LỜI MỞ ĐẦU
Thực tập cuối khoá là một khâu của quá trình đào tạo nhằm gắn liền học với hành, lý luận với thực tiễn, giúp sinh viên làm quen và tăng cường kỹ năng thực tế, năng lực chuyên môn về ngành nghề được đào tạo. Bản thân là một sinh viên khoa luật kinh tế để thấy được thực tiễn áp dụng luật pháp vào hoạt động ở doanh nghiệp thì quá trình thực tập là một khâu rất quan trọng. Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế thì hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với nền k
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1446 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng thực hiện Luật thuế xuất nhập khẩu tại Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh tế của mỗi quốc gia. Việt Nam đang bước qua hai thập kỷ của công cuộc đổi mới chính sách và cơ chế kinh tế, trong đó hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế đã trở thành một yêu cầu tất yếu, một trong những nguồn lực để thưc hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Hội nhập kinh tế đang được coi là trào lưu mới thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại của các nước đang phát triển tiếp cận với thị trường tiềm năng về tiền của, về công nghệ của các nước tiến nhằm đảm bảo mục tiêu cùng đạt tới lợi ích tối đa cho mỗi quốc gia, phù hợp với quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay không chỉ diễn ra ở Việt Nam, châu Á mà còn ở khắp các châu lục và bao gồm cả các nước kém phát triển. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được bắt đầu từ hội nhập kinh tế với các tổ chức khu vực đến tổ chức toàn cầu. Nước ta đã trở thành viên chính thức của ASEAN, của Diễn đàn Châu á – Thái Bình Dương (APEC) và bắt đầu gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Mục tiêu của các tổ chức kinh tế là nhằm xây dựng một nền kinh tế đạt hiệu quả tối ưu về đầu tư, thương mại để tận dụng tối đa lợi thế so sánh của từng nước thành viên. Cơ hội có thể thu được khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là rất lớn. Song những thách thức trên con đường hội nhập sẽ không đơn giản.
Thuế luôn là một vấn đề quan trọng trong các hoạt động của WTO và có ảnh hưởng trực tiếp đến việc đàm phán của các quốc gia trong quá trình hội nhập cũng như khi đã trở thành viên chính thức của tổ chức này. Trước tình hình mới khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới đã đặt ra yêu cầu phải thực hiện cải cách chính sách thuế. Một trong những vấn đề rất quan tâm của chính phủ là cải cách thuế xuất nhập khẩu, vì thuế xuất nhập khẩu là loại thuế chịu tác động mạnh nhất trong quá trình hội nhập. Chính sách thuế quan tốt sẽ tạo điều kiện cho hoạt động thương mại và đầu tư phát triển, góp phần bảo hộ có hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế cũng như giảm thiểu các tác động bất lợi đối với nền kinh tế trước sự biến động của thị trường thế giới.
Để nhìn nhận rõ hơn về chính sách thuế xuất nhập khẩu tại Việt Nam trong thời kì gia nhập WTO, tôi đã chọn Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera để thực tập và tìm hiểu vấn đề: Luật thuế Xuất - Nhập khẩu nhìn từ hoạt động thực tiễn của công ty.
Chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thuế xuất khẩu, th ế nhập khẩu.
Chương 2: Thực trạng thực hiện Luật thuế xuất nhập khẩu tại công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera.
Chương 3: Những biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của công ty nhìn từ góc độ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, ThS. Vũ Văn Ngọc đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình thực tập, cũng như sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú, các anh chị Phòng Kinh tế - Kế toán của công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera.
Do sự hạn chế về kiến thức và thời gian thực tập ngắn nên trong quá trình hoàn thành chuyên đề em không tránh khỏi những sai sót. Em mong nhận được sự góp ý của các thầy, các cô và của các cô chú, anh chị tại nơi thực tập để em có kết tốt hơn trong những bài viết sau.
Em mong rằng những giải pháp mà em đưa ra sẽ giúp công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera hoạt động có hiệu quả cao hơn.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU
I. KHÁI NIỆM THUẾ XUẤT KHẨU - THUẾ NHẬP KHẨU:
1. Khái niệm:
Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển dẫn đến các quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia diễn ra ngày càng tăng. Mỗi một quốc gia độc lập có chủ quyền đều sử dụng một loại thuế thu vào hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới nước mình. Thuế này được gọi chung là thuế quan (Custom duty).
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới phát triển theo xu hướng quốc tế hóa thì pháp luật của các nước về thuế quan ngày càng có xu thế hội nhập với các quốc gia trong khu vực và trên phạm vi toàn thế giới.
Thuế quan ở Việt Nam có tên gọi là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế đánh vào các hàng hoá mậu dịch, phi mậu dịch được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới Việt Nam.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được nhà nước ta ban hành vào năm 1951, thời điểm này thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ để nhà nước thực hiện chức năng quản lý việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá giữa vùng tự do và vùng bị tạm chiếm, bảo vệ và phát triễn kinh tế vùng tự do, xúc tiến việc giao lưu các loại hàng hoá là nhu yếu phẩm cần thiết cho quân đội và nhân dân. Phương châm đấu tranh kinh tế với địch là đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ nhập khẩu các loại hàng hoá cần thiết cho kháng chiến, sản xuất và đời sống nhân dân. Do đó, nhà nước miễn thuế xuất khẩu cho tất cả các loại hàng hoá của vùng tự do. Mặt khác, hạn chế nhập khẩu hàng hoá từ vùng địch. Thuế suất áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu là từ 30 % trở lên.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch được Quốc hội nước ta ban hành ngày 29 -12 -1987. Ðạo luật này chỉ điều chỉnh quan hệ thu nộp thuế phát sinh từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch. Do đó có sự phân biệt trong áp dụng chế độ thu thuế giữa hàng hoá mậu dịch với các loại hàng hoá phi mậu dịch khác.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 1998 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được Quốc hội thông qua ngày 26 -12 -1991 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được Quốc hội thông qua ngày 5 -7- 1993. Luật này được Quốc hội thông qua ngày 20 -5-1998 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1 -1- 1999.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 được thông qua vào ngày 14- 6-2005 có hiệu lực từ ngày 1/1/2006. Luật này thay thế cho Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 1998, được đánh giá là hoàn chỉnh nhất so với các luật trước và đã đáp ứng được yêu cầu khi Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành có phạm vi điều chỉnh rộng hơn so với Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng hoá mậu dịch ban hành năm 1987. Theo đó, Nhà nước thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu không phân biệt tính chất hàng hoá là xuất khẩu, nhập khẩu mậu dịch hay phi mậu dịch.
Ðối tượng điều chỉnh của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là quan hệ thu nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu giữa nhà nước với các tổ chức và cá nhân có hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam, kể cả hàng hoá từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong nước.
Theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng hoá mậu dịch mang tính chất gián thu. Còn đối với các loại hàng hoá khác thì tùy theo từng trường hợp mà thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có tính chất gián thu hoặc tính chất trực thu.
2. Tính chất của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ rất quan trọng để nhà nước thực hiện chính sách kinh tế của mình, quản lý các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại; nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Căn cứ vào từng giai đoạn lịch sử và điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi nước mà thuế quan được sử dụng với nhiều mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên, ở góc độ chung nhất có thể nhận thấy rằng tính chất của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước. Mục tiêu chung của các quốc gia là sử dụng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Ðồng thời thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là loại thuế dễ thu nhất, ít bị phản ứng từ phía trong nước, thậm chí có khi còn được sự ủng hộ của nhiều người.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cấu thành trong giá cả hàng hoá, làm tăng giá hàng hoá, do đó có tác dụng điều tiết xuất khẩu, nhập khẩu và hướng dẫn tiêu dùng; bởi vì lượng hàng hoá xuất khẩu hay nhập khẩu phụ thuộc vào sức tiêu thụ hàng hoá, yếu tố này lại phụ thuộc vào giá cả. Giá cả hàng hoá cao hay thấp sẽ quyết định việc giảm hoặc tăng sức cạnh tranh của hàng hoá đó trên thị trường. Thông qua thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhà nước điều tiết việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá . Hơn nữa, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sẽ hạn chế việc tiêu dùng hàng hoá xa xỉ hoặc các loại hàng hoá không được khuyến khích sử dụng như thuốc lá, rượu, bia...
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có tác dụng bảo hộ nền sản xuất trong nước. Việc đánh thuế cao vào hàng hoá nhập khẩu sẽ giúp các nhà sản xuất trong nước có thể cạnh tranh được với hàng hoá nhập khẩu. Ðặc biệt thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu giúp cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các ngành còn non trẻ trong nước có thời gian trưởng thành và sinh lời để từ đó có thể cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có tác dụng giảm bớt nạn thất nghiệp vì việc đánh thuế nhập khẩu cao thì hàng hoá nhập khẩu sẽ giảm; để bù vào lượng hàng hoá nhập khẩu đó nhà nước ta phải mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động từ đó góp phần giải quyết nạn thất nghiệp trong nước.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ để nhà nước thực hiện chính sách phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại đối với các nước. Chẳng hạn Mỹ đòi EU phải giảm từ 30 - 50% trợ cấp cho nông nghiệp, nếu không Mỹ sẽ tăng mức thuế đánh vào hàng hoá nông sản của EU nhập khẩu vào thị trường Mỹ.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngọai giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý và nâng cao hiệu qủa hoạt động xuất nhập khẩu trong cả nước.
3. Mã số thuế:
Danh mục mặt hàng chịu thuế cuả biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu hiện hành, về cơ bản được xây dựng dựa trên cơ sở bảng danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu cuả Hội đồng hợp tác hải quan thế giới (Hamorid System), đồng thời có biến đổi một số phần cụ thể cho phù hợp với hoạt động xuất, nhập khẩu cuả Việt Nam. Hàng hoá trong bảng danh mục biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu hiện hành được chia thành 21 phần, 97 chương ( trừ chương 77 được để trống để dự phòng). Trong mỗi chương cuả biểu thuế chia ra các nhóm hàng (cấp độ 4 chử số), trong mỗi nhóm hàng có thể phân chia thành các phân nhóm hàng ( cấp độ 6 chử số), và trong mỗi phân nhóm hàng có thể phân chia thành các mặt hàng ( cấp độ 8 chử số) .Tuỳ theo đặc điểm, tính chất cấu tạo cuả từng chương, nhóm, phân nhóm và mặt hàng mà một chương có thể được chia thành một hay nhiều nhóm hàng, một nhóm hàng có thể không chia hoặc được chia thành nhiều phân nhóm hàng, một phân nhóm hàng có thể không chia hoặc chia thành nhiều mặt hàng khác nhau.
Ðể thuận tiện trong việc tra cứu biểu thuế và làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, về cơ bản tất cả các nhóm hàng, phân nhóm hàng, mặt hàng đều được mã hoá theo số thứ tự cuả mặt hàng đó trong chương, nhóm và phân nhóm. Trong đó:
- Mỗi nhóm hàng trong chương được xác định bằng 4 chử số. Ví dụ nhóm trâu, bò sống được mã hoá bằng mã hiệu 0102, trong đó 2 chử số đầu (01) là mã hiệu cuả chương (chương 1), hai chử số sau (02) là mã hiệu xác định vị trí cuả nhóm đó trong chương (nhóm thứ 2 cuả chương).
- Mỗi phân nhóm hàng trong nhóm được xác định bằng 6 chử số. Có hai cách phân loại và mã hiệu cho các phân nhóm hàng, gọi l;à phân nhóm cấp 1 và phân nhóm cấp 2.
- Một số nhóm hàng không được phân chia thành nhiều phân nhóm hàng khác nhau thì sẽ được thêm hai chử số 00 vào sau cùng.
- Một số phân nhóm hàng trong biểu thuế được phân chia tiếp thành nhiều mặt hàng khác nhau. Mỗi mặt hàng trong phân nhóm được xác định bằng 8 chử số.
- Tuy nhiên cũng có một số trường hợp các phân nhóm hàng được phân chia tiếp thành nhiều mặt hàng khác nhau nhưng không xác định mã số cho chúng.
Theo cách sắp xếp danh mục và mã số cuả nhóm hàng, phân nhóm hàng, mặt hàng nói trên thì biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành được phân thành 3 cột, trong đó:
- Cột thứ nhất là cột mã số của nhóm hàng, phân nhóm hàng và mặt hàng.
- Cột thứ hai là cột mô tả tên nhóm hàng, phân nhóm hàng và mặt hàng.
