Thực trạng tình hình đầu tư phát triển trong Doanh nghiệp nhà nước tại VN

Lời nói đầu. Theo đánh giá của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX về định hướng phát triển các thành phần và các vùng kinh tế ở nước ta 2001 – 2010, Đảng ta khẳng định cần tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và một số cơ sở công nghiệp qua

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng tình hình đầu tư phát triển trong Doanh nghiệp nhà nước tại VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n trọng. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu ứng dụng tiến bộ KHCN, nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. Phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng, xây dựng các công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Với vị trí của các doanh nghiệp đang ngày càng được khẳng định trong nền kinh tế quốc dân, mà đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước thì nội dung đầu tư phát triển đã trở thành 1 vấn đề cần phải quan tâm hàng đầu. Trong thời gian qua đầu tư phát triển trong doanh nghiệp đã đạt được những kết quả to lớn, đã đưa nền kinh tế tiến thêm những bước thêm vững chắc hơn trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên công tác thực hiện đầu tư phát triển có hiệu quả hay không cũng vẫn tồn tại nhiều vướng mắc trong các doanh nghiệp. Vì vậy, trong khuôn khổ buổi thảo luận ngày hôm nay chúng tôi xin được đưa ra những nhìn nhận về nội dung cơ bản của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp và những đánh giá tình hình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Từ đó chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp nhằm để nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển trong doanh nghiệp cho phù hợp với tình hình phát triển của đất nước ta hiện nay. Nội dung. Chương 1: Lý luận chung về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. I _ Các vấn đề cơ bản của đầu tư phát triển trong nền kinh tế nói chung và trong doanh nghiệp nói riêng. Các khái niệm. 1.1 Đầu tư , đầu tư phát triển. Đầu tư theo nghĩa chung nhất là sự bỏ ra hay sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đạt các kết quả ,thực hiện được các mục tiêu nhất định trong tương lai. Tuy nhiên đứng dưới các góc độ khác nhau thì nó cụ thể như sau: -Theo quan điểm tài chính : Đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn sinh lời. -Theo góc độ tiêu dùng : Đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu về một mức độ tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Để có thể hiểu rõ bản chất của hoạt động đầu tư chúng ta cần làm rõ những yếu tố như :Nguồn lực đầu tư,hoạt động đầu tư , đối tượng của hoạt động đầu tư . -Nguồn lực đầu tư:Theo nghĩa hẹp được hiểu là bao gồm tiền vốn ,còn theo nghĩa rộng nó bao gồm vốn bằng tiền , đất đai,máy móc,lao động. Mục tiêu của hoạt động đầu tư :bao gồm những lợi ích về mặt tài chính gắn liền với doanh nghiệpchủ đầu tư ;những lợi ích về mặt kinh tế và những lợi ích về mặt xã hội mà do hoạt động đầu tư tạo nên. Đối tượng của hoạt động đầu tư : Đầu tư vào tài sản hữư hình (tài sản vật chất), đầu tư vào tài sản vô hình (nghiên cứu và phát triển,dịch vuh,quảng cáo, thương hiệu), đầu tư vào tài sản sản xuất hay đầu tư vào tài sản lâu bền. 1.2; Đầu tư phát triển . -Khái niệm: Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng cácc nguồn lực tài chính,nguồn lực vật chất,nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng ,sửa chữa nhà cửa và kiến trúc hạ tầng,mua sắm trang thiét bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và,bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực,thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhăm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế-xã hội,tạo ra việc làm và nâng cao đời ssống của mọi thành viên trong xã hội. Đầu tư phát triển làm gian tăng tài sản cho nền kinh tế mà không phải là sự chu chuyển giữa đơn vị này sang đơn vị kia của nền kinh tế. 1.3;Vốn đầu tư:Căn cứ theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng:Vốn đầu tư được hiểu là tiền tích lũy của xã hội của các cơ sở sản xuất,kinh doanh dịch vụ là tiền tiết kiệm của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở sẵn có và tạo ra tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. 1.4; Nguồn vốn đầu tư: Là thuật ngữ dung để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội.Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. 2;Vai trò của ĐTPT. 2.1; Trên gác độ vĩ mô 2.1.1. Đầu tư là nhân tố quan trọng tác động đên tăng trưởng và phát triển kinh tế. Về mặt lý luận,hầu hết các tư tưởng,mô hình và lý thuyêt về tăng trưởng kinh tế đều trực tiếp hoặc gián thiếp thừa nhận đầu tư và việc tích luỹ vốn cho đầu tư là một nhân tố quan trọng cho việc gia tăng năng lực sản xuất,cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế.Từ các nhà kinh tế học cổ đỉên như Adam smith trong cúôn “của cải của các dân tộc” đã cho rằng vốn đầu tư là yếu tố qưuyết địng chủ yếu của số lao động hữư dụng và hiệu quả .V iệc gia tăng quy mô vốn đầu tư sẽ góp phân quan trọng ttrong việc gia tăng sản lượng quốc gia và sản lượng bình quân mỗi lao động.Theo mô hình của Harrod-domar,mức tăng trưởng của nền kinhtế phụ thuộc trực tiếp vào mức gia tăng vốn đầu tư thuần. g =∆Y/Y =∆Y/y*∆K/∆K=∆Y/∆K*∆K/Y=1/ICOR*I/Y Từ đó cỏ thể suy ra: ∆Y=1/ICOR*I Trong đó : ∆Y :mức gia tăng sản lượng ∆K:Mức gai tăng vốn đầu tư I:Mức đầu tư thuần K:Tổng quy mô vốn của nền kinh tế Y:Tổng sản lượng của nền kinh tế ICOR:Là hệ số gia tăng vốn-sản lượng. Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thể hiện cũng rất rõ nét trong tiến trình đổi mới của nền kinh tế nước ta thời gian qua.Với chính sách đổi mới,các nguồn vốn đầu tư cả trong nước và nưứoc ngoài ngày càng được đa dạng hoá và gia tăng về quy mô,tốc độ tăng truởng của nền kinhtế đạt được cũng rất thoả đáng.Cuộc sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận dân cư ngày cang được cải thiện 2.1.1; Đầu tư tác động đến chuyển dich cơ cấu kinh t ế. Đầu tư có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua nhuqngx chính sách tác động đến cơ cấu đầu tư.Trong điều hành chính sách đầu tư,nhà nước có thể can thiệp trực tếp như thưc hiện chính sách phân bổ vốn,kế hoạch hoá,xây dựng cơ chế quản lý đầu tư hoặc điều tiết gián tiếp qua các công cụ chính sách như thuế.tín dụng,lãi xuất để xác lập và định hướng một cơ cấu đầu tư dẫn dắt sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý hơn. