Thực trạng Tiêu thụ sản phẩm & biện pháp thúc đẩy Tiêu thụ sản phẩm của Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp phải tự giải quyết ba vấn đề trung tâm của nền kinh tế: sản xuất cài gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Trong bối cạnh hội nhập quốc tế và cạnh tranh gay gắt trên thị trường, tiêu thụ sản phẩm có vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Bất kể doanh nghiệp sản xuất hay doanh nghiệp thương mại thì tiêu thụ sản phẩm thể hiện uy tín của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, sự thích ứng với nhu cầu người tiêu dùn

doc56 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1383 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng Tiêu thụ sản phẩm & biện pháp thúc đẩy Tiêu thụ sản phẩm của Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g và sự hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ. Muốn thúc đẩy hoạt đông tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp phải áp dụng các biện pháp gì, tình hình tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay ra sao và các doanh nghiệp cần sự hỗ trợ nào từ phía nhà nước? Chính vì muốn tìm hiểu vấn đề này, em chọn đề tài “Thực trạng tiêu thụ sản phẩm và biện pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay”. Với kiến thức và trình độ hiểu biết có hạn nên bài làm không tránh khỏi có sai sót. Em mong thầy thông cảm và góp ý để bài làm sau đạt kết quả tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG I. KHÁI NIỆM TIÊU THỤ SẢN PHẨM I. 1. Khái niệm Tiêu thụ sản phẩm là quá trình chuyển hoá hình thái giá trị của sản phẩm nhằm đáp ứng các nhu cầu của xã hội I. 2. Thực chất của tiêu thụ sản phẩm Thực chất của tiêu thụ sản phẩm là làm cho sản phẩm trở thành hàng hoả tên thị trường (sản phẩm phải thích hợp với nhu cầu) phải phù hợp với thị trường Tiêu thụ sản phẩm tronh cơ chế thị trường hiện nay khác với tiêu thụ sản phẩm trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung việc tiêu thụ sản phẩm hoàn toàn do Nhà nước bao tiêu, theo chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước, doanh nghiệp không cần quan tâm đến sản phẩm của mình có tiêu thụ được hay không. Còn trong cơ chế thị trường ngày nay doanh nghiệp tự quyết định tiêu thụ sản phẩm, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả tiêu thụ sản phẩm II. VAI TRÒ CỦA TIÊU THỤ SẢN PHẨM(TTSP) II. 1Tiêu thụ sản phẩm bảo đảm doanh nghiệp (DN) thực hiện đực mục tiêu của mình Quyết định sự tồn tại, phát triển của DN Bất kỳ một DN nào kinh doanh trên thương trường đều đặt ra 3 mục tiêu cơ bản, lâu dài: Lợi nhuận, thế lực và an toàn trong kinh doanh. Chỉ có điều tuỳ thuộc vàoloại hình DN, tuỳ thuộc vào giai đoạn phát triển của DN (mới thành lập, giai đoạn phát triển, giai đoạn suy thoái. . . ), tùy thuộc vào chu kỳ sống sản phẩm, tuỳ thuộc vào thị trường ( thị trường cũ, thị trường mới. . . ), tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế, cụ thể, nhưng biến động của môi trường kinh doanh. . . mà DN đặt mục tiêu nào là mục tiêu hàng đầu, quan trọng nhất để hướng toàn bộ nỗ lực của DN vào cố gắng thực hiện mục tiêu đó Lợi nhuận là mục tiêu trên hết, trực tiếp, trước mắt, lâu dài và thường xuyên của hoạt động kinh doanh. Vấn đề là làm thế nào để thu được lợi nhuận? Lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí Vậy muốn có lợi nhuận, hoặc tăng doanh thu, hoặc giảm chi phí hoặc kết hợp cả hai. Để tăng doanh thu DN phải tiêu thụ được hàng hoá nhưng phải đảm bảo Tổng doanh thu lớn hơn Tổng chi phí thì mới có lãi. DN tiêu thụ được hàng hoá sẽ thu được doanh thu để bù đắp chi phí và có lãi, thực hiện tái đầu tư vào sản xuất, có vậy DN mới tồn tại và phát triển DN tiêu thụ được sản phẩm, điều đó có nghĩa là sản phẩm của DN được thị trường chấp nhận, thoả mãn được nhu cầu thị trường. Cùng với việc nghiên cứu, phát triển, mở rộng thị trường để tăng tiêu thụ, sản phẩm của DN ngày càng được người tiêu dùng biết đến. Uy tín về sản phẩm, về công ty ngày càng nâng cao, khả năng cạnh tranh của sản phẩm được tăng lên, DN ngày càng tăng thị phần trên thị trường. quy mô kinh doanh ngày càng mở rộng. Tất cả những điều đó tạo nên một "thế lực " đứng vững, cạnh tranh thắng lợi trên thương trường của DN. DN tiêu thụ được sản phẩm tạo ra lợi nhuận, bảo toàn và phát triển vốn để kinh doanh liên tục phát triển, TTSP tạo ra "thế lực " cho DN từ đó tạo ra "hành lang an toàn" trong kinh doanh. Vậy TTSP thông qua bảo đảm các yếu tố vật chất, bảo đảm sự tồn tại, phát triển của DN, bảo đảm sự phát triển mang tính chu kỳ và tái chu kỳ. II. 2 TTSP thực hiên mục đích của sản xuất và tiêu dùng đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến tiêu dùng. Mục đích của nhà sản xuất là sản xuất ra hàng hoá đẻ bán trên thị trường, mục đích của người tiêu dùng là mua được những hàng hoá, thoả mãn nhu cầu với giá vừa phải. TTSP là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung gian gắt kết giữa một bên là nhà sản xuất và phân phối, một bên là người tiêu dùng. Trong quá trình tuần hoàn các nguồn vật chất, việc mua và bán các sản phẩm được thực hiện, hàng hoá được đưa từ nơi sản xuất đến tay người tiêu dùng. II. 3 TTSP có vai trò trong việc cân đối cung - cầu, đồng thời giúp DN xác định phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất cho giai đoạn tiếp theo. Nền kinh tế Quốc dân là một thể thống nhất với những cân bằng, những tương quan tỷ lệ nhất định. Sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ, tức là sản xuất diễn ra một cách bình thường, trôi chảy, sản xuất và tiêu thụ ổn định diễn ra theo đúng quy luật cung- cầu của nền kinh tế thị trường, giữ bình ổn xã hội. Vì vậy mà DN có thể dự đoán chính xác lượng tiêu thụ hàng hoá, từ đó có kế hoạch sản xuất cho giai đoạn sau nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Đâu có cầu là nơi đó sẽ có cung, hàng hoá sẽ được vận động từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ nơi có giá cao đến nơi có giá thấp. Vấn đề là DN cần phải nắm bắt kịp thời nhu cầu của khách hàng để có kế hoạch sản xuất phù hợp, kế hoạch phân phối hàng kịp thời để tăng hiệu quả kinh doanh. III. NỘI DUNG CỦA TTSP III. 1Điều tra nghiên cứu thị trường để lựa chọn sản phẩm thích ứng Điều tra nghiên cứu thị trường là khâu đầu tiên và là khâu quan trọng trong việc thành công hay thất bại của hoạt động TTSP của các DN sản xuất kinh doanh. Nghiên cứu thị trường để xác định cơ hội hấp dẫn đối với DN, từ đó xác định thị trường để tìm thị trường trọng điểm, sau đó tìm cách tiếp cận trường trọng điểm để xác định thị trường thích hợp của DN-là thị trường đảm bảo DN có khả năng khai thác hết cơ hội kinh doanh trên cơ sơ phát huy tối đa tiềm lực của DN, không quá rộng để DN có khả năng bao quát thị trường nhưng không quá hẹp để khỏi bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Thông qua nghiên cứu thị trường phải trả lời ba vấn đề cơ bản trong kinh doanh: III. 1. 1Sản xuất cái gì ? Nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu của người tiêu dùng từ đó sản xuất ra sản phẩm phù hợpvới nhu cầu của họ. "Sản xuất cái gì" nghĩa là DN phải xác định được tên gọi cụ thể của sản phẩm, quy cách, chủng loại như thế nào để kích thích nhu cầu và sản xuất sản phẩm đó bằng cách nào để với chi phí thấp nhất mà sản phẩm vẫn đảm bảo chất lượng, thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. III. 1. 