TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN QUẢN TRỊ KINH DOANH
ba
TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC
CHỦ ĐỀ: THỰC TRẠNG ÙN TẮC GIAO THÔNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
Sinh viên: Nguyễn Thị Hương Trà
Lớp: EMBA7B Khóa: 7
Hà nội năm 2008
MỤC LỤC
Tiêu đề
Trang
Phát biểu vấn đề
3
Luận chứng lí do nêu vấn đề
3
Phê phán một số phương pháp luận trong việc định hướng và giải quyết tình trạng ùn ùn ùn tắc giao thông tại thành phố Hà Nội
4
Xác định phương pháp luận mới trong việ
14 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 5978 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Thực trạng ùn tắc giao thông ở Thành phố Hà Nội hiện nay. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c định hướng giải quyết nạn ùn tắc giao thông thông tại Hà Nội
6
Tài liệu tham khảo
13
I. Phát biểu vấn đề:
Làm thế nào để cải thiện tình trạng ùn tắc giao thông tại thành phố Hà Nội hiện nay?
Sau hơn mười năm đổi mới đất nước, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát triển kinh tế rực rỡ với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ GDP cao, cùng với nó là đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, trước đây người Việt Nam còn phải lo cho” ăn no mặc đủ” thì bây giờ họ lại nghĩ tới “ăn ngon mặc đẹp”. Tuy nhiên, do sự phát triển kinh tế quá nhanh trong khi kiến trúc thượng tầng và cơ sở vật chất chưa được trang bị cho phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế đã dẫn đến những vấn nạn mà dư luận xã hội lo lắng và quan tâm, trong đó tình trạng ùn tắc giao thông tại các thành phố lớn, đặc biệt là tại thành phố Hà Nội là một ví dụ.
Ùn tắc giao thông ở thành phố Hà Nội nói riêng và trong cả nước nói chung đang trở thành vấn đề nhức nhối, bức xúc cho xã hội, đòi hỏi cần phải được giải quyết bởi nếu không thì nó sẽ gây ra những thiệt hại lớn cho đất nước và xã hội.
II.Luận chứng lý do nêu vấn đề:
Theo các công trình khoa học nghiên cứu về tác hại của ùn tắc giao thông đối với đất nước và xã hội thì họ đã chỉ ra những hậu quả lớn cho xã hội và đất nước, cụ thể:
Một là thiệt hại kinh tế do ùn tắc giao thông gây ra cho xã hội và đất nước. Theo thống kê ở Hà Nội với nhiều tuyến đường và nút giao thông thường xuyên bị ùn tắc, đặc biệt là trong những giờ cao điểm, ước tính con số thiệt hại là khoảng 15000 tỷ đồng/năm. Mức thiệt hại này chủ yếu là do sự lãng phí về thời gian và nhiên liệu của người dân bị tiêu hao trong khi phải chờ đợi tại các điểm ùn tắc, và do đó cũng gây ra những thiệt hại cho nền kinh tế đất nước bởi nếu không lãng phí những thời gian và nhiên liệu này sẽ được sử dụng vào những mục đích kinh tế có hiệu quả hơn.
Hai là ô nhiễm môi trường do ùn tắc giao thông.Do tại các điểm ùn tắc luôn tập trung một khối lượng lớn các loại phương tiện đi lại trong những khoảng thời gian dài đã sản sinh ra lượng lớn chất thải độc hại ra môi trường, đặc biệt là chất NO2 được thải ra từ các loại xe ô tô con và xe máy, và chất SO2 từ các loại xe tải và xe buýt (hai loại phương tiện này đều sử dụng dầu diesel có lưu huỳnh). Theo số liệu thống kê của sở Tài nguyên và môi trường Hà Nội thì tại hai điểm hay xảy ra ùn tắc tại thành phố là điểm cầu vượt Đại La với đường Giải phóng và điểm khu vực vườn hoa bốt hàng Đậu thì hai loại khí thải nêu trên lần lượt là 60 microgram/1m3 và 75 microgram/1m3. Lượng khí thải nói trên cao hơn lượng khí thải cho phép và cao hơn lượng trung bình ở nông thôn là 15-20 microgram/1m3. Lượng khí thải độc hại này đã ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của người tham gia giao thông và của người dân sống tại khu vực đó.