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy nếu có chính sách đầu tue hợp lý sẽ tạo đà cho sự tăng trưởng và chuyển dioch cơ cấu kinh tế .Tỷ trọng phân bổ vôn cho các ngành khác nhau sẽ mang lại kết quả và hiệu quả khác nhau.Vốn đầu tư cũng như tỷ trọng vốn đầu tư cho các ngành và các vùng kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến sự chuyển dịcg cơ cấu kinh tế ngành,cơ cấu kinh t ế vùng và cũng đồng thời ảnh hưởng đến tốc đọ tăng trưởng chuing của cả nền kinh t ế.Không những thế, giữa dầu tư và tăng trưởng kinhtế cũng như dịch chuyển cơ cấu kinh tế có mối quan hệ khăng khít vớid nhau.Việc đầu tư vốn nhằm mục đích mang lại hiệu quả kinh tế cao,tăng trưởng nhanh trtên phạm vi toàn bộ nền kinh tế cũng sẽ dẫn đến hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý.Ngựoc lại tăng trưởng kinh tế cao kết hợp với việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ tạo nguồn vốn đầu tư dồi dào, định hướng đầu tư vào các ngành hiệu quả hơn. 2.1.3; Đầu tư tác động làm tăng năng lực khoa học công nghê của đất nưứoc Đầu tư và đặc biệt là ĐTPT trực tiếp tạo mới và cải tạo chất lượng và năng lục sản xuất,phục vụ của nền kinhtế và các đơn vị cơ sở.Chính vì vậy, đâu tư cũng là điều kiện tiên quyết cho quá trình đổi mới và nâng cao năng lực công nghệ của quốc gia theo cơ cấu kĩ thuệt của đầu tư,trong giai đoạn vừa qua,tỷ trọng giá trị máy móc thiết bị trong tổng vốn đầu tư của VN chiếm khoảng 28%(xây duẹng chiếm khaỏng 57%) Cơ cấu này chưa phản ánh đúng yêu cầu CNH-HĐH,tuy nhiên nó cũng là con ssố không nhỏ tạo ra năng lực công nghê cho toàn bộ nền kinh tế. Đối với đầu tư nứoc ngoài,hoạt động của doanh nghiệp FDI thường gắn với các chương trình chuyển gioa công nghệ trong đó nước nhận vốn cũng có thể là điểm đến của một số công nghệ và phương thức dản xuất mới. Đối với chi đầu tư của nhà nươc cho nghiên cứu khoa học và phát triên công nghệ mới mặc dù vẫn còn nhỏ về quy mô,thấp về tỷ trọng (giai đoạn 2001-2005là 7,6 nghìn tỷ đồng chiếm 0.9% vốn đầu tư toàn xã hội) nhưng ở đây cũng là một ttrong những biểu hiệ n của đầu tư và ở mức độ nhận định nó cũng có tạo ra và tăng cường năng lực khoa học công nghệ nước ta (đạt được những thành tựu nhất định trong lĩnh vực nông nghiệp: giống mới, công nghệ ren…) 2.1.4; Đầu tư vừa tác động đến tông cung vừa tác động đến tổng cầu của nền kinh tế. Đầu tư (i)là một trong những bộ phận quan ttrọng của tổng cầu (AD=C+I+G-M).Vì vậy khi quy mô đầu tư thay đổi cũng sẽ xó tác động trực tiếp đến quy mô tổng cầu.Tuy nhiên tác động của đầu tu đến tổng ccầu là ngắn hạn.Khi tông cung chưa kịp thay đổi,sự tăng lên của đầu tư sẽ làm cho tổng cầu tăng kéo theo sự gia tăng của sản lượng và giá cả các yếu tố đầu vào.Trong dìa hạn khi các thành qủa của dầu tư đã được huy động và phát huy tác dụng,năng lực sản xuất và cung ưúng dịch vụ gia tăng thì tông cung cũng sẽ tăng lên.Khi đó sản lượng tiềm năng sẽ tăng và đạt mức cân bằng ttrong khi giá cả của sản phẩm sẽ có xu hướng đi xuống.Sản lượng tăng ttrong khi giá cả giảm sẽ kchs thích tiêu dùng và hoạt động sản xcuất cung ứng dịch vụ của nền kinh tế. 2.2;Trên góc độ vi mô Trên goc độ vi mô thì đầu tư là nhân tố quyết định sự ra đời,tồn tại và phát triển của các cơ sở sản xuát cung ưng dịch vụ và của cả các dơn vị vô vị lợi. Để tạo dựng cơ sở vật chất ,kỹ thuật cho sự ra đời của bất kì cơ sở đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng,cấu trúc hạ tầng,mua săm.lắp đặt máy móc thiêt bị tiến hành các công tác xây dựn cơ bản khác và thuẹc hiện các chi phí gắn liền với hoạt động trong một chu ki chua các cơ sở vật chất kỹ thuât vừa được tạo ra. Đây chính là biểu hiện cụ thể của hoạt động đầu tư đối với các đơn vị đang hoạt động,khi cơ sở vật chất kyc thuật của các cơ sở này hao mòn hư hỏng ccần phải tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới cac cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng hao mònnày hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triên khoa học kỹ thwtj và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội.phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho cac trang thiết bị cũ đã lôic thời. Đó chính là hoạt động đầu tư. 3) Nguồn hình thành và cách phân chia vốn đầu tư phát triển: Vốn đầu tư là một nguồn lực quan trọng cho hoạt động đầu tư .Đứng trên góc độ vĩ mô ,nguồn hình thành vốn đầu tư phát triển bao gồm nguồn vốn trong nước va nguồn vốn nước ngoài . Nguồn vốn đầu tư trong nước được hình thành từ phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế .Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn vốn nhà nước và nguồn vốn khu vực dân doanh: a,Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước,nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.Đầy là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn và có ý nghĩa quan trọng cho họat động đầu tư phát triển kinh tế Việt Nam thời gian qua. _Nguồn vốn ngân sách nhà nuớc :Đây là nguồn đầu tư chủ yếu,quyết định sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội.Là nền tảng để thực hiện CNH-HĐH đất nước.Nhà nước của bất kỳ quốc gia nào cũng quan tâm đến hoạt động đầu tư này.Đặc biệt là ở các nước đang phát triển như nước ta là yếu tố vật chất có ỹ nghĩa quyết định để thực hiện tốt nhất các chủ trương,chính sách phát triển KTXH của đất nước.Ở VN đây là điều kiện vật chất để ổn định và củng cố chế độ chính trị ,nâng cao hiệu lực,hiệu quả quản lý nhà nước cũng như không ngừng cải thiện đời sống nhân dân. Vốn ngân sách đầu tư hiện nay chia làm hai loại: -Vốn ngân sách TW dung để đầu tư xây dựng các dự án(trồng rừng đầu nguồn,rừng phòng hộ,các công trình chủ yếu của nền kinh tế…) -Vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các địa phương đầu tư vào những vấn đề quan trọng của địa phương. Trong những năm gần đây,quy mo vốn đầu tư nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau.Trong những năm 2001-2004 đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn chiếm khoảng 25%,công nghiệp 7,9,GTVT và bưu chính viễn thông28,7%. Tuy nhiên nguồn vốn này có một số hạn chế như hiệu quả sử dụng thấp tỷ lệ thất thoát cao,vốn đầu tư thường giàn trải,không trọng tâm trọng điểm,hệ thống các cơ quan quản lý vốn ngân sách chồng chéo,chức nang không rõ giữa quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh.Do vậy chúng ta cần có một số giải pháp như làm thế nào để tăng nền kinh tế cao và liên tục,tận thu chống thất thu thuế,phân bổ NS cho chi đầu tư và chi thường xuyên cho hợp lý -Nguồn vốn tín dụngđầu tư phát triển : Tín dụng đầu tư là quan hệ tín dụng trong đó nhà nước là người đi vay để đảm bảo các khảon chi của ngân sách đồng thời nhà nước cũng là người cho vay để đảm bảo các chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế.Là nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước .Ngoài ra nó còn có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp quan tâm hơn đến hiệu quả đầu tư vì với cơ chế tín dụng các doanh nghiệp vay vốn phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay.Do có yếu tố ưu đãi nên khuyến khích các DN đầu tư theo định hướng của nhà nước Trong những năm gần dây đã sử dụng nguồn vốn này hỗ trợ cho các chương trình đầu tư lớn.Đầu tư cho các dự án thuộc các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 51,6%,vào các ngành nông lâm thủy sản chiếm 16,2%,GTVT chiếm 28,8%,các dự án khác chiếm 4,2%.Qúa trình này góp phần tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HDH. -Nguồn vốn tự huy động của các DNNN:Là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế,các DNNN vẫn nắm giữ một khối lượng vốn nhà nước khá lớn.Trong những năm 2001-2004 vốn này chiếm 32,3% so với tổng vốn đầu tư nhà nước,trong đó chủ yếu là vốn khấu hao cơ bản của các doanh nghiệp,trích lợi nhuận sau thuế cho ĐTPT và một phần vay từ các tổ chức tín dụng.Nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp dùng để đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm Theo đánh giá nguồn vốn nguồn vốn khu vực nhà nước trong nhiều năm nay chiếm tỷ trọng trên 56,6%tổng số vốn đầt tư b,-Nguồn vốn từ khu vực tư nhân. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư,phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh,của hợp tác xã.Theo đánh giá sơ bộ khu vực kinh tế ngaòi nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để.Việc phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc doanh cho thấy chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng và hàng chục tỷ đồng từ khu vực dân cư.Cụ thể năm 2004 đạt 69,5 tỷ đồng ,ngoài ra tính đến cuối năm 2004 tổng số doanh nghiệp dân doanh đăng kí hoạt động lên tới 160000 doanh nghiệp với xấp xỉ qui mô vốn là 140-150 nghìn tỷ đồng . -Vốn của hộ gia đình:Là phần thu nhập của hộ gia đình không bị tiêu dùng được tiết kiệm để đầu tư và tiền tích luỹ từ các hoạt động kinh doanh mà không phải là công ty. c,-Thị trường vốn: Là nơi diễn ra các hoạt động mua,bán chứng khoán và các giấy ghi nợ trung hạn và dài hạn.