2 Bao nhiêu Bao nhiêu về số lượng, chất lượng và giá cả? Số lượng hàng hóa phải phù hợp với quy mô, dung lượng thị trường tiêu thụ, không quá nhiều để gây ứ đọng, ế thừa và cũng không quá ít để gây thiếu hụt, tạo sự mất cân đối cung cầu nhất là đối với những loại sản phẩm có tính độc quyền (xăng dầu, điện. . . ) và số lượng phải tuỳ theo từng chủng loại, quy cách hàng hoá. Chất lượng sản phẩm không phải tuỳ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà sản xuất, mà chất lượng sản phẩm phải phù hợp với thị trường, phù hợp với những biến đổi nhu cầu. Vậy thì thế nào là sản phẩm có chất lượng tốt? Một sản phẩm có chất lượng tốt là sản phẩm có "chất lượng vừa đủ". Vừa đủ nghĩa là phải phù hợp với túi tiền của người tiêu dùng, khách hàng luôn có sở thích đói với những sản phẩm có chất lượng tuyệt hảo nhung khả năng thanh toán hay túi tiền của họ có cho phép họ mua hay không? Đó là vấn đề mà DN nào cũng phải quan tâm, phải suy nghĩ đắn đo và đó chính là lý do cần phải đa dạng hoá trong sản xuất sản phẩm để đáp ứng nhiều dạng nhu cầu của thị trường. Ngày nay chất lượng sản phẩm có xu hướng giảm tương đối, độ tiện lợi tăng, tăng dịch vụ kèm theo và đa chức năng được tăng lên. Giá cả? không phải là kỹ thuật nghiệp vụ đánh giá mà vấn đề quan trọng là quan điểm và chính sách giá. III. 1. 3 Cho ai? Cho ai -đối tượng tiêu dùng cụ thể với những tâm lý, thị hiếu và tâm linh của họ. III. 2Huy động các nguồn lực để sản xuất ra sản phẩm hàng hoá phù hợp với nhu cầu thị trường. Sau khi nghiên cứu thị trường, xác định được thị trường thích hợp và sản phẩm thích hợp thì việc tiếp theo DNphải tổ chức sản xuất ra sản phẩm phù hợp đó. Để tổ chức sản xuất ra sản phẩm thích ứng, DN cần phải phát huy nguồn lực của DN và tận dụng nguồn lực bên ngoài. Quan trọng vẫn là phát hiện, nâng cao nguồn nội lực (vốn, lao động, công nghệ. . . ) trên cơ sở nghiên cứu thị trường DN nghiên cứu sáng tạo ra hàng hoá phù hợp với nhu cầu. Nhưng DN cần phải biết tận dụng mọi cơ hội kinh doanh, phải biết khai thác thuận lợi môi trường xung quanh bên ngoài DN. Tiêu thụ sản phẩm làm cho sản phẩm trở thành hàng hoá trên thị trường. Hiện nay có ba quan niệm về hàng hoá: + Quan niệm cổ điển: hàng hoá là sản phẩm của lao động có giá trị và giá trị sử dụng + Quan niệm hiện đại: tất cả những thứ là đối tượng của trao đổi mua bán đều là hàng hoá. Như vậy quan niệm hiện đại đã phân biệt sản phẩm của lao động và không là sản phẩm của lao động. + Quan niệm marketing về hàng hoá:"bán cái thị trường cần chứ không phải bán cái mà ta có", nhưng DN cũng cần phẩi biết bán cái mà ta có vì không phải lúc nào DN cũng làm được điều trên. Hàng hoá được chia làm hai bộ phận cấu thành: Yếu tố tạo thực thể vật chất của hàng hoá( đặc tính cơ học, đặc tính hoá học, lý học. . . )bộ phận này có thể dùng phương pháp thí nghiệm, thực nghiệm, cân đong đo đếm được. Yếu tố phi thực thể của hàng hoá( tên gọi, nhãn hiệu, màu sắc hình dáng, kích thước, bao bì, dịch vụ kèm theo. . . ). Ngày nay không phải các yếu tố tạo thực thể vật chất của hàng hoá là quan trọng nhất mà là các yếu tố phi thực thể, DN bán được hàng hoá thì trước hết là bán yéu tố phi thực thể. III. 3. Xây dựng chiến lược tiêu thụ, chiến lược và sách lược sản phẩm, chiến lược tiếp thị. Chiến lược tiêu thụ là định hướng hoạt động tiêu thụ của DN cho một thời kỳ nhất định với những giải pháp nhằm thực hiện những mục tiêu đề ra. Mục tiêu củachiến lược tiêu thụ gồm: Mặt hàng tiêu thụ, tăng doanh số, tăng lợi nhuận và mở rộng thị trường kể cả thị trường trong và ngoài nước. Chiến lược tiêu thụ sản phẩm ở tầm vĩ mô sẽ giúp cho DN đi đúng hướng theo mục tiêu chung của nền kinh tế. Nó phục vụ cho hoạt động đối ngoại và có vai trò pkông nhỏ trong viêc thúc đẩy tăng trưởng của một ngành nói riêng và của một nền kinh tế nói chung góp phần ổn định nền kinh tế chính trị xã hội. Chiến lược tiêu thụ sản phẩm của DN giúp DN nắm bắt được nhu cầu khách hàng từ đó chủ động đối phó với những diễn biến của thị trường giúp DN mở rộng thị trường mới, kế hoạch hoá về khối lượng tiêu thụ, doanh thu, lợi nhuận, chọn kênh tiêu thụ và các đối tượng khách hàng. Chiến lược sản phẩm là bộ phận quan trọng của chiến lược tiêu thụ sản phẩm. Trong chiến lược tiêu thụ sản phẩm của DN, bên cạnh chiến lược sản phẩm "xương sống"cần có chiến lược đa dạng hoá sản phẩm, chiến lược sản phẩm kế tiêp, chiến lược tối ưu hoá quy mô sản phẩm. Sách lược tiếp thị DN cần phải xây dựng sách lược tiếp thị hợp lý nghĩa là tuỳ từng khu vực thị trường, tuỳ vào sự nổi tiếng của sản phẩm, sự nổi tiếng của hãng mà lựa chọn sách lược tiếp thị. III. 4 Xây dựng chính sách giá và xác định mức giá sản phẩm thích hợp. Trong kinh doanh việc xác định giá sản phẩm là vô cùng khó khăn vì giá sản phẩm ảnh hưởng tới doanh thu của DN (Tổng doanh thu = Giá x Tổng lượng bán) DN muốn tồn tại phất triển thì kinh doanh phải có lãi nghĩa là doanh thu đủ bù đắp chi phí và có lãi. Vì vậy nếu định giá cao thì DN thu được nhiều lợi nhuận nhưng giá cao làm cho lượng hàng bán giảm vì người tiêu dùng khó chấp nhận mức giá cao, lợi nhuận giảm, đó là một sự mâu thuẫn. Vì vậy việc định giá sản phẩm làm sao phù hợp với túi tiền của người tiêu dùng mà vẫn đảm bảo lãi là một điều vô cùng khó khăn. Chính vì vậy mà DN cần phải đưa ra quyết định rõ ràng về chính sách giá của mình. Các chính sách giá đúng cho phép DN có thể định giá và quản lí giá có hiệu qủa trong kinh doanh. Chính sách giá thể hiện sự lựa chọn đúng đắn các tình huống cần giải quyết khi đặt mức giá giúp cho việc chấp nhận giá và ra quyết định mua sắm của khách hàng đượ dễ dành hơn. Các chính sách giá được áp dụng: + Chính sách về sự linh hoạt của giá: phản ánh cách thức sử dụng mức giá như thế nào đối với các đối tượng khách hàng. DN phải lựa chọn giữa chính sách một giá (đưa ra một mức giá đối với khách hàng mua hàng trong cùng một điều kiện cơ bản và cùng một khối lượng) và chính sách giá linh hoạt (đưa ra cho khách hàng khác nhau các mức giá khác nhau trong cùng các điều kiện cơ bản và cùng khối lượng). + Chính sách về mức giá theo chu kỳ sống của sản phẩm: Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà có thể lựa chọn các chinh sách giá khác nhau. Chính sách giá " hớt váng" đưa ra mức giá cao nhất cố gắng bán ở mức giá cao nhất của thị trường nhằm tăng tối đa việc hớt phần ngon của thị trường. Chính sách giá "xâm nhập" đưa ra một mức giá thấp để có thể bán được hàng hoá với khối lượng lớn trên thị trường. Chính sách giá "giới thiệu" đưa ra mức giá thấp bằng cách cắt giảm giá tạm thời để lôi kéo sự chú ý và dùng thử của khách hàng. Chính sách giá "theo thị trường đưa ra mức giá trên cơ sở phân tích giá của đối thủ cạnh tranh trên thị trường. + Chính sách giá theo chi phí vận chuyển. Để thoả mãn nhu cầu của khách hàng, sản phẩm phải được vận chuyển đưa đến địa điểm sử dụng theo yêu cầu của họ. Chi phí vận chuyển có thể là rất cao, đối với một số sản phẩm có thể chiếm từ 50-60% giá trị được giao của hàng hoá. Điều này yêu cầu cần phải tính đến một cách nghiêm túcvà sáng tạo chi phí vận chuyển khi xác định mức giá. Giá công bố có bao hàm chi phí vận chuyển không?nên tính như thế nào, ai trả chi phí vận chuyển?Có bốn loại chính sách giá theo chi phí vận chuyển: giá giao hàng theo địa điểm, giá giao hàng theo vùng, giá giao hàng đồng loạt và giá vận chuyển hấp dẫn. + Chính sách giá và chiếu cố giá:giảm giá là một trong những công cụ quan trọngmà DN có thể sử dụnglàm tăng hiệu quả của hoạt động bán hàng, bởi vậy có chính sách giá đúng để DN thực hiện thành công chiến lược marketing của mình. Có rất nhiều chính sách giảm giá:giảm giá theo khối lượng mua nhiều, giảm giá theo thời hạn thanh toán, giảm giá theo thời thời vụ. III. 5 Lên phương án phân phối vào các kênh tiêu thụ và lựa chọn các kênh phân phối sản phẩm. Mọi phương án phân phối hàng hoá đặt trong yêu cầu chung về hiệu quả hoạt động kinh doanhcủa DN, nó phụ thuộc rất nhiều vào các loại phương tiện vận chuyển hiện có trên thị trường và khả năng khai thác các phương tiện đó. Phân phối hàng hoá phải vừa đảm