của các chủ thể có liên quan đến hoạt động thanh toán TDCT là rất cần thiết và cấp bách. Vì trong hoàn cảnh hiện nay, rủi ro có thể xảy đến với các NHTM do thiếu một hành lang pháp lý là rất lớn.
Các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước còn hạn chế nhiều về kiến thức, kinh nghiệm và năng lực tài chính
Thực tế hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu VN còn rất ít kinh nghiệm, kiến thức về ngoại thương và hiểu biết về thông lệ quốc tế, trình độ ngoại ngữ còn nhiều hạn chế. Đây là một khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp khi kí kết các hợp đồng ngoại thương. Sự yếu kém về trình độ nghiệp vụ công thêm thói quen của các doanh nghiệp Việt Nam là không tìm hiểu kĩ về đối tác trước khi kí kết hợp đồng đã dẫn đền nhiều doanh nghiệp đã chấp nhận những điều kiện bất lợi cho mình trong hợp đồng. Hoặc doanh nghiệp kí kết hợp đồng với những doanh nghiệp nước ngoài có uy tí không cao, thiếu trung thực, thiếu thiện chí. Điều đó dễ dàng dẫn đến việc doanh nghiệp không thể thực hiện được các điều kiện đã quy định trong L/C, và vì vậy việc không đòi được tiền là hoàn toàn có thể xảy ra hoặc doanh nghiệp nước ngoài không có thiện chí thanh toán tiền. Thêm vào đó, các doanh nghiệp Việt Nam thường có suy nghĩ khi đã có sự tham gia của ngân hàng thì chắc chắn mình sẽ đòi được tiền. Đây là một lối suy nghĩ hoàn toàn sai lầm. Ngân hàng chỉ có thể tư vấn cho doanh nghiệp, còn việc thỏa thuận các điều kiện trong L/C hay việc lập bộ chứng từ đều là việc của doanh nghiệp. Chính vì lối suy nghĩ sai lầm này nên khi có tranh chấp hoặc trường hợp xấu nhất là không đòi được tiền, doanh nghiệp thường đổ trách nhiệm lên ngân hàng. Bên cạnh đó, có một số ít các doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam do không hiểu biết về thông lệ quốc tế hoặc không có thiện chí thanh toán nên khi có tranh chấp xảy ra về việc hàng hóa không đúng trong hợp đồng đã trì hoãn việc trả tiền cho ngân hàng. Việc này thường đẩy ngân hàng vào những tranh chấp phát sinh không đáng có giữa khách hàng và NHNT hoặc NHNT và ngân hàng nước ngoài.
2.4.2. Nguyên nhân chủ quan
- Công nghệ thanh toán của NHNT chưa đáp ứng hết được nhu cầu về thanh toán
Có thể nói, so với các NHTM khác ở Việt Nam hiện nay, công nghệ thanh toán của NHNT vẫn được đánh giá là khá hiện đại. Tuy nhiên, công nghệ thanh toán của NHNT vẫn chưa bắt kịp được với sự phát triển từng ngày của công nghệ ngân hàng trong khu vực và quốc tế. Công nghệ của NHNT tuy hiện đại nhưng chưa đồng bộ. Hoạt động TTQT của NHNT ngày càng phát triển, tuy nhiên hệ thống thanh toán của NHNT đã thể hiện sự quá tải. Ngoài ra, việc cập nhập và nắm bắt thông tin kinh tế thế giới và các thị trường các nước để có thể đưa ra thông tin tư vấn cho các khách hàng NHNT cũng chưa làm tốt.
- Trình độ cán bộ thanh toán của NHNT cần phải nâng cao hơn nữa
Hiện nay Việt Nam đã trở thành một thành viên chính thức của WTO, điều này sẽ sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các NHTM VN nói chung và NHNT nói riêng mở rộng và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế. Do đó, các thanh toán viên cần không ngừng nâng cao trình độ, tìm hiểu nghiệp vụ mới. Hơn nữa, các thanh toán viên cần phải chú ý đến quy trình nghiệp vụ, tránh dẫn đến sai sót, gây khó khăn cho khách hàng.