Đây không phải là các sự việc mua đi bán lại hay chuyển đổi các giấy tờ có giá từ tay của một chủ thể này sang tay một chủ thể khác một cách đơn thuần nếu nhìn nhận từ bên ngoài.Về thực chất,đây là quá trình vận động tư bản ở hình thái tiền tệ -là quá trình chuyển tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn tiết kiệm của từng hộ dân cư,thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp,các tổ chức tài chính,chính phủ TW và chính quyền địa phương tạo ra một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế.Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động nào có thể làm được.Gần đây việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng đã huy động được một nguồn vốn đáng kể.Kênh huy động này ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia.Tính đến cuối tháng 11-2005 tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp đạt trên 2000 tỷ đồng.Trong đó hầu hết hầu hết các dơn vị phát hành đều là những tổn công ty lớn như tổng công ty dầu khí phát hành 300 tỷ đồng,xây dựng song đà 200 tỷ đồng,điện lực VN 200 tỷ đồng công nghiệp tàu thủy VN 1000tỷ đồng. 2.2:-Nguồn vốn đầu tư nước ngoài: Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế đó là quá trình chuyển giao nguồn lựuc tài chính giữa các quốc gia trên thế giới .Theo tính chất lưư chuyển của vốn ,có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài chính như sau: -Tài trợ phát triển chính thức ODF:nguồn vốn này bao gồm viện trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức tái trợ phát triển khác .Dòng vốn này phải qua chính phủ quốc gia tiếp nhận hoặc được bảo lãnh chính thức,dòng vốn phải đáp ứng cho đầu tư phát triển,duy trì và tạo mới để đảm bảo sự hoạt động của nền kinh tế và các cơ sở,nó không bao hàm các nguồn vốn mang tính chất nhân đạo như cứu nạn thiên tai…mà nó mang tính chất dài hạn,trong đó ODA chiếm phần lớn trong ODF . Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển.So với các hình thức tài trợ khác ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác .Nguồn vốn này thường lớn nên có tác dụng nhanh và mạnh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư.Tuy nhiên tiếp nhận vốn này thường gắn với sự trả giá về mặt chính trị và tình trạng nợ nần chồng chất nếu sử dụng không hiệu qủa vốn vay và nếu thực hiện không nghiêm ngặt việc trả nợ vay. Thời gian qua,việc thu hút ODA phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH ở VN đã diễn ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi.Kể từ năm 1993 cho đến hết năm 2000 VN đã tổ chức được 8 hội nghị các nhà tài trợ với tổng số vốn cam kết là 17,54 tỷ usd.Với quy mô tài trợ khác nhau,hiện nay VN có45 đối tác hợp tác phat triển song phương và hơn 350 tổ chức quốc tế và phi chính phủ đang hoạt động. Mặc dù có tính ưu đãi cao song sự ưu đãi của loại vốn này thường đi kềm với các điều kiện ràng buộc tương đối khắt khe(tính hiệu quả của dự án ,thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…)Vì vậy chúng ta cần xem xét kỹ khi tiếp nhận viện trợ và cần có nghệ thuật thỏa thuận để có thể nhận vốn ,vừa bảo tồn được các mụa tiêu có tính nguyên tắc. -Nguồn vốn tín dụng từ các NHTM: Điều kiện huy động loại vốn này không dễ dàng như nguồn vốn ODA .Tuy nhiên nó lại có ưu điểm rõ ràng là không gắn liền với các ràng buộc về chính trị xã hội.Mặc dù vậy thủ tục vay tương đối khắt khe,thời gian trả nợ nghiêm ngặt,mức lãi xuất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo. Do được đánh giá là mức lãi xuất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng ,nguồn vốn tín dụng của các NHTM thường được sự dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn.Một bộ phận của nguồn vốn này có thể dung để đầu tư phát triển.Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài,đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sang sủa.Đối với VN việc tiếp cận với các nguồn vốn này vẫn còn khá hạn chế. -Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI).Đây là nguồn vốn quan trọng cho đâu tư và phát triểnb không chỉ đối với các nước nghèo mà cả đối với các nước phát triển.Nguồn vốn này khác cơ bản với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận.Thay vì nhận lãi xuất trên vốn đầu tư,nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả.Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới,đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật,công nghiệp hay cần nhiều vốn.Vì thế nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình CNH,chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư.Do vậy để sử dụng hiệu quả vốn đầu FDI tùy thuộc chủ yếu vào cách thức huy động và quản lý sử dụng nó tại nước tiếp nhận đầu tư chứ không phải ở ý đồ của người đầu tư. Không những là nguồn bổ sung vốn quan trọng,nguồn vốn FDI còn đóng góp vào bù dắp thâm hụt tài khoản vãng lai và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.Theo đánh giá,tỷ trọng đóng góp của vốn đầu tư trực tiếp nứớc ngoài vào GDP có xu hướng tăng dần qua các năm.Năm 1992 la 2% htì năm 1996 là 7,9% và đến năm 1999 là 10,3%.Bên cạnh đó nó còn đóng góp vào ngân sách một phần đáng kể .Đặc biệt nó góp phần tích cực vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ thống cơ sở hạ tầng giao thong vận tải,bưu chính viễn thông …dần dần hình thành khu công nghiệp,khu chế xuất,khu công nghiệp cao góp phần thực hiện CNH-HDH và đô thị hóa các khu vực phát triển,hình thành các khu dân cư mới,tạo việc làm cho ngừoi lao động tại các địa phương. -Thị trường vốn quốc tế: Với xu hướng toàn cầu hóa ,mối lien kết ngày càng tăng của của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc gia đã tạo ra vẻ đa dạng của các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu.Thực tế cho thấy,mặc dù tất cả các nguồn vốn đều có sự gia tăng về khối lượng nhưng luồng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán có mức tăng nhanh hơn các luồng vốn khác. Đây là phần tích luỹ từ các đối tượng kinh tế ở nước ngoài được chính phủ và DN Việt Nam huy động trong hoạt động đầu tư phát triển của mình thông qua hình thức phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty(ra nước ngoài hoặc phát hành trên nội bộ VN nhưng cho phép người nưosc ngoài mua). Đối với VN,đây là một hình thức huy động vốn vốn khá mới mẻ và còn phức tạp.Tuy nhiên nguồn vốn này có thể huy động với số lượng lớn trong thời gian dài để đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế mà không bị ràng buộc về điều kiện tín dụng,tạo cho VN tiếp cận với thị trường vốn quốc tế… bên cạnh đó hệ số tín nhiệm của VN thấp nen nếu phát hành thì trái phiếu của VN sẽ chịu lãi xuất ở mức cao và viêt nam vẫn còn qúa ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Bởi vậy đối với hình thức huy động này chúng ta cần phải nghiên cứu,lựa chọn loại hình trái phiếu phát hành,thời gian đáo hạn thị trường phát hành và nhà bao tiêu phù hợp với điều kiện của VN . 