- Cột thứ 3 là cột quy định mức thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cho nhóm hàng; hoặc cho phân nhóm hàng; hoặc cho mặt hàng. Do đó khi tra cứu mã số và mức thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cuả một mặt hàng cụ thể nào đó cần xem nhóm hàng và mặt hàng này nằm trong đó được chia chi tiết đến mức độ nào: Nhóm , phân nhóm cấp 1, phân nhóm cấp 2 hay mặt hàng để xác định chính xác mức thuế cuả mặt hàng này trong biểu thuế.
II. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU:
1. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch 1987:
Luật có hiệu lực thi hành từ 01/2/1988. Trong luật quy định hàng hóa bị đánh thuế là hàng mậu dịch.
- Thuế được áp dụng với tất cả hàng hoá mua bán, trao đổi với nước ngoài khi xuất khẩu hoặc nhập khẩu qua biên giới Việt Nam (trừ hàng hoá xuất, nhập khẩu có sự thoả thuận riêng về thuế xuất nhập khẩu giữa Chính phủ Việt Nam với các nước khác).
- Tất cả các tổ chức kinh tế được phép xuất nhập khẩu hàng hoá đều phải nộp thuế xuất, nhập khẩu hàng mậu dịch.
- Giá tính thuế đối với hàng hoá xuất khẩu là giá bán tại cửa khẩu đi, theo hợp đồng; đối với hàng hoá nhập khẩu là giá mua tại cửa khẩu đến, kể cả phí vận tải, phí bảo hiểm theo hợp đồng. Trong trường hợp mua hoặc bán theo các phương thức khác thì căn cứ vào giá ghi trên các chứng từ hợp lệ. Tỷ giá giữa đồng Việt nam với tiền nước ngoài do Ngân hàng Nhà nước Việt nam công bố.
- Thuế suất đối với hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu được áp dụng theo hai mức ghi trong hai cột: thuế suất tối thiểu và thuế suất phổ thông
- Thuế suất tối thiểu áp dụng với hàng hoá xuất khẩu hoặc nhập khẩu liên quan đến các nước có ký kết điều khoản ưu đãi trong quan hệ buôn bán với Việt Nam và những trường hợp khác do Hội đồng Bộ trưởng quy định. Thuế suất phổ thông áp dụng với hàng hoá xuất nhập khẩu qua các nước khác, ngoài những trường hợp ghi trên đây.
2. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991:
- Danh mục các nhóm hàng, mặt hàng trong biểu thuế XNK được xây dựng dựa trên hệ thống danh mục hàng hoá và mã hoá thống nhất của Hội đồng hợp tác Hải quan quốc tế (ký tại Bruxelles ngày 19-6-1983) gồm 97 chương và hơn hai nghìn nhóm ngành hàng. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho ta từng bước hoà nhập vào quá trình hợp tác quốc tế về thuế quan và mậu dịch, khắc phục những tồn tại đã gặp khi áp dụng danh mục cũ theo khối SEV quá đơn giản.
- Biểu thuế gồm 2 cột: thuế suất thông thường và thuế suất ưu đãi, tương tự như cột thuế suất phổ thông và cột thuế suất tối thiểu trong biểu thuế XNK mậu dịch cũ. Tuy nhiên, có điểm khác là ở luật cũ, 2 loại thuế suất này đều được ghi trong biểu thuế; ở Luật mới, trong biểu thuế chỉ ghi thuế suất thông thường, còn thuế suất ưu đãi là thuế suất áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đối với các nước có ký kết điều khoản ưu đãi trong quan hệ mua bán với Việt nam và những trường hợp khác do Hội đồng Bộ trưởng quyết định (Ví dụ trường hợp không có ký kết nhưng Chính phủ ta đơn phương cho một nước nào đó được hưởng mức thuế ưu đãi này trong quan hệ buôn bán với ta). Theo Nghị định số 110-HĐBT ngày 31/3/1992 thì thuế suất ưu đãi được áp dụng thống nhất bằng 70% thuế suất thông thường ghi trong biểu thuế. Các trường hợp áp dụng thuế suất ưu đãi khác với quy định trên sẽ do Hội đồng Bộ trưởng quyết định cụ thể theo đề nghị của Bộ Tài chính và các Bộ có liên quan.
3. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 1993:
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 1993 không có những thay đổi lớn về mặt chính sách mà chỉ có những sửa đổi bổ sung một số điều.
4. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 1998:
Việc áp dụng Luật thuế giá trị gia tăng (bắt đầu từ 1/1/1999) cả đối với hàng nhập khẩu đòi hỏi Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (thuế XNK) phải được sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính đồng bộ trong các chính sách thuế áp dụng đối với hàng nhập khẩu, không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Đồng thời phải phát huy tác dụng của thuế xuất khẩu, nhập khẩu khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động xuất khẩu, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước theo tinh thần bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện, có thời hạn, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.
Mặt khác, Việt nam đã là thành viên của ASEAN, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do của ASEAN (AFTA), đã ký Hiệp định thương mại với Liên hiệp Châu âu, chuẩn bị trở thành thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) và chuẩn bị điều kiện gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO)- Hoàn cảnh đó đòi hỏi Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu của ta phải có những sửa đổi, bổ sung để tạo ra những cơ sở pháp lý cần thiết cho việc thực hiện những cam kết quốc tế, góp phần bảo vệ lợi ích quốc gia.
- Thuế suất mới đối với hàng nhập khẩu gồm thuế suất thông thường, thuế suất ưu đãi và thuế suất ưu đãi đặc biệt:
+ Thuế suất thông thường áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước không có thoả thuận đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt nam: Thuế suất thông thường được quy định cao hơn không quá 70% so với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng, do Chính phủ quy định;
+ Thuế suất ưu đãi áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước có thoả thuận đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định biểu thuế theo danh mục, nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất đối với từng nhóm hàng. Căn cứ vào Biểu thuế do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành, Chính phủ quy định Biểu thuế theo danh mục mặt hàng và thuế suất cụ thể đối với từng mặt hàng;
+ Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước mà Việt nam và nước đó đã có thoả thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu. Chính phủ quy định thuế suất ưu đãi đặc biệt đối với từng mặt hàng theo thoả thuận đã được ký kết với các nước.
Ngoài việc nộp thuế theo quy định trên, đơn vị có hàng hoá được nhập khẩu vào Việt nam trong các trường hợp sau đây còn phải nộp thêm thuế nhập khẩu bổ sung theo tỷ lệ do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định:
+ Giá bán của hàng đó quá thấp so với giá thông thường do bán phá giá, gây khó khăn cho sự phát triển ngành sản xuất hàng hoá tương tự của Việt nam;
+ Giá bán của hàng đó quá thấp so với giá thông thường do có sự trợ cấp của nước xuất khẩu, gây khó khăn cho sự phát triển ngành sản xuất hàng hoá tương tự của Việt nam;
+ Có xuất xứ từ nước có sự phân biệt đối xử về thuế nhập khẩu hoặc có những biện pháp phân biệt đôí xử khác đối với hàng hoá của Việt nam.
- Luật sửa đổi, bổ sung về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu còn quy định thêm một số nguyên tắc, thẩm quyền của cơ quan thuế về kiểm tra, truy thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu nếu phát hiện có sự khai man, trốn thuế hoặc nhầm lẫn trong việc tính thuế để có căn cứ pháp lý giải quyết trường hợp sau khi thu, nộp thuế xong mới phát hiện khai man, trốn thuế, nhầm lẫn về thuế, một vướng mắc thường phát sinh vì chưa có qui định rõ ràng, đầy đủ trong Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu trước đây.
5. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005:
Một trong những nội dung quan trọng nằm trong dự án sửa đổi lần này là về thời hạn nộp thuế. Tại Khoản 3, Điều 17 của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành quy định cho phép doanh nghiệp được hưởng một thời gian ân hạn thuế nhất định là 15 ngày, 30 ngày hoặc 275 ngày sau khi xuất, nhập khẩu hàng hóa, tùy theo tính chất vào loại hình xuất, nhập khẩu. Chỉ riêng đối với loại hàng tiêu dùng nhập khẩu thì phải nộp xong thuế trước khi nhận hàng. Các quy định trên đã có tác dụng tích cực, giảm bớt khó khăn về vốn, giúp các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất nhập khẩu và phát triển sản xuất, kinh doanh.
Đối với quy định về thông báo thuế, dự án Luật sửa đổi đề nghị bỏ thông báo thuế, thay vào đó đối tượng nộp thuế sẽ thực hiện nghĩa vụ thuế của mình trên cơ sở căn cứ vào tờ khai hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Theo hướng này, thời điểm tính thuế là thời điểm đối tượng nộp thuế đăng ký tờ khai hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu với cơ quan Hải quan. Tờ khai hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cũng đồng thời được xem như tờ khai thuế. Đối với những trường hợp phải có kiểm tra, giám định thì đối tượng nộp thuế vẫn phải nộp thuế theo như khai báo tại tờ khai hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Sau khi có kết qủa kiểm tra, giám định nếu có thay đổi về số thuế phải nộp, cơ quan Hải quan ra thông báo về số thuế phải nộp thêm hoặc số thuế phải hoàn lại. Quy định như vậy cũng phù hợp với việc tiến tới thống nhất cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Thống nhất quy định về ưu đãi thuế:
Theo Luật thuế xuất khẩu (XK), thuế nhập khẩu (NK) (sửa đổi) được Quốc hội khoá XI thông qua tại kỳ họp thứ 7, có hiệu lực từ 1-1-2006, có một nội dung quan trọng đang được giới doanh nghiệp trông đợi, đó là việc quy định thống nhất về ưu đãi thuế giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đồng thời trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi đã thống nhất các quy định về ưu đãi thuế XK, thuếNK tại các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau.
Luật thuế XK, thuế NK (sửa đổi) đã thống nhất các quy định về ưu đãi thuế XK, thuế NK mà trước đây đã được quy định rải rác tại các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Điều này cũng có nghĩa là từ 1-1-2006, các quy định về ưu đãi, miễn, giảm thuế đang được quy định tại các Luật chuyên ngành khác bị bãi bỏ. Bên cạnh đó, Luật thuế XK, thuế NK (sửa đổi) cũng quy định thống nhất chính sách ưu đãi giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, xoá bỏ sự phân biệt, dành ưu đãi cao hơn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như Luật hiện hành. Vấn đề đặt ra khi triển khai thực hiện Luật mới thì cơ quan chức năng cần xây dựng các Phụ lục về địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn; địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khãn; Danh mục lĩnh vực khuyến khích đầu tư; Danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư; Danh mục các nhóm trang thiết bị chỉ được miễn thuế NK một lần.
Luật thuế XK, thuế NK hiện hành quy định việc miễn thuế nhập khẩu đối với đầu tư nước ngoài theo Danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư tại các Phụ lục hành kèm theo Nghị định (NĐ) số 35/2002/NĐ-CP ngày 29-3-2002 của Chính phủ. Nhiều ý kiến cho rằng, quy định về miễn thuế NK được áp dụng theo các Danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư theo quy định của Luật đầu tư chung (đã được Quốc hội thông qua vào kỳ họp thứ 8 vừa qua) là phương án tối ưu nhất. Tuy nhiên, Luật đầu tư chung lại có hiệu lực thi hành kể từ sau ngày 1-7-2006, vì vậy, Bộ Tài chính đã chủ động dự thảo các Phụ lục về Danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư để ban hành kèm theo Nghị định hướng dẫn Luật Thuế XK, thuế NK sửa đổi. Và sau này khi Luật Đầu tư chung có hiệu lực, việc ban hành các Phụ lục mới cần được nghiên cứu để khớp các Phụ lục về một đầu mối. Việc xây dựng các Phụ lục về Danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư hiện tại có 2 loại ý kiến: Phần lớn ý kiến cho rằng việc xây dựng các Phụ lục trên nên dựa theo tinh thần của Luật mới tức là lấy mức ưu đãi cao nhất của Luật đầu tư. nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước, do đó các Phụ lục nêu trên sẽ được tổng hợp dựa trên các Phụ lục ban hành kèm theo NĐ số 24, NĐ số 27 (Đầu tư nước ngoài) và NĐ số 35 (Đầu tư trong nước) theo hướng lấy quy định cao nhất hoặc rộng hơn tại các Phụ lục, vì vậy chủ yếu sẽ dựa trên nền tảng là NĐ 24 và NĐ 27, bởi vì quy định tại 2 NĐ này rộng mở hơn so với NĐ 35.