Chương 3
Bài học rút ra và một số giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro trong thanh toán TDCT tại NHNT VN
3.1. Định hướng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại NHNT VN
Có thể nói, trong năm 2007 vừa qua, NHNT VN đã tiếp tục giữ vững vị thế của một NHTM NN hàng đầu với chất lượng hoạt động tốt, quy mô tăng trưởng ổn định, hiệu quả cao, thương hiệu NHNT VN đến nay đã được khẳng định tại cả thị trường trong nước và quốc tế. Đến cuối năm 2007, về cơ bản hệ thống mạng lưới của NHNT VN đã phủ sóng tới những vùng trọng điểm trên toàn quốc với gần 200 chi nhánh và phòng giao dịch, có quan hệ đại lý với hơn 1000 ngân hàng trên toàn cầu. Tổng tài sản của ngân hàng đã đạt gần 196 nghìn tỉ đồng, tăng 17,4% so với năm 2006. Tổng thu nhập trước thuế đạt hơn 3000 tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước gần 1000 tỷ đồng. Đặc biệt hệ số an toàn vốn đạt hơn 12%, cao hơn mức yêu cầu thông lệ quốc tế. Cơ cấu thu nhập có sự chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỷ trọng thu nhập từ lãi và tăng tỷ trọng từ các hoạt động khác (năm 2007 các tỷ trọng này là 65%-35%). Bên cạnh việc củng cố mối quan hệ với các bạn hàng là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước lớn, NHNT đã mở rộng phát triển khách hàng ra khu vực ngoài quốc doanh, doanh nghiệp nhỉ và vừa (SME). NHNT cũng là NHTM đầu tiên trong số các NHTM trích lập đủ dự phòng rủi ro chung theo quy định trước thời hạn yêu cầu của NHNN. Không chỉ chú trọng đến hoạt động kinh doanh, NHNT còn luôn ý thức chấp hành đúng các quy định pháp luật, tích cực trong các công tác xã hội, từ thiện, có nhiều đóng góp cho xã hội được cộng đồng ghi nhận.
Khi Việt Nam đã chính thức trở thành một thành viên của tổ chức thương mại quốc tế WTO, lĩnh vực xuất nhập khẩu sẽ trở thành một trong các lĩnh vực chịu nhiều ảnh hưởng nhất từ công cuộc hội nhập này . Năm đầu tiên Việt Nam gia nhập WTO, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước cao hơn tốc độ tăng chung, chứng tỏ khu vực này đã tận dụng được cơ hội do vị thế mới của thành viên WTO. Nếu không kể dầu thô bị sút giảm thì kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng khác của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) còn tăng cao hơn khu vực kinh tế trong nước. Nếu tình bằng USD, tính đến tháng 11 năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu so với GDP đạt 67,9% thuộc loại cao ở châu Á và thế giới. So với năm 2006 xuất khẩu tăng 21,5%. Trước sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực xuất nhập khẩu, thị trường TTQT của các NHTM VN cũng có nhiều cơ hội mới. Vốn là một lĩnh vực truyền thống của mình, NHNT đang không ngừng hoàn thiện và xây dựng một quy trình thanh toán quốc tế tiên tiến nhất. NHNT VN cũng xác định sẽ tiếp tục phấn đấu để giữ vững và mở rộng thị phần thanh toán xuất nhập khẩu.