2.2,Sự phân chia sử dụng vốn đầu tư phát triển:Để tạo thuận lợi cho quản lý việc sử dụng vốn đầu tư nhằm đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao,có thể phân chia vốn đầu tư thành các khoản mục sau: -Trên giác độ quản lý vĩ mô vvốn đầu tư được phân thành 4 khoản mục lớn như sau: +Những chi phí tạo ra tài sản cố định(mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn cố định). +Những chi phí tạo ra tài sản lưu động (mà sự biểu hiện bằng tiềnlà vốn lưu động) và các chi phí thường xuyêngắn với một chu kỳ hoạt động của tài sản cố định vừa được tạo ra. +Những chi phí chuẩn bị đầu tưchiếm khoảng 0,3-15%vốn đầu tư. +Chi phí dự phòng. -Trên giác độ quản lý vi mô tại các cơ sở,những khoản mục trên đây lại được tách thành những khoản chi tiết hơn: +Những chi phí tạo ra tài sản cố định bao gồm: .Chi phí ban đầu cho đất đai. .Chi phí xây dựng,sửa chữa nhà cửa ,cấu trúc hạ tầng. .Chi phí mua sắm,lắp đặt thiết bị ,dụng cụ mua sắm phương tiện vạn chuyển .Chi phí khác. +Những chi phí tạo ra tài sản lưu động bao gồm : .Chi phí nằm trong giai đoạn sản xuất như chi phí mua nguyên vật liệu,trả luơng người lao động,chi phí điện nước … .Chi phí nằm trong giai đoạn lưu thông gồm có sản phẩm dở dang tồn kho,hàng hóa bán chịu,vốn bằng tiền. +Chi phí chuản bị đầu tư bao gồm chi phí nghiên cứucơ hội đầu tư,chi phí nghiên cưu tiền khả thi,chi phí nghiên cứu khả thi và thẩm định dự án đầu tư. +Chi phí dự phòng. +Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn: Qua phân tích trên ta thấy tăng số lượng vốn là rất quan trọng nhưng thường có giới hạn về nguồn còn nâng cao hiệu quả đầu tư quan trọng hơn nhiều vì vừa hết ít vốn vừa gần như không có giới hạn. Để nâng cao hiệu quả đầu tư trên cơ sở giảm suất đầu tư xuống là nhiệm vụ rất khó khăn bởi.Muốn vậy ,cần có giải pháp quyết liệt ở tất cả các khâu của quá trình đầu tư và đặc biệt quan tâm đến khu vực vốn đầu tư nhà nước. Trước hết ở khâu quy hoạch chúng ta phải quy hoạch đồng bộ,phải kết hợp quy hoạch theo ngành và theo cùng lãnh thổ tránh trùng chéo,dàn trải,đồng thời phải có tầm nhìn để tránh việc vay vốn đầu tư xây dựng đưa vào hoạt động chưa được mấy năm,chưa trả đựợc nợ đã phải di chuyển khỏi khu vực đông dân hoặc không gần nguồn nguyên liệu ... Khắc phục tình trạng công trình dự án chưa có kế hoạch,thiết kế chưa được duyệt,chưa có vốn đã thi công gây ra nợ đọng triền mien,rồi cũng lại đến tay nhà nước!Ngay cả nguồn huy động trái phiếu các địa phương cũng phải thiết kế trả nợ,tránh dồn vào ngân sách trung ương. Khắc phục tình trạng thất thoát trong đầu tư xây dựng hiện đang ở mức rất lơn mà báo chí,chính phủ.quốc hội đac đề cập rất nhiều.Khắc phục tình trạng khép kín để đảm bảo tính minh bạch công khai. Khắc phục tình trạng thi công kéo dài làm cho công trình vừa chậm đi vào hoạt động,vừa lỡ thời cơ,trong khi lãi chồng lên vốn vay. Giảm thiểu chi phí giải phóng mặt bằng hiện đang quá lớn,ở những công trình còn lớn hơn cả vốn đầu tư cho công trình chính. Một điều quan trọng hàng đầu là đổi mới cơ chế đầu tư,chuyển việc cấp phát vốn ngân sách sang tín dụng,giảm thiểu tín dụng ưu đãi để giảm thiểu cơ chế “xin-cho”,vì đây là kẽ hở cho thất thoát,tham nhũng. Đặc điểm của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. Đầu tư phát triển: là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính,nguồn lực vật chất.nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng ,sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng ,mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ,bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực ,thực hện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực mới cho nền kinh tế -xã hội,tạo ra việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội . Đầu tư phát triển có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia ,là một lĩnh vực hoạt động nhằm tạo ra và duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất ,kỹ thuật của nền kinh tế.Đối với cơ sở sản xuất ,kinh doanh dịch vụ ,hoạt động đầu tư là một bộ phận trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật mới ,duy trì sự hoạt động của cơ sở vật chất ,kỹ thuật hiện có.và vì thế ,là điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ của các doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư khác ,đó là: a, Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư.Đây là cái giá phải trả khá lớn của hoạt động đầu tư phát triển Bởi trong suốt quá trình đầu tư nó vẫn nằm dưới dạng các công trình dở dang .Do vốn lớn nên các nhà đầu tư cần phải cân nhắc lựa chọn đầu tư vào đâu cho có hiệu quả cao nhất,phải nghiên cứu thị trường… Vốn lớn nằm khê đọng trong suốt quá trình đầu tư nên ảnh hưởng đến chi phí sử dụng ,quản lý vốn (thời gian,chi phí ,kết quả,chất lượng) và khả năng cạnh tranh trên thị trường nếu vốn nằm khê đọng quá dài thì sẽ bỏ lỡ thời cơ và cơ hội cạnh tranh. b,Hoạt động đầu tư phát triển mang tính chất lâu dài : -Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khia các thành quả của nó phát huy tác dụng thường kéo dài trong nhiều năm tháng.Nó phụ thuộc vào giai đoạn thực hiện đầu tư. -Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi đủ vốn hoặn thanh lý tài sản cũng kéo dài .Điều này chịu tác động của cung cầu thị trường ,của các yếu tố đầu vào hay đầu ra của dự án. -Thời gian thực hiện đầu tư dài còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố không dự đoán ảnh hưởng đến quá trình thực hiện :môi trường ,điều kiện tự nhiên .pháp lý.kinh tế ,chính trị.Điều này có thể thany đổi kết quả và hiệu quả của đầu tư. c,Hơn nữa thời gian của hoạt động đầu tư phát triển kéo dài nên mang tính rủi ro cao.Vì vậy cần phải phân tích kỹ để loại trừ hạn chế tới mức thấp nhất các rủi ro như:-Trong trường hợp rủi ro nhất thì hiệu quả của dự án là bao nhiêu;những rủi ro nào có thể xảy ra nhất. -Trong trường hợp thuận lợi nhất thì hiệu quả đạt được bao nhiêu để bù lại trong trường hợp rủi ro. Tuy nhiên đối với những yéu tố rủi ro bất định ,bất khả kháng thì chúng ta phải chấp nhận d,Các thành quả của các hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm,có khi hang năm ,hang ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình nổi tiếng thế giới (Kim tự tháp cổ Aicập,Nhà thờ La Mã ở Rôm,Vạn lý thường thành ở Trung Quốc,Ăngcovat của Cămpuchia…)Điều này nói lên giá trị lớn của các thành quả hoạt động đầu tư phát triển . e,Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó các điều kiện về địa lý ,địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư. Thí dụ :qui mô đầu tư để xây dựng nhà máy sang tuyển than ở khu vực có mỏ than tùy thuộc rất nhiều vào trữ lượng của mỏ than.Nếu trữ lượng than của mỏ ít thì qui mô của nhà máy cũng không nên lớn để đảm bảo cho nhà máy hang năm hoạt động hết công suất với số năm tồn tại của nhà máy theo dự kiến trong dự án. Vì thế cần có chủ trương đầu tư ,quyết định đầu tư đúng đắn và đầu tư phải theo quy hoạch ,kế hoạch ,cần phải có cơ sở khoa học để lựa chọn địa điệm thực hiện dự án để có thể khai thác tối đa lợi thế của địa diểm mà doanh nghiệp hoạt động trên đó.Nếu công trình không tiến hành cẩn thận có thể ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế không chỉ một hai năm mà lâu dài. e, Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị . Sự chuẩn bị này đựoc thể hiện trong việc soạn thảo các dự án đầu tư(lập dự án đầu tư)có nghĩa là phải thực hiện đầu tư theo dự án dược soạn thảo với chất lượng tốt.Đó là quá trình thực hiện đầu tư và quá trình vận hành khai thác . -Qúa trình thực hiện đầu tư ảnh hưởng đến việc lựa chọn địa điểm ,đến giá thành chi phí xây dựng (giá đất) như chọn những nơi địa hình bằng phẳng sẽ giảm đựoc chi phí san bằng .. -Qúa trình vận hành khai thác ảnh hưởng đến khả n._.ăng thu hồi vốn cao nếu địa lý thuận lợi.Phải cân đối giữa giá thành xây dựng công trình ,chi ohí vận chuyển và chi phí cung cấp sản phẩm với khả năng tiêu thụ yếu tố đầu ra. -Ngoài ra việc lựa chọn địa điểm còn ảnh hưởng đến dân cư,địa bàn,môi trường sống . 