Một số ý kiến khác cho rằng có thể dựa trên nền tảng là các Phụ lục ban hành kèm theo NĐ số 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo ý kiến này, điểm thuận lợi là có thể sử dụng được ngay bởi vì các Phụ lục này đã được xây dựng để áp dụng thống nhất cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, về bản chất giữa thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế XK, thuế NK có những điểm khác nhau, do vậy nếu sử dụng các Phụ lục này để áp dụng cho thuế XK, thuế NK thì chưa thật sự hợp lý. Hơn nữa quy định tại các Phụ lục ban hành kèm theo NĐ số 164 cũng bó hẹp và chỉ tương đương so với mức độ mở của Phụ lục ban hành kèm theo NĐ số 35, chứ không khuyến khích rộng như quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo NĐ 24 và NĐ 27. Do vậy, theo chúng tôi để đảm bảo tính khả thi khi thực hiện Luật thuế XK, thuế NK mới được Quốc hội thông qua thì cần khẩn trương xây dựng các Phụ lục về Danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư kèm theo Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật theo đúng tinh thần của Luật mới, tức là lấy mức ưu đãi cao nhất của Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước để các doanh nghiệp về cơ bản được hưởng ưu đãi không kém thuận lợi hơn so với trước đây. Việc này sẽ củng cố lòng tin cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước đang hoạt động tại Việt Nam và các nhà đầu tư tiềm năng. Đó là dấu hiệu tích cực đối với việc cải thiện môi trường đầu tư thông thoáng và hấp dẫn hơn.
Bên cạnh đó, Luật thuế XK, thuế NK (sửa đổi) cũng quy định thống nhất chính sách ưu đãi giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, xoá bỏ sự phân biệt, dành ưu đãi cao hơn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như Luật hiện hành. Vấn đề đặt ra khi triển khai thực hiện Luật mới thì cơ quan chức năng cần xây dựng các Phụ lục về địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn; địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khãn; Danh mục lĩnh vực khuyến khích đầu tư; Danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư; Danh mục các nhóm trang thiết bị chỉ được miễn thuế NK một lần.
Luật thuế XK, thuế NK hiện hành quy định việc miễn thuế nhập khẩu đối với đầu tư nước ngoài theo Danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư tại các Phụ lục ban hành kèm theo NĐ số 24/2000/NĐ-CP ngày 31-7-2000, NĐ số 27/2003/NĐ-CP ngày 19-3-2003 của Chính phủ; việc miễn thuế nhập khẩu đối với đầu tư trong nước theo Danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư tại các Phụ lục ban hành.
Luật thuế XK, thuế NK hiện nay được đánh giá là hoàn chỉnh nhất và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Nó được ví như đòn bẩy cho hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
III. ÐỐI TƯỢNG CHỊU THUẾ VÀ NỘP THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU:
1. Ðịnh nghĩa đối tượng chịu thuế:
Hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam, kể cả hàng hoá từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong nước, đều là đối tượng chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
2. Những đối tượng chịu thuế theo Luật hiện hành:
Tất cả các hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam trong các trường hợp sau đây đều là đối tượng chịu thuế xuất khẩu hoặc thuế nhập khẩu:
- Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của các tổ chức kinh tế Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế được phép trao đổi, mua, bán, vay nợ với nước ngoài.
- Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của các tổ chức kinh tế nước ngoài, của các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Hàng hoá được phép xuất khẩu vào khu chế xuất tại Việt Nam và hàng hoá của các doanh nghiệp trong khu chế xuất được phép nhập khẩu vào thị trường Việt Nam.
- Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu để làm hàng mẫu, quảng cáo, dự hội chợ triễn lãm.
- Hàng hoá viện trợ hoàn lại và không hoàn lại.
- Hàng hoá vượt tiêu chuẩn hành lý được miễn thuế mang theo người của cá nhân người Việt Nam và người nước ngoài khi xuất nhập cảnh qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam.
- Hàng hoá là quà biếu, quà tặng vượt qúa tiêu chuẩn miễn thuế của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mang hoặc gửi về cho các tổ chức, cá nhân ở Việt Nam và ngược lại.
- Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu vượt quá tiêu chuẩn miễn thuế của công dân Việt Nam được nhà nước cử đi công tác, lao động và học tập ở nước ngoài, của các tổ chức quốc tế, cơ quan ngoại giao nước ngoài tại Việt Nam và của các cá nhân người nước ngoài làm việc tại các tổ chức nói trên hoặc tại các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Hàng hoá là tài sản di chuyển vượt quá tiêu chuẩn miễn thuế của các tổ chức, cá nhân nước ngoài xuất khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam do hết thời hạn cư trú và làm việc tại Việt Nam và cuả cá nhân người Việt Nam được Chính phủ Việt Nam cho phép xuất cảnh để định cư ở nước ngoài.
3. Ðối tượng không chịu thuế:
Hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là đối tượng của nhiều loại quan hệ kinh tế - xã hội khác nhau như hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo các hợp đồng giữa các tổ chức kinh tế; hàng hoá viện trợ hoàn lại và không hoàn lại; hàng hoá là hành lý, quà biếu, quà tặng, là tài sản di chuyển ...
Ðể động viên hợp lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu vào ngân sách nhà nước và phù hợp với thông lệ quốc tế, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định các hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu nhưng không thuộc diện chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sau khi làm đầy đủ thủ tục hải quan trong các trường hợp sau:
- Hàng hoá vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam; hàng hoá từ nước ngoài nhập khẩu vào khu chế xuất và hàng hoá từ khu chế xuất xuất khẩu ra nước ngoài hoặc hàng hoá từ khu chế xuất này đưa sang khu chế xuất khác trong lãnh thổ Việt Nam.
- Hàng hoá chuyển khẩu theo các hình thức sau:
+ Hàng hoá được chuyển thẳng từ cảng nước xuất khẩu đến cảng nước nhập khẩu không đến cảng Việt Nam.
+ Hàng hoá được chở đến cảng Việt Nam nhưng không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam mà đi luôn đến cảng nước nhập khẩu.
+Hàng hoá đưa vào kho ngoại quan rồi chuyển đến nước khác không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam.
- Hàng hoá viện trợ nhân đạo.
Ðối với các hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu trái phép; hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu thì không thuộc phạm vi á._.p dụng luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mà tuỳ vào mức độ vi phạm của từng trường hợp cụ thể sẽ bị xử lý bằng các biện pháp cưỡng chế hành chính , tư pháp theo quy định cuả pháp luật.
4. Ðối tượng nộp thuế:
Tất cả các tổ chức, cá nhân có hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện chịu thuế là đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Ðối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có thể là tổ chức, cá nhân trong nước thuộc mọi thành phần kinh tế và cũng có thể là cá nhân, tổ chức nước ngoài.
Trường hợp xuất nhập khẩu ủy thác thì tổ chức nhận ủy thác là đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
IV. CĂN CỨ VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH THUẾ:
1. Căn cứ tính thuế:
Căn cứ tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bao gồm:
- Số lượng từng mặt hàng ghi trong tờ khai hàng xuất khẩu, nhập khẩu.
- Giá tính thuế.
- Thuế suất của mặt hàng chịu thuế quy định trong biểu thuế.
1.1. Giá tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Giá tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được áp dụng theo quy định đối với từng trường hợp sau đây:
+ Giá tính thuế đối với hàng hoá xuất khẩu là giá bán cho khách hàng tại cửa khẩu xuất (FOB), không gồm chi phí vận tải (F), phí bảo hiểm (I) theo hợp đồng bán hàng.
+ Giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu là giá mua cuả khách hàng tại cửa khẩu nhập, bao gồm cả chi phí vận tải (F), phí bảo hiểm (I) theo hợp đồng mua hàng, tức là giá CIF.
+ Ðối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu nếu có hợp đồng mua bán và có đủ các chứng từ hợp lệ đủ điều kiện để xác định giá tính thuế thì giá tính thuế được xác định theo hợp đồng.
+ Trong trường hợp hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo phương thức khác hoặc giá ghi trên hợp đồng quá thấp so với giá mua bán tối thiểu thực tế tại cửa khẩu thì giá tính thuế áp dụng theo biểu giá do Chính phủ quy định.
Giá tính thuế tính bằng đồng Việt Nam. Ngoại tệ được quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá mua vào do Ngân hàng nhà nước công bố.
1.2. Thuế suất:
Thuế suất đối với hàng nhập khẩu gồm thuế suất thông thường, thuế suất ưu đãi và thuế suất ưu đãi đặc biệt:
- Thuế suất thông thường áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước không có thoả thuận đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Thuế suất thông thường được quy định cao hơn không quá 70% so với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng do Chính phủ quy định.
- Thuế suất ưu đãi áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước có thỏa thuận đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam.
- Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước mà Việt Nam và nước đó đã có thoả thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu.
Hàng hoá nhập khẩu trong các trường hợp sau, ngoài việc chịu thuế theo quy định như trên còn phải chịu thuế bổ sung
- Hàng hoá được nhập khẩu vào Việt Nam với giá bán của hàng hoá đó quá thấp so với giá thông thường do được bán phá giá, gây khó khăn cho sự phát triễn ngành sản xuất hàng hoá tương tự cuả Việt Nam .
- Hàng hoá được nhập khẩu vào Việt Nam với giá bán của hàng hoá đó quá thấp so với giá thông thường do có sự trợ cấp của nước xuất khẩu, gây khó khăn cho sự phát triển ngành sản xuất hàng hoá tương tự cuả Việt Nam.
- Hàng hoá được nhập khẩu vào Việt Nam có xuất xứ từ nước mà nước đó có sự phân biệt đối xử về thuế nhập khẩu hoặc có những biện pháp phân biệt đối xử khác đối với hàng hoá cuả Việt Nam.
1.3. Số lượng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu:
Là số lượng hàng hoá thực tế ghi trên tờ khai mà cơ sở có hàng xuất khẩu, nhập khẩu nộp cho cơ quan hải quan .
2. Phương pháp tính thuế:
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được tính theo công thức sau:
V. CHẾ ÐỘ MIỄN THUẾ, GIẢM THUẾ:
1. Miễn thuế:
Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được miễn thuế trong các trường hợp sau:
- Hàng viện trợ không hoàn lại bao gồm:
+ Hàng hoá viện trợ không hoàn lại song phương hoặc đa phương cuả các tổ chức Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ.
+ Hàng hoá viện trợ do các tổ chức nhân đạo, giáo dục, y tế, văn hoá nước ngoài hoặc cuả các tổ chức tôn giáo quốc tế viện trợ cho các cơ quan khoa học, giáo dục, y tế, văn hoá và các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam để dùng trực tiếp cho khoa học, giáo dục, y tế, văn hoá và tôn giáo.
- Hàng tạm nhập tái xuất, hàng tạm xuất tái nhập để dự hội chợ, triển lãm bao gồm những hàng hoá được phép tạm xuất khẩu hoặc tạm nhập khẩu để dự hội chợ, triển lãm, hết thời hạn hội chợ, triển lãm phải nhập về Việt Nam đối với hàng tạm xuất và xuất khẩu ra nước ngoài đối với hàng tạm nhập.
- Hàng là tài sản di chuyển cuả tổ chức, cá nhân Việt Nam hay nước ngoài di chuyển vào Việt Nam hay đưa ra nước ngoài trong mức quy định bao gồm:
+ Hàng là tài sản di chuyển của các tổ chức, cá nhân người nước ngoài khi được phép vào cư trú, làm việc tại Việt Nam hoặc chuyển ra khỏi Việt Nam khi hết thời hạn cư trú và làm việc tại Việt Nam.
+ Hàng hoá là tài sản di chuyển cuả tổ chức, cá nhân Việt Nam được Chính phủ Việt Nam cho phép đưa ra nước ngoài để kinh doanh và làm việc, khi hết hạn chuyển về nước.
+ Hàng hoá là tài sản di chuyển cuả cá nhân người Việt Nam định cư ở nước ngoài mang về nước khi được phép trở về định cư ở Việt Nam hoặc mang ra nước ngoài khi được phép định cư ở nước ngoài.
+ Hàng hoá mang theo hoặc gửi về nước cuả công dân Việt Nam đi hợp tác lao động, hợp tác chuyên gia, công tác và học tập ở nước ngoài trong tiêu chuẩn hành lý xuất nhập cảnh theo quy định cuả Chính phủ.
- Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu cuả tổ chức, cá nhân người nước ngoài được hưởng tiêu chuẩn miễn trừ ngoại giao do Chính phủ quy định phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
- Hàng hoá là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để gia công cho nước ngoài rồi xuất khẩu cho nước ngoài theo hợp đồng đã kí kết bao gồm các hình thức: nhận vật tư, nguyên liệu về sản xuất rồi giao lại toàn bộ thành phẩm; hoặc trả tiền một phần hay toàn bộ vật tư, nguyên liệu để bán lại toàn bộ thành phẩm cho nước ngoài theo hợp đồng gia công đã ký kết.