3.2. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ hoạt động thanh toán TDCT tại NHNT VN
3.2.1. Thận trọng trong việc lựa chọn và thẩm định khách hàng
Như đã tìm hiểu ở phần trên, có thể nói, trong hoạt động thanh toán TDCT, rủi ro đến từ phía khách hàng là rất lớn. Hiện nay, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam còn chưa có nhiều kinh nghiệm và uy tín chưa cao với các NHTM. Ngoài các doanh nghiệp lớn, các tổng công ty nhà nước, thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ phần lớn chưa hiểu rõ luật pháp, thông lệ cũng như các tập quán thanh toán quốc tế. Chính vì sự thiếu hiểu biết này nên các doanh nghiệp sẽ rất dễ gặp khó khăn khi tham gia vào thị trường quốc tế. Mặt khác, các thủ đoạn lừa đảo của khách hàng ngày càng tinh vi và phức tạp, việc rủi ro từ việc lập chứng từ giả, hối phiếu giả là một trong những rủi ro thường gặp trong thời gian những năm gần đây của không chỉ NHNT VN mà còn của cả các NHTM trong nước khác. Ngoài ra, việc khách hàng mất khả năng thanh toán khi đến hạn trả tiền cho ngân hàng cũng là một rủi ro rất dễ xảy ra. Để tránh được những rủi ro này, việc quan trọng của NH đó là phải thận trọng trong việc lựa chọn và thẩm định khách hàng. NHNT cần phải thu thập thông tin của khách hàng từ nhiều nguồn khác nhau để có được những thông tin chính xác và tổng hợp về tình trạng tài chính của khách hàng cũng như uy tín của khách hàng từ trước tới nay. Việc thẩm định này vô cùng quan trọng. Nếu NH thực hiện không tốt việc thẩm định khách hàng thì hoặc NH sẽ tự làm mất khách hàng, hoặc sẽ thẩm định nhầm chất lượng khách hàng, lúc đó, rủi ro đối với khách hàng sẽ rất cao.
3.2.2. Hoàn thiện quy trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế và nâng cao trình của thanh toán viên.
Cùng với sự phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu, các nghiệp vụ thanh toán quốc tế ngày càng đa dạng và phức tạp. Vì vậy, việc xây dựng một quy trình thanh toán tiên tiến, hoàn thiện là rất quan trọng. Ngoài ra, NHNT còn cần phải quan tâm đến việc nâng cấp, hiện đại hóa các cơ sở vật chất để có thể phát triển đồng bộ tương xứng với sự phát triển của hoạt động thanh toán của ngân hàng. Bên cạnh đó, việc nâng cao trình độ của thanh toán viên là một việc NHNT cần chú trọng thực hiện. Thanh toán viên chính là cầu nối của ngân hàng với khách hàng. Việc nâng cao trình độ của thanh toán viên chính là nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, nâng cao uy tín của khách hàng. Ngoài ra, việc nâng cao uy tín của thanh toán viên còn làm giảm nguy cơ rủi ro của ngân hàng đi rất nhiều.
3.2.3. Nắm bắt thông tin về tình hình kinh tế quốc tế kịp thời và có kênh thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác về từng thị trường
Việc tìm hiểu, thu thập thông tin về các ngân hàng nước ngoài cũng như thị trường nước ngoài mà ngân hàng hoạt động là rất quan trọng. Đã có nhiều rủi ro xảy ra do ngân hàng thiếu thông tin về thị trường, về tập quán thanh toán tại thị trường đó. Ngân hàng cần tìm ra các kênh thông tin chính xác, kịp thời để ngoài việc có thể tư vấn cho khách hàng, các thông tin này còn giúp ngân hàng có thể giảm thiểu nguy cơ xảy ra các rủi ro. Ngoài việc tìm hiểu thông tin về thị trường, việc nắm bắt thông tin về những biến động giá cả của hàng hóa trong L/C, biến động tỷ giá trên thị trường, cũng là những thông tin ngân hàng cần quan tâm.