5;Phân biệt ĐTPT với các loại hình đầu tư khác. Từ sự phân tích trên đây ,xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư mang lại chúng ta có thể phân biệt các loại đầu tư sau đây: a, Đầu tư tài chính:là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư bỏ tiền ra để cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi xuất định trước hoặc cổ tức tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị sử dụng vốn. Đặc điểm của đầu tư tài chính : +Làm tăng tài sản tài chính của chủ đầu tư.tái sản đó là tiền,cổ phiếu mà sau thơì gian kinh doanh sẽ thu được tiền. +Không trực tiếp làm tăng tài sản hữư hình của nền kinh tế. +Hiện tượng đầu tư đựoc xem là hiện tượng đầu tu chuyển dịch cụ thể làm chuyển quyền sở hữu và chuyển quyền sử dụng . +Đầu tư tài chính là một kênh huy động vốn rất quan trọng của ĐTPT. b., Đầu tư thương mại: Là loại đầu tư trong đó chủ đầu tư bỏ tiền ra để mua hàng sau đó bán lại với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận. Đặc điểm của đầu tư thương mại: +Không trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (Trừ hoạt động ngoại thương).Và thương mại làm tăng giá trị của tài sản. +Trong đầu tư thương mại có sự chuyển giao quyền sở hữu. +Đầu tư thương mai làm tăng tài sản tài chính của chủ đầu tư. +Đầu tư thương mại là điều kiện quan trọng và là cầu nối để thúc đẩy ĐTPT. Kết luận: Qua tìm hiểu những dặc điểm và nội dung của đầu tư thương mại và đầu tư tài chính ta thấy được điểm khacs nhau cơ bản và quan trọng của hai loại hình đầu tư này với ĐTPT, đó là chỉ có ĐTPT mới trực tiếp làm tăng tài sản cho nền kinh tế quốc dân. II- Các vấn đề cơ bản về doanh nghiệp nhà nước: 1) Đặc điểm của DNNN trong nền kinh tế thị thường. -Hoạt động kém hiệu quả của các DNNN. DNNN là các cơ sở kinh doanh do nhà nứoc sở hữư hoàn toàn hoặc một phần.Quyền sở hữu thuộc về nhà nước là dặc trưng cơ bản nhất ,phân biệt DNNN với các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân. Đặc trưng này quy định sự kiểm soát của chính phủ bao gômd quyền chủ đạo và quyền can thiệp vào hoạt động kinh doanh. Do vậy,người quản lý DNNN không có quyền linh hoạt đối phó với những điều kiện thay đổi của thị trướng so vơi doanh nghiệp tư nhân.Cụ thể:Bị chính phủ yêu cầu phải mua hàng hoá sản xuất trong nước,do vậy làm tăng chí phí đầu vào,do công viên chức trong nhà nước nhân số,luôn ổn định cố định nên khó có khả năng thay thế đầu vào về nguồn lao động của mình cho phù hợp với hoàn cảnh bên ngoài. Mặt khác do quyền sở hữu thuộc về nhà nước ,là tổ cức không rõ ràng của nhiệm vụ được giao cho các DNNN,trong khi các công ty của khu vực tư nhân lấy lợi nhuận làm mục đích bao trùm thì các DNNN phải hướng vào các mục tiêu khác nhằm đảm bảo lợi ích xã hội, đôi khi không làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Có thể là các DNNN buộc phải thoả mãn yêu cầu tiêu dùng trong nước với giá ưu đãi ,phải đáp ứng các tiêu chuẩn dịch vụ nào đó ở bất kỳ đâu do nhà nước yêu cầu,cũng có thể bị yêu cầu chỉ được vay vốn từ một số định chế cho vay nào đó hoặc từ những nguồn cho vay trong nước nào đó.Do đó cũng có thể phải đầu tư phù hợp với kế hoạch quốc gia hoặc phải hy sinh lợi nhuận để thực hiện những mục tiêu xã hội. Bên cạnh đó,sự kiểm soát lỏng lẻo trong khu vực DNNN do sở hữu nhà nước (đôi lúc mang nghĩa vô chủ),vì thế mỗi công nhân,người lao động thường không có mối liên hệ lợi ích đối với DNNN,vì không thấy sự ảnh hưởng nhiều vì thế không có cá nhân nào thấy cần phải có sự giám sát, điều hành,quản lý. 2) Sự cần thiết của DNNN trong nền kinh tế thị trường . Theo sự phân tích trên,DNNN gần như hoạt động kém hiệu quả so với hoạt động của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường.Tuy vậy ,nó vẫn tồn tại và vận động,phát triển trong nền kinh tế. Ngoài lý do tạo cho chính phủ “một quả đấm mạnh” để giả quyết các vấn đề kinh tế xã hội to lớn trong những giai đoạn dặc biệt như cạnh tranh,khủng hoảng kinh tế…sự tồn tại và phát triển các DNNN chủ yếu còn do các mục tiêu phi thương mại của chính phủ nhằm điều tiết đời sống kinh tế xã hội . Đó là mục tiêu ngăn chặn ngăn chặn độc quyền của khu vực tư nhân trong một ngành công nghiệp nào đó có khả năng gây thiêt hại chung cho xã hội. Đó là mục tiêu phân phối lại thu nhập quốc dân,tạo công ăn việc làm và cung cấp hàng hoá cho những thiệt hại kinh tế. Sản xuất những hàng hoá và dịch vụ mà sản phẩm của chúng được tiêu dùng mang tính xã hội không thương mại hoá như giao thông đường thuỷ,những công thình kiến trúc mang tính lịch sử,bảo vệ phong cảnh thiên nhiên…Những sản phẩm náy được coi là thuộc về cộng đồng ,chính phủ phải chi phí đảm bảo giao thông đường thuỷ,bảo tồn các di tích lịch sử và phong canh thiên nhiên,khu vực tư nhân không thể cung cấp vì nó không có quyền sở hữu chúng ,vì vậy DNNN phải đảm nhiệm. Chính phủ phải luôn có trách nhiệm trước những ngành thuộc kết cấu hạ tầng ,tạo cơ sở cho sự phát triển toàn bộ nền kinh tếb trong đó có khu vực tư nhân,sản xuất những hàng hoá này đòi hỏi cũng lớn,vốn thu hồi chậm nên không hấp dânc các khu vực tư nhân.Chính vì phái đảm nhận việc cung cấp những loại hàng hoá này nên thu nhập tài chính của DNNN thường được đánh giá thấp hơn thu nhập thực tế,vì không tính đến những lợi ích bên ngoài doanh nghiệp. 3) Cơ chế kích thích các DNNN . So với doanh nghiệp tư nhân,DNNN nhiều khi là gánh nặng đối với một nền kinh tế thị thường,vì một mặt chúng sử dụng các nguồn lực một các kém hiệu qủa,gây lãng phí cho đất nước,và mặt khác,chúng rút cạn ngân sách của chính phủ dẫn đến những hậu qủa xấu nhiều mặt đối với kinh tế vĩ mô. Về cơ chế kích thích để nâng cao hiệu quả của các DNNN: -Trong các doanh nghiệp tư nhân với mục tiêu ưư tiên là lợi nhuận dài hạn thì việc tìm ra được cơ chế kích thích không có bằng trong DNNN.Lợi nhuận cao thường gắn với lợi ích,thành tích mà cán bộ quản lý,công nhân được hưởng.Bởi vậy do cạnh tranh khốc liwtj và quyền lợi được hưởng trực tiêp do lợi nhuận đem lại khiến cho doanh nghiệp tư nhân coi đó là cơ chế kích thich trực thiếp và có hiệu quả. Song, đối với DNNN thì cơ chế kích thích đấy đoi khi không rã ràng so với doanh nghiệp tư nhân.Bởi do,ngoài mục tiêu lợi nhuận thì những mục tiêu phi thương mại,mục tiêu xã hội làm cho DNNN xác định coe chế kích thích trực tiếp là gì? Vd: một DNNN có thể có mục tiêu kép là làm ra lợi nhuận cao nhất, đồng thời làị bảo đảm số việclàm cao nhất.Mặt khác,cơ chể canh tranh giữa các DNNN không khốc liệt như giữa khu vực tư nhân.Do đó hạn chế tính sáng tạo trách nhiệm của các nhà quản lý,làm cho họ ỉ lại,thụ động.kém năng lực quản lý. Bên cạnh đó do quyền sở hữư trong doanh nghiệp nằm trong tay họ(họ chỉ nắm quyền quản lý mà thôi) cho nên việc làm giàu cho bản thân các nhà quản lý không hấp dẫn so với tham vọng chính trị của họ.Do đó cơ chế kích thích của DNNN còn hạn chế rất nhiều. 4) Chế độ trách nhiệm. Chế độ trách nhiệm của DNNN ít nhất gồm hai khâu: Thứ nhất: là sự phân quyền và trách nhiệm giữa các ngành của chính phủ có thẩm quyền . đối với DNNN (sự phân quyền). Thứ hai: Đó là hệ thống thông tin tỏng hệ thống tồn tại mỗi thành viên phải có trách nhiệm báo cáo một cách độc lập và thích hợp,chính xác. Hệ thống trách nhiệm bao gồm 3 loại thành phần: -Ban quản trị của DNNN-những người chuyên điều hành hạot động của doanh nghiệp.là những người am hiểu những vấn đề và những yêu cầu của sự điều hành trongkhu vực riêng của họ. -Là chính phủ-quyết định các mục tiêu dài hạn và mục tiêu phi thương mại. Thứ 3:là quốc hội-đại diện cho quyền lợi của công nhân quyết định toứi hậu về ngân sách và chi ngân sách. Do vây,3 hệ thống này hoạt động theo đúng quyền hạn,trách nhiệm của nó,tránh sự hoạt động quá quyền hạn và bộ phận của nó.Hoạt động do quyền hạn chồng chéo đẫn đến sự rối loạn trong điều hành. III- Nội dung của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. 