Ùn tắc giao thông gây ra sự thiệt hại về kinh tế cũng như gây ra ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân đã dẫn đến sự giảm niềm tin của nhân dân vào sự điều hành và quản lý của Nhà Nước.Ùn tắc giao thông xảy ra thường xuyên trong ngày cũng như trong tất cả các ngày đã trở thành nỗi lo lắng và quan tâm hàng đầu của xã hội, nhất là nó đã gây ra những thiệt hại và những ảnh hưởng lớn tới đời sống của người dân. Vấn đề ùn tắc giao thông nếu không được giải quyểt tốt sẽ gây sự bức xúc ngày càng lớn trong dân chúng và nếu Chính phủ và Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội không có các giải pháp để ngăn chặn và giảm thiểu ùn tắc giao thông tại thành phố sẽ làm mất dần uy tín điều hành và quản lý của các cơ quan công quyền trong nhân dân. Trên thực tế thì các cơ quan điều hành của Nhà nước cũng đã nhận ra vấn đề và đã đưa ra những giải pháp nhưng các giải pháp này đã không có hiệu quả, gây sự hoang mang và lo lắng hơn trong dân chúng. Nguyên nhân chính là những giải pháp này còn mang tính chủ quan chưa có phương pháp luận đúng đắn nên dã không mang lại những kết quả như mong đợi.
Trên đây là những lí do chính mà em đã chọn đề tài “Thực trạng ùn tắc giao thông ở thành phố Hà Nội hiện nay, nguyên nhân và giải pháp” cho bài Tiểu luận của mình. Do kiến thức còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, kính mong thầy giáo góp ý để em có cái nhìn đúng đắn hơn về vấn đề này.
III. Phê phán một số phương pháp luận sai lầm trong việc định hướng và giải quyết tình trạng ùn tắc giao thông tại thành phố Hà Nội
1. Giải pháp mỗi người dân chỉ được đăng kí một xe máy: theo thông tư 02/2003/TT-BCA(C11) về hướng dẫn tổ chức đăng kí biển số phương tiện giao thông cơ giới đồng bộ của Bộ Công an,cũng như quyết định tạm ngừng đăng kí xe máy ở bảy quận nội thành theo các quyết định số 98/2003/QD-UB ngày 14/8/2003 và số 9294/QD-UB ngày 21/12/2004 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. Do các quyết định này chỉ mang tính chủ quan, phiếm diện và áp đặt, không có một tầm nhìn toàn diện về vấn đề nên đã không mang lại hiệu quả trong việc giải quyết vấn đề ùn tắc giao thông mà còn nảy sinh thêm nhiều vấn đề khác như: sự buông lỏng quản lý của Nhà nước cùng với sự kém hiểu biết của nhân dân cộng với sự trốn tránh nộp thuế cho Nhà nước đã dẫn đến việc mua bán trao tay quyền đăng kí xe máy và việc người dân mang xe máy ra các tỉnh lân cận thuê người đăng kí hộ. Hậu quả là số liệu đăng kí xe máy ở Hà Nội không tăng lên là bao nhiêu nhưng lượng xe thực tế lưu thông lại tiếp tục tăng làm cho việc thống kê, dự báo và quản lý càng trở lên khó khăn hơn, ngoài ra còn chưa kể đến các thông tư, quyết định trên còn vi phạm hiến pháp về quyền sở hữu tài sản cá nhân. Do những biện pháp trên kém hiệu quả nên Bộ Công an đã phải có cái nhìn thay đổi và chỉnh sửa kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế và khách quan hơn bằng cách ra thông tư 17/2005/TT vào ngày 22/11 bỏ quy định mỗi người chỉ được đăng kí một xe mô tô hoặc xe gắn máy và Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội đã phải ra quyết định số 221/2005/QDUB ngày 14/2/2005 về việc bỏ việc cấm đăng kí xe găn máy ở bảy quận nội thành.
Qua biện pháp trên đã cho chúng ta thấy rằng nếu các biện pháp mà không có phương pháp luận và mang tính chủ quan, không sâu sát thực tế thì đều không đạt hiệu quả mà mặt khác còn gây ra những hậu quả khó lường cho xã hội và đất nước.