3.3. Những giải pháp cụ thể nhằm hạn chế rủi ro trong phương thức thanh toán TDCT tại NHNT VN
3.3.1. Đổi mới, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng
Có thể nói, trong thế kỉ 21, công nghệ là chìa khóa mở ra mọi thành công. Và ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật này. Ý thức được sự quan trọng của công nghệ đối với sự phát triển của ngân hàng, ngay từ những bước đầu phát triển, NHNT đã luôn luôn chú trọng đến việc đầu tư, phát triển công nghệ vào hoạt động của NH. Ngay từ đầu những năm 90, NHNT đã chính thức tham gia vào thị trường tiền tệ thế giới, và là một trong những ngân hàng đầu tiên của Việt Nam xác lập các quan hệ tiền tệ, gia nhập tổ chức SWIFT, tự động hóa việc chuyển tiền, trở thành ngân hàng đầu tiên tại VN phát hành các loại thẻ tín dụng quốc tế (Master, Visa,…), trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội ngân hàng Châu Á. Từ năm 2005 NHNT VN đã tiến hành một loạt các dự án có tính chiến lược là dự án hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán do Ngân hàng Thế giới tài trợ. Mục tiêu của dự án này là ứng dụng một hệ thống tích hợp với kho dữ liệu tập trung phục vụ cho mục tiêu kinh doanh hướng tới khách hàng. Dự án bao gồm toàn bộ mảng nghiệp vụ của ngân hàng hàng: Ngân hàng lõi (thông tin khách hàng, tiền gửi, chuyển tiền, thấu chi, sổ cái), tài trợ thương mại, kinh doanh vốn, kho dữ liệu và hệ thông tin quản lý nhằm nâng cao cả hai mặt quản lý của nội bộ ngân hàng và tiện ích phục vụ khách hàng. Hiện nay, để hỗ trợ cho hoạt động thanh toán quốc tế, NHNT đã đầu tư hệ thống công nghệ cho phép tập trung hóa và vi tính hóa mọi thông tin và xử lý giao dịch cho khách hàng. Đây là những lợi thế rất quan trọng và riêng có để NHNT luôn có thể đáp ứng các nhu cầu thanh toán xuất nhập khẩu một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất cho khách hàng của mình.
Việc ứng dụng các công nghệ mới vào hoạt động của ngân hàng đã góp phần làm thay đổi về tổ chức quản trị, về cấu trúc cung ứng dịch vụ, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyên môn hóa và phân công lao động trong toàn bộ quy trình cung ứng dịch vụ của ngân hàng. Hiện nay, NHNT VN vẫn là ngân hàng đi đầu trong việc ứng dụng các công nghệ ngân hàng hiện đại, tiên tiến. Điều này góp phần không nhỏ trong việc nâng cao tính an toàn và hiệu quả của hoạt động thanh toán nói riêng và các hoạt động khác của ngân hàng nói chung. Cụ thể, trong hoạt động TTQT, việc áp dụng công nghệ khoa học, kĩ thuật hiện đại sẽ giúp ngân hàng rút ngắn thời gian thanh toán, giảm bớt chi phí giao dịch, nâng cao hiệu quả trong việc xác định tính chân thực của bộ chứng từ. Điều này sẽ làm giảm bớt các rủi ro có thể phát sinh trong thanh toán.
3.3.2. Đẩy mạnh và phát triển hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu
Hiện nay, tại NHNT VN hoạt động TTQT và tài trợ xuất nhập khẩu luôn gắn liền với nhau. Điều này sẽ làm cho ngân hàng có thể dễ dàng mở rộng và phát triển nghiệp vụ này. Thực tế hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam đều xây dựng được uy tín trên thị trường quốc tế. Thêm vào đó, nguồn vốn của các doanh nghiệp này còn nhiều hạn chế. Vì vậy, việc tạo điều kiện thuận lợi về mặt tài chính cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam về phía các doanh nghiệp sẽ là sự hỗ trợ rất lớn cho các doanh nghiệp này phát triển hoạt động thương mại quốc tế, còn về phía ngân hàng, hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu sẽ giúp NH mở rộng thị trường, tăng thêm thị phần của mình trên thị trường thanh toán xuất nhập khẩu. Ngoài ra, việc tài trợ xuất nhập khẩu còn làm cho ngân hàng có thể làm phong phú thêm danh mục sản phẩm của mình, tăng thêm thu nhập cho ngân hàng. Việc thực hiện tài trợ xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp có thể giúp cho ngân hàng hạn chế phần nào rủi ro là vì khi ngân hàng quyết định tài trợ cho doanh nghiệp, nghĩa là ngân hàng đã phải tìm hiểu rất kĩ về doanh nghiệp đó. Và vì vậy, nguy cơ rủi ro cũng được hạn chế phần nào.