1 _ Đầu tư vào hàng dự trữ và tạo ra tài sản cố định. Hàng dự trữ Ta thường có thể nói một cách đơn giản hàng dự trữ của doanh nghiệp bao gồm tồn kho nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm. Tuy nhiên trên thực tế để nghiên cứu kỹ về vấn đề này cần phải tiếp cận nó ở những góc độ khác nhau và đặt trong những mối quan hệ cụ thể. Nguyên nhân cần thiết phải đầu tư vào dự trữ: Xuất phát từ vai trò của hàng dự trữ đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, ta có thể nó được sử dụng để đảm bảo sự ổn định cho sản xuất vcà đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Vì vậy đàu tư vào hàng dự trữ lag việc không thể thiếu đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp: Dựa trên cơ sở lý luận, vai trò của hàng dự trữ có bốn mặt chủ yếu, biểu hiện cụ thể ở bốn loại hàng tồn kho cơ bản: - Quay vòng tồn kho: mỗi khi sản xuất và đặt hàng là một lần đặt ra số lượng lô nhất định, mà không phải là mỗi lần một lô, kiểu tồn kho được hình thành từ tính chu kỳ của số lượng lô được gọi là quay vòng tồn kho. - Lượng tồ kho dự phòng: hay còn gọi là lượng tồn kho bảo hiểm, là lượng tồn kho nhất định mà nhà sản xuất chuẩn bị để ứng phó với tính không ổn định của nhu cầu và tính không ổn định của cung ứng, nhằm tránh sự tổn thất do thiếu hàng gây nên. Nếu như nhà sản xuất có thể dự toán được về sự thay đổi về nhu cầu trong tương lai hoặc có thể xác định được số lượng và thời gian hàng tương ứng, thì không cần phải thiết lập lượng tồn kho dự phòng. Số lượng tồn kho dự phòng ngoài việc chịu ảnh hưởng của sự bất ổn định về nhu cầu và cung ứng, còn liên quan đến việc doanh nghiệp hy vọng đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Đây là nhân tố xem xét chính khi đưa ra quyết sách cề lượng tồn kho dự phòng. - Tồn kho vận chuyển: là sự tồn kho giữa hai đơn vị công tác hoặc hai tổ chức tiêu thụ gần nhau, bao gồm lượng tồn kho trong quá trình vận chuyển và lượng tồn kho tạm dừng giữa hai nơi. Tồn kho vận chuyển được quyết định bởi số lượng lô vận chuyển và thời gian vận chuyển. - Lượng tồn kho dự định theo thời kỳ: do đặc điểm mang tính thời vụ của nhu cầu hoặc tính thời vụ của việc mua sắm, nên doanh nghiệp buộc phải sản xuất, tích trữ và bán hàng vào mùa bán ế đẻ duy trì và tăng cường phục vụ khách hàng vào mùa bán hàng chạy, hoặc tăng cường lượng tồn kho của mùa thu hoạch , ví dụ như nông sản, để dự trù sản xuất cho cả năm còn gọi là tồn kho theo thời kỳ. Sự cần thiết của tồn kho theo thời kỳ ngoài nguyên nhân về mùa vụ còn xuất phát từ việc bảo đảm sự ổn định cho sản xuất. Do vậy, nguyên nhân quyết định lượng tôn kho dự định theo thời kỳ, ngoài chi phí mang tính cơ hội của việc khan hàng hết hàng, còn phải xét đến chi phí tăng thêm khi sản xuất ổn định (chi phí khấu hao, khi thiết bị sản xuất ngừng nghỉ, lương công nhân rảnh rỗi và các chi phí phát sinh khác…). Dựa trên cơ sở thực tiễn, vai trò của hàng dự trữ được biểu hiện trong mối quan hệ giữa việc khống chế lượng hàng dự trữ trong kho và hai loại nhu cầu: nhu cầu độc lập và nhu cầu phụ thuộc: -Nhucầu độc lập: là nhucầu do thị trường quyết định .Ví dụ như : nhucầu đối với các thành phẩm như xe ô tô, máy giặt gia dụng và linh kiện dễ hỏng nhưu tấm phanh xe, vòng đệm cao su. Những nhu cầu này lúc nào thì sẽ nảy sinh? mỗi lần bao nhiêu? Không theo kế hoạch sắp xếp của doanh nghiệp, nó được gọi là nhu cầu độc lập. Tuy nhiên với phạm vi xao động và xu hướng thay đổi nhất định trong một khoảng thời gian cùng những đặc trưng thay đổi, nhu cầu này có thể dự đoán thông qua những số liệu lịch sử và các nhân tố tương quan khác. - Nhu cầu phụ thuộc:Là nhu cầu do nhu cầu của sản phẩm cuối cùng hoặc hạng mục khác quyết định, nó có thể đoán trước và có thể khống chế được. Ví dụ như: với một số lượng máy giặt cần sản xuất cho trước, thì số lượng nhu cầu của nguyên vật liệu hoặc linh kiện như thùng giặt, máy định giời, động cơ điện, hoàn toàn có thể được quyết định căn cứ vào linh kiện, vì vậy nó được gọi là nhu cầu phụ thuộc. Tóm lại: Nhu cầu xuất phát từ bên ngoài doanh nghiệp hay từ thị trường là nhu cầu độc lập, còn gọi là nhu cầu khách hàng, những nhu cầu này nảy sinh từ yêu cầu sản xuất bên trong doanh nghiệp gội là nhu cầu phụ thuộc, hay còn gọi là nhu cầu sản xuất. Nhu cầu độc lập có tính tuỳ cơ ứng biến cho nên chỉ có thể dựa trên dự đoán để tính toán. Nhu cầu phụ thuộc có tính xá định, đặc trưng thay đổi theo thời gian đã được biết trước, vì vậy không cần dự đoán mà chỉ cần xác định theo kế hoạch sản xuất. Đáp ứng sự khác nhau về mặt tính tồn kho của hai loại nhu cầu. Tức là do tính chất tuỳ cơ của nhu cầu độc lập mà ta cần phải thiết lập lượng tồn kho dự phòng nhằm tránh tổn thất do thiếu hàng. Do tính xác định của nhu cầu phụ thuộc, về mặt lý thuyết thì không cần thiết lập lượng tồn kho dự phòng, hơn nữa lý tưởng nhất là tất cả những lượng tồn kho sản xuất đều nên ơe dạng bán thành phẩm. Chính sự khác nhau này đã quy định số lượng từng loại hàng dự trữ ở những thời điểm khác nhau của chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời khẳng định lại vai trò rất quan trọng của hàng dự trữ và vấn đề khống chế hàng dự trữ trong việc quay vòng vốn, tiết kiệm chi phí, ổn định sản xuất và đáp ứng nhu cầu luôn biến đổi của khách hàng. Đầu tư vào hàng dự trữ có thể có thể được phân thành 2 loại chi phí chủ yếu sau: - Chi phí bảo tồn hàng được tạo bởi: + Chi phí cơ hội sử dụng vốn: thông thường được xác định dựa trên tỷ lệ lãi suất đầu tư, trong tình huống đơn giản hoá, có thể sử dụng tỷ lệ lãi suất với kỳ hạn tương ứng để thay thế. + Chi phí bảo hiểm và chi phí hao mòn cơ sở hạ tầng kho bãi… + Chi phí mất mát, hư hỏng và không có hiệu quả của hàng tồn. Chi phí về mặt này sữ có sự chênh lệch rất lớn dựa trên tính chất khác nhau của hàng tồn, ví dụ như lỗi của hàng điện tử tương đối cao, mà chi phí tổn thất của thực phẩm lại còn cao hơn. Do chi phí cơ hội của vốn và chi phí hỏng hóc, mất hiệu quả luôn chiếm đa số tỷ lệ của phí bảo tồn. Vi vậy các doanh nghiệp thường theo thói quen, đem chi phí bảo tồn thể hiện là hình thức tỷ lệ thuận với giá cả mua bán của đơn vị hàng tồn. - Chi phí đặt hàng: Là chi phí bình quân để xử lý nghiệp vụ đặt hàng, bao gồm các tư liệu kỹ thuật sản phẩm cần thiết như sổ ghi chép, thông tin, phán đoán và lương nhân viên đặt hàng, đặc điểm của nó là không liên quan đến số lượng hangf đặt. Trên lĩnh vực sản xuất,chi phí này là chi phí chuẩn bị sản xuất và điển hình máy móc khi thay đổi linh kiện và tác nghiệp, gọi là chi phí chuyển đổi tác nghiệp và chi phí lắp đặt. - Chi phí thiếu hàng: Là những tổn thất do thiếu hàng gây nên. Từ góc độ bán hàng nếu thiếu hàng cung cấp, khách hàng sẽ chuyển sang đặt hàng của doanh nghiệp khác, và hơn nữa, uy tín của doanh nghiệp cũng bị tổn hại nghiêm trọng. Từ góc độ sản xuất, trong quá trình sản xuất, thiếu hàng dẫn đến việc ngừng sản xuất đợi nguyên liệu, ứ đọng bán thành phẩm, kéo dài thời gian giao hàng và dẫn đến ngưng ca…chi phí của nó được tính lần lượt với ảnh hưởng của hoạt động tương ứng. Tài sản cố định: Nghị định số 199/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 3/12/2004 về quy chế quản lý tài chính của công ty Nhà nước và quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp khác có quy định, tài sản của công ty Nhà nước bao gồm: tài sản cố định (tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình, các khoản đầu tư tài chính dài hạn, chi phí xây dựng cơ bản dở dang và các khoản ký