bảo cho khách hàng mua hàng thuận lợi nhất, tiện nhất. Nhưng trong điều kiện sản xuất công nghiệp hiện đại với quy mô lớn và khách hàng rải rác ở khắp mọi nơi trên thế giới thì việc phân phối hàng hoá phải vừa đảm bảo chi phí vận chuyển nhỏ nhất, đảm bảo chính xác về thời gian, thuận tiện cho khách hàng là điều vô cùng khó. Vậy tốt nhất là nên chọn phương án phân phối hàng hoá sao cho nó có khả năng đáp ứng ở mức độ hợp lý cho tất cả các mục tiêu của DN trừ các yêu cầu đặc biệt từ phía khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường, việc TTSP được thực hiện bằng các kênh khác nhau tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tổ đặc điểm, chất lượng hàng hoá, điều kiện vận chuyển, bảo quản, sử dụng. . . theo đó các sản phẩm vận động từ DN sản xuất (nhà cung cấp) đến người tiêu dùng cuối cùng. Nếu căn cứ vào mối quan hệ DN - người tiêu dùng cuối cùng, có hai loại kênh phân phối:trực tiếp và gián tiếp. III.5.1. Kênh phân phối trực tiếp: Người sản xuất( tổ chức đầu nguồn)--người tiêu dùng cuối cùng. Ưu điểm: Bảo đảm lưu chuyển hàng hoá nhanh, giảm chi phí lưu thông nên tỷ suất lợi nhuận tăng, quan hệ giao dịch mua bán thuận tiện, đơn giản. Do DN giao dịch trực tiếp với khách hàng nên DN hiểu được nhu cầu thị hiếu với khách hàng, tâm lý, giá cả của người tiêu dùng từ đó dự đoán nhu cầu, nắm dược nhu cầu và tìm biện pháp thoả mãn tốt nhất nhu cầu đó. Nhược điểm: Chưa có chuyên môn hoá trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên năng suất lao động chưa không cao, hoạt động bán hàng diễn ra chậm, tốc độ chu chuyển vốn chậm. Quan hệ thị trường hẹp vì khó mà tìm ra đượcngười tiêu thụ cuối cùng với quy mô lớn và khối lượng ổn định. Áp dụng: Hàng lâu bền, giá trị lớn (ô tô. . . ), hàng hoá có tính chất thương phẩm đặc biệt là hàng tươi sống. III.5.2. Kênh phân phối gián tiếp:có ba hình thức: Người sản xuất - tổ chức cung ứng bán lẻ bán lẻ bán lẻ bán buôn bán buôn môi giới Người tiêu dùng cuối cùng Ưu điểm:Tính chuyên môn hoá thể hiện rõ nét trong kênh phân phối gián tiếp làm năng suất lao động tăng, tăng hiệuquả kinh doanh, tạo đièu kiện phát triển sản xuất, mở rộng thị trường, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất. Chu kỳ quay của vốn =Tsx + Tlt Tsx:thời gian sản xuất sản phẩm Tlt:thời gian lưu thông Mặc dù thời gian lưu thông dài làm tăng chi phí lưu thông nhưng thích hợp với quan hệ sản xuất và lưu thông nhiều loại sản phẩm, phù hợp với quan hệ mua bán nhiều loại DN. Nhược điểm: trong kinh doanh ngày nay DN_A DN_B DN_C . . . Trong đó: Bán hàng. Thông tin phản hồi. Trong quá trình bán, các DN mua hàng của nhau và đem bán cho DN khác nhưng dòng thông tin ngược thì không bao giờ được phản hồi đầy đủ. Nhiều DN đi chiếm dụng vốn của DN khác nên chỉ cần DN gặp khó khăn, phá sản, là kéo theo sự ảnh hưởng thiệt hại của một loạt DN khác. Áp dụng: Hàng hoá có giá trị không lớn, khách hàng mua với số lượng ít, phân tán. quy mô của sản xuất kinh doanh lớn hơn rất nhiều vùng tiêu thụ thì DN cần phải nhờ đến người bán buôn để mở rộng thị trường. III. 6. Xúc tiến bán. Xúc tiến bán là nhóm công cụ truyền thông sử dụng hỗn hợp các công cụ cổ động, kích thích khách hàng nhằm tăng nhanh nhu cầu về sản phẩm tại chỗ tức thì. Xúc tiến bán hàng còn gọi là khuyến mại có tác động trực tiếp và tích cực tới việc tăng doanh số bằng những lợi ích vật chất bổ xung cho người mua. Thực chất đây là các công cụ kích thích để thúc đẩy các khâu: cung ứng, phân phối và tiêu dùng đối với một hoặc một nhóm sản phẩm hàng hoá của công ty. Đối với những sản phẩm truyền thống hoặc đã lưu thông thường xuyên trên thị trường thì việc xúc tiến bán hàng được tiến hành gọn nhẹ hơn. Cần đặc biệt quan tâm tới xúc tiến bán sản phẩm mới hoặc sản phẩm cũ trên thị trường mới. Cần thực hiện các chiến lược quảng cáo, tiếp thụ hiệu quả cho các sản phẩm mới. Ngoài việc thực hiện một loạt các chính sách xúc tiến bán: quảng cáo, chiêu thị, chiêu hàng, giảm giá, thiết lập mạng lưới tiêu thụ hợp lý... thì DN không được phép quên lực lượng nhân viên bán hàng, cần phải xây dựng đội ngũ nhân viên bán hàng có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao vì “ bán hàng không những là nghề mà còn là một nghệ thuật”. Một nhân viên bán hàng giỏi là một nhân viên bán được cả hãng, cả công ty. Muốn tiêu thụ được hàng hoá phải thực hiện 4 cho: cho chon, cho thử, cho đổi, cho trả. III. 7. Thực hiệc các kỹ thuật nghiệp vụ bán hàng và đánh giá kết quả TTSP. Thực hiện các kỹ thuật nghiệp vụ bán hàng và đánh giá kết quả TTSP. Trong đó nghiệp vụ thu tiền là rất quan trọng. Trong trường hợp mặc dù hàng hoá đã được phân phối hết cho các kênh tiêu thụ hoặc đã giao xong cho người mua. Song chưa thu được tiền về thì hoạt động tiêu thụ vẫn chưa kết thúc. Hoặc trong thường hợp DN đã thu được tiền về từ các trung gian nhưng hàng hoá vẫn ứ đọng tại đó, chưa tới tay người tiêu dùng thì việc tiêu thụ mới kết thúc trên danh nghĩa. Chỉ khi nào tiền bán hàng được thu từ tay người tiêu dùng cuối cùng thì hoạt dộng tiêu thụ mới thực sự kết thúc. Đánh giá kết quả TTSP thông qua các chỉ tiêu định tính và định lượng. III. 7. 1Chỉ tiêu định lượng: + Chỉ tiêu kết quả:tổng khối lượng hàng bán, tổng doanh thu, tổng chi phí, tổng số lao động. . . + Chỉ tiêu hiệu quả: Lợi nhuận = Tổng doanh thu- Tổng chi phí Tổng lợi nhuận Mức doanh lợi M1=----------------------- x 100% Tổng doanh thu Tổng lợi nhuận Mức doanh lợi M2= ----------------------------- x100% Tổng vốn kinh doanh Tổng lợi nhuận Mức doanh lợi M3=------------------------------x100% Tổng chi phí Tổng doanh thu Năng suất lao động=--------------------------- Tổng số lao động Tổng khối lượng thực hiện =------------------------------------- Tổng số lao động III. 7. 2 Chỉ tiêu định tính Tốc độ mở thị trường, khả năng củng cố lòng tin đối với khách hàng Độ mở của thị trường: là chỉ tiêu định mức độ gia tăng về doanh số bán của DN trên thị trường truyền thống hoặc mức độ gia tăng doanh số bán(thị phần)trên một thị trường mới. Chỉ tiêu mức độ gia tăng về uy tín của DN hoặc uy tín của những sản phẩm của DN. Sự tăng lên về thị phần tương đối của DN so với đối thủ cạnh tranh tiềm tàng. Mức độ thoả mãn người tiêu dùng thông qua việc cung cấp những sản phẩm dịch vụ của DN CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM I. THỰC TRẠNG TTSP Ở THỊ TRƯỜNG NƯỚC NGOÀI. Theo báo cáo tổng cục hải quan tính đến ngày 20/11/99 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của việt nam là 19, 945 tr USD nhập siêu 1, 4% tổng tiêu ngạch. Trong đó xuất khẩu 9, 903tr USD, nhập khẩu 10, 042 tr USD Biểu II. 1 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam - 1999 STT Mặt hàng XK Khối lượng (triệu tấn) Trị giá (triệu USD) 1 2 3 4 5 6 7 Dầu thô Gạo Cà phê Cao su Dệt may Giầy dép Hải sản 12, 9 4, 23 0, 3787 0, 210 1. 699 965 477 114, 9 1. 489 1. 207 8227 Trên cơ sở tổng hợp và phân tich tình hình dự báo, các chuyên gia Bộ Thương Mại báo cáo tổng kim ngạch xuất khẩu 1999 ước11ty USD, tăng 17,5% so với 1998, vượt 10, 5% so với kế hoạch. Trong đó DNVN 8,55 tỷ USD, chiếm 77,7%, tăng 15,8%, DN có vốn đầu tư nước ngoài là 2,45 tỷ USD chiếm 22,3%, tăng 23,6%. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: gạo, dầu thô, dệt may da giầy, cà phê, hải sản, điện tử. Tính đến tháng 11/99, 4 mặt hàng công nghiệp đạt giá trị KNXK trên 1tỷ USD là: dầu thô, dệt may, da giầy, gạo. một số mặt hàng tuy KN chưa lớn nhưng có mức tăng cao: máy động lực, máy công nghiệp, sữa bột, dầu thực vật. Cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực hơn: tỷ trọng nguyên liệu thô và sơ chế giảm. Biểu II. 2 Tỷ trọng ngành hàng xuất khẩu STT Ngành Tỷ lệ % Giá trị (triệu USD) 1 2 3 4 5 6 Nông lâm sản Hải sản Dệt may+Da giầy Điện tử và linh kiện điện tử Thủ công mỹ nghệ Lĩnh vực khác 18, 2 8, 6 28 5, 3 1, 5 19, 4 2000 950 3100 580 180 2130 I. 1 Ngành cà phê Theo thống kê của hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam (VICOFA) niên vụ cà phê 1998-1999 Việt Nam XK 404.206 tấn cà phê nhân, tăng so với 97/98 khoảng 10. 