2. Dùng biện pháp hành chính ngăn cản việc di dân từ các tỉnh vào Hà Nội. Các nhà quản lý đã sai lầm cho rằng nguyên nhân của ùn tắc là do lượng di dân ở các tỉnh về Hà Nội ngày càng lớn, làm cho dân số của Hà Nội đông và khiến cho nhu cầu đi lại lớn gây ùn tắc cho thành phố. Đây cũng là cách nhìn phiếm diện vì nguyên nhân sâu xa của vấn đề này là sự chênh lệch mức sống giữa thủ đô và các tỉnh khác, Nhà nước không có các giải pháp nâng cao mức sống của người dân giữa các vùng miền khác mà lại quá tập trung đầu tư vào Hà Nội, do đó mà Hà Nội trở thành vùng đất hứa cho việc sinh sống và lập nghiệp, thu hút người dân các tỉnh khác di cư đến. Do vậy các biện pháp hành chính trên không ngăn cản được sự di dân vào Hà Nội mà chỉ gây khổ cho người dân và tạo cơ hội nhũng nhiễu và làm biến chất của một số cán bộ tha hóa. Nhận ra quy luật đó, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ra một số quy định năm 2007 là tạo sự thông thoáng, tạo nơi ở ổn định cho nhân dân và đưa ra một số giải pháp chống ùn tắc giao thông hữu hiệu hơn.
3. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng không đúng lúc đúng chỗ, thiếu đồng bộ, không theo kịp nhu cầu phục vụ cho sự phát triển của Thủ đô. Ví dụ như nhu cầu đi lại hai bên bờ sống Hồng khu vực quận Hoàng Mai và quận Long Biên là rất lớn nhưng do việc đi lại này chỉ đi qua được cầu Chương dương và dẫn đến là cầu này thường xuyên xảy ra việc ách tắc giao thông.Ngoài ra, Hà Nội còn có hiện tượng làm đường và xây dựng hệ thống cống rãnh không đồng bộ làm hẹp diện tích đường đi lại và cản trở người tham gia giao thông nên cũng là một trong những nguyên nhân chính gây ách tắc giao thông tại thủ đô. Thêm vào đó là đường ở Hà Nội còn quá nhỏ hẹp, không có sự định hướng mở rộng trong khi số lượng xe máy và ô tô tăng quá nhanh, thiếu trầm trọng các bãi đỗ xe ô tô nên việc ô tô đỗ tại mặt đường đã gây ùn tắc và bức xúc cho người tham gia giao thông.
Để cải thiện tình hình trên, Nhà nước đã đầu tư xây dựng các công trình giao thông lớn như cầu Thăng Long, cầu Thanh trì, mở rộng và xây dựng tuyến đường mới như đường Kim Liên, đường Trần Đại Nghĩa và khuyến khích việc xây dựng và kinh doanh các bãi đỗ xe ô tô, dù vẫn còn ở mức hạn chế, hiện tượng ùn tắc vẫn xảy ra nhưng cũng đã được cải thiện đáng kể.
4. Công tác quản lý giao thông và giáo dục chưa được thường xuyên, liên tục. Trong các đợt cao điểm thực hiện việc tuân thủ giao thông kèm theo các chế tài xử phạt nghiêm thì tình trạng ùn tắc gần như không xảy ra nhưng sau các đợt đó thì tình trạng lại trở về như cũ.
IV. Xác định phương pháp luận mới trong định hướng giải quyết vấn đề
Hiện tượng ùn tắc giao thông ở Hà Nội hiện nay là kết quả của hàng loạt nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan do con người gây ra vì con người đã không tuân theo các quy luật khách quan trong việc giải quyết các vấn đề. Nhận thức từ phạm trù nguyên nhân và kết quả của phép biện chứng duy vật dựa trên ba nguyên tắc luận cơ bản là nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc phát triển và nguyên tắc lịch sử cụ thể, em sẽ vận dụng để tìm ra nguyên nhân chính của vấn nạn này và từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp hơn nhằm cải thiện tình trạng ùn tắc giao thông hiện nay tại thủ đô.