Ngoài các trường hợp quy định miễn thuế trên đây, các tổ chức và cá nhân còn được xét miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo các mục đích mà nhà nước cần khuyến khích vì lợi ích mang tính quốc gia; trường hợp đặc biệt cần khuyến khích đầu tư hoặc hàng hoá là quà biếu, quà tặng trong mức quy định hoặc một số trường hợp khác do Chính phủ quy định. Các trường hợp được xét miễn thuế bao gồm:
- Hàng nhập khẩu chuyên dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh, quốc phòng, nghiên cứu khoa học và giáo dục, đào tạo trên cơ sở kế hoạch hàng năm đã được Bộ trưởng Bộ chủ quản duyệt.
- Hàng xuất khẩu, nhập khẩu cuả xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cuả bên nước ngoài hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh trong từng trường hợp đặc biệt cần khuyến khích đầu tư. Sau khi có sự thống nhất cuả Bộ tài chính, Uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư xét miễn thuế xuất khẩu hoặc thuế nhập khẩu cho từng trường hợp cụ thể.
- Hàng là quà biếu, quà tặng cuả các tổ chức, cá nhân nước ngoài cho các tổ chức, cá nhân cuả Việt Nam và ngược lại được miễn thuế theo mức quy định cuả Bộ Tài chính.
- Hàng nhập khẩu để bán hàng miễn thuế tại các đơn vị được cơ quan có thẩm quyền cho phép kinh doanh bán hàng miễn thuế phục vụ cho người xuất cảnh, các cơ quan đại diện nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam.
2. Giảm thuế:
Theo quy định cuả Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì trường hợp hàng hoá trong quá trình vận chuyển, bốc xếp bị hư hỏng, mất mát nếu có lý do xác đáng và được Vinacontrol chứng nhận thì đối tượng nộp thuế được giảm thuế tương ứng với tỷ lệ hư hao, mất mát cuả hàng hoá đó.
VI. ÐĂNG KÝ KÊ KHAI, NỘP THUẾ, HOÀN THUẾ, TRUY THU THUẾ:
1. Ðăng ký kê khai thuế:
-
Các tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng nộp thuế mỗi lần có hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới Việt Nam phải đến cơ quan hải quan tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc những cơ quan đã được Tổng Cục hải quan cho phép để làm thủ tục đăng ký tờ khai hàng hoá.
Thời điểm tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là ngày đăng ký tờ khai hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
- Trong thời hạn 2 ngày làm việc, kể từ ngày kiểm hoá xong lô hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu, nếu hàng hoá có thay đổi thừa hay thiếu so với lúc đăng ký tờ khai hàng hoá, cơ quan hải quan sẽ điều chỉnh lại số thuế phải nộp và đồng thời thông báo lại cho đối tượng nộp thuế chính thức sau khi đã kiểm hoá.
- Quá thời hạn 15 ngày đối với hàng hoá xuất khẩu và 30 ngày đối với hàng hoá nhập khẩu, kể từ ngày cơ quan hải quan xác nhận đăng ký tờ khai hàng hoá, nhưng tổ chức, cá nhân vẫn chưa có hàng hoá thực xuất khẩu hoặc thực nhập khẩu thì việc đăng ký tờ khai hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu và thông báo số thuế đối với lô hàng hoá ấy không còn giá trị. Khi có hàng hoá xuất khẩu hoặc nhập khẩu thì phải làm lại thủ tục đăng ký tờ khai hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu mới.
2. Nộp thuế:
Thời hạn nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được quy định như sau:
- Ðối với hàng hoá xuất khẩu là 15 ngày, kể từ ngày đối tượng nộp thuế nhận được thông báo chính thức cuả cơ quan thu thuế về số thuế phải nộp.
- Ðối với hàng hoá là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu được nộp thuế trong thời hạn là 90 ngày kể từ ngày đối tượng nộp thuế nhận được thông báo chính thức cuả cơ quan thu thuế về số thuế phải nộp. Trong trường hợp đặc biệt, thời hạn nộp thuế có thể được gia hạn phù hợp với chu kỳ sản xuất, dự trữ vật tư, nguyên liệu cuả doanh nghiệp theo quy định cuả Chính phủ.
- Ðối với hàng hoá tạm xuất, tái nhập hoặc tạm nhập, tái xuất là 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn tạm xuất, tái nhập hoặc tạm nhập, tái xuất theo quy định cuả cơ quan có thẩm quyền.
- Ðối với hàng hoá là máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, phương tiện vận tải nhập khẩu để phục vụ cho sản xuất là 30 ngày kể từ ngày đối tượng nộp thuế nhận được thông báo chính thức cuả cơ quan thu thuế về số thuế phải nộp.
- Ðối với hàng hoá tiêu dùng nhập khẩu thì phải nộp xong thuế nhập khẩu trước khi nhận hàng. Trong trường hợp có bảo lãnh về số tiền nộp thuế cuả các tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức khác được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định cuả Luật các tổ chức tín dụng thì thời hạn nộp thuế là 30 ngày kể từ ngày đối tượng nộp thuế nhận được thông báo chính thức cuả cơ quan thu thuế về số thuế phải nộp. Quá thời hạn nộp thuế nói trên mà đối tượng nộp thuế chưa nộp thuế thì tổ chức bảo lãnh phải có trách nhiệm nộp thuế đó thay cho đối tượng nộp thuế.
3. Hoàn thuế:
Nghiã vụ nộp thuế cuả đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu gắn liền với thực tế xuất khẩu, nhập khẩu của họ. Nhưng trên thực tế có sự bất hợp lý giữa việc nộp thuế và thực tế việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá của đối tượng nộp thuế. Do đó đối tượng nộp thuế được xét hoàn lại thuế trong các trường hợp sau:
- Hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam , đã kê khai và nộp thuế nhập khẩu theo thông báo nhưng hàng hoá vẫn còn nằm trong khu vực quản lý cuả cơ quan hải quan tại các cửa khẩu, biên giới sau đó được phép xuất khẩu.
- Hàng hoá xuất khẩu đã kê khai và nộp thuế, nhưng thực tế không xuất khẩu nữa.
- Hàng hoá đã nộp thuế theo tờ khai nhưng thực tế xuất khẩu hoặc nhập khẩu ít hơn.
- Hàng hoá là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu được hoàn thuế tương ứng với tỷ lệ xuất khẩu thành phẩm.
- Hàng hoá tạm nhập khẩu để tái xuất, hàng tạm xuất khẩu để tái nhập được hoàn thuế tương ứng với số hàng hoá tái xuất khẩu hay tái nhập khẩu.
- Hàng hoá nhập khẩu cuả một số doanh nghiệp Việt Nam được phép nhập khẩu để làm đại lý giao, bán cho nước ngoài có đăng ký trước với Bộ tài chính thì được hoàn thuế nhập khẩu đối với số hàng thực bán để đưa ra khỏi Việt Nam.
4. Truy thu thuế:
Khi lý do cuả các trường hợp hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được miễn thuế, xét miễn thuế, xét giảm thuế đã thay đổi thì cơ quan hải quan sẽ truy thu đủ sổ thuế đã được miễn, giảm. Cụ thể gồm các trường hợp sau đây:
- Hàng hoá viện trợ sử dụng vào các mục đích khác ngoài chương trình dự án.
- Hàng hoá tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập để dự hội chợ, triển lãm, nhưng không tái xuất khẩu hoặc không tái nhập khẩu.
- Hàng hoá nhập khẩu cuả các tổ chức, cá nhân nước ngoài được hưởng tiêu chuẩn miễn thuế theo chế độ tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu nhưng không tái xuất mà tiêu thụ, chuyển nhượng tại thị trường Việt Nam cho các tổ chức, cá nhân không được hưởng tiêu chuẩn miễn thuế.
- Hàng hoá xuất khẩu để trả nợ nước ngoài cuả Chính phủ đã được miễn thuế nhưng thực tế là không phải xuất khẩu để trả nợ nước ngoài.
- Hàng hoá nhập khẩu chuyên dùng cho an ninh, quốc phòng, nghiên cứu khoa học và giáo dục, đào tạo đã được miễn thuế nhập khẩu nhưng không sử dụng đúng mục đích mà bán lại trên thị trường Việt Nam.
- Hàng hoá là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để gia công cho nước ngoài đã được miễn thuế nhập khẩu nhưng đem bán lại trên thị trường Việt Nam hoặc không xuất khẩu sản phẩm hàng hoá ra nước ngoài mà bán lại trên thị trường Việt Nam.
- Hàng hoá nhập khẩu cuả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cuả bên nước ngoài hợp tác kinh doanh tại Việt Nam đã được miễn thuế nhập khẩu nhưng lại đem bán trên thị trường Việt Nam.
- Hàng hoá trên danh nghiã là bị hư hỏng, mất mát trong quá trình vận chuyển, bốc xếp nhưng sau đó xác định lại là không bị hư hỏng, mất mát.
5. Quản lý nhà nước về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
5.1 Nhiệm vụ, trách nhiệm của cơ quan hải quan:
Cơ quan hải quan có những nhiệm vụ, trách nhiệm sau đây:
- Tổng cục hải quan có trách nhiệm quy định thủ tục khai báo, kiểm hoá, tính thuế, nộp thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu và tổ chức thực hiện việc thu thuế thống nhất trong toàn ngành hải quan. Hải quan tỉnh, thành phố và hải quan cửa khẩu có trách nhiệm thực hiện đúng quy định về thủ tục đăng kí tờ khai hàng khi tổ chức, cá nhân có hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu cung cấp đủ các chứng từ hợp lệ để tính thuế; Tính đúng số thuế mà tổ chức, cá nhân phải nộp thuế, đảm bảo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.
- Hướng dẫn đối tượng nộp thuế thực hiện chế độ đăng ký kê khai, nộp thuế theo đúng quy định cuả Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Bố trí cán bộ tiếp nhận và làm thủ tục đăng ký tờ khai hàng hoá cho đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đảm bảo nhanh chóng, kịp thời.
- Tiến hành kiểm hoá đối với lô hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu theo đúng với tờ khai hàng hoá cuả đối tượng nộp thuế.
- Trong một số trường hợp cần thiết, tiến hành giám định hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định của pháp luật.
- Trong thời hạn 8 giờ làm việc, kể từ khi đăng ký tờ khai hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, cơ quan hải quan phải thông báo chính thức cho đối tượng nộp thuế số thuế phải nộp và thời hạn phải nộp xong thuế là trong 15 ngày, 30 ngày hoặc 90 ngày tuỳ theo từng trường hợp. Ðối với một số mặt hàng có số lượng nhập khẩu lớn hoặc phải có giám định phức tạp thì thời hạn thông báo thuế có thể được kéo dài nhưng không quá 3 ngày làm việc.
- Phối hợp với Cục thuế tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhằm đảm bảo cho việc thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hoàn thành chỉ tiêu, kế hoạch được giao; đồng thời góp phần đấu tranh phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại.
- Kiểm tra, thanh tra việc kê khai nộp thuế, hoàn thuế cuả đối tượng nộp thuế để đảm bảo thực hiện đúng quy định cuả pháp luật.
- Xử lý vi phạm hành chính về thuế và giải quyết khiếu nại về thuế.
- Yêu cầu đối tượng nộp thuế cung cấp sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ và hồ sơ, tài liệu khác có liên quan đến việc tính thuế và nộp thuế.
- Lưu giữ và sử dụng số liệu, tài liệu mà đối tượng nộp thuế và đối tượng khác cung cấp theo quy định cuả pháp luật.
5.2 Xử lý vi phạm về thuế:
Ðối tượng nộp thuế nếu vi phạm Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì bị xử lý như sau:
- Nộp chậm tiền thuế, tiền phạt so với ngày quy định phải nộp hoặc quyết định xử lý về thuế thì ngoài việc nộp đủ số thuế, số tiền phạt, mỗi ngày nộp chậm còn phải nộp phạt bằng 0,1% (một phần nghìn) số tiền chậm nộp.
- Không thực hiện đúng những quy định về đăng ký, kê khai nộp thuế theo quy định cuả Luật này thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính vế thuế.
- Khai man thuế, trốn thuế thì ngoài việc phải nộp đủ số thuế theo quy định cuả Luật này, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm còn bị phạt tiền từ một đến năm lần số tiền thuế gian lận.
- Không nộp thuế, nộp phạt theo quyết định xử lý vế thuế thì bị cưỡng chế thi hành bằng các biện pháp sau đây:
+Trích tiền gửi cuả đối tượng nộp thuế tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc để nộp thuế, nộp phạt.Ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc có trách nhiệm trích tiền từ tài khoản tiền gửi cuả đối tượng nộp thuế để nộp thuế, nộp phạt vào ngân sách nhà nước theo quyết định xử lý về thuế cuả cơ quan thuế hoặc cơ quan cò thẩm quyền trước khi thu nợ.