000 tấn. Biểu II. 3 Danh sách 10 công ty XK cà phê lớn nhất Việt Nam STT Doanh nghiệp Khối lượng (tấn) Giá trị (triệu USD) 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. VINA cà phê Công ty 2/9 Enxim Đắc Lắc Công ty TM du lịch Hiệp Phước Công ty XNK Gia Lai Công ty Tín Nghĩa Công ty cà phê Phước An Công ty PETEC Công ty Thắng Lợi Công ty TM XNK Gia Lai 52. 300 51. 789 46. 184 28. 740 26. 044 20. 268 17. 131 13. 027 9. 880 9. 803 72, 277 70, 509 64, 174 40, 7 34, 2 27, 1 24, 036 17, 853 14, 194 13, 18 Những cây cà phê đầu tiên được trồng trên đất Việt Nam là do các giáo sỹ truyền giáo đưa vào trồng từ năm 1857 ở khu vực các nhà thờ tu viện thiên chúa giáo thuộc 2 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị. Đến cuối thế kỷ 19 các đồn điền trồng cà phê đầu tiên là ở các tỉnh miền bắc: Hà Nam, Sơn Tây, Hoà Bình, Tuyên Quang, Phú Thọ, Phủ Quỳ. Vào những năm 1920-1925 khi phát hiện ra vùng cao nguyên Bazan ở miền trung. Người ta mới mở ra các đồn điền cà phê ở Tây Nguyên. Nhưng cả một thời gian dài diện tích trồng cà phê chưa được mở rộng, đến trước năm 1995 miền bắc có 14000 ha miền nam có 14. 420 ha, cả nước25. 420ha Sau ngày đất nước thống nhất 1975, ngang cà phê Việt Nam đi vào thơi kì phát triển, sản lượng sản xuất ra chủ yếu để XK thu ngoại tệ. Theo số liệu tổng cục thống kê và ngành Cà phê thì sản xuất Cà phê của ta mỗi năm một tăng. Biểu II. 4 Tình hình sản xuất, XK cà phê qua các năm Năm Diện tích(ha) Sản lượng sản suất Khối lượng XK theo niên vụ (tấn) Kim ngạch (Triệu USD) 1995 1996 1997 1998 1999 175. 000 230. 000 250. 000 320. 000 240. 000 350. 000 360. 000 410. 530 233. 000 246. 000 350. 000 390. 000 360. 000 520 420 400 600 540 Sản xuất Cà phê Việt Nam có những điều kiện thuận lợi về khí hậu, đất đai, tập chung ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, các tỉnh miền trung và miền núi phía bắc (Sơn La, Lai châu, Yên Bái, Hà Giang), điều kiện thổ nhưỡng khí hậu ở vùng này thích hợp với loại Cà phê Arabica nên năng xuất khá cao. Tây nguyên với bốn tỉnh: Đắc Lắc, Lâm Đồng, Gia Lai, KonTum là khu vực chủ lực của ngành Cà phê Việt Nam. Diện tích Cà phê của khu vực này lên tới 180. 000 ha chiếm hơn 78% tổng diện tích trồng Cà phê cả nước trong đó Đắc Lắc với diện tích và sản lượng Cà phê là lớn nhất, chiếm 60% của cả khu Tây Nguyên. sự mở rộng của chính sách XNK theo nghị định số 57/1998/NĐ – CP của Chính Phủ đã tạo nhiều thuận lợi cho các DN có thể tham gia xuất khẩu Cà phê. Từ 30 DN XK Cà phê vụt tăng lên 100 DN. Riêng Đắc Lắc từ 16 DN tăng lên 26 DN. Hiện nay sản lượng sản xuất Cà phê của Đắc Lắc chiếm 60% tổng sản lượng Cà phê cả nước. Theo thống kê của sở thương mại Đắc Lắc. Sản lượng Cà phê xuất khẩu niên vụ 98 / 99 (1/10/98 – 30/9/99) đạt 218.596 tấn, tăng 3,5% so với niên vụ 97/98, kim ngạch khoảng 300 triệu USD, giảm 7,2%. Sản lượng tăng, kim ngạch giảm là do giá giảm, giá XK bình quân khoảng 1.372 USD/tấn, giảm 10% so với 97/98 đây là lần đầu tiên sau nhiều năm KNXK Cà phê Đắc Lắc giảm do giá thế giới giảm. tỷ lệ Cà phê R1 của Đắc Lắc vừa qua đạt thấp, khoảng 18000 tấn, chiếm 8% tổng lượng xuất khẩu thấp hơn tỷ lệ R1 chung của cả nước 11% làm giảm KNXK. (Chỉ riêng hai loại Cà phê chất lượng R1, R2 chênh lệch 100 USD/tấn, giữa R2 –5% và R2 -8% chênh lệch 40 đến 60 USD/tấn). Điều đáng mừng là chất lượng Cà phê xuất khẩu của Việt Nam ngày càng có uy tín trên thị trường Thế giới: Biểu II. 5 Chất lượng xuất khẩu tăng hàng năm(đơn vị:%). Cấp hạng chất lượng 94/95 95/96 96/97 97/98 Loại I Loại II A Loại II B Tiêu thụ nội bộ 2 15 80 3 6 45 44 5 7 60 27 6 16 72 5 7 Thị trường XK ngày nay càng được mở rộng. Trước năm 90 khoảng 50% khối lượng cà phê XK của Việt Nam là sang thị trường Liên Xô và Đông Âu, 50% còn lại là sang thị trường Singapore thực chất là một thị trường trung chuyển. Đến năm 1996 XK cà phê Việt Nam đã sang tới 30 quốc gia, chủ yếu là XK trực tiếp. Đặc biệt cà phê Việt Nam đã được XK trực tiếp sang các thị trường khó tính như Đức, Anh, ý. Đáng lưu ý là Mỹ thị trường nổi tiếng là khó xâm nhập nhưng năm 1996 đã tiêu thụ khoảng 1/3 khối lượng cà phê XK của Việt Nam. Hiên nay Đức đă trở thành nhà nhập khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam. Trong 11 tháng năm 99 vừa qua tổng lượng xuất khẩu : 362000 tấn kim ngạch khoảng 500 triệu USD Biểu II. 6 Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam Tỷ lệ % Đức Mỹ Italia Tây Ban Nha Anh Bỉ 16, 5 15, 5 10, 6 8, 8 7, 7 6, 3 Cà phê đặc sản (Gounmet coffee) được quảng cáo bằng tên hấp dẫn: Cà phê trăng rằm (full moon coffee) hay cà phê gã chăn bò thứ thiệt (real Cowboy coffee). . . tiêu thụ đang tăng nhanh chóng trên thế giới, các cửa hiệu chuyên bán cà phê đặc sản đang mọc lên như nấm tại Mỹ, các thành phố lớn ở Châu Âu và Nhật Bản nhưng mức tiêu thụ của Mỹ giảm từ 10kg/người/năm nay chỉ ở mức 4kg. Nguyên nhân của tình trạng này là phần lớn cà phê tiêu thụ ở Mỹ không phải là loại có phẩm chất cao nhất nên hiện nay Mỹ đang tích cực quảng cáo, khuyến trương cho loại cà phê này người tiêu dùng Mỹ thích loại cà phê này và thị trường tăng tốc độ 30%/năm. đây là một thị trường đầy hứa hẹn cho xuất khẩu cà phê Việt Nam sang Mỹ, nếu chất lượng cà phê của Việt Nam đạt được tiêu chuẩn quốc tế về độ axit, mùi quả và các mùi vị khác Theo dự đoán mới nhất của Bộ nông nghiệp Mỹ sản lượng cà phê thế giới 99/2000 giảm 20%(2, 13tr bao)so vụ trước còn 104, 5 tr bao: Biểu II. 7 Sản lượng cà phê thế giới Niên Vụ 97/98 98/99 99/2000 Sản Lượng (tr bao) 97, 67 106, 63 104, 50 Brazin Côlômbia Indônêxia Việt Nam Mêxicô 23, 5 12, 03 7, 2 6, 67 4, 97 34, 7 11 6, 85 6, 33 4, 95 26, 5 12, 7 7, 2 6, 45 5, 3 Tiêu thụ 101, 86 103, 2 104, 30 Sau niên vụ cà phê 97/98 bội thu, KNXK đạt khoảng 600 tr USD, thì niên vụ 98/99 lại chịu nhiều biến động. Sản lượng cà phê quả năm nay giảm không nhiều, nhưng sản lượng cà phê hạt đạt thấp 394.000 tấn cà phê nhân, bằng 90-98% so vụ trước. Chất lượng cà phê không được cải thiện: cỡ hạt nhỏ, tỉ lệ hạt đen, vỡ nhiều do thời tiết khô hạn, ở giữa năm rồi mưa kéo dài cuối năm 98, mưa cuối vụ ở Tây Nguyên gây ảnh hưởng đến quá trình chăm sóc, thu hoạch, bảo quản, phơi sấy. Trong khi đó cà phê thế giới lại được mùa lớn ước đạt 106,8 triệu bao(1 bao=60kg) tăng khoảng 9,1tr bao so vụ trước, riêng Brazin đạt trên 3tr bao. Mặt khác nhu cầu tiêu thụ càphê trên thế giới có phần giảm sút do khủng hoảng tài chính khu vực Tình hình đó làm giá cà phê giảm nhanh chóng ở mức 1305USD/tấn, giảm khảng 250USD/tấn so với cùng kì năm ngoái, giảm 200USd/tânso với đầu năm nay. Giá cà phê Rôbusta loại 2 có 5% hạt đen vỡ đã xuống ở mức 1280-1290USD/tấn, giảm 18% so với tháng 1 năm 99(1567USD/tấn). Sáu tháng đầu năm 99, khó khăn đang chồng chất thì các DNXK cà phê lại phải chịu thêm giá cước vận chuyển tăng. Từ ngày 1/4/99 giá cước tăng thêm 150USD đi các nước Châu Âu và 750USD đi các nước Băc Mỹ trên mỗi container 20 feet. Năm 1998 Việt Nam xuất khẩu cà phê vào 36 thị trường nước ngoài, nhưng riêng 4 tháng đầu năm 99,12 thị trường giảm tỉ trọng nhâp khẩu. Các thị trường có tỉ trọng giảm mạnh đáng lưu ý là Mỹ giảm 9,5% Thái Lan giảm 2,5%, Pháp - 1,6%, Iran năm 98 nhập khẩu 2% thì bốn tháng đầu năm chưa nhập nhưng cũng có một số thị trường tăng tỉ trọng nhập khẩu cà phê Việt Nam. Trong 4 tháng đầu năm 99 Thuỵ Sĩ tăng 5% Italia tăng 2,1% so cùng kỳ. Điều đáng quan tâm là năm nay do nắm được thông tin giá