Thực trạng triển khai chế độ trợ cấp thai sản trong bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay

LỜI MỞ ĐẦU BHXH là một chính sách lớn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm tổ chức thực hiện ngay từ những ngày đầu thành lập nước. BHXH đã được Liên hợp Quốc thừa nhận và coi đó là một trong những quyền lợi cơ bản của con người. Do đó, BHXH cần phải được thực hiện đối với mọi người lao động. Trong những điều kiện khác nhau của đất nước, chính sách BHXH cũng có sự thay đổi góp phần to lớn giúp cho người lao động ổn định cuộc sống khi họ gặp phải những sự kiện bảo hiểm. Với tỷ lệ chiếm 51,48% dân

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4118 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng triển khai chế độ trợ cấp thai sản trong bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
số, 52% lực lượng lao động xã hội của đất nước, phụ nữ là nguồn nhân lực quan trọng đã và đang tham gia trên mọi lĩnh vực của đời sống cả về chính trị, kinh tế và xã hội. Thực tế cho thấy phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và ngày nay là công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngoài đóng góp cho xã hội, phụ nữ còn phải đảm đương công việc gia đình với thiên chức là người vợ, người mẹ. Chính bởi vậy, ngay từ khi thành lập nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến lao động nữ được thể hiện: ngay khi BHXH Việt Nam đi vào hoạt động chế độ trợ cấp thai sản là một trong số ít chế độ được triển khai thực hiện ngay lúc đó. Chế độ thai sản đã góp phần giảm bớt những gánh nặng cho người lao động đặc biệt là lao động nữ trong xã hội. Chế độ trợ cấp thai sản có vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách BHXH và là một chế độ không thể thiếu đối với người lao động không chỉ bởi tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc mà còn bởi chính tính chất nội tại của nó là sản xuất ra sức lao động xã hội. Trong những năm qua, chế độ thai sản đã bảo vệ cho hàng vạn lao động nữ và hàng vạn trẻ em. Tuy nhiên, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường cũng như sự phát triển và tiến bộ xã hội thì hiện tại chế độ thai sản cũng còn một số điểm chưa phù hợp. Vấn đề đặt ra cho BHXH Việt Nam là: làm thế nào để cải thiện, nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc thực hiện chế độ thai sản, từ đó sẽ nâng cao được đời sống vật chất của lao động nữ trong thời kỳ họ gặp sự kiện thai sản. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, bằng hiểu biết hạn chế của mình với mong muốn được đóng góp một số ý kiến, quan điểm trong lĩnh vực này, trong thời gian thực tập tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học – BHXH Việt Nam em đã lựa chọn đề tài: “Thực trạng triển khai chế độ trợ cấp thai sản trong BHXH ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình. Mục đích của đề tài là nghiên cứu, xem xét, đánh giá thực trạng chế độ thai sản ở nước ta qua các thời kỳ. Từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chế độ thai sản vho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay của Việt Nam. Để phục vụ mục đích đó, chuyên đề được kết cấu thành 3 chương (không kể mở đầu và kết luận) như sau: Chương I: Lý luận chung về BHXH và chế độ trợ cấp thai sản Chương II: Thực trạng triển khai và quản lý chế độ trợ cấp thai sản trong BHXH ở Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ thai sản ở Việt Nam Trong quá trình viết chuyên đề do còn nhiều hạn chế về lý luận và thực tiễn nên không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự chỉ dẫn của các thầy cô giáo trong bộ môn Kinh tế Bảo hiểm, đặc biệt là Giáo viên hướng dẫn: Thạc sỹ Nguyễn Hải Đường cùng toàn thể cán bộ tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học - BHXH Việt Nam và các bạn để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên Nguyễn Thị Thanh Uyên NỘI DUNG CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH VÀ CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP THAI SẢN I/ SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA BHXH Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở …Để thoả mãn nhu cầu tối thiểu này, con người phải lao động làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế cuộc sống, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau, tai nạn hay già, yếu, chết hoặc thiếu công việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác … khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi. Trái lại, có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: Cần được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng. Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước. Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn công nhân trở nên phổ biến thì mối quan hệ kinh tế giữa người lao động làm thuê và giới chủ cũng trở nên phức tạp. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những yêu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản. Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ - thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế - xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy xa đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi toàn quốc gia - được gọi là quỹ BHXH. Quỹ này còn được bổ sung từ Ngân sách Nhà nước (NSNN) khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng, khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo. Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết phải tiến hành bảo hiểm cho người lao động. Vì vậy, BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan. BHXH đã được pháp luật nhiều quốc gia ghi nhận, đã trở thành một trong những quyền con người và được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên ngông Nhân quyền ngày 10/12/1948 như sau: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH. Quyền đó được đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và tự do phát triển của con người”. II/ LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BHXH 1. BHXH trên thế giới Ở thời cổ đại, con người vừa tự lực, vừa biết hợp đoàn để đi săn bắn, lao động nhằm kiếm sống, vật lộn với thiên nhiên. Khi gặp rủi ro tai biến thì họ vừa tự mình chịu đựng khắc phục, vừa được các thành viên của cộng đồng hỗ trợ, cưu mang. Ở thời kỳ này, sự tương trợ lẫn nhau mang tính tự phát, theo bản năng và mới được thể hiện trong phạm vi cộng đồng nhỏ: giữa anh chị em cùng gia đình, thân tộc, giữa các thành viên cùng bộ lạc, thôn xóm. Đến gia đình có phân công lao động, sản xuất xã hội phát triển hơn, quan hệ xã hội, quan hệ tác động lẫn nhau giữa các cá nhân, giữa các cộng đồng cũng phát triển hơn. Tôn giáo xuất hiện, các thánh địa, hội nhà chùa, nhà thờ, trại bảo dưỡng … được thiết lập, trong đó có mục đích từ thiện, trợ giúp các tín đồ, các con chiên gặp phải nghịch cảnh, trước hết là người nghèo, trẻ mồ côi. Những hoạt động nhân ái của người dân cũng làm thức tỉnh giới cầm quyền. Để ngăn chặn rối loạn xã hội có thể nảy sinh làm lung lay địa vị thống trị, không ít vua quan đã tham gia hoạt động từ thiện. Nhiều triều đại vua đã coi việc hỗ trợ các gia đình giảm thiểu nghèo khó không chỉ là nghĩa vụ nhân đạo, mà còn là một trong những nguyên tắc quan trọng bậc nhất để làm yên dân thịnh nước. Ngành công nghiệp hình thành, hàng loạt người dân nông thôn di cư ra thành thị. Trong khoảng từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII, một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời. Tình đoàn kết tương thân giữa những người làm thuê nảy nở dần. Ở một số nước Châu Âu, nhiều quỹ tương trợ được thành lập: ở Anh năm 1973 có hội “Bằng hữu” giúp hội viên trong các trường hợp bị ốm đau, thương tật … Nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá phát triển đã xuất hiện việc thuê mướn công nhân: - Lúc đầu giới chủ cam kết sẽ trả công lao động cho giới thợ dựa vào kết quả lao động. Có làm thì có hưởng, không làm thì không hưởng. - Dần dần giới chủ đã cam kết sẽ trợ cấp cho giới thợ một khoản thu nhập nhất định khi họ gặp những rủi ro như ốm đau, tai nạn. Trong thực tế nhiều khi các trường hợp rủi ro không xảy ra nên giới chủ không chi một khoản tiền nào. Tuy nhiên có những lúc, những nơi rủi ro xảy ra dồn dập và nếu thực hiện đúng cam kết thì giới chủ phải trợ cấp số tiền lớn. Vì vậy, họ đã không thực hiện đúng cam kết. Mâu thuẫn giữa giới thợ liên kết lại với nhau để đấu tranh đòi quyền lợi. Các hành động công nghiệp như lãng công, bế xưởng, đập phá máy móc, đình công đã xảy ra. Cuộc đấu tranh diễn ra càng ngày càng rộng lớn đã tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội. Dần dần, trong cơ chế thị trường đã xuất hiện một bên thứ 3 đóng vai trò trung gian giúp thực hiện những cam kết giới chủ và giới thợ bằng hoạt động thích hợp của nó. Nhờ vậy, thay vì cho việc phải chi trực tiếp những khoản tiền lớn khi người lao động làm thuê bị ốm đau, tai nạn, giới chủ có thể trích ra hàng tháng một khoản tiền nho nhỏ được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất những biến cố của tập hợp những người lao động làm thuê. Số tiền này được giao cho bên thứ 3 tồn tích dần thành một quỹ tiền tệ. Khi người lao động bị ốm đau, tai nạn thì cứ theo cam kết chi trả , không phụ thuộc vào giới chủ có muốn hoặc không. Như vậy, một mặt giới chủ đỡ bị thiệt hại về kinh tế do không phải chi một lúc những khoản tiền lớn, mặt khác, người lao động làm thuê được bảo đảm chắc chắn một phần thu nhập khi bị ốm đau, tai nạn. Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhiều trường hợp rủi ro xảy ra vượt quá khả năng khắc phục của một ông chủ. Giới thợ luôn luôn mong muốn phải chi ít hơn, nên tranh chấp giữa chủ - thợ lại tiếp diễn. Trước tình hình đó, Nhà nước đã phải can thiệp, điều chỉnh. Sự can thiệp này, một mặt làm tăng vai trò của Nhà nước, giới chủ buộc phải đóng góp thêm, đồng thời giới thợ cũng phải đóng góp một phần vào sự bảo đảm cho chính mình, cả giới chủ và giới thợ đều thấy mình có lợi và được bảo vệ. Mặt khác, Nhà nước lại tăng chi tiêu ngân sách. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải theo nhiều chiều, một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia nhằm bảo đảm đời sống cho người lao động khi bị ốm, tai nạn, tuổi già … được thiết lập. Nhờ vậy, đã tạo ra khả năng giải quyết các phát sinh rủi ro, bất lợi lớn nhất với một tổng dự trữ nhỏ nhất. Trên cơ sở xác suất phát sinh rủi ro của cả tập hợp người lao động trong phạm vi bao quát của quỹ. Điển hình là: + Vào năm 1850 dưới thời tổng thống Bis-mác, nhiều bang của nước Đức đã giúp các địa phương lập quỹ bảo hiểm ốm đau, do các công nhân đóng góp để được bảo hiểm. Năm 1884, xuất hiện chế độ rủi ro nghề nghiệp. Năm 1889, xuất hiện chế độ bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm tàn tật. + Trong khoảng thời gian từ năm 1883 đến 1889 một hệ thống BHXH lớn lần đầu tiên đã ra đời áp dụng nguyên tắc người được BHXH phải đóng phí BHXH. Theo gương nước Đức, năm 1918, Pháp thực hiện BHXH phổ cập trong cả nước nhưng không thành công. Đến năm 1930, Pháp thông qua đạo luật thứ 2 về BHXH áp dụng chủ yếu cho ngành công nghiệp và thương mại. + Từ thập kỷ 30 của thế kỷ XX, liên tiếp các nước Mỹ latinh, Hoa Kỳ, Canada, đều áp dụng, từ sau đại chiến thế giới lần thứ hai và sau khi giành độc lập, nhiều nước châu Phi, châu Á và vùng Caribê cũng lần lượt áp dụng cơ chế BHXH tương tự. Tuy vậy, tuỳ theo đặc điểm kinh tế, xã hội riêng có của mỗi nước mà họ áp dụng các chế độ BHXH khác nhau. Nội dung cụ thể của từng chế độ cũng không thống nhất. Trên cơ sở thực tiễn áp dụng các chế độ đa dạng bảo vệ người lao động giảm thiểu những rủi ro, khó khăn. Hội nghị toàn thể Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã thông qua công ước số 102 (1952) tổng hợp kinh nghiệm áp dụng các cơ chế trong hệ thống an toàn xã hội (trong đó BHXH là một cơ chế chủ yếu trụ cột thứ nhất của hệ thống của các nước trên thế giới đã nêu ra 9 chế độ bảo vệ người lao động: + Chăm sóc y tế. + Trợ cấp ốm đau. + Trợ cấp thất nghiệp. + Trợ cấp tuổi già. + Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. + Trợ cấp gia đình. + Trợ cấp thai sản. + Trợ cấp tàn tật. + Trợ cấp tử tuất. 2. BHXH ở Việt Nam Từ khi cách mạng Việt Nam có Đảng lãnh đạo, BHXH được coi trọng, được củng cố và phát triển không ngừng. Quyền lợi đối với giai cấp công nhân và người lao động làm thuê được quan tâm ghi rõ trong các Nghị quyết của Đảng, từ Đường Cách mệnh năm 1927 đến các Nghị quyết những năm 1930 – 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân đã đấu tranh và giành được một số quyền lợi về đời sống cho người lao động. Nghị quyết Trung ương Đảng tháng 11/1940 có ghi: “…Khi thiết lập được chính quyền cách mạng thì đặt luật BHXH, có quỹ hưu bổng cho thợ thuyền già, đặt quỹ cứu tế thất nghiệp và ban bố Bộ luật lao động”. Trong tuyên ngôn 10 điểm Chương trình Điều lệ Việt Minh (25/10/1941) cũng bao gồm nội dung trên và ghi thêm “Người già, kẻ tàn tật được Chính phủ chăm nom và cấp dưỡng”. Ngay sau khi giành được chính quyền và suốt trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cho đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản nói về BHXH, chế độ BHXH đã trải qua nhiều giai đoạn, nhiều lần bổ sung, sửa đổi và cải tiến, từng bước phát triển thành một hệ thống chế độ BHXH tương đối hoàn chỉnh. Quá trình hình thành và phát triển của BHXH ở Việt Nam có thể được phân chia thành các giai đoạn như sau: Từ năm 1961 trở về trước Năm 1945 cuộc cách mạng của dân tộc ta đã giành được thắng lợi đáng dấu sự kiện này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình, dù với một nền tài chính hết sức eo hẹp, kinh tế nghèo nàn và lạc hậu, nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn quan tâm đến chế độ chính sách BHXH. Khởi đầu là sự ra đời của sắc lệnh số 54/SL ngày 01/11/1945 đã quy định trợ cấp hưu bổng đối với công chức (phải đủ 55 tuổi hoặc sau khi làm việc được 30 năm), tiếp đó là sắc lệnh số 105/SL ngày 14/6/1946 đã hoàn thiện thêm về mức trợ cấp hưu bổng cho công chức. Ở hai sắc lệnh này Chính phủ đã quy định rõ mức đóng góp của các bên vào quỹ hưu bổng. Sau đó, sắc lệnh số 29/SL ngày 12/3/1947; sắc lệnh số 76/SL và số 77/SL ngày 22/5/1950 đã quy định cụ thể về các chế độ: ốm đau, thai sản, hưu trí, chăm sóc y tế, tai nạn lao động và tiền tuất đối với cán bộ, công nhân viên chức. - Hoà bình được lập lại (1954), miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chế độ BHXH có những bước phát triển mới. Tháng 11/1954, chế độ lương hưu thương tật được hình thành và đến ngày 27/7/1956 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 980/TTg kèm theo Điều lệ ưu đãi thương binh, quân nhân, du kích, Thanh niên xung phong bị thương tật và Điều lệ ưu đãi gia đình liệt sỹ. Ngày 6/12/1958 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 523/TTg, quy định chế độ trợ cấp dài hạn cho quân nhân tình nguyện đã phục viên từ ngày hoà bình lập lại mang bệnh kinh niên tái phát yếu ốm, không còn khả năng lao động được Hội đồng Giám định Y khoa xác nhận trợ cấp do ngân sách đài thọ. Chính sách BHXH và việc tổ chức thực hiện các chính sách đó thực sự là nguồn cổ vũ lớn lao đối với công nhân viên chức làm cho họ yên tâm hăng hái lao động sản xuất, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam. Tuy nhiên, nó cũng bộc lộ những điểm không phù hợp: + Đối tượng tham gia còn hạn hẹp, đối tượng được hưởng chế độ BHXH chỉ có cán bộ công nhân viên chức, chưa mở rộng đến các thành phần kinh tế khác do đó đã làm mất đi tính tích cực, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội đối với người lao động, chưa xác lập được sự công bằng giữa những người lao động trong việc thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi về BHXH. + Việc thực hiện các chính sách BHXH còn phân tán không có hiệu quả. Vì thế nó chưa thực sự trở thành chính sách xã hội lớn. Chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời về BHXH kèm theo Nghị định số 218/CP ngày 25/12/1961 trên cơ sở xây dựng hệ thống BHXH mới. Từ năm 1962 đến năm 1994 Trong giai đoạn này điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước ban hành ngày 27/12/1961 được bắt đầu áp dụng từ ngày 1/1/1962, gồm 6 chế độ: + Trợ cấp ốm đau. + Trợ cấp thai sản. + Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. + Trợ cấp mất sức lao động. + Trợ cấp hưu trí. + Trợ cấp tử tuất. Theo quyết định số 31/CP ngày 20/3/1963 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ của Bộ Nội vụ và Tổng công đoàn Việt Nam đối với công tác BHXH. Lúc này, việc quản lý sự nghiệp BHXH được phân ra như sau: Tổng công đoàn Việt Nam quản lý 3 chế độ: ốm đau, thai sản, TNLĐ & BNN nhẹ; Bộ Nội vụ quản lý 3 chế độ: mất sức lao động, hưu trí, tử tuất. Trong thời gian thực hiện Điều lệ tạm thời này các chế độ, chính sách BHXH đã không ngừng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với từng thời kỳ, được thể hiện qua sự ra đời của các Nghị định ngày 30/10/1964, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 161/CP; Nghị định số 164/CP (ngày 14/7/1979) về sửa đổi bổ sung một số chế độ. Chế độ trợ cấp mất sức lao động được tính trên cơ sở thời gian công tác liên tục tương ứng là 6-8-10 năm. Chế độ trợ cấp tiền tuất được sửa đổi từ 4 mức thành 1 mức, không phân biệt theo số lượng người phải nuôi dưỡng, nếu gia đình có nhiều người phải nuôi dưỡng thì được hưởng trợ cấp đến mức ngang với tiền lương của người công nhân viên chức trước khi chết. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản để áp dụng BHXH ở vùng mới giải phóng (miền Nam) lúc này BHXH đã được thực hiện trong phạm vi cả nước. Các nghị định số 10/NĐ-76 ngày 18/6/1976 của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam; Nghị định số 186/CP ngày 25/9/1976 đã quy định rõ hơn về chính sách BHXH khu vực miền Nam. Bước vào những năm đầu của thập kỷ 80, tình hình kinh tế - xã hội của nước ta gặp nhiều khó khăn, nền kinh tế suy giảm, lạm phát lớn, tình trạng dư thừa lao động phổ biến, đời sống cán bộ công nhân viên gặp nhiều khó khăn. Chính sách BHXH đã được sửa đổi, bổ sung kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị quyết 16/HĐBT ngày 8/2/1982, trong đó quy định giảm điều kiện nghỉ hưu. Sau đó, cùng với việc cải tiến chế độ tiền lương ngày 18/9/1985, Hội đồng Bộ trưởng tiếp tục ban hành Nghị định số 236/HĐBT, bổ sung, sửa đổi một số chế độ chính sách về thương binh và xã hội. Mục tiêu của Nghị định là nhằm ưu đãi những người có thời gian hoạt động cách mạng nhưng vẫn còn tồn tại một số vấn đề sau: + Chưa tách bạch rõ ràng giữa chế độ BHXH với chế độ ưu đãi và các chính sách xã hội khác. Việc đưa các loại ưu đãi vào hệ thống BHXH là không hợp lý, dễ làm lẫn lộn chức năng của mỗi cơ chế và trong thực tế đã phát sinh không ít tiêu cực. Ưu đãi xã hội phải được thực hiện theo tiêu chuẩn, điều kiện và các nguồn tài chính khác. Một trong những biểu hiện của sự đan xen này là việc giảm tuổi đời và việc quy đổi thời gian công tác để hưởng các chế độ BHXH dẫn đến tình trạng phổ biến là trong số người nghỉ hưu thì đa số là người nghỉ hưu trước tuổi quy định. + Trong giai đoạn này, sự nghiệp BHXH do nhiều cơ quan quản lý, quỹ BHXH bị phân tán, không tập trung như giai đoạn trước. Do đó, chưa phân định rõ ràng chức năng quản lý nhà nước và chức năng hoạt động sự nghiệp BHXH, do đó tiến hành bị chồng chéo làm cho hoạt động BHXH rất khó quản lý, gây ra sự lạm dụng hoặc thực hiện không đúng quy định. + Để khắc phục tình hình này, ngày 10/9/1994, Chủ tịch nước đã công bố Pháp lệnh số 28 về chính sách ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công với cách mạng để dần tách chính sách ưu đãi xã hội ra khỏi chính sách BHXH. - Quyết định số 60/HĐBT ngày 1/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về sửa đổi chế độ trợ cấp đối với công nhân viên chức nghỉ hưu vì mất sức lao động. - Nghị định số 299/HĐBT ngày 15/8/1992 ban hành điều lệ Bảo hiểm Y tế (BHYT), mở ra một loại hình bảo hiểm bắt buộc và loại hình bảo hiểm tự nguyện - Ngày 22/6/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 43/CP quy định tạm thời chế độ BHXH. Nội dung trước hết nhằm xoá bỏ tư duy bao cấp, ỷ lại trong lĩnh vực BHXH, mở ra loại hình xã hội bắt buộc và loại hình BHXH tự nguyện, thực hiện cơ chế đóng góp phí BHXH đối với người được bảo hiểm. Nghị định quy định 5 chế độ trợ cấp: ốm đau, TNLĐ & BNN, thai sản, hưu trí, tử tuất, xoá bỏ chế độ trợ cấp mất sức lao động vốn đã bộc lộ nhiều biểu hiện tiêu cực và bất hợp lý, thống nhất hoá tổ chức quản lý BHXH trong cả nước. Từ năm 1995 đến nay Trên cơ sở thực tiễn thực hiện BHXH từ trước, nhất là căn cứ vào những kinh nghiệm thực hiện Nghị định 43/CP và để hoàn thiện chính sách BHXH, ngày 26/1/1995 Chính phủ ban hành Nghị định 12/CP về Điều lệ BHXH đối với người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế. Điều lệ BHXH mới có sửa đổi, bổ sung một số quy định cụ thể chủ yếu là điều kiện và mức hưởng trợ cấp BHXH. Điều lệ BHXH mới được ban hành đã mở ra một trang mới trong lịch sử ra đời của BHXH nước ta, với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phù hợp với quá trình phát triển và hội nhập, từ năm 1998 đến nay chính sách BHXH đã được tu chỉnh, bổ sung. Đặc biệt nhất là sự tu chỉnh, bổ sung Bộ luật Lao động trong đó chương nói về BHXH cũng có một số thay đổi. Sự thay đổi chính sách BHXH được cụ thể hoá tại Nghị định 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 của Chính phủ. Hiện nay ở Việt Nam theo quy định của pháp luật có các chế độ BHXH sau đây: + Trợ cấp ốm đau. + Trợ cấp thai sản. + Trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghiệp. + Trợ cấp hưu trí. + Trợ cấp tử tuất. + Bảo hiểm Y tế (chăm sóc Y tế) + Trợ cấp nghỉ dưỡng sức. BHXH Việt Nam đã đi vào hoạt động được nhiều năm và cho đến nay đã thực hiện được khá tốt vai trò của mình theo mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra, góp phần thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, góp phần làm lành mạnh hoá thị trường lao động đồng thời đáp ứng được sự mong mỏi của đông đảo người lao động trong các thành phần kinh tế. III/ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ BHXH 1. Đối tượng, bản chất, chức năng của BHXH 1.1 Đối tượng BHXH Nói đến đối tượng BHXH ta phải nói đến 2 loại đối tượng đó là đối tượng của BHXH và đối tượng tham gia BHXH. 1.1.1 Đối tượng của BHXH Chúng ta đều biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập thay thế cho người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu … Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người lao động tham gia BHXH. Đối tượng tham gia BHXH Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà đối tượng tham gia BHXH là khác nhau. Đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó. Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối với các viên chức Nhà nước, những người làm công hưởng lương. Nếu xem xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH, ngoài người lao động còn có người sử dụng lao động và cơ quan BHXH, dưới sự bảo trợ của Nhà nước. Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng. Còn cơ quan BHXH nhận sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động phải có trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với người lao động. Mối quan hệ ràng buộc này chính là đặc trưng riêng có của BHXH. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển của BHXH một cách ổn định và bền vững . 1.2 Bản chất của BHXH BHXH là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hoá. Khi trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống BHXH có điều kiện ra đời phát triển. Vì vậy, các nhà kinh tế cho rằng, sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân thấp kém không thể có một hệ thống BHXH vững mạnh được. Kinh tế càng phát triển, hệ thống BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình thức BHXH ngày càng phong phú. Định nghĩa thế nào là BHXH vẫn là vấn đề còn nhiều tranh luận vì được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau . Sau đây là một trong những khái niệm phản ánh khá rõ nét về mục tiêu, bản chất và chức năng của BHXH: “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần bảo đảm an toàn xã hội”. Theo đó, bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây: Một là: BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Do đó có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước. Hai là: Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ điều kiện ràng buộc cần thiết. Ba là: Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp … Hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản … Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động. Bốn là: Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Năm là: Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Nó được tổ chức lao động quốc tế cụ thể hoá: + Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ; + Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật; + Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em. BHXH là bộ phận lớn nhất trong hệ thống An sinh xã hội. Có thể nói, không có BHXH thì không thể có một nền An sinh xã hội vững mạnh. 1.3 Chức năng của BHXH Chức năng là sự khái quát của các nhiệm vụ cơ bản, là dạng hoạt động đặc trưng và khái quát nhất của tổ chức hay cá nhân gắn với chức danh nào đó trong một hệ thống tổ chức hoạt động thuộc một phạm vi nhất định trong xã hội. Cũng như các thành phần khác của kinh tế bảo hiểm, bảo hiểm xã hội có hai chức năng cơ bản là chức năng phân phối và chức năng giám đốc. Tuy nhiên, do tính đặc thù của mình, BHXH không những có tính kinh tế mà còn có tính xã hội rất cao. Vì vậy, về tổng quát, BHXH có những chức năng sau: Thứ nhất: Bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động được bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm theo những điều kiện xác định Nói là bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động là nói sự thay thế hoặc bù đắp đó nhất định phải xảy ra khi người lao động bị rơi vào các trường hợp nói trên và hội tụ các điều kiện quy định. Sở dĩ như vậy vì giữa người lao động với cơ quan BHXH có mối quan hệ hết sức chặt chẽ. Quan hệ này phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và quan hệ tài chính BHXH. Quan hệ đó diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia bảo hiểm, bên nhân bảo hiểm và bên được bảo hiểm. Bên tham gia trước hết là người sử dụng lao động có trách nhiệm phải đóng phí để bảo hiểm cho người lao động mà mình sử dụng, đồng thời người lao động cũng phải có trách nhiệm đóng phí để tự bảo hiểm cho mình. Sự đóng góp này là bắt buộc, đều kỳ và theo những mức quy định cho bên nhận bảo hiểm, đó là cơ quan BHXH chuyên nghiệp. Khi người lao động hội đủ các điều kiện cần thiết thì nhất định họ phải được hưởng trợ cấp với mức hưởng, thời điểm và thời hạn hưởng phải đúng quy định, dù cho người sử dụng lao động hoặc người lao động có muốn như thế hay không. Thứ hai: Phân phối lại thu nhập BHXH là bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tuổi già, bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung được tồn tích dần bởi sự đóng góp của những người sử dụng lao động và có sự hỗ trợ thêm của Nhà nước. Như vậy những ng._.ười sử dụng lao động bắt buộc phải đóng góp vào quỹ BHXH là để bảo hiểm nhưng không phải trực tiếp cho mình mà cho người lao động do mình sử dụng nên không được quyền hưởng trợ cấp, những người lao động có đóng góp vào quỹ BHXH mới có quyền hưởng trợ cấp nhưng do còn khoẻ mạnh, có việc làm và có thu nhập bình thường nên cũng không được hưởng trợ cấp bảo hiểm. Số lượng những người không được hưởng trợ cấp như vậy thường chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số những người tham gia đóng góp. Chỉ những người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập trong những trường hợp xác định và có đủ các điều kiện cần thiết mới được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH. Số lượng những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp nêu trên. Như vậy, BHXH đã lấy số đông bù số ít và thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang giữa những người lao động có thu nhập thấp hơn, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc và khái quát hơn là giữa số ít người hưởng trợ cấp theo những chế độ xác định. Điều đó cũng góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội. Thứ ba: Góp phần kích thích, khuyến khích người lao động hăng hái lao động sản xuất. Người lao động có việc làm, khi khoẻ mạnh làm việc bình thường sẽ có tiền lương, tiền công, khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi già hoặc không may bị chết đã có BHXH bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập quan trọng, do đó đời sống của bản thân và gia đình họ luôn luôn có chỗ dựa luôn luôn được đảm bảo. Chính vì thế, họ sẽ gắn bó với công việc, với nơi làm việc và yên tâm, tích cực lao động sản xuất góp phần tăng năng suất lao động cũng như tăng hiệu quả kinh tế. Nói cách khác, tiền lương (tiền công) và BHXH là những động lực thúc đẩy hoạt động lao động của người lao động. Thứ tư: Phát huy tiềm năng và gắn bó lợi ích. BHXH dựa trên cơ sở đóng góp ít nhưng đều kỳ của mọi người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước cho bên thứ 3 là cơ quan BHXH, để tồn tích dần thành một quỹ tập trung, quỹ này lại huy động phần nhàn rỗi tương đối vào hoạt động sinh lợi làm tăng thêm nguồn thu. Do đó, BHXH hoàn toàn có thể bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp rủi ro, khó khăn theo những chế độ xác định, góp phần bảo đảm ổn định và an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ. Trên giác độ xã hội, bằng phương thức dàn trải rủi ro thiệt hại theo cả thời gian và không gian, BHXH đã giúp giảm thiểu thiệt hại cho số đông người trong xã hội, đồng thời làm tăng khả năng giải quyết rủi ro, khó khăn của những người lao động tham gia bảo hiểm với một tổng dự trữ ít nhất. Đối với Nhà nước, chi cho BHXH đối với người lao động là cách thức phải chi ít nhất nhưng vẫn giải quyết tốt những rủi ro, khó khăn về đời sống của người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội ổn định và an toàn. Đối với người sử dụng lao động và người lao động cũng như vậy. Cả hai giới này đều thấy nhờ BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. BHXH đã phát huy tiềm năng của số đông và ưu điểm của nhiều phương thức hoạt động trong kinh tế thị trường để bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động cũng như cho xã hội. Đồng thời BHXH cũng tạo ra sự gắn bó chặt chẽ về lợi ích, cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của các bên tham gia BHXH, cũng như của các bên đó đối vơi Nhà nước. 2. Quỹ BHXH 2.1 Khái niệm và đặc điểm Trong đời sống kinh tế - xã hội, người ta thường nói đến rất nhiều loại quỹ khác nhau như: quỹ tiêu dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền lương, quỹ tiền thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ tiết kiệm … Tất cả các loại quỹ này đều có một điểm chung là tập hợp các phương tiện tài chính hay vật chất khác cho những hoạt động nào đó theo mục tiêu định trước với những quy định, quy chế nhất định. Quỹ lớn hay nhỏ biểu thị khả năng về mặt phương tiện và vật chất để thực hiện mục tiêu đề ra. Tất cả các loại quỹ đều không chỉ tồn tại với một khối lượng tĩnh tại một thời điểm mà còn luôn biến động theo hướng tăng lên ở đầu vào với các nguồn thu và giảm đi ở đầu ra với các khoản chi như một dòng chảy liên tục. Tương tự như vậy, quỹ BHXH cũng được hình thành từ các nguồn thu khác nhau và được sử dụng để chi trả các trợ cấp BHXH cho người thụ hưởng và các chi phí quản lý khác theo quy định của pháp luật. Vì vậy, quỹ BHXH phải tính toán sao cho nguồn thu phải đủ lớn và phải liên tục để đảm bảo các chi phí đầu ra của BHXH không chỉ hiện tại mà cả trong tương lai. Theo đó ta có khái niệm về quỹ BHXH: “Quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của những người tham gia BHXH (có thể bao gồm người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước trong một số trường hợp) và các nguồn thu hợp pháp khác, hình thành một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những người được BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm và chi phí cho các hoạt động nghiệp vụ BHXH”. Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài NSNN. Từ đó ta thấy quỹ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau: Quỹ ra đời và phát triển gắn với mục đích đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp các biến cố, rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động. Hoạt động của quỹ không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. Vì vậy, nguyên tắc quản lý quỹ BHXH là: Cân bằng thu – chi. Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính chất hoàn trả, vừa mang tính chất không hoàn trả. Tính chất hoàn trả thể hiện: người lao động là đối tượng tham gia và đóng góp BHXH đồng thời họ cũng là đối tượng được nhận trợ cấp, được chi trả từ quỹ BHXH cho dù chế độ, thời gian trợ cấp và mức trợ cấp của mỗi người sẽ khác nhau, tuỳ thuộc vào những biến cố hoặc rủi ro mà họ gặp phải, cũng như mức đóng góp và thời gian đóng góp BHXH của họ. Tính không hoàn trả thể hiện: cùng tham gia và đóng góp BHXH, nhưng có người được hưởng trợ cấp nhiều lần và nhiều chế độ khác nhau, nhưng cũng có những người được ít lần hơn, thậm chí không được hưởng. Chính từ đặc điểm này nên một số đối tượng được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH thường lớn hơn nhiều so với mức đóng góp của họ và ngược lại. Điều đó thể hiện tính xã hội của toàn bộ hoạt động BHXH. Quá trình tích luỹ để bảo tồn giá trị và bảo đảm an toàn về tài chính đối với quỹ BHXH là một vấn đề mang tính nguyên tắc. Đặc điểm này xuất phát từ chức năng cơ bản nhất của BHXH là bảo đảm an toàn về thu nhập cho người lao động. Vì vậy, đến lượt mình, BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính. Nhiều nhà kinh tế cho rằng: Quỹ BHXH là “Của để giành” của người lao động phòng khi ốm đau, tai nạn hoặc tuổi già… Nguồn quỹ này được đóng góp và tích luỹ lại trong suốt quá trình lao động. Nếu xem xét tại một thời điểm cụ thể nào đó, quỹ BHXH luôn tồn tại một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi để chi trả trong tương lai. Lượng tiền này có thể biến động tăng và cũng có thể biến động giảm do mất an toàn, giảm giá trị do yếu tố lạm phát. Do đó, bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH đã trở thành yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động của BHXH. Quỹ BHXH là hạt nhân, là nội dung vật chất của tài chính BHXH. Nó là khâu tài chính trung gian cùng với NSNN và tài chính doanh nghiệp hình thành nên hệ thống tài chính quốc gia. Tuy nhiên mỗi khâu tài chính được tạo lập, sử dụng cho một mục đích riêng và gắn với một chủ thể nhất định, vì vậy chúng luôn độc lập với nhau trong quản lý và sử dụng. Thế nhưng tài chính BHXH, NSNN và tài chính doanh nghiệp lại có quan hệ chặt chẽ với nhau và đều chịu sự chi phối của pháp luật Nhà nước. Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước. Kinh tế - xã hội càng phát triển thì càng có nhiều điều kiện thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH, nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với người lao động càng được nâng cao. Đồng thời khi kinh tế - xã hội phát triển, người lao động và người sử dụng lao động sẽ có thu nhập cao hơn, do đó họ càng có điều kiện tham gia và đóng góp BHXH … 2.2 Nguồn hình thành quỹ BHXH Quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, tuỳ thuộc vào pháp luật BHXH và tuỳ thuộc vào mục đích của hệ thống BHXH của mỗi nước. Nhìn chung, quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau: Người sử dụng lao động đóng góp Người lao động đóng góp Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm Các nguồn khác (như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi). Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được phân chia cho cả nguời sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà mình thuê mướn. Đồng thời nó còn góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ - thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp một phần để BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ. Mối quan hệ chủ - thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì thế, cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không thể thiếu được sự tham gia đóng góp của Nhà nước. Trước hết các luật lệ của Nhà nước về BHXH là những chuẩn mực pháp lý mà cả người lao động và người sử dụng lao động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ thợ trong lĩnh vực BHXH có cơ sở vững chắc để giải quyết. Ngoài ra, bằng nhiều hình thức, biện pháp và mức độ can thiệp khác nhau, Nhà nước không chỉ tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH, mà còn trở thành chỗ dựa để đảm bảo cho hoạt động BHXH chắc chắn và ổn định. Ở một số quốc gia phát triển quỹ BHXH phần lớn là thu từ các khoản thuế, nhất là các khoản thuế đặc biệt như rượu, thuốc lá đuợc dùng để chi trả các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ. Quỹ BHXH được hình thành trên cơ sở thuế thường được áp dụng cho hệ thống BHXH toàn dân, cho cả những người tham gia lực lượng lao động và không tham gia lực lượng này. Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau. Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện có hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng: phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai: phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp. Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nước khác lại quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí quản lý BHXH … Bảng 1: Mức đóng góp BHXH ở một số nước trên thế giới Tên nước Chính phủ Tỷ lệ đóng góp của người lao động so với tiền lương (%) Tỷ lệ đóng góp của người sử dụng lao động so với quỹ lương (%) CHLB Đức CH Pháp Inđônêxia Philipin Malaixia Bù thiếu Bù thiếu Bù thiếu Bù thiếu Chi toàn bộ chế độ ốm đau, thai sản. Nguồn: BHXH ở một số nước trên thế giới - Xuất bản năm 1993 Ở nước ta, từ 1962 đến 1987, quỹ BHXH chỉ được hình thành từ 2 nguồn: Các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp 4,7% quỹ lương của xí nghiệp, phần còn lại do NSNN đài thọ. Thực chất là không tồn tại quỹ BHXH độc lập. Từ năm 1988 đến nay, các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng góp 15% quỹ lương của đơn vị. Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP ngày 22/6/1993 và Điều lệ BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995, trong các văn bản này đều quy định quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây: Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó, 10% để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí và tử tuất. Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động. Các nguồn khác. Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính toán một cách khoa học. Trong thực tế, việc tính phí BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các phương pháp toán học khác nhau để xác định. Khi tính phí BHXH, có thể có những căn cứ tính toán khác nhau: Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có cơ sở xác định mức phí đóng. Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng. Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định được mức phí phải đóng. Mặc dù chỉ thuần tuý mang tính kỹ thuật nhưng xác định phí BHXH lại khá phức tạp vì nó liên quan đến cả người lao động. người sử dụng lao động và Nhà nước. Liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của người lao động và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác định phí BHXH vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc: Cân bằng thu chi, lấy số đông bù số ít và có dự phòng. Mức phí xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cầu BHXH và điều chỉnh sao cho tối ưu nhất. Phí BHXH xác định theo công thức: P = f1 + f2 + f3 Trong đó: P - Phí BHXH f1 - Phí thuần tuý trợ cấp BHXH f2 - Phí dự phòng f3 - Phí quản lý Phí thuần tuý trợ cấp BHXH cho cả các chế độ ngắn hạn và dài hạn. Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn, việc đóng và hưởng BHXH xảy ra trong thời gian ngắn (thường là 1 năm) như: Ốm đau, thai sản, tai nạn lao động nhẹ … Vì vậy, số đóng góp BHXH phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với các chế độ BHXH dài hạn như: Hưu trí, trợ cấp mất người nuôi dưỡng, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp nặng … quá trình đóng và quá trình hưởng BHXH tương đối độc lập với nhau và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Cho nên, sự cân bằng giữa đóng góp và hưởng BHXH phải được dàn trải trong cả thời kỳ dài. Vì thế, ngoài phí thuần tuý phải có phí dự phòng để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn. Như vậy, để xác định được mức phí phải đóng và mức hưởng BHXH phải dựa vào nhiều yếu tố và nhiều thông tin khác nhau về nguồn lao động, cơ cấu nguồn lao động theo độ tuổi, giới tính, ngành nghề … Ngoài ra còn phải xác định và dự báo được tuổi thọ bình quân của quốc gia, xác suất ốm đau, tai nạn, tử vong của người lao động … Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những rủi ro của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc dàn trải rủi ro được thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm tối thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả Ngân sách Nhà nước và ngân sách gia đình. IV/ CHẾ ĐỘ THAI SẢN TRONG HỆ THỐNG BHXH 1. Một số vấn đề về chế độ thai sản 1.1 Bản chất của chế độ thai sản Trong hệ thống các chế độ BHXH, chế độ thai sản là chế độ được áp dụng chủ yếu là đối với lao động nữ. Chính sách thai sản thể hiện trách nhiệm của Nhà nước và của cộng đồng xã hội đối với thế hệ tương lai, đồng thời cũng thể hiện sự bình đẳng xã hội ngày càng nâng cao. Chính vì thế mà Nhà nước cần phải đề ra những chính sách đối với đối tượng quan trọng này với mục đích thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi người lao động nữ phải nghỉ việc trong thời gian sinh con nhằm đảm bảo cho họ có một cuộc sống bình thường để chăm con và hồi phục sức khoẻ. Chế độ thai sản là sự đảm bảo thu nhập và ổn định cuộc sống đối với lao động nữ khi họ mang thai, sinh đẻ hoặc nuôi con trong một thời gian ngắn. Nó có vị trí quan trọng đối với người lao động nữ, nhằm động viên, khuyến khích và hỗ trợ người mẹ khi họ mang thai, sinh đẻ và nuôi con sơ sinh. Người phụ nữ ngày nay đã tự lao động để đảm bảo cuộc sống và cống hiến cho xã hội qua đó họ ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng của bản thân trong xã hội, họ đã có mặt trong hầu hết các ngành nghề và đã thể hiện một cách xuất sắc năng lực của mình. Khác với nam giới họ còn có nhiệm vụ quan trọng là tái sản xuất con người, do đó khi mang thai và sinh con là giai đoạn khó khăn nhất của họ nên họ cần được sự quan tâm ngược lại từ phía xã hội. Đó chính là khoản tiền trợ cấp phù hợp với công sức mà họ đã đóng góp trong suốt quá trình lao động. Như vậy, chế độ thai sản là một chế độ mang tính xã hội hoá cao, nó được thực hiện thường xuyên và đều đặn, kế tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nói cách khác, nó diễn ra một cách liên tục vì sự sống luôn phát triển vì vậy, nó tạo ra sự ràng buộc và đoàn kết giữa các thế hệ, làm cho mọi người trong xã hội quan tâm và gắn bó với nhau hơn, thể hiện mối quan tâm sâu sắc giữa người với người. 