1. Cơ sở Triết học
a) Khái niện về nguyên nhân và kết quả
-Nguyên nhân là sự tương tác giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra những biến đổi nhất định
-Kết quả là những biến đổi do nguyên nhân hay sự tương tác giữa một sự vật hay giữa các sự vật với nhau tạo ra.
b) Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
Theo quan điểm duy vật biện chứng thì mối quan hệ nhân - quả là mối liên hệ khách quan của bản thân các sự vật. Nó tồn tại ngoài ý muốn của con người không phụ thuộc vào việc ta có nhận thức được nó hay không.
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả còn thể hiện ở chỗ: một hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân nhưng trong mối quan hệ khác cũng có thể là kết quả và ngược lại.
Thực tiễn cho thấy cùng một nguyên nhân có thể gây nên nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại một kết quả có thể gây nên bởi nhiều nguyên nhân khác nhau tác động riêng lẻ hay tác động cùng một lúc.
c) Phân loại nguyên nhân:
*Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu:
-Nguyên nhân chủ yếu: là nguyên nhân mà nếu không có nó thì kết quả sẽ không xảy ra
-Nguyên nhân thứ yếu: là nguyên nhân mà sự có mặt của nó chỉ quyết định những đặc điểm nhất thời không ổn định, cá biệt của hiện tượng.
*Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài
-Nguyên nhân bên trong: là sự tác động lẫn nhau giữa những mặt hay những yếu tố của cùng một kết cấu vật chất nào đó và gây ra những biến đổi nhất định.
-Nguyên nhân bên ngoài: là sự tác động lẫn nhau giữa những kết cấu vật chất khác nhau và gây ra những biến đổi thích hợp trong kết cấu vật chất ấy.
*Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan:
-Nguyên nhân khách quan: là nguyên nhân xuất hiện và tác động độc lập đối với ý thức của con người, của các giai cấp, các chính đảng,...
-Nguyên nhân chủ quan: là nguyên nhân xuất hiện và tác động phụ thuộc vào ý thức của con người trong lĩnh vực hoạt động của các cá nhân, các giai cấp, các chính đảng,…nhằm thúc đẩy hay kìm hãm sự xuất hiện, phát triển,…của các quá trình xã hội.
*Nguyên nhân tác động ngược chiều và nguyên nhân tác động cùng chiều
-Nguyên nhân tác động cùng chiều: là các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì sẽ gây ảnh hưởng cùng chiều với sự hình thành kết quả.
-Nguyên nhân tác động ngược chiều: là nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì chúng sẽ làm suy yếu, thậm chí hoàn toàn triệt tiêu tác dụng của nhau.
d) Một số kết luận về phương pháp luận:
Vì mối liên hệ nhân- quả tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người nên ta chỉ có thể tìm nguyên nhân của hiện tượng ở chính trong thế giới của hiện thực.
Vì nguyên nhân luôn xuất hiện trước kết quả nên khi phải tìm hiểu nguyên nhân của một hiện tượng nào đó thì cần tìm trong những mặt, những sự kiện, những mối liên hệ đã xảy ra trước khi xuất hiện
Vì dấu hiệu đặc trưng của nguyên nhân trong mối liên hệ với kết quá là nguyên nhân sinh ra kết quả nên khi xác định nguyên nhân của hiện tượng cần đặc biệt chú ý đến dấu hiệu đặc trưng ấy.
Vì một hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra nên trong quá trình xác định nguyên nhân của một hiện tượng nào đó cần hết sức tỉ mỉ, thận trọng vạch ra cho được hiệu quả tác động của từng mối quan hệ cũng như các tổ hợp khác nhau của chúng trong việc nảy sinh hiện tượng để trên cơ sở đó có thể xác định đúng về nguyên nhân sinh ra hiện tượng.
Vì một hiện tượng trong mối quan hệ này là kết quả trong mối quan hệ khác có thể là nguyên nhân nên để hiểu rõ tác dụng của hiện tượng ấy cần xem xét nó trong những mối quan hệ mà nó giữ vai tò là nguyên nhân cũng như trong những quan hệ mà nó là kết quả.
Vì mối liên hệ nhân quả mang tính chất tất yếu nên ta có thể dựa vào mối quan hệ nhân – quả để hành động. Nhưng trong quá trình hành động cần lưu ý:
+Muốn loại bỏ một hiện tượng nào đó càn loại bỏ nguyên nhân làm nảy sinh ra nó.
+Muốn cho hiện tượng xuất hiện cần tạo ra nguyên nhân cùng những điều kiện cần thiết cho nguyên nhân sinh ra nó phát sinh tác dụng.