cả cho nên người trồng cà phê đã không bán ồ ạt, khống chế số lượng nhằm giữ giá cà phê. Hiện nay lượng lưu kho trong DN và trong dân còn khá lớn khỏng 65 đến 60000 tấn riêng các DN của VINACAFÊ còn năm nghìn tấn. I. 2 . Ngành giầy dép. Ngành công nghiệp giầy dép của nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển có vị trí rất quan trọng trong giai đoạn đầu của quá trình p._.hát triển kinh tế đất nước, góp phần tạo ra công ăn việc làm, tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngoại tệ qua đẩy mạnh xuất khẩu. Đối với Việt Nam ngành công nghiệp giầy dép cũng có tầm quan trọng như vậy. Sau khi Liên Xô và Đong Âu tan rã, toàn bộ chương trình hợp tác gia công mũ giầy với các nước này cũng chấm dứt. Ngành Da giầy Việt Nam chuyển sang thời kỳ phấp triển mới, tiếp nhận sự chuyển dịch sản xuất các sản phẩm giầy dép từ các nước trong khu vực để xuất khẩu nhằm khai thác các lợi thế của Việt Nam: Lực lượng lao đông dồi dào, trẻ, khoẻ, tiếp thu nhanh, tiền công lao động thấp, chưa bị các nước nhập khẩu giầy dếp khống chế bằng hạng ngạch và được hưởng ưu đãi thuế quan (GSP) nếu đáp ứng đủ tiêu chuển mà họ yêu cầu. Da giầy là một ngành thu hút nhiều lao động, làm động lực cho một số ngành như chăn nuôi, sản xuất cao su, nhựa, hoá chất... góp phần khôi phục một số làng nghề truyền thống đáp ứng một phần nhu cầu hàng hoá nội địa. Từ năm 1989 đến nay sản lượng giầy dép thế giới liên tục biến động khu vực sản xuất giầy dép lớn nhất là Châu Á (chiếm 2/3 tổng sản lượng thế giới) tiếp theo là Châu Âu và Châu Mỹ. Theo đánh giá của các chuyên gia thì các năm tới các nước Châu á và viễn Đông sẽ chiếm 75% sản lương toàn thế giới (khoảng 10 tỷ đôi) trong đó Việt Nam cũng sẽ là một trong các nước có tiềm năng phất triển ngành này. Hiện nay theo thống kê mới nhất cả nước có khoảng 150 DN sản xuất giầy dép và các sản phẩm bằng da hoặc giả da với tổng sản lượng khoảng 259 tr USD giầy dép các loại và trên 5000 tán sản phẩm khác mỗi năm. Trong đó lượng hàng xuất khẩu tăng bình quân tăng 30%/ năm. Giá trị xuất khẩu ngành da giầy năm 1998 đạt 1000822000 USD. Tính đến 20/11/99 đạt 1207000000USD và dự kiến năm 1999 đạt 1250000000 USD, sản lượng đạt 220 - 225 tr USD. Ở Việt Nam hiện nay, nổi bật là công ty Da giầy Hải Phòng có 9 cơ sở trực thuộc và góp vốn thành lập một công ty liên doanh với nước ngoài. Năm 1998 dạt giá trị sản lượng đạt 638. 283 tr đồng chiếm khoảng 50% sản lượng toàn nhành, số lao động 9. 279 người chiếm 35% tổng số lao động toàn ngành. Công ty giầy Thăng Long năm 1998 doanh thu đạt trên 90 tỷ đồng trong đó xuất khẩu đạt trên 83 tỷ, nhà may giầy. Nhà may giầyBarotex 6 tháng đầu năm 99 đạt 19, 5 tỷ đồng trong đó doanh thu xuất khẩu trực tiếp 19, 181 tỷ đồng. Về năng lực sản xuất của ngành da giầy Việt Nam (theo vốn đầu tư thực hiện - 1998). Hiện nay năng lực sản xuất toàn ngành 300 tr đôi giầy dép các loại, thu hút 300.000 lao động đạt tốc độ tăng trưởng KNXK hàng năm trên 50%. Riêng năm 1998 do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực. Ngành giầy dép chỉ đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 3,8% so với năm 1997 (tức là một tỷ USD) dự kiến năm 99 KNXK đạt 1.250 tr USD, tăng 25% so với năm 1998. Biểu II. 8 Năng lực sản xuất ngành da giầy Chủng loai sản phẩm Tổng số (x1000) Phân bổ theo dạng DN Quốc doanh ngoài QD có vốn ĐTNN Giầy dép các loại(đôi) Túi cặp các loại(đôi) Da thuộc các loại(sqf) 301. 110 26. 570 17. 000 125. 650 70. 550 140. 910 9. 000 2. 770 14. 800 8. 500 7500 1. 000 Hiện nay EU là thị trường nhập khẩu chủ yếu các sản phẩm giầy dép của Việt Nam chiếm khoảng 80% KNXK của Việt Nam. Trị giá XK giầy dép sang EU năm 1996 tăng gấp 30 lần so với năm 1992, từ 1993 đến 1997 tăng bình quân 40-50% một năm. Việt Nam là một trong 5 nướs có số lượng giầy dép tiêu thụ nhiều nhất tại EU do giá rẻ, chât lượng và mẫu mốt chấp nhận được và Việt Nam được hưởng ưu đãi từ thị trường này, chưa bị quản lý băng hạng ngạch, được hưởng ưu đãi thuế quan bằng70% mức thuế bình thường nếu bảo đảm tiêu chuẩn mà họ yêu cầu kim ngạch XK giầy dép của Việt Nam vào Nhật Bản chỉ chiếm 7-8% kim ngạch nhưng chúng ta có khả năng tăng KNXK vào thị trường này trong những năm sắp tới. Việt Nam XK sang Mỹ năm 1998 trên 110 tr USD (chiếm 10%KNXK toàn ngành) nếu có hiệp định thương mại và quy chế tối huệ quốc MFN và các DN Việt Nam đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường và có khả năng cạnh tranh thì chúng ta có thể xuất khẩu giầy dép sang Mỹ với khả năng không thua kém vào EU, thậm chí còn cao hơn. Ngoài ra các khu vực thị trường thế giới như: Trung Quốc, Bắc Âu, Úc, Liên Xô cũ... và cả thị trường nội địa với trên 80 tr dân trong những năm tới cũng sẽ là thị trường đáng quan tâm và có thể phát triển, từ những dự đoán về tình hình sản xuất và nhu cầu thị trường tiêu thụ giầy dép trên thế giới, căn cứ vào tiềm năng và lợi thế của Việt Nam, ngành giầy dép Việt Nam trong những năm tới có thể đạt tốc độ tăng trưởng hàng năm khoảng 20% về KNXK. II. THỰC TRẠNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA. Thị trường trong nước số cung ngày càng vượt quá số cầu cạnh tranh ngày càng gay gắt: Số cung: thêm nhiều DN ra nhập thị trường, năng lực sản xuất của các DN ngày càng ra tăng - sự hiện diện của các DN có vốn nước ngoài - hàng ngoại nhập đặc biệt là hàng nhập lậu không ngừng tấn công vào thị trường nội địa. Số cầu: gia tăng chậm hơn so với số cung - sức mua có khả năng thanh toán còn hạn chế - nhu cầu ngày càng đa dạng và ngày càng trở nên khó tính. Nền kinh tế nước ta đang ở trong giai đoạn cuối cùng của thế kỷ XX, sau nhiều năm hoạt động mức tăng trưởng cao thì hiện nay tốc độ tăng trưởng đã chậm lại và giảm sút. Sáu tháng đầu năm 1999 GDP tăng 4, 3% mức thấp nhất so cùng kỳ 3 năm trước, cụ thể: Biểu II. 9 Mức tăng trưởng GDP 6th/96 6th/97 6th/98 6th/99 GDP Trong đó Sản xuất CN Sản xuất NN +9, 3 +13, 2 +4, 8 +9, 1 +13, 7 +2, 0 +6, 7 +12, 6 +2, 0 +4, 3 +10, 4 Chỉ số giá tám tháng đầu năm tăng 0, 8% so tháng 12/98 là mức thấp nhất so cùng kỳ 5 năm trở lại đây. Chỉ số giá giảm liên tục trong 6 tháng liền từ tháng 3 đến tháng 8. Biểu II. 10 Chỉ số giá tiêu dùng 8 tháng đầu năm 1999 Tháng T3 T4 T5 T6 T7 T8 Chỉ số giá giảm 0, 7% 0, 6% 0, 4% 0, 3% 0, 4% 0, 5% Tổng cầu xã hội giảm sút, lượng lượng hàng tồn kho của một số ngành như sau (tính đến tháng 6 năm 1999) Biểu II. 11 Lượng tồn kho tính đến tháng 6/1999 Ngành Lượng tồn kho (triệu tấn) Trị giá(tỷ đồng) Than Ximăng Đường Thép Cà phê Giấy Cao su Dệt may 3, 2 1, 32 0, 33 0, 16 0, 08 0, 022 0, 018 900 200 1700 640 160 220 150 100 Tỷ lệ lao động không có việc làm tăng lên. Mỗi năm nước ta có từ 1,8 đến 2,0tr người đến tuổi lao động cần phải được thu hút vào khu vực sản xuất. Tuy nhiên do kinh tế 6 tháng đầu năm gặp khó khăn nên số người đến tuổi lao động không được thu hút vào khu vực sản xuất, đồng thời có hiện tượng “chảy ngược “lao động từ một số ngành sản xuất gặp khó khăn ra thị trường lao động tự do, làm tăng áp lực lao động dư thừa, tạo sức ép giảm giá trị ngày công. Tóm lại, giá cả thị trường liên tục giảm xảy ra đồng thời với sự suy giảm tốc độ tăng trưởng GDP tăng tỷ lệ lao động không có việc làm là những đặc trưng cơ bản tạo ra hiện tượng thiểu phát của nền kinh tế trong 7 tháng đầu năm 1999. Tuy nhiên cho đến nay các giải pháp kích cầu của nhà nước đã bắt đầu phát huy tác dụng, chỉ số giá tiêu dùng bắt đầu nhích lên. Tháng 11 giá tiêu dùng tăng 0, 4% so với tháng10. Trong 11 nhóm hàng hoá dịch vụ có 5 nhóm gia tăng (lương thực, thực phẩm, thiết bị đồ dùng gia đình văn hoá thể thao giải trí ) đáng chú ý là lương thực tăng cao nhất 1, 7%. theo dự đoán tháng 12 chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng thậm chí còn cao hơn tháng 11 Ngành thép:Trong thông báo ngày 12/4/1995 về chiến lược phát triển đến 2010. Bộ chính trị đã nhấn mạnh “thép là vật liệu chủ yếu của ngành công nghiệp, có vai trò quyết định tới sự nghiệp CNH, HĐH đất nước…phát triển nhanh ngành thép là một yêu cầu khách quan, cấp bách và có ý nghĩa chiến lược’’. Tuy nhiên thực trạng và triển vọng của ngành thép nước ta còn rất nhiều hạn chế và khó khăn. Từ năm 1998 là năm thứ 3 tổng công ty thép Việt Nam (có thể coi là đại diện cho ngành thép) hoạt động theo mô hình tổng công ty 91 và cũng là năm gặp nhiều khó khăn gay go do tác động của cuộc khủng khoảng kinh tế khu vực nhưng năm 1998 DN đã vươn lên hoàn thành vượt mức mục tiêu kế hoạch đã đề ra: Năm 98 sản lượng thép cân tăng 13,4%, tổng doanh thu tăng 8,7% và nộp ngân sách tăng 4% so với năm 97. Lượng thép toàn ngành bán ra năm 1998 đạt 1.118.200 tấn, tăng 13,4% so với 1997. Đáp ứng được 80% nhu cầu thép trong nước và đạc biệt giữ vững ổn địng giá thép thị trường. Từ năm 1990 đến nay, tổng công ty thép Việt Nam đã đầu tư 650 tỷ đồng đưa sản lượng tăng lên đén 465.000 tấn/năm vào năm 1999 theo ước tính tổng công ty thép Việt Nam tính đến tháng 10/1999 lượng thép tồn kho tại các nhà máy thép tồn kho trong lưu thông trên 200.000tấn. Trong đó thép ống là 4. 000 tấn, gấp đôi lúc bình thường Theo ông Phạm Chí Cường - tổng giám đốc tổng công ty thép Việt Nam-hiện nay các nhà máy thép trong cả nước (kể cả liên doanh nước ngoài) mới chỉ huy động được 65 -75% công suất thiết kế Năng lực sản xuất mỗi năm của ba công ty thuộc VSC là 470.000 tấn thép thô, 700.000 tấn thép cán, 60.000 tấn ống hàn và 100.000 tấn tôn mạ các loại. Do khó khăn nguyên liệu, thị trường và chưa có khả năng XK, dự kiến cả năm 1999 chỉ sản xuất và tiêu thụ 1,3tr tấn Dựa trên các dự báo của viện chiến lược phát triển căn cứ mức tăng tiêu thụ thép từ 1990 đến nay, kết quả khảo sát của JICA 1997, kinh nghiệm của các nước ASEAN. Tổng công ty thép đưa ra con số dự báo như sau: tổng nhu cầu tiêu thụ thép năm 2000: 2, 3tr tấn;2005: 3, 7 tr tấn; 2010:5, 7 tr tấn, tỷ lệ sản phâm dài/ dẹt tương ướng là 61/35; 55/35; 50/50. Tốc độ tăng sản lượng thép bình quân 1998- 2000 là 11%/1năm; 2001-2005 là 10%/năm và 2006- 2010 khoảng 10%/năm. Đến năm 2010 toàn ngành thép có năng lực sản xuất gồm 2 tr tấn thép thô, 4,8 tr tấn thép cán nóng, 0,5 tr tấn thép cán nguội, 0,8 tr tấn sản phẩm gia công sau cán. Lúc đó ngành thép đủ đáp ưng 75% du cầu sản phẩm thép cán. Công ty gang thép Thái Nguyên với năng lực sản xuất 28 vạn tấn thép các loại/năm năm 1998 đã bươn chải khó khăn trong kinh tế thị trường, do ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng kinh tế khu vực nên kết quả sản xuất kinh doanh của công ty gang thép Thái Nguyên sút kém trầm trọng. Một số phân xưởng phải ngừng sản xuất, sản lượng thép cán thành phẩm chỉ đạt 91,77% và giá trị sản xuất công nghiệp chỉ đạt 92,45% so với năm 97 mà lại bị tồn kho tới 2 vạn tấn thép cán, 5000 tấn gang, sản xuất kinh doanh lỗ lớn, tổng nợ lên đến 675 ty đồng gấp hơn 2 lần vốn điều lệ của công ty dẫn đến khả năng mất cân đối thu chi. Trong khi thị trường thép Việt Nam cung đã vượt cầu, hiện nay ứ đọng trong lưu thông hơn 200.000 tấn nhưng công ty tư nhân Nam Vang, một công ty sản xuất và kinh doanh các sản phẩm thép đã đưa doanh thu tăng 10 lần trong 4 năm ngắn ngủi từ 1,5 tỷ đồng năm 1995 (năm thành lập) lên 150 tỷ đồng (hiện nay). Làm nghĩa vụ thuế cũng tăng 10 lần từ 300 tr đồng / năm lên 3000 tr đồng/năm. công ty thép miền nam 9 tháng đầu năm 99 tình hình kinh doanh khó khăn nhưng lượng tiêu thụ của công ty vẫn tăng 5,78% so với 9 tháng cùng kỳ năm ngoái đạt 208.000 tấn, sản lượng luyện phôi thép từ phế liệu 164.000 tấn. Đặc biệt công ty thép Việt Nam là DNVN duy nhất có thép xây dựng xuất khẩu (sang Lào và Campuchia) trong 9 tháng đầu năm 99 công ty xuất khẩu 1.086 tấn thép các loại đạt giá trị khoảng 300.000 USD, tuy nhiên do thị trường mới nên công ty xuất khẩu sang Campuchia với giá rẻ hơn giá nội địa 300 USD/tấn. Ngoài ra công ty còn xuất khẩu sang Australia và các nước Đông Nam Á khác. III- NGUYÊN NHÂN III. 1. Nguyên nhân về phía nhà nước. III. 1. 1Cơ chế quản lý của nhà nước chưa chặt chẽ thiếu đồng bộ Ngành thép: ở thị trường 17 tỉnh phía bắc và lào tiêu thụ 288.500 tấn thép/năm, trong đó sản phẩm thép tư nhân chiếm lĩnh toàn bộ thị phần (trong đó thép đa hội chiếm tỷ trọng lớn). Đa Hội có 530 hộ làm công nghiệp thép, cung cấp 190. 000 tấn thép một năm theo Tổng công ty thép Việt Nam(VSC )các công ty tư nhân không chịu ràng buộc về an toàn lao động, bảo hiểm xã hội, không phải chịu chi phí kiểm tra chất lượng nên giá thành giảm nhiều so với giá thành sản phẩm của doanh nghiệp lớn (trong khi 1kg thép phi 6 của DNNN bán 6500đồng/kg thì thép Đa Hội là 2200 đ/kg). Quý III/99, VSC khảo sát tình hình sản xuất ở 30 cơ sở thuộc DNNN và tư nhân ở 12 tỉnh thành phố phía bắc cho thấy. Ngoài DN cơ khí nhà nước có đăng kí chất lượng với chi cục tổng cục đo lường chất lượng địa phương thì lực lượng thứ 3 là công ty trách nhiệm hữu hạn và tư nhân được thả nổi không thuộc quyền kiểm soát của cơ quan nào. theo VSC hàng năm khu vực này đưa 288.000 tấn thép bán phá giá trên thị trường trong đó công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) sản xuất không đáng kể 30.500 tấn thép chữ U/năm. Nhà máy cơ khí sản xuất 61. 000 tấn, chủ yếu là công ty tư nhân sản xuất 200.000 tấn chiếm 69,44%. Tại các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Ninh Bình, Thái Bình dưới danh nghĩa thép Thái Nguyên, hàng ngàn tấn thép Đa Hội được tiêu thụ qua hệ thống cửa hàng tư nhân vốn là khách hàng thường xuyên của công ty gang thép Thái Nguyên. Với lợi thế giá rẻ, linh hoạt trong cung ứng, sản phẩm thép tư nhân là nhiều cơ sở cơ khí phải lao đao hoặc phải đóng cửa sản xuất. Hầu hết cơ sở sản xuất tư nhân sử dụng máy cán thép thủ công, các loại phôi nhập khẩu, sắt thép phế liệu, phôi tận dụng được nung luyện bằng các lò trung tần, không có các thiết bị khử tạp sử dụng trạng thái đúc gia công áp lực, khuôn nhỏ... nên chất lượng không đảm bảo thép bị rỗ chưa dùng đã gỉ, độ cứng kém nên độ an toàn bị đe doạ. Trong khi các của hang tư nhân kết hợp “kinh doanh kiểu mập mờ con đen” lừa người tiêu dùng (ví dụ: thép phi 16 họ chỉ sản xuất phi 13, 14, 15 mà bằng mắt thường người mua khó phân biệt giữa ba loại phi này). Nhà nước cần quản lý tới các gia đình làm “công nghiệp thép” hướng sử dụng và kiểm soát họ sản xuất đúng quy trình đảm bảo chất lượng giữ vệ sinh môi trường, có nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. III. 1. 2 Quy hoạch, kế hoạch và đầu tư của nhà nước mất cân đối. Khi mà nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý và mỏ cửa hội nhập thị trường trong nước và thế giới có diễn biến phức tạp, thì việc định hướng, dự báo, quy hoạch, kế hoạch, xác định chính sách, đầu tư phải tính đến một cách kỹ lưỡng, khoa học, những quan hệ cân đối lớn như cung _ cầu, xuất nhập, cán cân thanh toán. . để tránh phải thay đổi lớn hoặc phà vỡ quy hoạch, kế hoạch. Kéo theo nhiều sự thay đổi khác. Việc xây dựng các nhà máy đường đã tiến hành không đồng bộ gắn với vùng nhiên liệu. Ở phía Nam ngoài 4 nhà máy ép của tổng công ty mía đường, 2 nhà máy của các địa phương và 13 nhà máy 100% vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động với tổng công suất 20.250 tấn /ngày. hiện có thêm 8 nhà máy đưa tổng số lên 25 nhà máy với tổng công suất 367500 tấn/ngày tiêu thụ 5,5 tấn mía cây. Trữ lượng mía dùng để ăn tươi, làm giống là giành cho khu vực chế biến đường thủ công, sản lượng trên khó được đáp ứng đủ. Việc đầu tư xây dựng tràn lan các nhà máy đường, mía không có quy hoạch cho các vùng nguyên liệu nên ngành mía đường có sự điều chế. III. 1. 