+ Giữ hàng hoá, tang vật để bảo đảm thu đủ số thuế, số tiền phạt còn thiếu.
+ Kê biên tài sản theo quy định cuả pháp luật để bảo đảm thu đủ số thuế, số tiền phạt còn thiếu.
+ Cơ quan hải quan không được làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu cho chuyến hàng tiếp theo cuả đối tượng nộp thuế cho đến khi đối tượng đó nộp đủ số tiền thuế, tiền phạt.
- Nếu phát hiện và có kết luận có sự gian lận, trốn thuế, cơ quan thuế có trách nhiệm truy thu tiền thuế, tiền phạt trong thời hạn 5 năm trở về trước, kể từ ngày kiểm tra phát hiện có sự gian lận, trốn thuế; Trường hợp đối tượng nộp thuế nhầm lẫn trong kê khai, cơ quan thuế có trách nhiệm truy thu hoặc hoàn trả tiền thuế đó trong thời hạn một năm trở về trước, kể từ ngày kiểm tra phát hiện có sự nhẩm lẫn đó.
- Trốn thuế với số lượng lớn hoặc đã bí xử phạt vi phạm hành chính về thuế mà còn vi phạm hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sư theo quy định cuả pháp luật.
5.3 Giải quyết khiếu nại về thuế:
Trong trường hợp các đối tượng nộp thuế không đồng ý với quyết định xử phạt cuả cơ quan thu thuế thì vẫn phải chấp hành biện pháp xử lý ấy và sau đó có quyền khiếu nại lên Tổng Cục hải quan.
Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại, Tổng cục hải quan phải giải quyết dứt điểm. Nếu đối tượng nộp thuế vẫn không đồng ý với cách giải quyết cuả Tổng Cục hải quan, thì có quyền khiếu nại lên Bộ trưởng Bộ Tài chính, và trong thời hạn 30 ngày, Bộ trưởng Bộ Tài chính phải giải quyết xong và quyết định cuả Bộ trưởng Bộ Tài chính là quyết định cuối cùng.
VII. ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO ĐẾN THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU:
1. Cam kết về thuế quan trong WTO của Việt Nam:
Trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam phải thay đổi rất nhiều các quy định về luật thuế, trong đó thuế xuất nhập khẩu chịu ảnh hưởng mạnh nhất.
Việt Nam cam kết ràng buộc với toàn bộ Biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành gồm 10600 dòng thuế.
Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi 23% so với mức thuế bình quân hiện hành (thuế suất MFN) của biểu thuế (từ 17,4% xuống còn 13,4%) thời gian thực hiện sau 5-7 năm.
Trong toàn bộ biểu cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế với khoảng 3800 dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của Biểu thuế ); ràng buộc ở mức thuế hiện hành với khoảng 3700 dòng thuế (chiếm 34,5% số dòng của Biểu thuế ); ràng buộc theo mức thuế trần – cao hơn mức thuế hiện hành 3170 dòng thuế (chiếm 30% số dòng của Biểu thuế ), chủ yếu là đối với nhóm hàng như xăng dầu, kim loại, hoá chất và một số phương tiện vận tải.
Một số mặt hàng đang có thuế suất cao từ trên 20%, 30% sẽ được cắt giảm thuế ngay khi gia nhập. Những nhóm mặt hàng có cam kết cắt giảm thuế bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc thiết bị điện - điện tử.
Đối với lĩnh vực nông nghiệp, mức cam kết bình quân là 25,2% vào thời điểm gia nhập và 21,0% sẽ là mức cắt giảm cuối cùng. So sánh với mức thuế MFN bình quân đối với lĩnh vực nông nghiệp hiện nay là 23,5% thì mức cắt giảm đi sẽ là 10%. Trong lĩnh vực nông nghiệp, Việt Nam sẽ được áp dụng cơ chế hạn ngạch thuế quan đối với 4 mặt hàng, gồm: trứng, đường, thuốc lá, muối ( muối trong WTO không được coi là mặt hàng nông sản). Đối với 4 mặt hàng này, mức thuế trong hạn ngạch là tương đương mức thuế MFN hiện hành (trứng 40%, đường thô 25%, đường tinh 50 – 60%, thuốc lá lá 30%, muối ăn 30%), thấp hơn nhiều so với mức thuế ngoài hạn ngạch.
Đối với lĩnh vực công nghiệp, mức cam kết bình quân vào thời điểm gia nhập là 16.1%, và mức cắt giảm cuối cùng sẽ là 12.6%. So sánh với mức thuế MFN bình quân của hàng công nghiệp hiện nay là 16.6% thì mức cắt giảm đi sẽ là 23.9%.
Các mức cắt giảm này có thể so sánh tương ứng với các mức cắt giảm trung bình của các nước đang phát triển và đã phát triển trong vòng đàm phám Urugoay (1994) như sau: trong lĩnh nông nghịêp các nước đang phát triển và đã phát triển cam kết cắt giảm là 30% và 46%; với hàng công nghiệp tương ứng là 37% và 24%; Trung Quốc trong đàm phán gia nhập của mình cam kết cắt giảm khoảng 45% thuế nhập khẩu (từ 17,5% xuống 10%).
Như tất cả các nước mới gia nhập khác, Việt Nam cũng cam kết tham gia vào một số Hiệp định tự do hoá theo ngành. Những ngành mà Việt Nam cam kết tham gia đầy đủ là sản phẩm công nghệ thông tin (ITA), dệt may và thiết bị y tế. Những ngành mà Việt Nam rham gia một phần là thiết bị máy bay, hoá chất và thiết bị xây dựng. Thời gian thực hiện cam kết giảm thuế là từ 3 đến 5 năm.
Trong các hiệp định trên, tham gia ITA là quan trọng nhất, theo đó khoảng 330 dòng thuế thuộc diện công nghệ thông tin sẽ phải có thuế suất 0% sau 3 đến 5 năm. Như vậy, các sản phẩm điện tử như: máy tính, điện thoại di động, máy ghi hình, máy ảnh kỹ thuật số…sẽ đều có thuế suất 0%, thực hiện sau 3 – 5 năm, tối đa là sau 7 năm.
2. Sự ảnh hưởng khi cắt giảm thuế xuất nhập khẩu theo WTO:
Cắt giảm thuế xuất khẩu, nhập khẩu sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp và nguồn thu của ngân sách nhà nước. Khi vào WTO, thuế quan sẽ giảm dẫn đến giá thành hàng hoá của các nước cũng giảm. Như vậy, doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một chiến lược về giá. Một câu hỏi đặt ra là các doanh nghiệp làm thế nào để có thể tận dụng hiệu quả các cơ hội và vượt qua các thách thức mà hội nhập kinh tế mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam
Hiện nay, thuế nhập khẩu vẫn là biện pháp quan trong để bảo hộ sản xuất trong nước. Nhưng theo các cam kết của WTO và hiệp định tự do hoá thương mại (AFTA ), thuế nhập khẩu sẽ bị cắt giảm trong thời gian năm tới và sẽ dần xuống mức 0% trong khoảng thời gian 10 – 12 năm. Cụ thể trong cam kết gia nhập WTO, sẽ có 36% số dòng thuế trong biểu thuế phải cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu so với hiện hành. Với mức cắt giảm như đã cam kết, kim ngạch nhập khẩu thực tế chịu ảnh hưởng cắt giảm thuế khoảng 20% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng năm. Khi đó số thu thuế nhập khẩu sau khi thực hiện cắt giảm giai đoạn 5 năm gia nhập WTO là 300 triệu USD, tương đương 4800 tỉ đồng. Trung bình giảm khoảng 1000 tỉ đồng / năm, tương đương khoảng 6 -7 % số thu thuế nhập khẩu hàng năm.
Gia nhập WTO, Vịêt Nam sẽ cạnh tranh với nhiều đối tác có lợi thế về công nghệ, về giá cả, vận chuyển và chủ động nguồn nguyên liệu … trong khi biện pháp bảo hộ bằng thuế không còn thì khó khăn sẽ đến với các nhà sản xuất trong nước.
Cùng với việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết của WTO, Việt Nam vẫn tiếp tục thực hiện các cam kết cắt giảm thuế theo AFTA khu vực. Theo cam kết này việc cắt giảm đều rất triệt để, xuống mức 0 – 5%. Điều này sẽ ảnh hưởng đáng kể tới sản xuất trong nước nếu không có các biện pháp điều chỉnh, vì các nước đối tác đều có thế mạnh về sản xuất và xuất khẩu. Vì thực tế buôn bán trong ASEAN chỉ chiếm 25- 27% tổng giá trị nhập khẩu và giá trị kim ngạch đảm bảo tiêu chí để được miễn thuế mớí chiếm 10% tổng kim ngạch nhập khẩu từ ASEAN. Tuy nhiên, khi AFTA mở rộng sang cả Trung Quốc, Hàn Quốc thì những ảnh hưởng sẽ càng rõ nét hơn.
Hiện nay, thuế xuất khẩu, nhập khẩu chiếm khoảng 13% tổng thu ngân sách nhà nước. Việc cắt giảm thuế sẽ làm số thu giảm 10% tổng số thu thuế từ hoạt động nhập khẩu. Bên cạnh đó, dưới tác động giản tiếp của hội nhập, nền kinh tế trong nước đã có ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách như: số thu thuế từ khu vực kinh tế trong nước, đặc biệt là từ các doanh nghiệp nhà nước sẽ bị ảnh hưởng mạnh do tác động của cạnh tranh quốc tế và quá trình cải cách doanh nghiệp. Mặt khác, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và những thay đổi thị trường trong quá trình hội nhập cũng sẽ thay đổi nguồn thu. Tuy nhiên, việc cắt giảm thuế cũng sẽ dẫn tới việc thúc đẩy gia tăng kim ngạch thương mại. Các mặt hàng nhập khẩu được giảm thuế sẽ có số lượng nhập khẩu gia tăng. Kết quả sẽ dẫn đến tăng thu thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt. Nếu xét cả khía cạnh này thì tác động của việc cắt giảm thuế sẽ thấp hơn.
Việc điều hành thuế nhập khẩu góp phần quan trọng trong việc bảo hộ có chọn lọc các ngành hàng có khả năng cạnh tranh đầu tư, mở rộng sản xuất, hạn chế tối đa những tác động bất lợi về biến động của giá cả. Không chỉ có vậy, chính sách ưu đãi thuế đã góp phần quan trọng tạo điều kiện để nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam có điều kiện hình thành, từng bước mở rộng và phát triển, giải quyết việc làm cho hàng trăm nghìn lao động. Tuy nhiên cũng không phủ nhận hiện nay, một số chính sách ưu đãi thuế không còn phù hợp và cần phải dỡ bỏ. Đây cũng là một bước để các doanh nghiệp làm quen dần với nền kinh tế hội nhập.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG LUẬT THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU VIGLACERA
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY:
1.Quá trình hình thành và phát triển của Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu:
Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera
Địa chỉ: Số 2 – Hoàng Quốc Việt- Cầu giấy- Hà Nội
Điện thoại: 04.7567712
Fax: 04.7567710
Email: Viglacera- exim@fpt.vn
Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu là một doanh nghiệp nhà nước mà tiền thân là phòng kinh doanh và xuất nhập khẩu trực thuộc Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dựng (Viglacera) được thành lập theo quyết định 217/ QĐ- BXD ngày 17/5/1998 có tên giao dịch quốc tế là: Business and Import Export Company nay có tên giao dịch mới là: Trading and Exporrt – Import Company, viết tắt là TRADIMEX. Trụ sở công ty lúc đăng ký kinh doanh đặt tại khuôn viên cơ quan Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dựng – 43B Hoàng Hoa Thám, quận Tây Hố, Hà Nội. Hiện nay trụ sở chính của công ty đặt tại số 2 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, HàNội. Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu là một đơn vị trực thuộc Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dựng, thực hiện hạch toán phụ thuộc Tổng công ty, được sử dụng con dấu theo mẫu quy định và được mở tài khoản tại Ngân hàng và Kho bạc nhà nước. Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu hoạt động kinh doanh theo phân công, phân cấp của Tổng công ty, theo điều lệ tổ chức và hoạt động Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dựng và quy chế tổ chức hoạt động của công ty do Hội đồng quản trị Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dựng phê duyệt.
Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu thực hiện tiêu thụ sản phẩm của Tổng công ty trong và ngoài nước; Nhập khẩu máy móc, thiết bị vật tư, phụ tùng, nguyên vật liệu, hoá chất phục vụ sản xuất kinh doanh, xuất khẩu các loại gạch ngói, đát sét nung, gạch ốp lát ceramic, granit, nguyên vật liệu, xứ vệ sinh, kính xây dựng và máy móc thiết bị trong ngàng xây dựng; Xuất khẩu uỷ thác theo uỷ quyền của Tổng giám đốc công ty.