Vì hiện tượng này có thể xuất hiện do nhiều nguyên nhân tác động riêng lẻ hoặc đồng thời. Trong hoạt động thực tiễn cần tùy thuộc hoàn cảnh cụ thể mà lựa chọn phương pháp hành động chứ không hành động rập khuôn theo phương pháp cũ.
Vì các nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân bên trong giữ vai trò quyết định trong sự xuất hiện, vận động và tiêu vong của hiện tượng nên trong hoạt động thực tiễn cần dựa trước hết vào các nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân bên trong.
Để đẩy nhanh (hay kìm hãm hoặc loại trừ) sự phát triển của một hiện tượng xã hội nào đó cần làm cho các nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều (hay lệch hoặc ngược chiều) với chiều vận động của mối quan hệ nhân – quả khách quan.
2. Vận dụng nguyên tắc toàn diện và nguyên tắc lịch sử cụ thể của phép duy vật biện chứng để tìm ra nguyên nhân của hiện tượng ùn tắc ở Hà nội
Ta thấy ba nhân tố chính tham giao vào quá trình giao thông nói chung và gây ùn tắc nói riêng là: cơ sở hạ tầng giao thông (đường sá, cầu, sông,..), phương tiện tham gia giao thông (số lượng, chủng loại, chất lượng…) và con người (người tham gia giao thông, người quản lí và hệ thống quản lý giao thông…).
a) Áp dụng nguyên tắc toàn diện trong việc tìm ra nguyên nhân của ùn tắc giao thông
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng chúng ta phải xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa hiện tượng, sự vật đó với hiện tượng, sự vật khác, tránh cách xem xét phiếm diện một chiều. Nguyên tắc này đòi hỏi phải xem xét, đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ và phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, tránh chủ nghĩa chiết trung, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ, tránh sai lầm của thuật ngụy biện, coi cái cơ bản thành cái không cơ bản, không bản chất thành cái bản chất hoặc ngược lại, dẫn đến nhận thức sai lệch, xuyên tạc bản chất sự vật, hiện tượng. Kết hợp nguyên tắc trên với số liệu thống kê ta thấy: mật sộ phương tiện thao gia giao thông quá đông. Theo thống kế năm 2007 dân số Hà Nội là 3.4 triệu người có mật độ là 3940 người/km2 ( cao gấp 100 lần chuẩn thế giới) trong đó có gần 2 triệu xe máy, 10 nghìn xe ô tô, chiếm 2/3 dân số Hà Nội có phương tiện giao thông cá nhân. Vì vậy mà tình trạng tắc đường thường xuyên là không thể tránh khỏi.
Hà Nội lại chưa có loại hình phương tiện giao thông công cộng làm việc thật sự hiệu quả. Vì phương tiện chính vẫn chỉ là xe buýt công cộng, lọai xe này vẫn dùng đường của các phương tiện khác dẫn đến mất diện tích đường, chưa có chế độ chính sách thích hợp để khuyến khích người dân dùng loại hình phương tiện này, hơn nữa vào giờ cao điểm thì loại hình này cũng không đáp ứng được nhu cầu.
Công tác dự báo, lập kế hoạch không tốt kết hợp với việc đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở không phù hợp. Ai cũng biết nền kinh tế của Việt Nam trong mười năm gần đây liên tục phát triển với tốc độ cao từ 7-9%, kết hợp với lộ trình giảm thuế nhập khẩu của Nhà nước dẫn tới việc bùng nổ phương tiện giao thông để đáp ứng nhu cầu vận chuyển. Nhưng việc nâng cấp các công trình giao thông lại không đi trước một bước. Cụ thể là” quỹ đất của cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh dành cho giao thông chỉ chiếm khoảng 5-6%, trong khi quy hoạch và tiêu chuẩn thông thường của quốc tế là 20-25%. Đặc biệt là quỹ dành cho giao thông tĩnh (tức là những điểm đỗ xe, bến đậu xe,..) của cả hai thành phố lớn cũng chỉ đạt 1,2% trong khi tiêu chuẩn là 5-6%. Ngoài ra còn nhiều công trình giao thông xây xong hiệu quả sử dụng thấp, một số công trình phải luân chuyển quá tải nhưng lại không được nâng cấp kịp thời. Ví dụ như so sánh hiệu quả đầu tư của cầu Chương Dương và cầu Thăng Long cho thấy cầu Thăng Long được đầu tư nhiều nhưng lượng quá tải lại xảy ra thường xuyên ở cầu Chương Dương mà lại không được triển khai nâng cấp.