3 Nhà nước chưa thông tin kịp thời đầy đủ, cụ thể, về thị trường nước ngoài cho DN. Sáu tháng đầu năm 99 ngành than xuất khẩu có tăng, đạt 1, 52 triệu tấn, tăng 16% nhưng do giá than giảm khoảng 13% so với giá bán bình quân năm 1998 nên KNXK đạt 45, 06 tr USD chỉ tăng 15%. đây là một ngịch lý và là mối quan tâm của nhiều bộ, ngành hữu quan. Nguyên nhân có nhiều nhưng tình trạng thiếu thông tin về thị trường xuất khẩu của các DN là đáng báo động hơn cả. các DN có hàng trong tay nhưng không biết xuất khẩu sang thị trường nào họ không biết thị trường các nước cần hàng gì để xuất khẩu, hoàn toàn thiếu thông tin về thị trường nước ngoài nhu cầu khách hàng, đối thủ cạnh tranh, các quy định, tiêu chuẩn hàng hoá, luật phấp nước sở tại. Đây là nhữngyếu tố cơ bản hết sức quan trọng giúp DN ra các quyết định cho chính xác: sản xuất hàng gì cho xuất khẩu, sản xuất trên công nghệ nào theo tiêu chuẩn nào, xuất khẩu cho ai, số lượng bao nhiêu và khi nào xuất. Hiện nay, các DNXK hàng công nghiệp chỉ khai thác thông tin về thị trường nước ngoài chủ yếu theo “kênh” gián tiếp là dựa vào Bộ Thương Mại, phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam, ban vật giá Chính Phủ, các phái đoàn ngoại giao của Việt Nam cung cấp nhưng những thông tin đó mang tính chất tổng hợp, không đầy đủ nên không đáp ứng đầy đủ những đòi hỏi của từng DN. Mặt khác việc thu thập thông tin về thị trường của DN từ “kênh này” cũng không dễ dàng và thuận tiện do trở ngại của thủ tục hành chính đối với DN có văn phòng đại diện hay trụ sở đóng tại thành phố lớn thì còn có điều kiện tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin khác nhau, nhưng đối với DN vừa và nhỏ và ở xa trung tâm lớn thì việc thu thập thông tin cực kỳ khó khăn, nếu họ có thông tin thì cơ hội kinh doanh cũng qua rồi. Còn “kênh” thông tin trực tiếp giữa DN và thị trường nước ngoài thì vượt xa khả năng của DN do “tài chính eo hẹp”. III. 1. 4 Do sự mất cân đối cơ cấu kinh tế giữa các khu vực, vùng trong cả nước. Cơ cấu tăng trưởng giữa các khu vực của nền kinh tế không hợp lý làm cho thu nhập và theo đó là nhu câu của một bộ phận dân cư lớn nhất nước ta (khu vực nông thôn chiếm 76,5% dân số cả nước) không tăng lên được. Theo số liệu của tổng cục thống kê, tương quan thu nhập của một lao động nông nghiệp với một lao động cong nghiệp như sau: năm 1996 - 65,95%, năm 1997 - 62,91%, năm 1998 - 56, 69% mặc dù tương quan già giữa sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm công nghiệp trong những năm gần đây có lợi cho nông nghiệp, tốc độ tăng trưởng của khu vực này thấp (đến cuối năm 1998 so với 1990 công nghiệp tăng 2,7 lần trong khi nông nghiệp tăng 1,4 lần), sự suy giảm về thu nhập đẫn đến sức mua ở khu vực nông thôn luôn duy trì ở mức thấp. Tiền lương thực tế của công nhân viên khu vực hành chính - sự nghiệp giảm do lạm phát. Tiền lương danh nghĩa kể từ năm 1993 đến nay về cơ bản không thay đổi, trong khi tỷ lệ lạm phát của 6 năm 1993 - 1999 gần 50%. Nhà nước mới bù trượt giá khoảng 20% ( năm 1995). Như vậy thu nhập thực tế của công nhân viên khu vực hành chính sự nghiệp hiện nay chỉ còn 30% thu nhập danh nghĩa, ảnh hưởng đến sức mua của một bộ phận dân cư. III. 1. 5 Sự phối hợp không đồng bộ của các cơ quản chức năng, hệ thống các văn bản của cơ quan nhà nước bị chồng chéo. Tình hình sản xuất buôn bán hàng giả 6 tháng đầu năm 1999 có xu hướng ngày càng tăng. Hàng giả phổ biến là sử dụng nhãn mác bao bì của hang thật nhái theo kiểu dáng của hàng thật, cả hàng thật trong nước và ngoài nước hàng giả bao gồm hầu hết các chủng loại từ mặt hàng đơn giản rẻ tiền như nước giải khát, bánh kựo, đá quý . . . hàng giả trực tiếp gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng của con người và nguy hại hơn là làm cho uy tín của nhà sản xuất kinh doanh, hàng không bán được tồn kho. Sáu tháng đàu năm 1999bột ngọt AJINOMOTO giả chiếm 90%thị phàn. hàng rau câu của công ty đồ hộp Hạ Long bị nhái nhãn mác có thời diểm lên tới 90% thị phần khu vực mièn Tay Nam Bộ. Trong khi tệ nạn làm hàng giả ngày càng gia tăng thì việc phân công, phân cấp quản lý của các cơ quan quản lý Nhà Nước về chất lượng hàng hoá còn thiếu nhất quán, thhậm chí còn phủ định lẫn nhau. Điều 6 Nghị định 140HĐBT ban hành ngày 25/4/1991 quy định 7 cơ quan có thẩm quyền kiếm tra, xử lý việc sản xuât buôn bán hàng giả: Hệ thống cơ quan quản lý thị trường thuọc Bộ Thương Mại ;cơ quan Tiêu chuẩn đo lương chất lượng sở hữu công nghiệp, y tế, Thanh tra nhà nước, Công an hải quan. khi có nhiều người cùng chịu trách nhiệm làm một việc thì dễ dẫn đến mạnh ai nấy làm, dễ làm khó bỏ chồng chéo ‘lấn sân” nhau. Hiện nay, nhản hiệu sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường có nhiều văn bản điều tiết. Bộ Thương Mại có quyết định 636/TMQLCL ngày 26/7/1996 ban hành “quy chế nhãn sản phẩm đối vởi hàng hoá lưu thông trên thị trường”. Ba tháng sau, ngày27/2/1996 Bộ khoa học công nghệ và môi trường có quyết định 2576/QĐ-TDC về đăng ký chất lượng hàng hoá ... quy định về nhãn sản phẩm hàng hoá. Vậy cơ sở sản xuất, lực lượng kiểm tra kiểm soát phải tuân theo văn bản nào. Trong xử lý vi phạm có tới bốn nghị định 92/CP và 93/CP ngày 27/11/93; 46/CP ngày6/8/96 và 57/CP ngày 31/5/97. Cùng điều chỉnh xử lý đối với hành vi giả mạo nhãn sản phẩm theo tiết b, khoản 3, điều 15 nghị định 57/CP bị phạt từ 1—5 tr đồng. Nhưng đi vào cụ thể từng loại hàng hoá thì số tiền phạt cao nhất còn thấp hơn mức trần thấp nhất ở nghị định trên (VD:giả nhãn thuốc thú y đang lưu hành đã được đăng ký phạt 100. 000-500. 000đ theo tiết c, khoản 1 điều 5 nghị định 93/CP; giả mạo nhãn thuốc bảo vệ thực vật phạt 100. 000-500. 000đ theo tiết c, khoản 3 điều 5 nghị định 92/CP. . ). áp dụng văn bản nào trong 4 nghị định trên cho một hành vi vi phạm là điều băn khoăn của những người thực thi nhiệm vụ. Sự chồng chéo mà người sản xuất kinh doanh rất e ngại là chòng chéo trong hoạt động thanh tra kiểm tra hàng giả. Mặc dù điều 7 nghị định 140/HDBT nêu rất rõ ràng, một trong 7 cơ quan có chức năng chống hàng giả khi nhận được nguồn tin tố cáo thì phải phối hợp với cơ quan khác tiến hành kiểm tra xử lý. . song trên thực tế sự phối hợp ấy chẳng những hãn hữu mà nhiều khi còn hoàn toàn mâu thuẫn với nhau. Tháng 3/1997 đội quản lý thị trường quận Bình Thạnh TP Hồ Chí Minh đã kiểm tra phát hiện và lập biên bản đối với chi nhánh công ty đồ hộp Hạ Long tại TP Hồ Chí Minh vì vi phạm quy chế nhãn sản phẩm, cho công nhân bóc nhãn cũ có thời gian sử dung đến 1996, thay nhãn mới có thời hạn sử dụng đến năm 2000. Sau đó chi cục thú yTP Hồ Chí Minh tiến hành kiểm tra, láy mẫu đồ hộp để kiểm nghiệm. Tiếp đến Bộ Y tế, Bộ Thuỷ Sản, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường lại phối hợp kiểm tra và đưa ra kết quả trái nghược với Chi cục thú y. Ai cũng nói mình có quyền, ngành thú y bảo đấy là sản phẩm động vật nên là đối tượng thanh tra của mình, ngành Thuỷ Sản bảo là sản phẩm thuỷ sản, ngành y tế cho rằng đây thuộc chức năng quản lý nhà nước về hàng thực phẩm, bộ KH-CN-MT bảo là thống nhất quản lý nhà nước về chất lượng hàng hoá. . sự việc gây xôn xao dư luận và tốn không biết bao mực của các nhà bào và cuối cùng đi đên kết luận là “ chi nhánh Đồ hộp Hạ Long không vi phạm. III. 1. 