2. Chức năng của công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu:
Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu có 2 chức năng cơ bản sau:
- Chức năng kinh doanh: Nghiên cứu quy luật cung cầu trên thị trường về các loại sản phẩm do các công ty thành viên sản xuất để xây dựng phương án tiêu thụ, giúp cho sản xuất của công ty hoà nhịp đáp ứng nhu cầu thị trường và đạt hiệu quả cao.
- Chức năng xuất nhập khẩu:
+ Xuất khẩu các loại gạch ngói, đất sét nung, gạch ốp lát các loại Ceramic, Granit, nguyên vật liệu, sứ vệ sinh, kính xây dựng và máy móc thiết bị trong ngành xây dựng.
+ Nhập khấu vật tư, nguyên vật liệu, thiết bị, phụ tùng, máy móc, hoá chất phục vụ máy móc phục vụ sản xuất kinh doanh của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty và phục vụ kinh doanh.
+ Thực hiện dịch vụ xuất nhập khẩu uỷ thác theo uỷ quyền của Tổng giám đốc công ty.
Nhiệm vụ của Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu:
Để thực hiện các chức năng trên của Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu phải thực hiện những nhiệm vụ (có thay đổi theo thời gian) như sau:
- Nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước nhằm đảm bảo sự hoạt động liên tục và hiệu quả của các đơn vị thành viên bao gồm cả việc bảo đảm những yếu tố đầu vào (nhập khẩu) và việc tiêu thụ những sản phẩm đầu ra qua đó thu được lơị nhuận. Xây dựng, tổ chức triển khai quản lý hệ thống đại diện, đại lý, cửa hàng, cộng tác viên để hình thành hệ thống tiêu thụ sản phẩm của Tổng công ty trong và ngoài nước. Xây dựng chương trình tiếp thị dài hạn và ngắn hạn để trình Tổng giám đốc Tổng công ty phê duyệt trên cơ sở đó hoàn thành nhiệm vụ đựơc giao.
- Thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh các chính sách, chế độ hiện hành của Nhà nước và các Thông tư hướng dẫn của Bộ Thương mại.
3. Tổ chức bộ máy quản lý và hoạt động của công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu:
Là một đơn vị kinh tế hạch toán phụ thuộc trong Tổng công ty do vậy cơ cấu quy mô, tổ chức biên chế nhân sự công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu do Tổng giám đốc Tổng công ty quyết định phù hợp với sự phát triển của công ty bảo đảm gọn nhẹ kinh doanh đạt hiệu quả cao. Khi mới thành lập do mới chỉ có chức năng kinh doanh và xuất nhập khẩu cho nên cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty chỉ bao gồm 4 phòng là: Phòng tổ chức hành chính, phòng kế toán, phòng kinh doanh, phòng xuất nhập khẩu nhưng hiện nay do sự phát triển của công ty mà thực chất là sự mở rộng ngành nghề kinh doanh ( thực hiện xuất khẩu lao động tro._. xuất khẩu đã xuất khẩu sản phẩm thì doanh nghiệp nhập khẩu nguyên vật liệu, vật tư được hoàn thuế nhập khẩu. Thủ tục hoàn thuế nhập khẩu được quy định trong luật thuế xuất, nhập khẩu.
- Doanh nghiệp nhập khẩu nguyên vật liệu, vật tư xuất sản phẩm bán cho doanh nghiệp khác để trực tiếp xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài. Sau khi doanh nghiệp mua sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất dã xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài thì doanh nghiệp nhập khẩu nguyên vật liệu, vật tư được hoàn thuế nhập khẩu.
Thủ tục hồ sơ xét hoàn thuế:
Tuỳ các trường hợp được xét hoàn thuế mà có những quy định về thủ tục hồ sơ xét hoàn thuế khác nhau theo quy định của Nghị định số 149/2005/NĐ-CP, Thông tư 68/2001/TT-BTC, Thông tư 91/2002/TT- BTC. Cụ thể như sau:
Hồ sơ yêu cầu hoàn thuế trong hai trường hợp mà công ty được hoàn thuế như sau:
* Trường hợp 1:
- Công văn yêu cầu hòan lại thuế nhập khẩu, trong đó giải trình cụ thể số lượng, trị giá nguyên liệu vật ttnhập khẩu để sử dụng sản xuất hàng hóa bán cho doanh nghiệp sản xuất hàng hóa xuất khẩu, số lượng hang hóa sản xuất đã bán, số lượng sản phẩm đã xuất khẩu, số thuế nhập khẩu đã nộp, số thuế nhập khẩu yêu cầu được hoàn.
- Bản kê khai định mực tiêu hao nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất một đơn vị sản phẩm.
- Tờ khai hải quan nguyên vật liệu nhập khẩu đã làm thủ tục hải quan, hợp động nhập khẩu.
- Chứng từ nộp thuế.
- Tờ khai hải quan hàng hóa xuất khẩu của doanh nghiệp xuất khẩu đã có chứng thực của cơ quan hải quan.
- Hóa đơn bán hàng đối với việc mua bán giữa hai đơn vị.
- Hợp đồng mua bán hàng hóa giữa công ty với doanh nghiệp sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
- Hợp đồng sản xuất với khách hàng nước ngoài.
- Bản kê khai của doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm về số lượng và định mức thực tế sản phẩm mua về trực tiếp sản xuất một đơn vị sản phẩm xuất khẩu.
- Hợp đồng ủy thác xuất khẩu nhập khẩu (nếu có).
* Trường hợp 2:
- Công văn yêu cầu hoàn thuế nhập khẩu trong đó có giải trình cụ thể: Số lượng, trị gaiasnguyên vật liệu nhập khẩu, số thuế nhập khẩu đã nộp, số lượng sản phẩm đã bán cho doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu, số thuế yêu cầu được hoàn.
- Bản kê khai điịnh mức tiêu hao nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất một đơn vị sản phẩm.
- Tờ khai hải quan nguyên vật liệu nhập khẩu đã làm thủ tục hải quan, hợp đồng nhập khẩu.
- Hợp đồng mua bán giữa công ty với doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xuất khẩu.
- Tờ khai hải quan hàng hóa xuất khẩu đã làm thủ tục hải quan.
- Hợp đồng xuất khẩu hàng hóa với khánh hàng nước ngoài.
- Chứng từ thanh toán qua Ngân hàng cho lô hàng xuất khẩu.
- Hợp đồng ủy thác xuất khẩu (nếu có).
Trình tự giải quyết hoàn thuế :
Số thuế nhập khẩu được hoàn sẽ xử lý theo trình tự như sau:
- Được khấu trừ vào tiền thuế, tiền phạt, các khoản thu khác mà đối tượng nộp thuế còn nợ ngân sách.
- Bù trừ vào tiền thuế, các khoản thu khác của lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu lần sau liền kề theo đề nghị của đối tượng nộp thuế;
- Hoàn trả từ ngân sách Nhà nước thì cục hải quan địa phương đề nghị Bộ Tài chính trực tiếp hoàn lại số tiền thuế cho đối tượng được hoàn theo quyết định hoàn thuế của cục hải quan địa phương.
Thời hạn nộp hồ sơ và thời hạn xét hoàn thuế
- Thời hạn nộp hồ sơ: Chậm nhất trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan thực xuất khẩu, nhập khẩu, các đối tượng được xét hoàn lại thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải hoàn thành hồ sơ theo quy định gửi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xem xét giải quyết hoàn lại thuế theo quy định.
- Thời hạn xét hoàn thuế: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ yêu cầu hoàn thuế theo quy định, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét hoàn thuế có trách nhiệm ra quyết định hoàn thuế cho đối tượng được hoàn; trường hợp không có đủ hồ sơ hoặc hồ sơ không đúng theo quy định của pháp luật để được hoàn thuế thì trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ yêu cầu hoàn thuế, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét hoàn thuế phải có văn bản yêu cầu bổ sung hồ sơ.
Số liệu thuế nhập khẩu mà công ty được hoàn lại trong các năm 2004, 2005, 2006. Số thuế nhập khẩu mà công ty được hoàn là căn cứ vào các quy định tại Thông tư 63/ 2001/TT- BTC và Thông tư 91/2002/TT- BTC (hướng dẫn hoàn các khỏan đã nộp Ngân sách nhà nước).
Bảng 18: Đơn vị: USD
Năm
Thuế nhập khẩu đã nộp
Thuế nhập khẩu được hoàn
Thuế nhập khẩu thực nộp cho Nhà nước
2004
68660
32150
36510
2005
47360
12590
34770
2006
18648
9825
8825
CHƯƠNG 3
NHỮNG BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG
TY KINH DOANH VÀ XUẤT NHẬP KHẨU VIGLACERA
I. Những biện pháp liên quan đến chính sách xuất nhập khẩu của Nhà nước:
Nhà nước cần phải tập trung phát triển những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, phát triển các mặt hàng mới. Nhà nước phải có chính sách tăng cường xuất khẩu những mặt hàng có giá trị cao, hạn chế xuất khẩu các mặt hàng thô. Thực tế cho thấy rằng, mặc dù chúng ta xuất khẩu khối lượng hàng hoá lớn nhưng hầu như chỉ là những mặt hàng có giá trị thấp, ngược lại chúng ta lại nhập khẩu những mặt hàng có giá trị rất cao như các dây chuyến máy móc, thiết bị…Hơn thế nữa do chính sách xuất nhập khẩu hiện hành chưa có được những chế tài nghiêm minh nên trong quá trình nhập khẩu còn có nhiều hiện tượng tiêu cực xảy ra, Nhà nước hay doanh nghiệp thì cam chịu bỏ ra số tiền rất lớn để nhập khẩu các dây chuyền sản xuất mới nhằm phục vụ cho chiến lược phát triển của ngành, doanh nghiệp nhưng các cán bộ thực hiện nhiệm vụ được giao lại làm không đúng như vậy. Do chưa có chế tài quy định trách nhiệm cũng như những hình thức xử lý khi vi phạm nên những người làm công tác này lại đương nhiên ký những hợp đồng nhập những dây chuyền sản xuất được coi là những cỗ máy lạc hậu có khi vài chục năm về để rồi lại sửa chữa, lại xin kinh phí bảo dưỡng. Như vậy, mặc nhiên các doanh nghiệp tự chôn chân mình. Để khắc phục hiện tượng này, chính sách xuất nhập khẩu của chúng ta phải có những chế tại nghiêm minh quy định cụ thể trách nhiệm của các cán bộ làm công tác đó. Mặt khác phải tìm kiếm và đa dạng hoá thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường có sức mua lớn nhưng hiện còn chiếm tỷ trọng thấp, thâm nhập vào các thị trường mới, đối với mỗi thị trường, mỗi mặt hàng xuất khẩu phải có những nghiên cứu và đề ra những giải pháp thật cụ thể, rõ ràng. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại và chú trọng công tác dự báo xu hướng thị trường, đặc biệt là thu thập và phân tích thông tin từ các thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản... để tránh hiện tượng bị ép giá, bị thụ động…
II. Những biện pháp nhìn từ góc độ Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành của Việt Nam tuy được đánh giá là đã có những tiến bộ song nó vẫn còn tồn tại những bất cập sau:
- Có thể nói, chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu đã chú trọng bảo hộ sản xuất trong nước, khuyến khích đầu tư thông qua việc quy định mức thuế suất thuế xuất khẩu, nhập khẩu áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu từ các thị trường khác nhau; Ngoài ra còn áp dụng biện pháp bảo hộ có trọng điểm, có thời gian, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, hiệu quả bảo hộ chưa cao, chưa chọn lọc, chưa xác định thời hạn và lộ trình bảo hộ để các doanh nghiệp chủ động, còn thiếu các công cụ bảo hộ như hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối, trong khi các công cụ bảo hộ này hoàn toàn có thể thay thế cho biện pháp áp dụng bảng giá tối thiểu để tính thuế nhập khẩu, chưa triển khai áp dụng thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử theo quy định của Luật thuế xuất - nhập khẩu, vẫn còn một số mặt hàng linh kiện chi tiết rời hoặc nguyên liệu để sản xuất lắp ráp các sản phẩm cơ khí, điện - điện tử có mức thuế nhập khẩu cao hơn thành phẩm.