Công tác quản lý của Nhà nước còn nhiều yếu kém (chế tài xử lý người vi phạm giao thông, việc thực thi các chế tài, giám sát việc cấp bằng, nâng cao giáo dục cho người dân…). Hình thức xử phạt giao thông một số lỗi vi phạm còn nhẹ kết hợp với một số cán bộ công an tha hóa có hành vi nhận hối lộ của người vi phạm giao thông dẫn đến một số bộ phận nhỏ trong nhân dân coi thường pháp luật, không tuân thủ luật giao thông. Công tác yếu kém còn thể hiện ở điểm: mặc dù cục đã đưa ra lộ trình và đã thực hiện việc sát hạch giấy phép lái xe ô tô trê máy vi tính từ ngày 1/3/2006 và việc thi tập trung từ ngày 1/1/2006 nhưng con người giám sát vẫn là nhân tố quyết định, do đó vẫn còn tiêu cực nên việc cấp phép không đúng chất lượng vẫn diễn ra phổ biến.
b)Áp dụng nguyên tắc lịch sử cụ thể
Nội dung của nguyên tắc này là sự tồn tại, vận động, phát triển của các sự vật hiện tượng diễn ra trong không gian, thời gian cụ thể. Không gian, thời gian, điều kiện hoàn cảnh cụ thể khác nhau thì các mối liên hệ và hình thức phát triển của sự vật hiện tượgn cũng khác nhau, bởi vậy không chỉ nghiên cứu chúng trong suốt quá trình mà còn phải nghiên cứu chúng trong các không gian, thời gian, điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể khác nhau đó
Theo nguyên tắc này ta nhận thấy hai nguyên nhân chính là: việc quy hoạch của các phố trung tâm Hà Nội quá cũ, lạc hậu (từ thời Pháp thuộc) và ý thức tự giác của người dân còn quá kém.Việc quy hoạch của các phố trung tâm Hà nội quá cũ, lạc hậu. Năm 1954 nhà nước ta tiếp quản Hà Nội, thủ đô chỉ có 37 vạn dân ở các quận nội thành, lượng phương tiện tham gia giao thông không đáng kể, chỉ có một ít xe đạp là chính. Năm 2007, dân số Hà nội là 3,4 triệu người với gần 2 triệu xe máy, 10 ghìn ô tô trong khi dố diện tích giao thông của các khu phố cũ thì không tăng đáng kể.
Ý thức tham gia giao thông của đại bộ phận nhân dân còn kém. Ai cũng muốn đi nhanh, bất chấp luật pháp, đi sai làn đường, vượt đèn xanh đèn đỏ càng tạo nên tình trạng ùn tắc giao thông. Chỉ tính riêng 3 tháng đầu năm 2007 đã xử lý 120 nghìn trường hợp vi phạm luật giao thông, phạt hành chin 9,1 tỷ đồng. Đó là con số thực tế chứng minh cho tình trạng vi phạm luật giao thông của các chủ phương tiện tham gia giao thông ở Hà Nội
Tóm lại nguyên nhân gây ùn tắc giao thông thì có nhiều nhưng tựu chung lại thì có 6 nguyên nhân chính như sau:
-Mật độ phương tiện tham gia giao thông quá đông
-Hà Nội chưa có loại hình phương tiện giao thông công cộng nào làm việc thật sự hiệu quả.