3.3.3. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định và liên kết với các ngân hàng khác trong công tác tìm hiểu về khách hàng
Bên cạnh việc tài trợ xuất nhập khẩu, việc thẩm định các dự án xuất nhập khẩu cũng có ý nghĩa rất quan trọng để đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Trên thực tế, rất nhiều các rủi ro trong phương thức thanh toán TDCT là do ngân hàng thực hiện chưa tốt công tác thẩm định; ngân hàng thiếu các thông tin cần thiết về khách hàng, về các ngân hàng tham gia thanh toán. Để khăc phục rủi ro này, NHNT cần phải nâng cao chất lượng thẩm định, thiết lập hệ thống thông tin giữa các ngân hàng về khách hàng (như uy tín khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng,…)
3.3.4. Đa dạng hóa các hình thức thanh toán
Có thể nói, nhu cầu thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp ngày càng đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, nghiệp vụ thanh toán chủ yếu là mở L/C không hủy ngang, L/C trả ngay. Do vậy, để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, NHNT cần mở rộng thêm các hoạt động thanh toán. Ví dụ như xác nhận L/C, mở L/C trả chậm, tư vấn để khách hàng có thể sử dụng các loại L/C đặc biệt như L/C điều khoản đỏ, L/C giáp lưng, L/C dự phòng,… trong từng hoàn cảnh thích hợp. Bên cạnh đó, NHNT cần nên đa dạng hóa các hình thức kinh doanh ngoại hối, phát triển các nghiệp vụ quyền chọn, hoán đổi, kì hạn,… để đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng và phục vụ tốt cho hoạt động thanh toán của NH. Mặc dù việc đa dạng hóa các hình thức thanh toán rất phức tạp, cần nhiều thời gian và có thể gặp nhiều rủi ro, tuy nhiên, trong quá trình phát triển của nền kinh tế hiện nay, xu hướng này là một điều tất yếu. Nó sẽ tạo cho NH có thể đa dạng hóa danh mục sản phẩm, nâng cao thu nhập của NH.
3.3.5. Tăng cường công tác hỗ trợ, tư vấn khách hàng
Tuy đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế WTO, nhưng trên thực tế các doanh nghiệp XNK Việt Nam đều có rất ít kinh nghiệm và hiểu biết về nghiệp vụ ngoại thương. Chính điểm yếu này làm cho các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn bất lợi trong các hợp đồng ngoại thương như chấp nhận các điểu khoản bất lợi cho mình, chấp nhận các điều khoản không thể thực hiện được, không thể lập được bộ chứng từ hoàn hảo. Do vậy, nguy cơ xảy ra rủi ro là rất lớn cho các doanh nghiệp và cả các NHTM Việt Nam. Vì thế, NHNT cần nâng cao việc tư vấn cho khách hàng ngay từ lúc khách hàng bắt đầu kí hợp đồng ngoại thương. Những tư vấn, góp ý của NH ngay từ khâu kí hợp đồng sẽ làm hạn chế rất nhiều rủi ro về sau. Và vì vậy rủi ro của NH cũng sẽ được giảm đi rất nhiều.