1.2 Vai trò của chế độ thai sản trong hệ thống chính sách BHXH Hệ thống BHXH của mỗi quốc gia thường bao gồm nhiều chế độ khác nhau, số lượng các chế độ BHXH được xây dựng và thực hiện phụ thuộc vào trình độ phát triển và mục tiêu cụ thể của hệ thống BHXH từng thời kỳ của mỗi nước. Chế độ thai sản có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống BHXH của mỗi quốc gia vì chế độ này ảnh hưởng đến một bộ phận lớn lao động trong xã hội và đến tương lai của một đất nước. Một đất nước muốn tồn tại và phát triển phải chăm lo chu đáo đến thế hệ tương lai. Chế độ thai sản là một chế độ ngắn hạn trong hệ thống các chế độ BHXH nhưng đó là một trong năm chế độ được thực hiện sớm nhất trong lịch sử phát triển của BHXH ở nước ta. Cùng với các chế độ BHXH khác, chế độ trợ cấp thai sản đã góp phần rất to lớn vào việc ổn định đời sống của hàng triệu người lao động và gia đình họ, khuyến khích người lao động hăng hái, yên tâm lao động sản xuất, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của đất nước trong mỗi giai đoạn lịch sử. BHXH đã được thực hiện hàng trăm năm nay và chế độ trợ cấp thai sản là một trong những chế độ được thực hiện sớm nhất. Theo quy định của ILO, một quốc gia được coi là có hệ thống BHXH chỉ khi có ít nhất 1 trong 3 chế độ là ốm đau, thai sản TNLĐ và BNN được thiết lập. Theo thống kê, trong tổng số 173 nước tính đến năm 2002 có hệ thống BHXH thì có 112 nước thực hiện chế độ thai sản (chiếm 64%). Chế độ thai sản là chế độ có vai trò to lớn trong hệ thống BHXH của mỗi quốc gia, bởi lẽ đó là chế độ có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời của những người tham gia BHXH. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, khi nguồn thu nhập chính của người lao động là thu nhập từ các hoạt động tu nghiệp. Khi nghỉ thai sản, nguồn thu nhập chủ yếu của họ lại là khoản trợ cấp BHXH. Trong hệ thống chính sách xã hội có những loại chính sách xã hội phổ biến, có ảnh hưởng, có tác động đến đại bộ phận các tầng lớp dân cư trong xã hội. Đồng thời, có những laọi chính sách xã hội có tính đặc thù, chỉ có những ảnh hưởng, những tác động đến một bộ phận, một giai tầng xã hội nào đó mà thôi. Nói cách khác, mỗi một loại chính sách xã hội có một loại đối tượng tác động nhất định nhằm đạt một mục tiêu nhất định. Là một bộ phận của chính sách xã hội, chính sách thai sản đối với người lao động giữ một vai trò rất to lớn. Thứ nhất, đối tượng của chính sách là những người lao động nữ, chiếm một tỷ lệ đáng kể trong dân cư và trong lực lượng lao động của xã hội. Những người này đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất nước. Thứ hai, mục tiêu của chính sách đối với người nghỉ thai sản là nhằm góp phần đảm bảo cuộc sống vật chất và tinh thần cho họ trong thời gian nghỉ sinh con không có nguồn thu nhập nào khác. Thực hiện tốt chính sách thai sản sẽ góp phần đảm bảo sự ổn định xã hội, đảm bảo thực hiện thắng lợi các chính sách xã hội khác của quốc gia. Thực hiện tốt chính sách đối với người nghỉ thai sản sẽ góp phần tạo ra động lực mới để thực hiện các chính sách kinh tế; khuyến khích người lao động hăng hái sản xuất, nâng cao năng suất và chất lượng lao động. Thực tế cho thấy, ở các nước thực hiện tốt chính sách thai sản đối với người lao động đã tạo ra một cơ sở xã hội bền vững. Ngược lại, ở những nước chưa thực hiện tốt chính sách này thì xã hội luôn ở vào trạng thái bất ổn định, người lao động luôn luôn phải đối mặt trước những khó khăn khi phải nghỉ việc mà không có những đảm bảo trong cuộc sống ở phía trước. Điều này luôn dẫn đến những nguy cơ bất ổn định về chính trị ở các quốc gia này. Chính vì vậy, các nước luôn chú trọng xây dựng và hoàn thiện chính sách, chế độ thai sản đối với người lao động, nhằm đảm bảo sự ổn định về chính trị và phát triển xã hội. Ở nước ta, ngay từ khi mới thành lập nước, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng xây dựng hệ thống chính sách BHXH, trong đó chế độ BHXH được đặc biệt quan tâm. Cùng với sự phát triển chung của đất nước, chế độ thai sản ngày càng được hoàn thiện hơn và đã góp phần rất tích cực trong việc đảm bảo cuộc sống cho người lao động, góp phần giữ vững ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội bền vững theo mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 1.3 Quy định của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về chế độ thai sản. Công ước 03: Đây là công ước đầu tiên về thai sản được Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thông qua ngày 29/10/1919 quy định trợ cấp thai sản đối với lao động nữ trong các ngành công nghiệp. Nội dung chủ yếu của công ước là quy định thời gian nghỉ thai sản cũng như những quyền lợi mà người lao động nữ được hưởng khi mang thai và sinh con. Cụ thể: - Người lao động nữ tuyệt đối không được quay trở lại làm việc trong thời gian 6 tuần sau khi sinh. - Người lao động nữ được quyền nghỉ việc nhận trợ cấp thai sản trong vòng 6 tuần trước khi sinh. - Được quyền nhận trợ cấp chăm sóc y tế đối với cả mẹ và con. Mức trợ cấp, thời gian nghỉ việc nhận trợ cấp cụ thể tuỳ thuộc vào luật pháp, quy định cũng như điều kiện của từng quốc gia. Công ước 102: Năm 1952, Viện nghị của ILO đã thông qua công ước 102 quy định những tiêu chuẩn tối thiểu về Bảo đảm xã hội. Đây là Công ước có nội dung đầy đủ nhất, phát triển những tiêu chuẩn quốc tế về Bảo đảm xã hội. Trong Công ước có quy định 9 nhánh chế độ chính trong hệ thống Bảo đảm xã hội, gồm: - Chăm sóc y tế; - Trợ cấp ốm đau; - Trợ cấp thất nghiệp; - Trợ cấp tuổi già; - Trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp; - Trợ cấp gia đình; - Trợ cấp thai sản; - Trợ cấp tàn tật; - Trợ cấp chôn cất và mất người nuôi dưỡng. Công ước quy định: một quốc gia được gọi là có hệ thống bảo hiểm xã hội phải thiết lập ít nhất 3 chế độ, trong đó ít nhất phải có 1 trong các chế độ: trợ cấp tuổi già, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tai nạn lao động, trợ cấp tàn tật, trợ cấp chôn cất và mất người nuôi dưỡng. Đối với trợ cấp TNLĐ-BNN và trợ cấp thai sản có thể vừa thực hiện trợ cấp bằng tiền vừa thực hiện trợ cấp bằng hiện vật. Tài chính để thực hiện trợ cấp chủ yếu do sự đóng góp của các bên tham gia. Nhà nước có trách nhiệm quản lý chung về BHXH. Điều kiện nhận trợ cấp thai sản: Tất cả những người phụ nữ khi mang thai, sinh đẻ đều được quyền hưởng trợ cấp thai sản. Mức trợ cấp thai sản: Những người phụ nữ khi thai nghén, sinh đẻ được hưởng chăm sóc y tế và còn được nhận trợ cấp định kỳ trong khoảng từ 45 – 75%. Công ước 103: Ngày 28/6/1952, Tổ chức lao động quốc tế đã thông qua công ước số 103. Nội dung của công ước lần này là quy định nội dung trợ cấp thai sản đối với người lao động nữ trong các ngành công nghiệp cả nhà nước và tư nhân. Những quy định này đã mang tính chất cụ thể hơn so với công ước 03 thông qua năm 1919. Cụ thể: - Thời gian nghỉ thai sản trước và sau khi sinh đối với lao động nữ ít nhất là 20 tuần. - Lao động nữ có quyền nghỉ việc hưởng trợ cấp thai sản 6 tuần trước khi sinh. - Thời gian nghỉ tối thiểu sau khi sinh tuỳ thuộc vào quy định cụ thể của từng quốc gia nhưng không được ít hơn 6 tuần kể từ ngày sinh. Trong những trường hợp có chứng nhận của y tế về bệnh tật phát sinh sau khi sinh họ được quyền kéo dài thời gian nghỉ sau khi sinh. - Trong thời gian nghỉ thai sản, lao động nữ được quyền nhận trợ cấp bằng tiền và chăm sóc y tế: + Mức trợ cấp bằng tiền được quy định cụ thể theo luật pháp, quy định của từng quốc gia nhưng nó phải đảm bảo duy trì sức khoẻ cho người mẹ và đứa trẻ theo tiêu chuẩn mức sống tối thiểu. Đối với những nước thực hiện trợ cấp thai sản theo hệ thống bảo hiểm xã hội bắt buộc thì mức trợ cấp được tính trên cơ sở mức thu nhập trước đó. Mức trợ cấp không được thấp hơn 2/3 mức thu nhập trước đó của người lao động nữ. + Chăm sóc y tế bao gồm: chăm sóc trước sinh, trong khi sinh và sau khi sinh bởi một bác sĩ đủ năng lực và trong một bệnh viện tuỳ theo sự lựa chọn của người mẹ. Công ước 183: Đây là công ước có nội dung cụ thể nhất về chế độ trợ cấp thai sản đối với tất cả mọi người lao động nữ được Tổ chức ILO thông qua ngày 15/6/2000. Trong đó quy định cụ thể: - Thời gian nghỉ việc nhận trợ cấp thai sản của lao động nữ tuỳ thuộc vào luật pháp và quy định của từng quốc gia nhưng không dưới 14 tuần. - Thời gian nghỉ tối thiểu sau khi sinh là 6 tuần. - Lao động nữ nghỉ sinh con được nhận trợ cấp cả bằng tiền và chăm sóc y tế. Mức trợ cấp tuỳ thuộc vào quy định của từng quốc gia, nhưng phải đảm bảo duy trì được sức khoẻ của người mẹ và đứa trẻ theo mức sống tối thiểu. Đối với những nước thực hiện trợ cấp trên cơ sở mức thu nhập trước đó thì mức trợ cấp không được thấp hơn 2/3 mức thu nhập trước khi nghỉ sinh con. + Trợ cấp y tế được thực hiện đối với cả người mẹ và đứa trẻ, bao gồm: chăm sóc trước sinh, trong lúc sinh và sau khi sinh. 2. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới Nhìn chung, ở hầu hết các nước trên thế giới, chế độ thai sản thường được quản lý như một phần trong chế độ ốm đau, thường được gọi chung là chế độ trợ cấp ốm đau – thai sản. 2.1 Về điều kiện nhận trợ cấp Ở hầu hết các nước trên thế giới, trong điều kiện nhận trợ cấp thai sản họ đều yêu cầu hai điều kiện chủ yếu đó là: - Những người đang mang thai hoặc sinh đẻ có tham gia BHXH. - Phải có thời gian đóng góp tối thiểu trước khi sinh, thông thường các nước yêu cầu thời gian đóng góp tối thiểu trong khoảng từ 6 tháng đến 12 tháng cuối cùng trước khi sinh. Bảng 2: Điều kiện về thời gian đóng góp tối thiểu trước khi sinh ở một số nước trên thế giới Stt Tên nước Thời gian yêu cầu 1 Áchentina 10 tháng đóng góp liên tục trước khi nghỉ thai sản hoặc đã có 6 tháng đóng góp trong 12 tháng trước khi sinh trong đó có 1 tháng làm việc ngay trước khi sinh. 2 Trung Quốc Không quy định thời gian tham gia tối thiểu 3 Pháp Có 200 giờ làm việc trong 3 tháng cuối cùng trước khi sinh 4 Đức Có 12 tuần tham gia bảo hiểm hoặc có thời gian làm việc liên tục từ 4 đến 10 tháng trước khi sinh 5 Nhật Bản Tất cả những người có việc làm trong diện tham gia bảo hiểm 6 Mêhicô Có 30 tuần đóng góp trong 12 tháng cuối cùng trước khi sinh 7 Balan Những người hiện tại đang làm việc ở những nơi thuộc phạm vi tham gia bảo hiểm xã hội 8 Nga Không quy định thời gian đóng góp tổi thiểu 9 Nam Phi Có 13 tuần đóng góp trong 52 tuần trước khi sinh 10 Thái Lan 7 tháng đóng góp trong 15 tháng trước khi sinh (chỉ giới hạn trong 2 lần sinh) 2.2 Thời gian và mức hưởng trợ cấp thai sản Trợ cấp thai sản có hai phương thức thực hiện là trợ cấp bằng tiền và chăm sóc y tế. Đối với chăm sóc y tế: Hầu hết các nước trên thế giới đều bắt buộc người phụ nữ trong thời gian mang thai và sinh con phải sử dụng dịch vụ chăm sóc y tế trước và sau khi sinh. Dịch vụ y tế thông thường bao gồm: chăm sóc ban đầu, một số dịch vụ và thuốc men thiết yếu, những dịch vụ đặc biệt, phẫu thuật, chăm sóc thai sản. Đặc biệt ở một số nước có thực hiện cả trợ cấp chi phí đi lại, dịch vụ chăm sóc tại nhà. Việc chi trả chi phí chăm sóc y tế, hiện nay đang tồn tại 3 phương pháp cơ bản: chi trả trực tiếp cho người thực hiện cung cấp dịch vụ trong các cơ sở y tế của Nhà nước; hoàn trả chi phí cho bệnh nhân; chi trả theo các điều khoản trực tiếp về chăm sóc y tế. - Đối với trợ cấp thai sản bằng tiền: Mức trợ cấp và thời gian trợ cấp thai sản của các nước rất khác nhau. Thông thường mức trợ cấp thai sản là 100% lương và thời gian trợ cấp thường là 6 tuần trước khi sinh và từ 6 đến 8 tuần sau khi sinh. Ngoài trợ cấp kể trên thì mỗi lần sinh con người mẹ còn được cấp nuôi con với mức từ 20 đến 25% mức trợ cấp thai sản trong thời gian từ 6 tháng trở lên. Cũng có một số nước thực hiện hỗ trợ tiền sắm sửa tã lót và trợ cấp thai sản một lần. Bảng 3: Thời gian và mức hưởng trợ cấp thai sản ở một số nước trên thế giới Stt Tên nước Thời gian và mức trợ cấp 1 Áchentina Thời gian nhận trợ cấp cho một lần sinh là 90 ngày với mức 100% thu nhập của tháng trước khi sinh (người lao động có thể tự lựa chọn thời gian nghỉ thích hợp: 30 ngày trước khi sinh và 60 ngày sau khi sinh hoặc 45 ngày trước khi sinh và 45 ngày sau khi sinh). 