6 Nhà nước khống chế quảng cáo khuyến mại. Trong sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, quảng cáo là một công cụ hữu hiệu góp phần TTSP của DN. Nhưng theo luật thuế thu nhập DN “chi phí quảng caó khuyến mại liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ vàg các khoản chi phí khác được khống chế tối đa không quá 7% tổng số chi phí”. Việc khống chế quảng cáo khuyến mại chỉ ở mức 7% chi phí đã làm sản xuất kinh doanh của ngành bia chững lại. Nếu như năm 1997 doanh thu của tổng công ty Rượi - bia- nước giải khát đạt 2.385,574 tỷ đ nộp ngân sách 1.232,714 tỷ đ. Năm 1998 doanh thu đạt 2.529,594 tỷ đồng nộp ngân sách 1.295,151 tỷ đồng. Nhưng bắt đầu từ cuối năm 1998 ngành bia đã gặp rất nhiều khó khăn trong khâu TTSP. Lượng bia tồn kho của 2 công ty bia Sài Gòn và bia Hà Nọi tính đến cuối tháng 5 năm 99 là khoảng 9 tr lít. Trong đó công ty bia Sài Gòn tồn 8tr lít, bia Hà Nội tồn 1tr lít. Theo báo cáo của Tổng công ty, tính đến tháng 6/1999, giá trị tổng sản lượng của tổng công ty ước đạt 1.055,876 tỷ đ bằng 93, 5% so với cùng kỳ năm 1998 và bằng 45,31% so với kế hoạch. Do sản phẩm tiêu thụ chậm thị trường tiêu thụ khó khăn và ngày càng bị thu hẹp Tổng công ty đãc tăng cường công tác khuyến mại để hỗ trợ khách hàng tiêu thụ sản phẩm. Nhưng chi phí cho quảng cáo khuyến mại bị khống chế ở mức 7% giá thành. Với các ngành hàng sản xuất kinh doanh khác, tổng chi phí chiếm tới 80-90% doanh thu thì 7% chi phí là con số không nhỏ nhưng ngành bia thì do phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt chiếm tới 60-70% doanh thu ( bia hơi chịu thuế TTĐB 50%, bia lon 65%, bia chai 75%), nên phần chi phí ngoài thuế thấp, 7% chi phí này là không đáng kể. Dự kiến nhu cầu chi phí riêng cho khuyến mại để hỗ trợ khach hàng của công ty bia Sài Gòn là 80 tỷ đ (khoảng 10% tổng chi phí) trong khi chi phí cho phép dùng trong khuyến mại là 22 tỷ đ, số còn lại của7% được dùng cho các chi phí hội họp, tiếp khách, quảng cáo. Mặc dù rất nỗ lực giúp đỡ khách hàng nhưng do chi phí hạn hẹp, sự hỗ trợ không được bao nhiêu trong khi các hãng bia nước ngoài không bị hạn chế về quảng cáo, khuyến mại đã có đủ các biện pháp hỗ trợ cho khách hàng với những quà tặng phần thưởng hấp dẫn. . khách hàng quen bắt đầu bỏ sản phẩm của tổng công ty để bán những sản phẩm nước ngoài thu lợi nhuận cao. III. 2 Nguyên nhân từ phía DN. III. 2. 1Công nghệ lạc hậu nên chất lượng hàng hoá, hiệu quả sản xuất, năng xuất thấp. Ngành cà phê: chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào thu hoạch và công nghệ chế biến, bảo quản sản phẩm. Thu hoạch quả chín tươi, chế biến kịp thời và đúng quy trình công nghệ là yếu tố quan trọng giữ được phẩm chất, vốn có của hạt cà phê. Mặc dù trong thời gian qua, cà phê Việt Nam được các nhà cung ứng Mỹ và Châu Âu đánh giá cao về chất lượng cà phê xuất khẩu mới chỉ là bước đầu, còn chưa ổn định điển hình là số lượng hạt lỗi, vỡ, đen còn khà lớn làm cho chất lượng nước uống bị ảnh hưởng. Hiên nay Việt Nam đang sử dụng hai phương pháp chế biến: phương pháp chế biến kho và phương pháp chế biến ướt nên mặc dù ngành cà phê đã nỗ lực đầu tư vaò thiết bị chế biến để hạn chế tối đa sự mất cân đối giữa sản lương thu hoạch và khả năng chế biến nhưng nhìn lại hệ thống thiết bị hiện có từ máy móc có công suất lớn đến bán cơ khí và thủ công phần lớn còn lạc hậu, chắp vá, không đồng bộ, chất lượng kém. Trên thực tế trừ một số công ty, nông trường lớn là có sân phơi, còn phần lớn nông dân phơi trên đất, khá lắm là phơi trên bạt. phơi gặp mưa cũng không thềm chạy, họ không biết “mùi đất” thấm vào hạt cà phê vị chát là do thu hái cả trái xanh, có nơi cà phê xanh chiếm 15-20% lượng thu hoạch trong khi sản phẩm cà phê của hội nông đân chiếm 85% sản lượng cả nước. III. 2. 2 Trình độ quản lý yếu kém, lạc hậu, chất lượng lao động thấp. Theo nghiên cứu tổ chức BFRI về khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Việt Nam đứng thứ 48/59 Quốc gia được kiểm sát. lao động Việt Nam đạt 32điểm/100, thuộc vào nhóm yếu kém trong khi Singapore và các quốc gia được kiểm sát đạt 84 điểm. Biểu II. 12 Bảng đánh giá chất lượng lao động một số nước. Quốc gia Năng suất Lao dộng Trình độ Lao động Kỹ năng Nghề nghiệp Đánh giá Chất lượng lđ Singapore Thuỵ sỹ Nhật Bản Bỉ Mỹ Việt Nam 85(1) 64(4) 68(3) 72(2) 20 83(3) 92(2) 97(1) 40 95(8) 100(1) 100(1) 100(1) 16 84(1) 75(1) 73(3) 73(3) 70(5) 32(48) Ghi chú: số ngoài dấu ( )- số điểm trên thang 100. số trong dấu ( )- thứ hạng về khả năng cạnh tranh trên 59 Quốc gia được kiểm sát. Qua đó ta thấy chất lượng lao động của Việt Nam quá kém dẫn đến mất khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Về trình độ quản lý king tế, sản xuất kinh doanh tuy đã được tăng lên một bước thaeo quy chế mới, song nói chung còn yếu kém tư duy và hành dộng chưa bắt kịp với tốc độ thay đổi của tình hình đâts nước nhiều mặt quản lý nhất là quản lý tài chính còn lỏng lẻo, sơ hở gây lãng phí và thất thoát, có những cơ hội có thể phát triển lại rụt rè, có những lúc mạnh dạn đầu tư lại không gặp vận may do đánh giá tình hình biến động trên thị trường không chính xác, đôi lúc chưa quán triệt sâu sắc mục tiêu hàng đầu của sản xuất kinh doanh là hiệu quả kinh doanh ( Công ty Gang Thép Thái Nguyên năm 1998, sản lượng thép cán chỉ đạt 91, 77% và giá trị sản xuất công nghiệp chỉ đạt 92, 45% so 1997, mà lại bị tồn kho 2 vạn tán thép cán, 5000 tấn gang, sản xuất kinh doanh lỗ lớn, tổng nợ lên đến 675tỷ, gấp 2 lần vốn điều lệ của công ty III. 2. 3 DN chưa xây dựng chiến lược kinh doanh(CLKD) Hiện nay, ở hầu hết các DN chưa xây dựng cho mình một CLKD, mà làm ăn theo từng “ thương vụ” kiểu làm ăn “chụp giựt”. Phải chăng tư tương “ mì ăn liền này” cần phải bổ sung tư tương CLKD tính đến con đường làm ăn lâu dài. Cái lối làm ăn dựa vào các “lợi thế” nhất thời, các thủ thuật “mánh vặt” khai thác kẽ hở của pháp luật, của cô quan Nhà nước . . cần phải được thay thế bằng cung cách kinh doanh chân chính, có “ bài bản”và hiện đại. Điều này một phần do việc nghiên cứu, hướng dẫn, triển khai thực hiện kế hoạch chiến lược trong hoạt động kinh doanh của các DN chưa có được sự hỗ trợ tích cực từ phía Nhà nước và các cơ quan nghiên cứu. Nền kinh tếViệt Nam chưa hội đủ các yếu tố, các điều kiện cần thiết để các DN có thể xây dựng và thực hiện quản lý theo chiến lược. Việc ban hành các chính sách quản lý vĩ mô chưa ổn định và chưa đáp ứng kịp thời sự chuyển biến của nền kinh tế -xã hội mà nhất là trong lĩnh vực kinh doanh XNK. Nhưng nhuyên nhân chủ quan là do sự nhận thức lý luận và thực tiễn về vai trò của công tác Kế hoạch hoá và quản lý chiến lược trong cơ chế thị trường của các DN chưa được nhất quán, nên việc xây dựng và thực hiện CLKD còn là một công việc khá mới mẻ đối vối các DN, điều này làm hạn chế việc sử dụng những phương pháp công cụ xây dựng CLKD mang tính khoa học và làm cho quá trình xây dựng CLKD của các DN chưa tuân theo một quy trình hợp lý III. 2. 4 Quảng cáo chưa được chú trọng, nhiều DNNN còn có quan niệm sai lầm về quảng cáo Hiện nay, đa số các DN Việt Nam chỉ dành một số vốn rất hạn hẹp cho quảng cáo (một phần do quy định của Nhà nước: chi phí cho quảng cáo không quá 7% tổng số chi phí –theo luật thuế thu nhập DN) vá DN chưa hiểu biết cách sử dụng ngân sách cho quảng cáo. Theo thống kê của IAA (Hiệp hội quảng cáo Quốc tế) đưa ra trong hội thảo sáng ngày 24/11/99 tại TP Hồ Chí Minh thì doanh số quảng cáo ở Việt Nam năm 1998là 110 tr USD. Bình quân 1,4USD/người trong khi ở Đài Loan là 10, 6 USD/ người, ở Châu mĩ là 6-7 USD/ người. Hiện nay, trên các mặt báo chúng ta dễ dàng thấy tràn ngạp kiểu quảng cáo giới thiệu tên trụ sở công ty, lĩnh vực hoạt động và ảnh giám giám đốc. . một kiểu quảng cáo đơn điệu kém hiệu quảvà người đọc thường quyên ngay sau khi rời mắt khỏi trang quảng cáo bởi vì mục tiêu của quảng cáo là để khách hàng biết đến các thông tin về sản phẩm, dịch vụ là chính:chất lượng bao bì, thông số kỹ thuật, công dụng sản phẩm. . từ đó có quyết định mua hàng ?Vậy thì sản phẩm ở đây là gì ? là ông giám đốc hay là nh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0593.doc