3.3.6. Nâng cao trình độ nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của thanh toán viên
Có thể nói thanh toán viên chính là cầu nối giữa NH và khách hàng. Chính vì vậy việc nâng cao, bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ một công việc rât quan trọng. Các nghiệp vụ thanh toán ngày càng đa dạng và phức tạp, công nghệ ngân hàng thay đổi hàng ngày. Nếu không được bồi dưỡng nghiệp vụ một cách thường xuyên, thanh toán viên rất dễ bị tụt hậu. Điều này sẽ làm giảm hiệu quả công việc, gây ra rủi ro cho cả ngân hàng và khách hàng. Do vậy, một trong những biện pháp làm giảm rủi ro trong thanh toán của NHNT là phải luôn luôn nâng cao, bồi dưỡng trình độ của thanh toán viên.
3.3.7. Xây dựng chính sách khách hàng phù hợp
Thực tế hiện nay, khi các NHTM ngày được thành lập càng nhiều, thị phần thanh toán nói riêng và thị phần thị trường tài chính ngân hàng nói chung sẽ bị chia sẻ đi nhiều. NHNT vốn là ngân hàng có truyền thống trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Vì vậy, để không những giữ vững thị phần của mình và mở rộng thị trường, NHNT cần phải xây dựng chính sách khách hàng hợp lý và linh hoạt. Để làm tốt điều này, NHNT nên phân nhóm khách hàng. Với từng nhóm khách hàng ngân hàng cần có những chính sách phù hợp Đối với những khách hàng truyền thống, ngân hàng cần có những chính sách hợp lý để duy trì quan hệ lâu dài với khách hàng, tạo mối quan hệ thân thiết, bền chặt với khách hàng. Với những khách hàng có giao dịch thường xuyên, NHNT cần có biểu phí hợp lý, ưu đãi, và có những chính sách khuyến mãi hợp lý. Đối với những khách hàng mới, lần đầu giao dịch, ngân hàng cần có những chính sách nhằm tạo lòng tin và tạo mối quan hệ lâu bền với khách hàng.
3.3.8. Mở rộng có hiệu quả mạng lưới ngân hàng đại lý
Có thể nói, trong xu thế hội nhập quốc tế và phát triển TTQT của các NHTM hiện nay, việc mở rộng mạng lưới các ngân hàng đại lý là vô cùng quan trọng. Việc mở rộng mạng lưới NH đại lý cần được chú trọng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Có nghĩa là ngân hàng không chỉ nâng cao số lượng ngân hàng đại lý mà còn phải lựa chọn ngân hàng đại lý là các ngân hàng lớn, có uy tín, ở những nước có nền kinh tế chính trị ổn định, và quan trọng là phù hợp với mục tiêu phát triển của NHNT VN. Việc phát triển mạng lưới ngân hàng đại lý một cách hợp lý thì hoạt động TTQT sẽ được thực hiện một cách dễ dàng và nhanh chóng hơn, thông tin sẽ được đáp ứng kịp thời hơn, từ đó sẽ giúp hạn chế những rủi ro và chậm trễ trong thanh toán. Để làm được điều này, NHNT cần tích cực thiết lập mối quan hệ NH đại lý với các nước trong khu vực và trên thế giới, NHNT cần chủ động tìm kiếm thông tin, đánh giá, phân loại và xếp hạng tín nhiệm các NH đại lý để có thể xây dựng một phương án tiếp cận thích hợp và hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, NHNT cần chú trọng đến việc quảng bá hình ảnh, nâng cao uy tín của mình trên thị trường quốc tế.
3.3.9. Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ
Việc nâng cao chất lượng công tác kiểm soát nội bộ tại NHNT là vô cùng quan trọng. Nếu làm tốt công tác này sẽ làm hạn chế tình trạng các cán bộ thanh toán không tuân thủ những quy định của UCP và quy trình thanh toán của ngân hàng, đồng thời sẽ có thể phát hiện một cách nhanh chóng các sai phạm đã xảy ra. Để làm được điều này, NHNT cần phải nâng cao, bồi dưỡng trình độ của cán bộ thanh tra kiểm soát một cách thường xuyê, cần có các cuôc hội thảo, trao đổi kinh nghiệm thực tiến trong hoạt động thanh tra, kiểm soát giữa các chi nhánh, sở giao dịch trong hệ thống NHNT VN.