Theo ý kiến các nhà phân tích, chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu của nước ta hiện nay đang được xây dựng theo nguyên tắc bảo hộ triệt để cho sản xuất nội địa. Mức độ bảo hộ không được phân biệt theo lợi thế cạnh tranh. Việc phân tích các tỷ lệ bảo hộ thực tế cho thấy những ngành được bảo hộ cao nhất là những ngành sản xuất hàng thay thế nhập khẩu chứ không phải là những ngành sản xuất có tiềm năng xuất khẩu hoặc những ngành có tiềm năng nhưng chưa đủ sức cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Như vậy, tác dụng bảo hộ của chính sách thuế nhập khẩu dẫn đến việc khuyến khích tiêu dùng trên thị trường trong nước mà không khuyến khích xuất khẩu. Xuất khẩu chưa trở thành đích phục vụ chủ yếu của nhập khẩu nên càng dẫn đến tình trạng thâm hụt cán cân thương mại. Điều này rõ ràng là bất lợi khi Việt Nam tham gia vào thương mại khu vực và thế giới khi hàng rào thuế quan dần dần bị xoá bỏ - hàng nhập khẩu có nguy cơ tràn ngập trong khi đó hàng xuất khẩu chủ lực lại không có điều kiện chiễm lĩnh thị trường.
- Chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn tương đồng với chính sách thuế trong khu vực và trên thế giới. Cơ cấu thuế suất của biểu thuế nhập khẩu hiện hành có khá nhiều mức thuế suất (18 mức) kết hợp với một số khoản thu chênh lệch giá (bản chất vẫn là thuế nhập khẩu) đối với một số mặt hàng gây hiểu nhầm là có quá nhiều khoản thu đối với hàng nhập khẩu, không phù hợp với thông lệ chung. Hơn thế nữa, chính sách thuế xuất nhập khẩu hiện hành còn chưa bao quát hết nguồn thu, mức thuế suất bình quân của biểu thuế hiện hành còn thấp (xấp xỉ 8% kim ngạch), trong khi ở các nước trong khu vực như Thái Lan - 17%, Malaysia - 18%, Indonesia - 15%... mà các nước này cũng đang chuẩn bị gia nhập WTO như Việt Nam. Đại đa số các mặt hàng có mức thuế suất thấp hoặc thuế suất 0%, những mặt hàng có mức thuế suất cao (trên 40%) chiếm tỷ trọng thấp, trong khi có thể thu thuế nhập khẩu trên diện rộng ở một số nhóm mặt hàng.
- Mặc dù đã bắt đầu triển khai áp dụng việc xác định giá tính thuế nhập khẩu theo Hiệp định Trị giá Hải quan GATT/WTO từ 1/1/2004, song thời gian đầu do hạn chế về đối tượng áp dụng và một số vấn đề trong công tác chuẩn bị nên trên thực tế, hệ thống các văn bản pháp luật nói chung và hệ thống văn bản quy định giá tính thuế hàng nhập khẩu nói riêng còn chưa đồng bộ, chưa thống nhất, chưa tuân thủ một cách chặt chẽ nội dung của Hiệp định. Điều này khiến cho quá trình áp dụng rất phức tạp, cùng một lúc tồn tại nhiều quy định về giá tính thuế hàng nhập khẩu, do vậy không thể tránh khỏi gian lận thương mại qua giá. Việc áp dụng giá tính thuế nhập khẩu theo hợp đồng và loại bỏ hoàn toàn bảng giá tối thiểu về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu hội nhập nhưng với điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay, để kiểm tra được tính chính xác của giá thực thanh toán không đơn giản. Giá tính thuế nhập khẩu là một yếu tố hết sức quan trọng trong việc xác định số thuế nhập khẩu phải nộp, nó liên quan đến nhiều nội dung của Luật thuế xuất nhập khẩu, đồng thời cũng là tâm điểm chú ý của các doanh nhân cũng như các tổ chức quốc tế có quan hệ kinh tế với chúng ta. Hay nói một cách khác, giá tính thuế là một yếu tố hết sức nhạy cảm, có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến số thu ngân sách Nhà nước và ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng các quan hệ thương mại, đòi hỏi phải có các giải pháp để công tác quản lý giá tính thuế ngày càng hoàn thiện hơn.
- Về cơ bản, những quy định của chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành đã tạo thực hiện cho công tác quản lý hành chính cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng bên cạnh đó, vẫn còn một số quy định chưa rõ ràng, chưa đầy đủ, hay thay đổi. Việc thường xuyên sửa đổi biểu thuế suất thuế nhập khẩu tuy đáp ứng yêu cầu bảo hộ những ngành sản xuất non trẻ, phù hợp với sự xuất hiện nhiều mặt hàng mới trên thị trường nhưng lại gây khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện, đồng thời các doanh nghiệp sẽ bị động trong tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh theo phương án thuế thay đổi. Đã đến lúc các doanh nghiệp Việt Nam phải xây dựng được chiến lược kinh doanh, thương hiệu sản phẩm... để đứng vững trên thị trường quốc tế.
- Chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành vẫn còn chứa đựng quá nhiều mục tiêu. Việc theo đuổi các mục tiêu xã hội đã dẫn đến quy định chế độ miễn giảm thuế còn khá rộng (như miễn giảm thuế đối với hàng chuyên dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh, quốc phòng, nghiên cứu khoa học và giáo dục, đào tạo, máy móc thiết bị, vật tư nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài...) đã làm cho chính sách thuế thêm phức tạp, thiếu minh bạch, mất đi tính trung lập của thuế.
Xuất phát từ những hạn chế đã nêu ở trên em xin đưa một số hướng giải quyết nhằm hoàn thiện Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu để góp phần thúc đẩy hơn nữa hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp:
- Xây dựng biểu thuế nhập khẩu phù hợp với định hướng bảo hộ có chọn lọc đối với các ngành kinh tế trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Xuất phát từ định hướng của các ngành kinh tế và yêu cầu của các tổ chức thương mại quốc tế mà Việt Nam sẽ tham gia, chúng ta có thể chia các mức độ bảo hộ thành 5 cấp độ. Cấp độ bảo hộ của một ngành sẽ được xác định dựa vào hệ số bảo hộ hiệu quả và mức thuế suất bảo hộ hiệu quả và mức thuế suất bảo hộ danh nghĩa của ngành đó dự kiến trong tương lai.
Cụ thể:
+ Đối với những ngành mà Việt Nam thực sự có thế mạnh về xuất khẩu, lượng nhập khẩu không đáng kể (đây là nhóm ít bị ảnh hưởng tiêu cực của việc hội nhập và có cơ hội để mở rộng thị trường quốc tế), dự kiến hệ số bảo hộ hiệu quả là 11%, mức thuế cho sản phẩm đầu ra là 10%, đầu vào từ 0% - 3%.
+ Đối với những ngành hàng là đầu vào của các ngành sản xuất và được định hướng đầu tư phát triển trong tương lai cần có sự bảo hộ thích đáng hoặc một số ngành tuy đã được đầu tư nhưng không có hiệu quả, khả năng cạnh tranh thấp trong cả hiện tại và tương lai, số bảo hộ hiệu quả dự kiến là 50%, mức thuế cho sản phẩm đầu ra là 20%, mức thuế cho sản phẩm đầu vào từ 0% - 5%.
+ Đối với những ngành hàng mà trong nước đã sản xuất thay thế hàng nhập khẩu và những ngành hàng bước đầu đã có thế mạnh xuất khẩu nhưng vẫn cần có sự bảo hộ nhất định, hệ số bảo hộ hiệu quả dự kiến từ 55% - 80%, mức thuế cho sản phẩm đầu ra là 30%, mức thuế cho sản phẩm đầu vào từ 5% - 10%.
+ Đối với những ngành hàng có triển vọng lợi thế cạnh tranh do tận dụng nguồn nguyên liệu trong nước, sử dụng nhiều lao động nhưng hiện tại đang bị đe doạ bởi hàng ngoại nhập nên cần phải có sự bảo hộ thích đáng (như ngành dệt may, giày dép...), hệ số bảo hộ hiệu quả dự kiến khoảng 85% - 120%, mức thuế cho sản phẩm đầu ra là 40%, mức thuế cho sản phẩm đầu vào là 10%.
+ Đối với những ngành công nghiệp non trẻ nhưng trong tương lai sẽ trở thành ngành mũi nhọn của nền kinh tế và một số ngành có ý nghĩa trọng yếu đảm bảo an toàn cho sự phát triển nền kinh tế, cần được bảo hộ ở mức cao, hệ số bảo hộ hiệu quả dự kiến là 120% - 130%, mức thuế cho sản phẩm đầu ra là 50%, mức thuế cho sản phẩm đầu vào là 10% - 15%.
Sự phân chia cấp độ bảo hộ trên đây tỏ rõ quan điểm chính sách thuế nhập khẩu chi bảo hộ một cách chọn lọc cho những ngành hàng có triển vọng, có lợi thế so sánh, có khả năng xuất khẩu để được hưởng các ưu đãi theo Hiệp định thương mại mà Việt Nam đã ký kết và khi gia nhập WTO. Bên cạnh đó, cần thiết phải đưa ra các điều kiện ràng buộc đối với các doanh nghiệp để được hưởng lợi từ chính sách bảo hộ này như về tiêu chuẩn chất lượng của sản phẩm, giá thành sản phẩm hay tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm tuỳ theo từng nhóm ngành hàng...
- Tiếp tục hoàn thiện biểu thuế suất và thuế quan hoá các biện pháp phi thuế quan.
- Biểu thuế suất thuế nhập khẩu về cơ bản vẫn bao gồm các dòng thuế suất khác nhau, thuế suất phổ thông, thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất tạm thời, trong đó, thuế suất tạm thời được điều chỉnh theo những điều khoản riêng và không nhất thiết phải thể hiện cụ thể trong Biểu thuế nhập khẩu. Dòng thuế suất ưu đãi được áp dụng cho các nước có ký điều khoản MFN (điều khoản tối huệ quốc) với Việt Nam và cho các nước thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đây là khung thuế suất cơ bản được dùng để tính các khung thuế suất khác.
Bên cạnh đó, các mức thuế suất của biểu thuế nhập khẩu cũng phải được sắp xếp lại theo hướng thu hẹp. Thực hiện tăng thuế suất bình quân của biểu thuế nhập khẩu hiện hành bằng cách tăng dần thuế suất thuế nhập khẩu của một số mặt hàng đang có mức thuế suất thấp và những mặt hàng chưa phải cắt giảm theo cam kết với AFTA lên mức cao hơn, thực hiện thu trên diện rộng nhằm bao quát hết nguồn thu, đảm bảo duy trì tỷ lệ huy động từ thuế xuất nhập khẩu trong những năm tới đạt khoảng 13% - 14% trong tổng số thu ngân sách Nhà nước từ thuế.
- Cần xây dựng tiến độ và phương án cụ thể để thuế hoá các hàng rào phi thuế quan do một trong những nguyên tắc hàng đầu của WTO là chi bảo hộ bằng thuế quan, mọi hàng rào phi thuế quan phải được loại bỏ. Việc thuế hoá cần được tiến hành ngay, trong thời gian sớm nhất, một mặt sẽ tránh cho nền kinh tế gặp phải những biến động đột ngột khi ngay lập tực phải loại bỏ hàng rào phi thuế quan thay bằng hàng rào thuế quan, nhất là trong trường hợp chưa có các biện pháp hữu hiệu khác để bảo vệ hợp lý nền sản xuất nội địa và ngăn chặn gian lận thương mại. Đối với các ngành đang được bảo hộ cả bằng thuế và hàng rào phi thuế thì việc thuế hoá sớm sẽ có đủ thời gian để thích nghi dần với tình trạng được bảo hộ duy nhất và có thời hạn bằng thuế.
- Bổ sung áp dụng các hình thức thuế mới được WTO thừa nhận để bảo hộ nền sản xuất trong nước.
Mặc dù Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu số 04/1998/QH 10 ngày 20/5/1998 cho phép áp dụng thuể bổ sung đối với hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt Nam, hàng nhập khẩu được sự trợ cấp của Chính phủ nước xuất khẩu, cho đến thời điểm hiện nay, Việt Nam chưa từng áp dụng 2 loại thuế trên do chưa ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể việc điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp. Vì vậy, đã đến lúc chúng ta cần phải nghiên cứu và sớm áp dụng các công cụ bảo hộ mới phù hợp với các quy định của WTO, trong đó có thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp. Đây vừa là các công cụ pháp lý bắt buộc phải có để đối phó với hàng nhập khẩu khi bán phá giá hoặc được trợ cấp của nước xuất khẩu, vừa là vũ khí tốt trong đàm phán thương mại giữa Việt Nam với các nước đối tác trên thị trường quốc tế.