2 Trung Quốc Mức trợ cấp bằng 100% thu nhập trong thời gian 90 ngày (chi phí này do chủ sử dụng lao động chịu trách nhiệm). Những trường hợp nạo, phá thai được nhận trợ cấp trong vòng 42 ngày với mức trợ cấp bằng 100% thu nhập. 3 Pháp Mức trợ cấp bằng 100% thu nhập ròng. Thời gian nhận trợ cấp là 6 tuần trước khi sinh và 10 tuần sau khi sinh đối với đứa con thứ nhất và thứ hai. Đối với đứa con thứ ba được nghỉ 8 tuần trước khi sinh và 18 tuần sau khi sinh. Trường hợp song thai, người mẹ được nghỉ 12 tuần trước khi sinh và 22 tuần sau khi sinh. Nếu thai ba, người mẹ được nghỉ 24 tuần trước khi sinh và 22 tuần sau khi sinh. 4 Đức 100% thu nhập ròng. Thời gian nhận trợ cấp là 6 tuần trước khi sinh và ._. lý của chế độ thai sản và gây thiệt thòi cho người lao động, vì xét về tổng thể thì trường hợp này xứng đáng được nhận trợ cấp so với những trường hợp vừa mới tham gia BHXH đã được nghỉ việc hưởng đủ trợ cấp thai sản. + Việc thực hiện các biện pháp tránh thai để thực hiện kế hoạch hoá gia đình, theo quy định hiện hành lại được đưa vào chế độ ốm đau, như vậy là không hợp lý. Nạo hút thai, triệt sản là vấn đề thuộc về quá trình sinh đẻ và nó ảnh hưởng đến sức khoẻ của người phụ nữ. Đó không phải là hiện tượng ốm đau tự nhiên mà là suy giảm sức khoẻ có chủ định, có ảnh hưởng đến việc sinh đẻ của người phụ nữ. - Về thời gian nhận trợ cấp: + Đối với trường hợp làm các công việc nặng nhọc độc hại, thời gian nghỉ việc nhận trợ cấp thai sản là 5 tháng và 6 tháng. Trên thực tế, những người làm việc trong môi trường nặng nhọc, độc hại nhưng khi có thai thường được chuyển sang làm việc ở điều kiện bình thường cho đến trước khi sinh. Nhưng bất cập này vẫn chưa được hướng dẫn cụ thể. - Về mức trợ cấp: + Trợ cấp một lần khi sinh con là một tháng lương của tháng trước khi nghỉ sinh con là bất hợp lý và không công bằng đối với người lao động vì khoản trợ cấp này thực chất là nhằm mục đích giúp người mẹ sắm sửa những vật dụng cần thiết khi sinh con và nuôi con nhỏ. Mức hỗ trợ này, ở nhiều nước trên thế giới được ấn định bằng một khoản tiền cụ thể đồng đều giữa tất cả những người lao động (ví dụ ở Thái Lan mức hỗ trợ này là 4.000 bạt/lần sinh, Nhật Bản là 300.000 yên …) - Vấn đề khác Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 9 tháng 1 năm 2003 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định 12/CP có bổ sung: Thời gian lao động nữ nghỉ việc trước và sau khi sinh con theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 12 và thời gian người lao động nghỉ việc để nuôi con nuôi sơ sinh theo quy định được tính là thời gian để hưởng các chế độ BHXH. Trong thời gian nghỉ này, người lao động và người sử dụng lao động không phải đóng BHXH mà do quỹ BHXH đảm bảo. Quy định này là phù hợp và đảm bảo thời gian đóng góp BHXH không bị gián đoạn, nhưng nguồn trợ cấp thai sản lại lấy từ nguồn quỹ BHXH là không hoàn toàn hợp lý và làm ảnh hưởng đến sự cân đối của quỹ BHXH. 2. Về tổ chức quản lý thực hiện chế độ thai sản 2.1 Những mặt đã đạt được Quy định về thủ tục và quy trình giải quyết chế độ thai sản được thực hiện theo Quyết định số 1584/1999/QĐ-BHXH ngày 24 tháng 6 năm 1999 của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Về cơ bản, những quy định này đã đảm bảo việc chi trả thuận lợi, chặt chẽ, phù hợp với thực tế tránh được những lạm dụng cũng như gây phiền hà cho đối tượng thụ hưởng chế độ. 2.2 Những điểm còn tồn tại - Tại Quyết định 1584 có quy định: Trong thời gian mang thai nếu nghỉ việc đi khám thai phải có phiếu khám thai của tổ chức y tế theo quy định của Bộ Y tế cấp, nhưng không có một văn bản nào quy định thẩm quyền cấp. Điều này đã dẫn đến người đi khám không được thanh toán chế độ vì thiếu hồ sơ. Hơn nữa, Quyết định 1584 cũng quy định phiếu khám thai, giấy xác nhận sảy thai, thai chết lưu, thai có bệnh lý … phải do tổ chức y tế theo quy định của Bộ Y tế cấp, nhưng không có một văn bản nào quy định thẩm quyền cấp các loại giấy chứng nhận này. Điều này đã gây khó khăn cho người giải quyết chính sách, chế độ cũng như làm ảnh hưởng đến quyền lợi của đối tượng tham gia BHXH. - Công tác tuyên truyền phổ biến chế độ chính sách BHXH cho người lao động còn hạn chế. Bảng 8: Nguồn thông tin về BHXH Đơn vị: % Lao động làm thuê Lao động tự do Chủ doanh nghiệp Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Lao động hiểu biết về BHXH (chia theo nguồn cung cấp thông tin) 42,06 47,37 52,54 65,22 62,07 70,37 Sách báo 66,67 85,19 64,52 73,33 66,67 65,00 Ti vi – Đài 40,00 62,96 51,61 60,00 50,00 61,11 Tuyên truyền - quảng cáo 20,00 11,11 35,48 20,00 22,22 45,00 Doanh nghiệp cũ 13,33 14,81 35,48 33,33 16,67 15,00 Người thân 33,33 44,44 1935 33,33 27,78 35,00 Khác 6,45 13,00 5,56 10,00 Nguồn: Điều tra việc làm và BHXH của lao động nữ khu vực phi chính thức – Phan Thị Thanh, Giám đốc Trung tâm Lao động nữ, Viện NCKH CVĐXH, Bộ LĐ-TB&XH, năm 2002. Qua bảng điều tra về việc làm và BHXH của lao động nữ khu vực phi chính thức tại 3 thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và TP.Hồ Chí Minh năm 2002 cho thấy nhận thức vê BHXH của nữ và nam trong khu vực này chưa cao. Nhóm hiểu biết về BHXH cao nhất là chủ doanh nghiệp (nữ 62,07%; nam 70,37%), nhóm thấp nhất là người lao động làm thuê (nữ 52,54%; nam 51,72%). Điều này sẽ làm quyền lợi của người lao động về BHXH, chủ sử dụng lao động thường ít khi nói với người lao động về quyền lợi BHXH mà lẽ ra họ được hưởng. Điều này khẳng định vai trò của những cán bộ tuyên truyền là rất quan trọng trong quá trình nâng giúp người lao động nhanh chóng có được những quyền lợi mà Nhà nước đã quy định theo như luật định. Bảng 9: Hiểu biết về các chế độ BHXH Đơn vị: % Lao động làm thuê Lao động tự do Chủ doanh nghiệp Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Tỷ lệ hiểu biết về BHXH 42,06 47,37 52,54 65,22 62,07 70,37 Trong đó: Hưu trí 0 3,7 96,77 93,33 88,89 95,00 Tử tuất 91,11 85,19 41,90 60,00 44,44 60,00 Ốm đau 44,44 40,74 51,61 60,00 50,00 45,00 Thai sản 37,78 48,15 51,61 53,33 50,00 55,00 TNLĐ-BNN 42,22 44,44 38,31 46,67 33,33 55,00 Nguồn: Điều tra việc làm và BHXH của lao động nữ khu vực phi chính thức – Phan Thị Thanh, Giám đốc Trung tâm Lao động nữ, Viện NCKH CVĐXH, Bộ LĐ-TB&XH, năm 2002 Qua số liệu điều tra năm 2002 cho thấy tỷ lệ người lao động nhận biết về BHXH nói chung và chế độ thai sản nói riêng còn rất thấp. Đối với lao động làm thuê tỷ lệ những người hiểu biết về BHXH là thấp nhất (nữ chiếm 42,06%, nam chiếm 47,37%), đối với lao động tự do tỷ lệ này là 52,54% đối với nữ và 65,22% đối với nam, còn chủ các doanh nghiệp thì sự hiểu biết của họ tuy cao hơn người lao động (62,07% với nữ, 70,37% với nam) nhưng vẫn còn có những chủ sử dụng lao động không hiểu biết về BHXH. Đặc biệt đối với tất cả nam giới luôn có sự hiểu biết về BHXH nhiều hơn nữ giới, do đó ta cần phải tuyền truyền nhiều hơn nữa cho các lao động nữ. Sự ra đời Nghị định số 01/CP của Chính phủ đã mở rộng đối tượng tham gia BHXH ra tất cả các thành phần kinh tế, kể cả các hộ sản xuất kinh doanh cá thể, đòi hỏi công tác tuyên truyền BHXH phải được làm tốt hơn nữa, nhằm bảo vệ quyền lợi cho mọi người lao động, nhất là lao động nữ khi sinh con. Trong khi đó, năng lực chuyên môn, phương pháp làm việc của một số cán bộ công chức trong ngành còn hạn chế, hành chính, cứng nhắc, chưa đạt mục tiêu phục vụ người lao động, phục vụ đối tượng làm đích phấn đấu trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao. Việc chuyển đổi tác phong làm việc từ hành chính, thụ động sang tác phong phục vụ còn chậm, hiệu quả chưa cao và chưa đồng đều trong toàn ngành; có nơi, có lúc còn gây những khó khăn, phiền hà cho đối tượng tham gia và hưởng chế độ. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP THAI SẢN Ở VIỆT NAM I/ MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CÓ TÍNH NGUYÊN TẮC TRONG XÂY DỰNG VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH, CHẾ ĐỘ THAI SẢN 1. Việc xây dựng chế độ thai sản phải đảm bảo nguyên tắc chung của hệ thống chính sách BHXH và nguyên tắc riêng đối với chế độ thai sản. Cụ thể: Nguyên tắc chung của BHXH: + Mọi người đều có quyền tham gia BHXH và có quyền hưởng BHXH khi có các nhu cầu về bảo hiểm. Đây là nguyên tắc dựa trên cơ sở các quy định về quyền con người đã được toàn nhân loại thừa nhận. + Để được hưởng bảo hiểm, người lao động phải tham gia vào một hệ thống BHXH nào đó và phải đóng góp BHXH. Đây là nguyên tắc ràng buộc giữa nghĩa vụ và quyền lợi. + Việc hoạch định chính sách BHXH phải dựa trên điều kiện kinh tế xã hội của toàn đất nước. + Mức trợ cấp BHXH phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động. Nguyên tắc đối với chế độ trợ cấp thai sản: Chế độ trợ cấp thai sản cũng phải tuân theo các nguyên tắc chung của chính sách BHXH. Tuy nhiên, do đặc điểm của chế độ thai sản nên ngoài nguyên tắc chung này cần phải đảm bảo một số nguyên tắc riêng sau đây: - Các quy định về chế độ thai sản phải luôn luôn phù hợp và gắn liền với chính sách kế hoạch hoá dân số của đất nước. - Do đặc điểm của thai sản là một chu kỳ kéo dài và liên tục từ lúc mang thai, quá trình nghỉ sinh con, chăm sóc trẻ sơ dinh đến khi ổn định lại sức khoẻ trở lại lao động bình thường, nên việc khám thai đều đặn để phát hiện sớm các sự cố, quá trình nghỉ sinh con, nuôi con nuôi sơ sinh … phải có chính sách cụ thể và nhất quán nhằm đảm bảo người phụ nữ phải được chăm sóc chu đáo, liên tục. - Quy định về thời gian nghỉ trước và sau khi sinh con là giai đoạn quan trọng nhất đối với chế độ thai sản. Chính vì vậy mà nó phải đảm bảo các nguyên tắc sau: + Bảo đảm đủ thời gian để người mẹ ổn định và phục hồi sức khoẻ sau khi sinh con và chăm sóc con trong thời gian ban đầu. + Bảo đảm cho trẻ sơ sinh thích nghi và phát triển trong môi trường mới. + Trong trường hợp sản phụ sinh đôi, sinh ba trở lên phải tăng thời gian nghỉ tương ứng để ổn định sức khoẻ sản phụ và tạo điều kiện chăm sóc trẻ sơ sinh. + Thời gian nghỉ dài hay ngắn phụ thuộc vào chính sách kinh tế - xã hội của mỗi nước nhưng nó phải đảm bảo thời gian tối thiểu mà tổ chức ILO đã khuyến nghị. + Cần phải kéo dài thời gian nghỉ sinh con cho những người làm các nghề nặng nhọc, độc hại. + Có những quy định linh hoạt đối với một số trường hợp đặc biệt như: nghỉ thêm thời gian ngoài quy định hoặc đối với những sản phụ muốn đi làm sớm hơn thời gian quy định … + Mức trợ cấp thai sản trong thời gian nghỉ việc trước và sau khi sinh con ít nhất cũng phải bằng hoặc cao hơn mức tiền lương (tiền công) của sản phụ trước khi nghỉ sinh con. Mức trợ cấp cao hơn tiền lương thường được thể hiện bằng hiện vật hoặc trợ cấp thêm để bổ sung thêm vào để sắm sửa đường sữa, thuốc men, tã lót … khi đứa trẻ ra đời. Mức trợ cấp này tuỳ thuộc vào khả năng của quỹ BHXH mà không có sự hạn chế tối đa hoặc tối thiểu. 