cược, ký quỹ dài hạn); tài sản lưu động (tiền, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho, tài sản lưu động khác và chi sự nghiệp) mà công ty Nhà nước có quyền chiếm hữu sử dụng và định đoạt theo quy định của pháp luật. Như vậy có thể thấy tài sản cố định hữu hình là một trong những tài sản quan trọng bậc nhất của doanh nghiệp. Nó là những tư liệu lao động có thời hạn sử dụng tương đối dài và có giá trị lớn. Trong quá trình sản xuất kinh doanh hình thái vật chất của tài sản cố định hầu như không thay đổi, còn giá trị giảm dần trong suốt thời gian tồn tại, do cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Phân loại tài sản cố định : Nhà cửa và vật kiến trúc: Gồm nhà xưởng kho bãi, văn phòng và các công trình có cùng mục đích. Chúng tạo ra không gian sản xuất, vận hành quản lý và lưu trữ hàng hoá hoặc nguyên vật liệu. Là tài sản cố định có thời gian khấu hao khá dài, có thể lên đến 30, 50 năm. Máy móc thiết bị công nghệ : Bao gồm tất cả máy móc thiết bị, hệ thống dây chuyền. Là bộ phận tài sản cố định hữu hình có hàm lượng khoa học công nghệ cao và có sự đổi mới nhanh chóng. Hiện nay những dây chuyền hiện đại được khấu hao chỉ trong vòng từ 2 đến 4 năm. Phương tiện vận tải : Ngoài chi phí ban đầu chi phí vận hành, chi phí nhiên liệu xăng dầu chiếm một tỷ trọng đáng kể và cần được tính đến trong quá trình vận hành. Các công cụ, dụng cụ quản lý, thiết bị đo lường và kiểm định. Đây là các máy móc có giá trị không lớn nhưng được khấu hao trong thời gian dài. Các máy móc văn phòng như máy vi tính, máy in… đã giúp làm tăng năng xuất và hiệu quả quản lý. Đồng thời một hệ thống đo lường và kiểm định hiện đại và chính xác sẽ giúp doanh nghiệp tạo nên những sản phẩm có chất lượng và độ tin cậy cao. Vai trò của tài sản cố định hữu hình: - Là một trong những cơ sở đầu tiên được hình thành trong quá trình từ thời điểm doanh nghiệp bắt đầu đi vào sản xuất kinh doanh. Bất kỳ doanh nghiệp nào khi bắt đầu đi vào hoạt động cũng đều phải trải qua các giai đoạn tiền đề sau: Chi phí ban đầu về đất đai: tiền thuê đất, mua đất, đền bù giải phóng mặt bằng. Chi phí xây dựng, lắp đặt nhà xưởng công trình, hạ tầng cơ sở. Chi phí mua sắm máy móc phương tiện vận tải. Chi phí mua sắm máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất. Cùng với các chi phí khác, các chi phí cho tài sản cố định hữu hình thực sự trở thành một trong những yếu tố không thể thiếu được trong quá trình hình thành, vận hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Một khi hệ thống nhà xưởng, văn phòng và vật kiến trúc không đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động quản lý, sẽ gây ra một sự cản trở rất lớn tới sự thành công của doanh nghiệp. Do đặc điểm được sử dụng trong một thời gian dài nên tầm quan trọng của hệ thống nhà xưởng lại càng lớn, cần phải tính toán một cách kỹ lưỡng để tránh gây ra những hậu quả lâu dài. - Đầu tư vào máy móc thiết bị công nghệ lại là một trong những hoạt động cần chú ý hàng đầu. Nhất là trong thời đại khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ và thay đổi nhanh chóng như hiện nay. Một dây chuyền công nghệ sản xuất thích hợp với các công nghệ mới đạt được các hiệu quả sẽ giúp doanh nghiệp đạt được sản lượng lớn với giá thành thấp và chiếm lĩnh được thị trường. - Hệ thống phương tiện vận tải cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong rất nhiều doanh nghiệp, nó quyết định đến doanh số bán hàng, khả năng đáp ứng kịp thời các nhu cầu thị trường, đặc biệt với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại. Do đó các doanh nghiệp không những cần thiết phải chú trọng hoạt động đầu tư cho hệ thống phương tiện giao thông vận tải mà còn phải chú trọng vấn đề bảo hiểm tài sản, đặc biệt đối với cả các loại hình phương tiện vận tải đường thuỷ như tàu thuỷ xà lam cũng như đối với các phương tiện cơ giới đường bộ thường xuyên phải đối mặt với các rủi ro khác. 2. Nội dung đầu tư phát triển cho tài sản cố định hữu hình của doanh nghiệp. 2.1Vốn đầu tư xây dựng cơ bản: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là toàn bộ chi phí bỏ ra để đạt được mục đích đầu tư, bao gồm: chi phí cho việc khảo sát quy hoạch công trình chuẩn bị đầu tư chi phí thiết kế và xây dựng chi phí mua sắm lắp đặt thiết bị các chi phí khác được ghi trong tổng dự toán và chi phí dự phòng( bằng 10 % tổng dự toán). Vốn đầu tư xây dựng cơ bản có thể chia ra theo các mục sau: a. Chi phí xây dựng và lắp đặt bao gồm: Chi phí phá huỷ tháo dỡ các vật kiến trúc cũ. Chi phí san lấp mặt bằng xây dựng. Chi phí xây dựng công trình tạm, công trình phụ trợ phục vụ thi công. Chi phí xây dựng các hạng mục công trình như làm mới mở rộng cải tạo và khôi phục các công trình xây dựng. Chi phí lắp đặt thiết bị bao gồm việc lắp đặt trang thiết bị vật dụng, các hoạt động thăm dò phục vụ cho hoạt động lắp đặt đó. Các chi phí di chuyển thiết bị thi công và vật liệu, lực lượng xây dựng. b. Chi phí mua sắm thiết bị máy móc bao gồm: Chi phí mua sắm thiết bị công nghệ và các trang thiết bị khác phục vụ sản xuất, làm việc, sinh hoạt. Chi phí vận chuyển từ cảng hoặc nơi mua đến công trình, chi phí lưu kho lưu bãi chi phí bảo quản bảo dưỡng tại kho chi phí gia công sửa chữa chi phí kiểm tra thiết bị máy móc khi tiến hành lắp đặt. Các loại thuế và phí bảo hiểm thiết bị công trình cần thiết. c. Chi phí liên quan đén đất đai: Tiền thuê đất, hoặc tiền chuyển quyền sử dụng đất. Chi phí đền bù và tổ chức thực hiên trong quá trinh đền bù. 2.2 Mua sắm tài sản cố định khác dùng cho hoạt động sản xuất. Doanh nghiệp cần ý thức được tầm quan trọng của việc mua sắm và đổi mới trang thiết bị theo hướng hiện đại, nhập các máy móc thiết bị hoặc mua trong nước các loại máy trong nước đã sản xúât được với giá cả và công nghệ phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp cũng như điều kiện khí hậu, từng bước tăng tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm công nghệ. Chi phí này bao gồm: Chi phí cho thiết bị máy móc cần lắp toàn bộ hoặc từng bộ phận trên nền máy cố định. Chi phí cho thiết bị không cần lắp đặt trên nền máy cố định. Chi phí cho các máy móc thiết bị dụng cụ phục vụ cho quá trình quản lý, kinh doanh, báo cáo tổng hợp. 3. Vốn đầu tư sửa chữa lớn tài sản cố định bao gồm: Chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định: sửa chữa các tài sản hư hỏng sau một thời gian sử dụng mà cần vốn lớn. Chi phí nâng cấp tài sản cố định: Nâng cấp các tài sản cố định cho phù hợp với sự biến động của khoa học công nghệ, giúp cải tiến sản phẩm tăng năng xuất để hạ giá thành, tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cả trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong hoạt động quản lý. 2 _ Đầu tư vào nghiên cứu đổi mới và phát triển KHCN_KT. Theo quan điểm hiện đại, có thể hiểu: đầu tư đổi mới công nghệ và phát triển KHKT là hình thức của ĐTPT nhằm hiện đại hoádây chuyền công nghệ và trang thiết bị cũng như trình độ nhân lực, tăng năng lực sản xuất kinh doanh cũng như cải tiến đổi mới sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, đây cũng là hoạt động đầu tư vào lĩnh vực phần mềm của công nghệ như thông tin, thương hiệu và thể chế doanh nghiệp. Về ĐTPT phần cứng của KHKT_CN ở doanh nghiệp có nghĩa là hoạt động ĐTPT những dây chuyền máy móc, trang thiết bị hiện đại. Trước tiên là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để tiếp nhận dây chuyền máy móc thiết bị mới. Hai là thực hiện đầu tư vào việc nhập khẩu dây chuyền sản xuất phù hợp. Ba là thực hiện việc tiếp nhận công nghệ của dây chuyền máy móc trang thiết bị.Bốn là thực hiện việc nghiên cứu triển khai để có