3.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh toán quốc tế tại NHNT VN
3.4.1. Đối với Nhà nước
3.4.1.1. Hoàn thiện hệ thống quy chế pháp lý điều chỉnh hoạt động thanh toán TDCT
Như đã phân tích ở trên, có thể thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến rủi ro trong hoạt động TTQT là do hệ thống pháp luật của VN còn nhiều thiếu sót, nhiều điểm chưa đồng bộ, còn nhiều chồng chéo. Do đó, việc xây dựng một hệ thống quy chế pháp lý để điều chỉnh hoạt động TQTT nói chung và hoạt động thanh toán TDCT nói riêng là vô cùng cần thiết. Hiện nay, khi VN đã trở thành một thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, lúc này, nếu không sớm hoàn thiện hệ thống pháp lý, thì nguy cơ rủi ro đối với các NHTM và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước là vô cùng cao. Hơn nữa, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động TTQT sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của hoạt động này.
3.4.1.2. Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại hối theo hướng hiện đại và phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Như ta đã biết, hoạt động XNK của các doanh nghiệp và hoạt động TTQT của các NHTM luôn gắn liền với thị trường ngoại hối. Vì vậy việc xây dựng một thị trường ngoại hối hoạt động có hiệu quả, có tính thanh khoản cao và thông suốt sẽ góp phần phát triển hoạt động TTQT. Hơn nữa, một thị trường ngoại hối phát triển còn góp phần đẩy nhanh quá trình luân chuyển vốn, các khoản đầu tư quốc tế, điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với các doanh nghiệp XNK của nước ta. Và điều quan trọng là trong một thị trường ngoại hối ổn định sẽ giúp xác định tỷ giá một cách khách quan theo quy luật cung cầu, cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro tỉ giá cho các doanh nghiệp XNK cũng như các NHTM. Để có thể xây dựng một thị trường ngoại hối phát triển và có tính hiệu quả cao, Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện chính sách quản lý trạng thái ngoại tệ, bên cạnh đó cần nâng cao hiệu quả chất lượng và mở rộng phát triển các nghiệp vụ giao ngay, kì hạn, hoán đổi, tương lai.
3.4.2. Đối với NHNN VN
3.4.2.1. Hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ liên NH, tạo diều kiện để phát triển thị trường ngoại hối VN.
Việc hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại hối VN là một trong những điều kiện quan trọng để NH mở rộng nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ của thị trường. Để có thể hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ liên NH, tạo điều kiện phát triển thị trường ngoại hối, NHNH cần thực hiện các giải pháp như:
Thực hiện giám sát chặt chẽ trạng thái ngoại hối của các NHTM, yêu cầu các NHTM phải xử lý tình trạng ngoại hối của mình bằng việc mua bán ngoại tệ trên thị trường tiền tệ liên NH.
Đa dạng hóa các loại ngoại tệ, các phương tiện TTQT. Khuyến khích các nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu, hối phiếu ngoại tệ để có thể đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của thị trường.
Phát triển các nghiệp vụ vay mượn ngoại tệ, nghiệp vụ mua bán kì hạn, hoán đổi ngoại tệ, hợp đồng tương lai, hợp đồng kì hạn, quyền mua, quyền bán,, nghiệp vụ gửi tiền qua đêm trên thị trường liên ngân hàng.
Phát huy vai trò của NHNN trên thị trường liên ngân hàng. NHNN phải trở thành người mua và người bán cuối cùng tham gia tác động kịp thời giúp thị trường tiền tệ ổn định, các NHTM duy trì được trạng thái ngoại hối an toàn của mình.
3.4.2.2. Xây dựng chính sách ngoại hối hợp lý và linh hoạt.
Sự thay đổi của tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh XNK và TTQT. Vì vậy, một chính sách ngoại hối hợp lý và linh hoạt sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động XNK của các doanh nghiệp cũng như hoạt động TTQT của các NHTM. Để làm được điều này, NHNN cần phải:
Nâng cao dự trữ ngoại tệ của nhà nước tương ứng với tốc độ phát triển kim ngạch XNK.