- Công tác dự báo, lập kế hoạch không tốt kết hợp với việc đầu tư xây dựng hạ tầng không phù hợp
-Công tác quản lý của Nhà nước còn nhiều yếu kém
-việc quy hoạch các khu phố trung tâm Hà Nội quá cũ, lạc hậu
-Ý thức tham gia giao thông của đại bộ phận dân chúng còn kém
3. Giải pháp giảm thiểu ùn tắc giao thông ở Hà Nội
Dựa vào mối quan hệ biện chứng nhân-quả, kết hợp với các nguyên tắc trong phương pháp luận duy vật biện chứng ta có thể đưa ra các giải pháp tác động vào các nguyên nhân để nó vận động theo quy luật chung làm giảm ùn tắc giao thông, kết hợp với thực trạng cũng như điều kiện kinh tế của đất nước hiện nay và thời gian cần thiết để thực hiện các giải pháp, em chia các giải pháp thành giải pháp trước mắt và giải pháp lâu dài
a) Giải pháp trước mắt
Một là nâng cao ý thức chấp hành giao thông của người điều khiển phương tiện giao thông, tăng cường giám sát quản lý của Nhà nước, Đây là giải pháp đỡ tốn kếm mà có thể thực hiện được ngay với những giải pháp thực thi như sau:
+ Đảy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục tới người dân, thực hiện việc này một cách bền bỉ và liên tục, thông qua việc giáo dục tại nhà trường hoặc qua các phương tiện truyền thông
+Đưa ra các chế tài xử phạt người vi phạm giao thông nghiêm minh hơn. Đề ra các chính sách cho phép nhiều bên tham gia giám sát giao thông, kể cả việc giám sát lực lượng cảnh sát giao thông cũng như việc tăng cường giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan chức năng liên quan.
+Tăng cường lực lượng cảnh sát giao thông tại các vi jtris hay ùn tắc hoặc tại vị trí hay xảy ra tai nạn giao thông, tăng cường lực lượng tuần tra giao thông. Việc làm này cùng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục.
+ Triển khai nâng cấp một số nút giao thông, tuyến đwofng ùn tắc quá mức, đảy nhanh và thực hiện đúng tiến độ các công trình giao thông đang được triển khai tỏng thành phố
Hai là tăng cường thâm các xe buýt công cộng, có chính sách trợ giá nhằm khuyến khích người dân tham gia hình thức giao thông này.
Những giải pháp trước mắt trên có thể được tiến hành ngay mà không cần phải
b) Giải pháp lâu dài
Một là phát triển đồng bộ các khu đô thị vệ tinh, kèm theo là các dịch vụ hạ đồng bộ, nâng cao và hạn chế chênh lệch mức sống giữa các vùng miền nhằm làm giảm việc di dân cơ học vào thủ đô Hà Nội, tránh việc tập trung dân số quá đông, kéo theo vệc gia tang phương tiện giao thông và gia tăng nhu cầu đi lại.
Hai là đưa việc giáo dục giao thông vào làm một môn học bắt buộc đối với học sinh. Nâng cao hơn nữa việc giám sát, sát hạch bằng cấp lái xe ô tô và xe máy.
Ba là phát triển hệ thống giao thông công cộng hiện đại như tàu ngầm nhằm đảm bảo việc đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân.
Bốn là nâng cao công tác dự báo, lập kế hoạch và xây dựng kế hoạch đầu tư một cách thỏa đáng cho cơ sở hạ tầng nhằm đáp ứng được lưu lượng phương tiện giao thông.
Tóm lại, ùn tắc giao thông là một hệ quả tất yếu của giao thông và đặc biệt là trong thời kì tốc độ kinh tế phát triển. Vì vậy mà chúng ta phải thường xuyên bám sát thực tế trong từng thời kỳ, điều kiện mỗi nơi mà có cái nhìn tổng thể để tìm ra nguyên nhân và vận dụng các quy luật của phép duy vật biện chứng nhằm tìm ra các giải pháp hữu hiệu đỡ tốn kém và tránh những tổn thất phải khắc phục từ những biện pháp không hiệu quả trong việc giải quyết vấn đề ùn tắc giao thông hiện nay. Hơn nữa, đây là vấn đề chung của toàn xã hội đòi hỏi Nhà nước, cụ thể các cơ quan chính quyền chức năng cùng với nhân dân nỗ lực và đồng lòng giải quyết vấn nạn này.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học) – Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính do PGS-TS.Đoàn Quang Thọ làm chủ biên.
2. Báo điện tử Việt Báo về giải pháp và kiềm chế tai nạn và ùn tắc giao thông:
3. Báo điện tử VietNamNet về Lời giải bài toán ách tắc giao thông ở thành phố Hà Nội:
4. Báo điện tử Lao động về Giảm ùn tắc giao thông, cần phải giải pháp mạnh:
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9007.doc