thể sản xuất dây chuyền máy móc dựa vào công nghệ được tiếp nhận. Về ĐTPT phần mềm của KHKT_CN ở doanh nghiệp có nghĩa là hoạt động ĐTPT nguồn nhân lực, phát triển công nghệ bao gồm thương hiệu, bí quyết kinh doanh, uy tín…và phát triển cơ cấu thể chế tổ chức. Về công nghệ cần tiến hành nội dung như sau: thứ nhất là doanh nghiệp có thể mua công nghệ theo các cách khác nhau đó là: Mua đứt công nghệ tức là công nghệ thuộc quyền sở hữu độc quyền của doanh nghiệp, doanh nghiệp là người duy nhất có quyền quyết định về công nghệ đó. Từ đó doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ hiệu quả nhất, tốt nhất, tạo lợi thế cạnh tranh cao nhất cho doanh nghiệp. Tuy nhiên trong thực tế các doanh nghiệp nước ta hiện nay thực thi điều này là rất khó, mặt khác việc mua đứt công nghệ thường gặp rủi ro lớn vì chưa hẳn công nghệ là tốt nhất. Nếu trong tương lai doanh nghiệp chưa kịp khấu hao hết công nghệ thì đã xuất hiện công nghệ mới tốt hơn…chính vì thế mà người ta thường chỉ mua đứt những công nghệ ít biến động, sản xuất hàng hoá đặc biệt, hay với công nghệ xuất hiện lần đầu trong một loại sản phẩm dịch vụ cấp thiết, nhu cầu thị trường là rất lớn. Mua quyền sử dụng công nghệ: doanh nghiệp thường áp dụng hình thức này bởi hình thức này có ít rủi ro hơn và tốn ít chi phí hơn. Tuy nhiên doanh nghiệp phải chấp nhận đối thủ của mình cũng sở hữu công nghệ như mình và sức ép cạnh tranh là rất lớn. Nhưng ít ra nó cũng giúp cho doanh nghiệp có những lợi thế hơn so với những sản phẩm không có công nghệ đó hoặc lợi thế giá thành do công nghệ giúp khai thác tối đa những nguồn lực mà đối thủ không có. Và ngoài ra doanh nghiệp còn có thể đầu tư vào nghiên cứu phát minh ra công nghệ mới hay có sự cải tiến trong việc sử dụng hay tăng năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Về nhân lực cần tiến hành những nội dung cụ thể như dân chủ hoá KHKT_CN, xây dựng một chiến lược tổng thể rõ ràng nhằm phát triển thị trường lao lao động theo hướng đẩy mạnh tính hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho lao động tự do dịch chuyển, hỗ trợ lao động có chuyên môn kĩ thuật cao. Bên cạnh đó là những hoạt động ĐTPT nguồn nhân lực như mở lớp đào tạo nhân lực, cử người đi học ở các quốc gia phát triển… Về cơ cấu tổ chức và thể chế doanh nghiệp để phục vụ cho phát triển KHCN cũng cần tiến hành theo những nội dung như: đổi mới chính sách ưu đãi với các hoạt động nghiên cứu và đổi mới công nghệ, đổi mới cơ chế trích khấu hao TSCĐ và cơ chế trích lập quỹ ĐTPT của doanh nghiệp… Hoạt động ĐTPT KHKT_CN cũng là một hoạt động đầu tư phát triển. Do đó, hoạt động này có những đặc điểm sau đây: về nguồn vốn ĐTPT KHCN đồi hỏi 1 số vốn lớn. Từ hoạt động ĐTPT máy móc thiết bị hiện đại, đến việc ĐTPT nguồn nhân lực thông qua đào tạo …đều đòi hỏi khối lượng vốn lớn. Do đó, về nguồn huy động vốn có thể là rất đa dạng, việc ĐTPT KHCN không chỉ huy động nguồn vốn nội lực mà còn có thể huy động từ bên ngoài như ODA hay FDI. Từ đó đòi hỏi doanh nghiệp phải sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất. Về thời gian thì ĐTPT KHCN có thời gian thực hiện lâu dài và thời gian vận hành kết quả lâu dài. Về kết quả của hoạt động đầu tư vào KHCN là những tài sản có giá trị lớn như những công trình khoa học, trang thiết bị tiên tiến hay trình độ nguồn nhân lực. 3 _ Đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là các hoạt động để duy trì và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tổ chức, là điều kiện quyết định để doanh nghiệp có thể đứng vững và dành thắng lợi trong môi trường cạnh tranh. Do đó trong các doanh nghiệp, công tác đào tạo và phát triển cần phải được thực hiện một cách có tổ chức và có kế hoạch. Phát triển nguồn nhân lực (theo nghĩa rộng) là tổng thể các hoạt động học tập có tổ chức được tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định để nhằm tạo ra sự thay đổi hành vi nghề nghiệp của người lao động. Trước hết, phát triển nguồn nhân lực chính là toàn bộ những hoạt động học tập được tổ chức bởi doanh nghiệp, do doanh nghiệp cung cấp cho người lao động. Các hoạt động đó có thể được cung cấp trong vài giờ, vài ngày hoặc thậm chí vài năm, tuỳ thuộc vào mục tiêu hcọ tập, và nhằm tạo sự thay đổi hành vi nghề nghiệp cho người lao động theo hướng đi lên, tức là nhằm nâng cao khả năng và trình độ nghề nghiệp cho họ. Như vậy, xét về nội dung phát triển nhân lực bao gồm các hoạt động là: giáo dục, đào tạo và phát triển. Giáo dục được hiểu là các hoạt động hcọ tập để chuẩn bị cho con người bước vào 1 nghề nghiệp hoặc chuyển sang 1 nghề nghiệp mới thích hợp hơn trong tương lai. Đào tạo (hay còn được gọi là đào tạo kỹ năng) được hiểu là các hoạt động học tập nhằm giúp cho người lao động có thể thực hiện có hiệu quả hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Đó chính là quá trình học tập làm cho người lao động nắm vững hơn về công việc của mình, là những hoạt động để thực hiện nhiệm vụ lao động có hiệu quả hơn. Phát triển là các hoạt động học tập vượt ra khỏi phạm vi công việc trước mắt của người lao động, nhằm mở ra cho họ những công việc mới dựa trên cơ sở những định hướng tương lai của doanh nghiệp. Các lý do chủ yếu để doanh nghiệp tiến hành phát triển nguồn nhân lực, đó là: + Để đáp ứng yêu cầu của việc tổ chức hay nói cách khác là để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. + Để đáp ứng nhu cầu học tập và phát triển của người lao động trong doanh nghiệp. + Đào tạo và phát triển là những giải pháp có tính chiến lược tạo ra lới thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đầu tư phát triển nguồn nhân lực thì doanh nghiệp đã mang lại cho mình nhiều lợi ích trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình như: + Nâng cao năng suất lao động, hiệu quả thực hiện công việc. + Nâng cao chất lượng của việc thực hiện công việc. + Giảm bớt sự giám sát vị người lao động được đào tạo có khả năng tự giám sát. + Nâng cao tính ổn định và năng động của tổ chức. + Duy trì và nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực. + Tạo điều kiện cho áp dụng tiến bộ kĩ thuật và quản lý vào doanh nghiệp. + Tạo ra lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. + Ngoài ra, đối với người lao động thì phát triển nguồn nhân lực thể hiện ở chỗ: tạo ra được sự gắn bó giữa người lao động và doanh nghiệp, tạo ra tính chuyên nghiệp của người lao động, tạo ra sự thích ứng giữa người lao động và công việc hiện tại cũng như tương lai, đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng phát triển của người lao động, và tạo cho người lao động có cách nhìn cách tư duy mới trong công việc của họ là cơ sở để phát huy tính sáng tạo của người lao động trong công việc. Chính vì những lý do trên mà các doanh nghiệp hiện nay đã chú trọng vào phát triển nguồn nhân lực, coi hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực như là một hoạt động thường xuyên và quan trọng của doanh nghiệp. Ở nước ta thì hầu hết các doanh nghiệp để phát triển nguồn nhân lực mới chỉ sử dụng các biện pháp như: Tìm kiếm lao động đầu vào có chất lượng cao; Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động trong doanh nghiệp; Và nâng cao điều kiện làm việc cho người lao động. Tuy nhiên trong các hình thức trên thì hình thức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động được áp dụng nhiều trong các doanh nghiệp nhà nước, còn hình thức lựa chọn lao động đầu vào chất lượng cao được sử dụng nhiều trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 4 _ Đầu tư vào hoạt động Marketing và tài sản vô h._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24478.doc
Tài liệu liên quan