2. Chế độ thai sản phải bảo đảm thiết lập được sự bình đẳng, an toàn cuộc sống cho lao động nữ ở mọi thành phần kinh tế sinh con. Từ khi ra đời đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến người lao động thuộc các thành phần kinh tế, hoạch định những chính sách xã hội, trong đó có chính sách về BHXH cho mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn phù hợp với điều kiện kinh tế phát triển của đất nước. Chính sách BHXH mở rộng đối với người lao động làm việc trong các khu vực kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, các hộ kinh doanh cá thể … đã được chỉ rõ trong Nghị quyết IX của Đảng: “Thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng, bao gồm BHXH đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế …” Trong tất cả các kỳ đại hội của nước ta, Nhà nước luôn hoạch định chính sách mới phù hợp với điều kiện mới của đất nước, như Nghị quyết Trung ương V (khoá IX) đề ra chủ trương tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân; tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể đã thống nhất về các quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể; tạo môi trường thuận lợi về thể chất và tâm lý xã hội cho sự phát triển của kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể; sửa đổi, bổ sung một số cơ chế chính sách tiếp tục hoàn thiện và tăng cường quản lý nhà nước; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các hiệp hội đối với phát triển kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dự báo cho 10 năm đầu của thế kỷ XXI, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của nước ta năm 2010 sẽ tăng lên ít nhất gấp đôi so với năm 2000. Thực tế, tổng GDP năm 2004 là 7,7%, năm 2005 là 8.4%. Mục tiêu của nước ta năm 2006 là GDP sẽ đạt 8% (trong quý I năm 2006 GDP tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2005), giai đoạn 2006 – 2010 mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng GDP từ 7,5 – 8%. Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong những năm tới gồm các nội dung: tập trung tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động; mặt khác, trong quá trình cải cách thủ tục hành chính, tinh giảm biên chế trong khu vực hành chính, sự nghiệp và sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước sẽ có một số lượng lớn lao động thuộc diện dôi dư, không có việc làm do các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá, sáp nhập, giao, bán, khoán, cho thuê, giải thể, phá sản; số lao động này đa số sẽ chuyển sang làm việc tại khu vực kinh tế tư nhân. Khu vực kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân cũng góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động. Hiện nay, cả nước có khoảng hơn 15.000 hợp tác xã, có hơn 35.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ngoài ra còn có khoảng 24 vạn tổ hợp tác, có trên 2,6 triệu hộ sản xuất kinh doanh cá thể thuộc lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, hàng vạn hộ làm kinh tế trang trại đã thu hút hơn 15 triệu lao động. Khu vực kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và cơ sở ngoài công lập có tiềm năng rất lớn là khu vực chủ yếu điều chỉnh lực lượng lao động của xã hội, góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thực hiện tốt chế độ BHXH đối với người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế là góp phần ổn định chính trị - xã hội, từng bước nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người lao động, tạo lập sự bình đẳng, công bằng xã hội, dần xoá đi ranh giới giữa người lao động làm việc trong khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước; góp phần huy động nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. II/ GIẢI PHÁP 1. Giải pháp về môi trường tạo lập chế độ thai sản 1.1 Thực hiện mở rộng đối tượng tham gia BHXH Để từng bước tiến tới thực hiện BHXH đối với mọi người lao động, ngày 9/1/2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2003/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ BHXH, trong đó đã mở rộng phạm vi và đối tượng người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và hợp đồng không xác định thời hạn trong các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tổ hợp tác; người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động trong các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã; các cơ sở bán công, dân lập, tư nhân thuộc các ngành văn hoá, y tế, giáo dục – đào tạo, khoa học, thể dục thể thao và các ngành sự nghiệp khác. Đối tượng mở rộng như trên là đối tượng bao trùm đến các đối tượng người lao động. Tuy nhiên, đến nay số đối tượng tham gia chỉ mới chỉ chiếm hơn 30% tổng số đối tượng theo quy định trên. Để thực hiện tốt việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH theo Nghị định 01/2003/NĐ-CP, em có đưa ra một số giải pháp sau: - Cần phải phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với các cơ quan quản lý Nhà nước, ban, ngành, đoàn thể có liên quan (Tài chính, Lao động – Thương binh – Xã hội, Liên đoàn Lao động Việt Nam,…) đặc biệt là Bộ Y tế mà trực tiếp là phải tạo quan hệ tốt với các bệnh viện, để triển khai thực hiện công tác thu ngày càng có hiệu quả từ đó tăng quy mô cho quỹ BHXH. Có những biện pháp tích cực xử lý tồn đọng vướng mắc đối với những đơn vị, người lao động không tham gia BHXH, cần có chế độ phạt hợp lý để buộc các doanh nghiệp phải tham gia. - Tăng cường, mở rộng về phạm vi, hình thức và nội dung thông tin tuyên truyền đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Tập trung trọng điểm vào các đối tượng là người lao động trong các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp có sử dụng dưới 10 lao động, hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tổ hợp tác; người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động trong các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã; các cơ sở bán công, dân lập, tư nhân thuộc các ngành văn hoá, y tế, giáo dục-đào tạo, khoa học, thể dục thể thao và các ngành sự nghiệp khác. Phương pháp tuyên truyền phải dễ hiểu, dễ nhớ, sát với cơ sở, sát người lao động, phù hợp với từng loại đối tượng. - Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm cán bộ công chức ở tất cả các cấp, từ Trung ương đến quận, huyện nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực quản lý, nhiệt tình công tác, đáp ứng yêu cầu công việc. Đội ngũ cán bộ công chức của ngành phải giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có phẩm chất đạo đức tốt, hết lòng phục vụ nhân dân, phục vụ sự nghiệp BHXH. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong mọi hoạt động, nhất là trong việc đăng ký tham gia, giải quyết chế độ BHXH. Thực hiện việc luân chuyển cán bộ, bổ sung tăng cường cán bộ có trình độ, năng lực cho nơi yếu, thiếu, vùng sâu, vùng xa. - Thường xuyên thực hiện kiểm tra, rà soát các đơn vị và lao động thuộc diện tham gia BHXH, BHYT bắt buộc theo quy định của pháp luật trên phạm vi toàn quốc. - Xây dựng một cơ chế tài chính phù hợp để khen thưởng, động viên các cá nhân, đơn vị trong và ngoài ngành có thành tích tốt trong công tác mở rộng đối tượng tham gia BHXH. 1.2 Thực hiện BHXH tự nguyện Một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm tăng nhanh số lượng người tham gia BHXH đó là thực hiện loại hình bảo hiểm tự nguyện cũng là một yêu cầu cấp thiết. BHXH tự nguyện là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta đã được quy định trong Bộ Luật Lao động. Thực tế nước ta việc áp dụng BHXH tự nguyện đối với người lao động đã được thực hiện nhưng mới chỉ được thực hiện thí điểm tại Nghệ An, và hiệu quả của BHXH tự nguyên là chưa cao, số lượng người tham gia còn ít và ngày càng giảm. Hiện nay, có một lượng lớn đối tượng có nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện: giai đoạn tới Chính phủ nên cho thi hành BHXH tự nguyện đối với một số đối tượng sau: + Xã viên hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. + Người lao động tự do. + Những người tham gia BHXH bắt buộc muốn tham gia thêm BHXH tự nguyện. Để thu hút các đối tượng tham gia BHXH theo hình thức tự nguyện cần: - Xây dựng mức đóng, mức hưởng phù hợp, điều kiện hưởng, vừa bảo đảm quyền lợi của người tham gia BHXH tự nguyện, vừa bảo đảm cân đối thu chi quỹ. Vì đây là nhóm đối tượng hầu hết đều có thu nhập thấp, việc làm không ổn định, ngành nghề đa dạng, thường xuyên di chuyển nơi ở, nơi làm việc và bản thân họ phải đóng toàn bộ phí BHXH không có sự chia sẻ từ phía chủ sử dụng lao động. - Xây dựng quy trình quản lý thu, chi, quản lý đối tượng tham gia phù hợp với đặc điểm việc làm và thu nhập của lao động ở khu vực này - Đặc biệt cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người lao động không thuộc đối tượng bắt buộc tham gia BHXH biết, tìm hiểu, và tham gia BHXH qua đó sẽ một phần giúp họ ổn định cuộc sống gia đình khi gặp sự kiện bảo hiểm. - Ngoài ra, dự thảo luật BHXH quy định về bảo hiểm thất nghiệp và BHXH tự nguyện cho đến nay vẫn bỏ ngỏ, chúng ta hãy trông chờ một sự thay đổi lớn trong trong thời gian tới của Đảng và Nhà nước ta. 1.3 Về điều kiện hưởng trợ cấp thai sản Như ta đã phân tích những tồn tại ở chương II và dựa vào kinh nghiệm trong việc xây dựng chế độ thai sản về điều kiện hưởng trợ cấp thai sản của một số nước trên thế giới em có đưa ra một số giải pháp sau: - Cần có quy định cụ thể về thời gian đóng BHXH tối thiểu trước khi nghỉ sinh con để đảm bảo nguyên tắc đóng hưởng BHXH, tránh sự lạm dụng quỹ. Theo em, quy định thời gian tham gia BHXH tối thiểu là 12 tháng trước khi sinh con. - Cần quy định rõ: chỉ người lao động nam hoặc nữ còn độc thân nhận nuôi con sơ sinh mới được nhận trợ cấp thai sản. Trong trường hợp sản phụ bị chết ngay sau khi sinh thì người lao động nam là bố đứa trẻ được nghỉ việc căm sóc con như trường hợp nhận nuôi con nuôi sơ sinh. - Đối với những trường hợp đã đóng BHXH nhiều năm nhưng sắp đến ngày sinh thì hết hạn hợp đồng lao động và không được ký tiếp nên không được nhận trợ cấp thai sản - là một điều bất hợp lý của chế độ thai sản và gây thiệt thòi cho người lao động, do đó chính phủ cần quy định lại, bổ sung thêm về việc xét thời gian đóng BHXH của người lao động trước khi nghỉ thai sản, dựa vào đó để cấp một khoản trợ cấp cho người lao động (tương đương với thời gian họ đóng BHXH) khi họ nghỉ thai sản trong trường hợp trên. Như vậy, sẽ thực hiện được sự công bằng đối với người lao động. - Cần đưa nội dung: Người lao động thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá gia đình như đặt vòng, nạo hút thai, triệt sản vào chế độ thai sản và trong những ngày nghỉ do nạo hút thai hoặc triệt sản người phụ nữ cần được hưởng trợ cấp BHXH như trường hợp sinh đẻ với mức 100% tiền lương làm căn cứ đóng BHXH. - Đối với những trường hợp người lao động nữ trước khi có thai làm việc trong môi trường độc hại, nặng nhọc nhưng khi có thai được chuyển sang làm việc ở điều kiện bình thường thì cần có quy định cụ thể như sau: + Nếu sau khi nghỉ thai sản xong lại quay trở lại làm công việc ở môi trường nặng nhọc độc hại thì được hưởng thời gian nghỉ thai sản theo quy định đối với những người làm việc trong môi trường nặng nhọc độc hại. + Nếu sau khi nghỉ thai sản mà không còn làm việc mang tính chất nặng nhọc, độc hại thì hưởng trợ cấp thai sản như trong điều kiện bình thường. 