Xác định cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý, cần đa dạng hóa rổi ngoại tệ mạnh, trong tình hình đồng USD đang có chiều hướng bị mất giá như hiện nay không nên neo giữ VNĐ chỉ với USD.
Cần xác định một cách chính xác, kịp thời các chỉ số kinh tế vĩ mô như tăng trưởng, lạm phát, lãi suất,… để có thể xây dựng một chính sách tỷ giá hợp lý trong từng thời kì cụ thể.
3.4.3. Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Trong tình hình hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày một nhanh và mạnh như hiện nay, để hạn chế các rủi ro, các doanh nghiệp XNK cần phải tự trang bị cho mình những kiến thức, kinh nghiệm về hoạt động XNK và TTQT. Doanh nghiệp XNK cần lựa chọn NHPH, NHXN là những ngân hàng có uy tín, chất lượng. Trước khi đặt quan hệ kinh tế, doanh nghiệp cần tìm hiểu về thị trường mà mình đang hướng đến, cần thu thập đầy đủ thông tin về đối tác định mà doanh nghiệp có ý định kí kết hợp đồng. Thêm vào đó, trong khâu kí kết hợp đồng, các doanh nghiệp cần phải chú ý đến các nội dung, điều khoản để tránh việc chấp nhận các điều khoản bất lợi cho mình. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng nên xây dựng mối quan hệ tốt với ngân hàng để có thể nhận được những lời tư vấn có giá trị trong quá trình thanh toán. Nếu làm tốt các điều này, doanh nghiệp sẽ giảm đi rất nhiều nguy cơ rủi ro trong hoạt động TTQT.
KẾT LUẬN
Có thể nói, thanh toán TDCT là phương thức thanh toán có vai trò ngày càng quan trọng và chiếm tỉ trọng lớn trong tổng kim ngạch TTQT của các NHTM VN. Tuy là một phương thức có nhiều ưu việt, tuy nhiên phương thức này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro có thể xảy ra cho các bên có liên quan. Rủi ro là một điều tất yếu và không thể loại bỏ hoàn toàn. Điều quan trọng là các bên liên quan phải có những hiểu biết về những rủi ro tiềm ẩn đó để có thể xây dựng các biện pháp phòng ngừa và hạn chế nhằm giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra. Do đó, vấn đề quản trị rủi ro trong TTQT là một vấn đề rất quan trọng của các NHTM VN.
Đối với NHNT VN, trải qua gần 45 năm hoạt động, tuy là một lĩnh vực truyền thống của NH, tuy nhiên rủi ro trong TTQT là điều không thể tránh khỏi. Luôn là ngân hàng dẫn đầu về lĩnh vực TTQT nhưng vấn đề nâng cao chất lượng thanh toán và hạn chế rủi ro trong hoạt động này luôn được ngân hàng quan tâm và chú trọng. NHNT VN luôn nghiên cứu và tìm hiểu những biện pháp phòng ngừa rủi ro. Và trên thực tế các biện pháp này đã được áp dụng một cách linh hoạt và có hiệu quả vào hoạt động của NH và đã đạt được những thành công nhất định.
Rủi ro trong TTQT nói chung và trong thanh toán TDCT nói riêng là một vấn đề rất quan trọng không những ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của NH mà còn làm ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của NH. Chính vì vậy, chuyên đề đã cố gắng tổng kết một cách khái quát thực trạng rủi ro trong thanh toán TDCT tại NHNT VN và đưa ra một số kiến nghị để hạn chế những rủi ro này nhằm mục đích nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán của NH.
Do hạn chế về thời gian thực tập và nghiên cứu, chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em rất mong nhận được thông cảm và ý kiến đóng góp của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31369.doc