1.4 Về thời gian và mức hưởng trợ cấp thai sản - Cần có quy định rõ thời điểm bắt đầu có quyền được nghỉ hưởng trợ cấp thai sản và thời gian nghỉ tối thiểu sau khi sinh để đảm bảo sức khỏe cho người mẹ và thai nhi. Nên chăng, thời điểm bắt đầu có quyền nghỉ hưởng thai sản là 2 tháng trước khi sinh và trong thời gian này, người mẹ có thể nghỉ vào bất kỳ thời điểm nào. Thời gian tối thiểu phải nghỉ sau khi sinh là 12 tuần, vì đây là thời gian tối thiểu cần thiết để người mẹ phục hội sức khoẻ sau khi sinh. - Cần quy định mức trợ cấp một lần theo mức chung chứ không căn cứ theo mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH trước khi nghỉ. Đây là mức trợ cấp nhằm giúp người mẹ sắm sửa những vật dụng cần thiết khi sinh con. Theo em, mức trợ cấp một lần phù hợp hiện nay vào khoảng 2 lần mức lương tối thiểu. - Thời gian nghỉ việc hưởng thai sản người lao động nữ không phải đóng BHXH là hoàn toàn phù hợp nhưng nguồn đóng lại do quỹ BHXH chi trả là không hợp lý, vì nó làm mất cân đối quỹ. Có thể, trong thời gian này quy định người lao động không phải đóng BHXH nhưng người sử dụng lao động vẫn phải có nghĩa vụ đóng 15% vì khi lao động nữ nghỉ sinh con họ vẫn thuộc danh sách lao động của đơn vị. 2. Giải pháp về quản lý tổ chức thực hiện chế độ thai sản 2.1 Về công tác quản lý thu BHXH Để tổ chức thực hiện tốt chế độ thai sản đối với người lao động, cần phải làm tốt công tác thu BHXH. Trước đây, do nhận thức về chính sách BHXH của người lao động và chủ sử dụng lao động còn hạn chế, đội ngũ cán bộ làm công tác thu BHXH còn non trẻ nên công tác quản lý thu BHXH còn gặp nhiều khó khăn, dẫn tới quyền lợi BHXH của hàng vạn lao động bị ảnh hưởng, trong đó có quyền hưởng trợ cấp thai sản. Đến nay do việc tổ chức quản lý và thực hiện thu BHXH đã hoàn thiện và đi vào nề nếp, nên số người tham gia và số thu BHXH tăng đáng kể qua các năm. Đó chính là căn cứ để giải quyết chế độ kịp thời cho đối tượng hưởng trợ cấp thai sản. Tuy nhiên, hiện nay nhiều lao động thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc nhưng vẫn chưa được tham gia, hoặc đăng ký tham gia chậm, dẫn tới quyền lợi về thai sản không được thực hiện. Để làm tốt công tác quản lý thu BHXH, tạo điều kiện cho người lao động có căn cứ giải quyết chính sách, chế độ BHXH, em có kiến nghị: + Sớm nghiên cứu và thống nhất biện pháp hướng dẫn trong việc giải quyết những vướng mắc, tồn tại đối với các trường hợp chưa có đủ hồ sơ, căn cứ để ghi và cấp sổ BHXH, đảm bảo sao cho 100% số người hiện đang tham gia BHXH được cấp sổ BHXH; tiến hành cấp sổ BHXH cho đối tượng mới tham gia được kịp thời, chính xác. + Áp dụng công nghệ tin học trong việc theo dõi, quản lý số đối tượng tham gia BHXH, số thu BHXH. Đối với các đơn vị thường xuyên chậm nộp BHXH cần có báo cáo đánh giá, phân tích, làm rõ nguyên nhân, tuỳ theo từng nguyên nhân có thể tạm cho chậm nộp hoặc xử phạt hành chính theo quy định. Đối với các đơn vị thường xuyên thực hiện tốt công tác thu - nộp BHXH cần có sự động viên khuyến khích kịp thời. + Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và có biện pháp xử lý nghiêm đối với các đơn vị trốn đóng, nợ đọng BHXH kéo dài. 2.2 Về công tác quản lý chi chế độ thai sản Hiện nay, việc thẩm định và tổ chức chi trả trợ cấp thai sản cho người lao động được căn cứ vào chứng từ C03-BH, C04-BH. Đối với những đơn vị sử dụng lao động đã áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý và đã có mã số thu BHXH, khi phát sinh chứng từ cập nhật vào máy, giúp cho việc theo dõi, kiểm tra, kiểm soát ngày nghỉ được thuận lợi. Riêng những đơn vị sử dụng lao động làm thủ công hoàn thành bằng tay thì việc theo dõi, kiểm tra là rất khó khăn. Bên cạnh đó, những đơn vị đóng BHXH đều đặn, việc thẩm định chứng từ thanh toán theo niên độ kế toán thì công tác theo dõi quản lý ngày nghỉ thuận lợi. Tuy nhiên, trên thực tế không ít các đơn vị nợ đọng BHXH kéo dài, chứng từ phát sinh cách đây 1, 2, 3 năm, thậm chí có đơn vị truy thu 4, 5 năm mới thanh toán chế độ thai sản nên đã gây không ít khó khăn trong khâu quản lý. Để gắn trách nhiệm của đơn vị sử dụng lao động với người lao động và cơ quan BHXH, đề nghị khi thanh toán trợ cấp thai sản chỉ thanh toán theo niên độ kế toán, còn những thời điểm trước do đơn vị chậm đóng BHXH đơn vị phải chịu trách nhiệm với người lao động có như vậy thì việc chi trả trợ cấp ngắn hạn này mới mang đúng nghĩa là BHXH trả thay lương. 2.3 Về vấn đề quản lý phiếu khám thai sản Vì không một văn bản nào quy định thẩm quyền cấp các loại giấy chứng nhận như: phiếu khám thai, giấy xác nhận sảy thai, thai chết lưu, thai có bệnh lý … điều này đã gây nên những khó khăn cho người nhận trợ cấp thai sản. Do đó, Chính phủ cần phải quy định rõ hơn về cơ quan cấp những loại giấy chứng nhận này. Có thể, chỉ cần có giấy chứng nhận của bệnh viện nơi người đó sinh sống. 2.4 Về công tác tuyên truyền BHXH Chính sách BHXH mặc dù đã xuất hiện trong lịch sử nước ta từ rất sớm, song cho đến nay nhận thức của người lao động về chính sách này còn rất hạn chế. Vì thế cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền về BHXH để người dân hiểu và thực hiện tốt, nhất là trong giai đoạn kinh tế thị trường hiện nay, khi mà chính sách BHXH được chuyển sang thực hiện theo cơ chế hoàn toàn mới “có đóng góp mới có thụ hưởng”. BHXH Việt Nam cần phối hợp một cách chặt chẽ với các cơ quan ban ngành, đoàn thể có liên quan, tổ chức tuyên truyền một cách có hệ thống, kết hợp các phương pháp tuyên truyền trực tiếp và gián tiếp như: + Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng như: Đài truyền hình, đài truyền thanh, Báo Nhân dân, Báo Quân đội nhân dân, các báo ngành, và các cơ quan thông tin, báo chí ở địa phương. + Tuyên truyền trên Tạp chí BHXH phát hành hàng tháng.Hiện nay ngành đã có Báo BHXH, cho đến nay đã ra được trên 100 số báo, đây là nỗ lực đáng kể của các cán bộ ngành BHXH Việt Nam. Qua đó, sẽ giúp cho việc tuyên truyền BHXH đến với người lao động một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn. Cần phân loại đối tượng tuyên truyền, đối tượng nào phải tham gia bắt buộc, đối tượng nào tham gia dưới hình thức tự nguyện, với từng dối tượng nên có những phương pháp tuyên truyền khác nhau áp dụng một cách cụ thể và có hiệu quả. Trước mắt tập trung tuyên truyền vào đối tượng là người lao động chưa tham gia BHXH, đặc biệt là đối tượng thuộc diện bắt buộc được quy định trong Nghị định 01/CP của Chính Phủ. Kết luận BHXH của một nước gắn bó chặt chẽ với trạng thái kinh tế, điều kiện kinh tế - xã hội, và trình độ quản lý, đặc biệt là sự đồng bộ, sự hoàn chỉnh của nền pháp chế. Trong tình hình nước ta hiện nay, kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang hình thành, kinh tế - xã hội luôn vận động không ngừng. Vì vậy, việc xây dựng và phát triển BHXH phải bảo đảm chắc chắn, tính toán thận trọng và phải có bước đi phù hợp. Chế độ thai sản thuộc hệ thống các chế độ BHXH và là một trong những chế độ được hình thành và phát triển sớm nhất ở nước ta cũng như các nước khác trên thế giới. Ngoài ý nghĩa đảm bảo thu nhập cho người lao động khi sinh đẻ, chế độ này còn có ý nghĩa xã hội và nhân văn rất lớn, góp phần để tái sản xuất dân số. Từ khi được triển khai thực hiện chế độ trợ cấp thai sản đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng góp phần hỗ trợ cho rất nhiều phụ nữ tham gia lao động, nhiều người trong số họ đã được hưởng trợ cấp thai sản. Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều khó khăn đặt ra đối với chế độ thai sản. Làm thế nào để tăng nhanh số lao động nữ tham gia và được hưởng trợ cấp thai sản, tăng mức hưởng trợ cấp thai sản mà không làm mất cân đối quỹ BHXH là một vấn đề vô cùng nan giải. Với những đổi mới trong chính sách BHXH ở Việt Nam chúng ta hy vọng rằng trong tương lai BHXH Việt Nam nói chung và chế độ thai sản nói riêng sẽ có những bước phát triển mới giúp cho hệ thống BHXH nước ta ngày càng vững mạnh và xứng đáng với vai trò mà Đảng và Nhà nước đã giao phó. Sau một thời gian thực tập tại Trung tâm Nghiên cứu – Khoa học BHXH Việt Nam, được sự giúp đỡ của các cô chú, các anh chị làm việc tại Trung tâm, nhất là của cán bộ hướng dẫn TS. Trịnh Thị Hoa. Bên cạnh đó là sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trong Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm, đặc biệt là Giáo viên hướng dẫn – Th.S Nguyễn Hải Đường, em đã hoàn thành Chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Em hy vọng đề tài sẽ góp một phần nhỏ bé vào sự hoàn thiện của chế độ trợ cấp thai sản Em xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình kinh tế bảo hiểm. Trường Đại học KTQD – NXB Thống kê, Hà Nội - 2004 2. Các quy định pháp luật về BHXH – NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội – 2003 3. Giáo trình Bảo hiểm xã hội – NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội – 2004 4. Những điều cần biết về BHXH - Hệ thống các văn bản về BHXH – NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 2000 5. Niên giám thống kê 2003, 2004, 2005 6. Bảo hiểm xã hội những điều cần biết - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, năm 1999 7. Báo cáo tổng kết hoạt động của BHXH Việt Nam từ năm 1997 – 2005 8. Một số Công ước của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Hà Nội – 2000 9. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, năm 2001 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36493.doc
Tài liệu liên quan