- Cần tiếp tục đẩy nhanh quá trình xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý cũng như các điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật và con người để có thể chính thức áp dụng giá tính thuế nhập khẩu theo Trị giá Hải quan GATT/WTO cho các hàng hoá nhập khẩu từ tất cả các thị trường quốc tế. Với điều kiện thực tế ở Việt Nam, nền tảng pháp lý còn thiếu đồng bộ, nền kinh tế thị trường còn đang non trẻ, hoạt động xuất nhập khẩu đã và đang chịu sự chi phối của luật pháp quốc gia hơn là tập quán quốc tê thì đòi hỏi thời gian và các điều kiện để đảm bảo áp dụng thành công Hiệp định Trị giá GATT/WTO hoàn toàn không đơn giản. Điều này đòi hỏi một sự phối hợp đồng bộ từ phía cơ quan Nhà nước, cơ quan Hải quan và cộng đồng doanh nghiệp.
Đồng thời, do yêu cầu phải loại bỏ bảng giá tối thiểu cũng như các hàng rào phi thuế, cần thiết bổ sung các công cụ bảo hộ mới được WTO công nhận như thuế tuyệt đối và hạn ngạch nhập khẩu. Việc bổ sung các công cụ này một mặt sẽ góp phần đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, mặt khác góp phần bảo hộ nền sản xuất trong nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Cần thu hẹp diện miễn giảm thuế xuất nhập khẩu nhằm đảm bảo cho chính sách thuế vừa đơn giản, rõ ràng, minh bạch trong quản lý, vừa đảm bảo tính trung lập của thuế. Đồng thời để hạn chế các trường hợp lợi dụng trốn thuế, lách thuế, chính sách thuế xuất nhập khẩu cần được sửa đổi theo hướng chi miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu đối với các hàng hoá chuyên dùng đặc biệt phục vụ cho an ninh, quốc phòng như: vũ khí, khí tài quân sự và các hàng hoá đặc dụng khác. Đối với các hàng hoá phục vụ cho giáo dục, đào tạo, y tế vẫn phải nộp thuế, trường hợp cần ưu đãi thì hỗ trợ qua Ngân sách nhà nước.
III. Những kiến nghị đối với các cơ quan Nhà nước:
1. Đối với Bộ Tài Chính:
Để đảm bảo việc xác định giá tính thuế phù hợp với nguyên tắc của quốc tế, cần sửa đổi quy định về cơ sở định giá tính thuế trong Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành để nâng cao tính pháp lý, thể hiện sự chủ động, tích cực của Việt Nam trong quá trình đàm phán gia nhập WTO.
Mặt khác, do ban hành từ năm 1991 nên Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng đang tồn tại một số điểm chưa phù hợp với Luật hải quan cũng như yêu cầu cải cách hành chính trong 2 lĩnh vực này.
Tuy nhiên, một điểm băn khoăn là phương pháp xác định trị giá tính thuế mới đang làm nảy sinh một số hiện tượng doanh nghiệp lợi dụng để “down” giá, hạn chế mức thuế phải nộp. Bộ Tài chính đã có giải pháp gì ngăn chặn tình trạng này khi quy định mới đi vào thực hiện đầy đủ?
Đây là một thách thức lớn của Bộ Tài chính khi thực hiện cam kết quốc tế về trị giá nhập khẩu theo GATT. Làm sao thực hiện được đúng giá tính thuế, hạn chế tình trạng trốn lậu thuế, nhưng vẫn đảm bảo công khai, minh bạch và công bằng cho doanh nghiệp là vấn đề nan giải nhất trong các chính sách mới về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Bộ Tài chính nên có những văn bản pháp luật hướng dẫn việc kê khai thuế đến các danh nghiệp để tránh tình trạng cố tình thực hiện không đúng quy định của Nghị định 60/NĐ-CP và các văn bản thực hiện GATT ở Việt Nam nhằm mục đích hạ thấp mức thuế mà họ phải chịu.
Tiếp theo, thiết lập dữ liệu về giá của hải quan đầy đủ, dễ so sánh đối chiếu đối với mọi mặt hàng đặc biệt đối với những mặt hàng mới, phức tạp.
Và thứ 3, đó đội ngũ cán bộ phải đảm bảo khả năng chuyên môn.
Tuy nhiên, về lâu dài nên đi theo đúng nguyên tắc của Hiệp định GATT, giá tính thuế phải là giá thực thanh toán cho hàng hoá nhập khẩu về đến cửa khẩu đầu tiên của Việt Nam. Đây được xác định là nhiệm vụ mà Bộ Tài chính phải từng bước thực hiện.
2 Đối với Tổng cục Hải quan:
Theo Công văn số 475/TCHQ-KTTT ra ngày 09/02/2006 về việc xử lý vướng mắc khi thực hiện chính sách thuế xuất nhập khẩu từ 01/01/2006, Tổng cục Hải quan hướng dẫn: nếu tại thời điểm đăng ký tờ khai hải quan, đối tượng nộp thuế chưa có đủ thông tin cần thiết cho việc xác định trị giá tính thuế, cơ quan hải quan sẽ chấp nhận cho thông quan hàng hoá nếu đối tượng nộp thuế nộp một khoản bảo đảm cho toàn bộ số thuế của lô hàng nhập khẩu. Khoản bảo đảm được thực hiện dưới hình thức bảo lãnh, đặt tiền ký quỹ hoặc các hình thức bảo đảm khác như bảo lãnh… Đối với trường hợp hàng xuất khẩu đã quá thời hạn nộp thuế hoặc quá 60 ngày kể từ ngày xuất khẩu sản phẩm nhưng doanh nghiệp không đến nộp hồ sơ thanh khoản (mặc dù hàng đã xuất khẩu) thì bị coi là nợ thuế quá hạn và không được áp dụng thời hạn nộp thuế là 275 ngày đối với các lô hàng nguyên liệu nhập khẩu tiếp theo...
Theo đánh giá chung của Tổng cục Hải quan, việc áp dụng quy trình quản lý hải quan hiện đại bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã phát sinh những vướng mắc cần sớm được giải quyết như: việc chuẩn bị các văn bản hướng dẫn thi hành Luật từ khâu soạn thảo, lấy ý kiến tham gia cho đến khâu hoàn thiện được thực hiện trong thời gian ngắn, đặc biệt là các quy trình nghiệp vụ, một số nội dung đổi mới quan trọng trong phương thức quản lý chưa được tổng kết hoặc chưa được triển khai thí điểm, rút kinh nghiệm dẫn đến một số trường hợp vướng mắc trong tổ chức thực hiện, đội ngũ cán bộ hải quan nhiều khi còn gây sách nhiễu cho các doanh nghiệp trong quá trình làm thủ thông quan hàng hoá…
3 Đối với cơ quan quản lý thuế:
Nộp vào nhanh - hoàn thuế quá chậm:
Các doanh nghiệp đều cho rằng những sửa đổi các chính sách thuế, thủ tục thu thuế, hải quan gần đây là “khá tích cực”, giúp doanh nghiệp giảm bớt chi phí đầu vào và công bằng hơn giữa các đối tượng nộp thuế (áp dụng mức thuế thu nhập doanh nghiệp chung 28%, bỏ thuế thu nhập bổ sung với doanh nghiệp trong nước…). Tuy nhiên, vướng mắc vẫn còn rất nhiều, nhất là vấn đề hoàn thuế chậm.
Theo khảo sát của Hiệp hội công thương Hà Nội, 84,21% doanh nghiệp cho biết việc hoàn thuế vẫn diễn ra rất chậm, trung bình từ 3 tháng trở lên, có trường hợp tới 237 ngày, thậm chí trên 1 năm với số tiền lên đến hàng trăm triệu đồng, có doanh nghiệp như Công ty Cà phê Thái Hòa có hồ sơ đề nghị hoàn thuế trên 1 tỷ đồng từ năm 2002 đến nay vẫn chưa được giải quyết. Việc hoàn thuế lâu nay có khiến nhiều doanh nghiệp khó khăn về vốn. Điều này có phần do quy định trong Luật Thuế giá trị gia tăng và Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Còn để tránh việc vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng thì thời gian tới chúng tôi sẽ cho khấu trừ ngay trong tháng tiếp theo hoặc hoàn ngay các khoản có giá trị trên 200 triệu đồng”. Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế cho biết: “Hướng tới sẽ trả lãi cho doanh nghiệp đối với các khoản hoàn thuế chậm so với quy định”. Đây là một hướng đi đúng đắn mang lại thuận lợi cho các doanh nghiệp.
4 Đối với Bộ xây dựng:
Với vai trò là cơ quan chủ quản của Tổng công ty Bộ xây dựng nên ban hành những văn bản quy phạm pháp luật trong phạm vi thẩm quyền của mình để giúp Tổng công ty nắm vững những quy định của pháp luật nói chung để đưa ra những văn bản hướng dẫn các đơn vị thành viên trong Tổng công ty được chính xác. Mặt khác, Bộ cũng phải có chế độ kiểm tra sát sao công tác thực thi pháp luật của Tổng công ty để có những biện pháp chỉnh đốn hợp lý.
5. Đối với Tổng công ty gốm xây dựng và thủy tinh Viglacera:
Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera là một công ty thành viên trong Tổng công ty. Do vậy, Tổng công ty hàng năm phải đưa ra những chiến lược nhằm tạo định hướng để toàn Tổng công ty phát triển thống nhất. Tổng công ty phải có sự chỉ đạo sát xao đối với công tác quản lý tổ chức và hoạt động của các công ty thành viên cũng như phải ban hành những văn bản hướng dẫn kịp thời cho các công ty thành viên để phổ biến cho toàn thể cán bộ công nhân viên trong Tổng công ty hiểu rõ những quy định hiện hành của pháp luật. Từ đó, sẽ tạo ra được thói quen kinh doanh theo đúng các quy định của pháp luật.
IV. Những kiến nghị đối với công ty:
Để thực hiện đúng những quy định của pháp luật nói chung và những quy định về thuế xuất nhập khẩu nói riêng thì yêu cầu hang đầu đối với doanh nghiệp đó là phải xây dựng cho mình một đội ngũ cán bộ có kiến thức pháp luật đầy đủ. Đây không phải là điều dễ dàng bởi vì hầu hết các cán bộ thực hiện các hoạt động có liên quan đến những quy định của pháp luật đều đã sẵn có những kiến thức về pháp luật. Do vậy công ty nên có những lớp bồi dưỡng, tuyên truyền kiến thức pháp luật đến toàn bộ các cán bộ công nhân viên. Điều này sẽ tránh được hiện tượng hiểu luật không đúng và thực hiện pháp luật theo cách hiểu của mình. Ngay trong lĩnh vực thuế, để hiểu đúng những quy định của luật thuế để thực hiện các nghiệp vụ có liên quan như soạn thảo hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá, làm thủ tục hòan thuế, thông quan cho hàng hoá xuất nhập khẩu, … các cán bộ của công ty phải có kiến thức đầy đủ về các quy định của luật thuế.
KẾT LUẬN
Gia nhập WTO là một bước ngoặt lớn trong tiến trình gia nhập kinh tế quốc tế và có tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Trước yêu cầu cấp bách của CNH – HĐH đất nước và những yêu cầu phát triển kinh tế Nghị quyết Đại hội Đảng IX – X đều khẳng định “ phải đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới “. Hiện nay, Vịêt Nam đã trở thành thành viên của WTO, đây là một sân chơi lớn mang tính toàn cầu.
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một nguồn thu quan trọng của Ngân sách nhà nước. Khi gia nhập WTO, chính sách thuế thay đổi rất nhiều làm nguồn thu ngân sách nhà nước giảm xuống. Do đó, việc hoàn thiện chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu trước yêu cầu hội nhập là một vấn đề quan trọng. Làm thế nào để chính sách thuế đáp ứng được yêu cầu của WTO mà chỉ ảnh hưởng rất nhỏ đến nguồn thu ngân sách, đồng thời phải khuyến khích được xuất khẩu? Đấy là vấn đề đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách, các nhà làm Luật để đưa ra các biện pháp tốt nhất. Một chính sách thuế xuất nhập khẩu hợp lý sẽ là đòn bẩy cho nền kinh tế phát triển.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, từ AFTA đến WTO là con đường mở rộng trước mắt để vươn lên phát triển mạnh mẽ và hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kì mới của đất nước, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước phát triển theo hướng hiện đại, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản pháp luật:
- Luật thuế xuất nhập khẩu 1991, 1993, 1998, 2005;
Nghị định 149/ 2005/NĐ-CP;
Quyết định 09/2003/QĐ- BTC;
Quyết định 35/2003/QĐ-BTC;
Quyết định 69/2003/QĐ-BTC;
Thông tư 07/2001/TT-TCHQ;
Thông tư 63/2001/TT- BTC;
Thông tư 91/2002/TT-BTC;
Cam kết về thuế quan của Việt Nam trong WTO.
Các bài viết tham khảo:
Giải pháp góp phần tăng cường hiệu lực pháp luật thuế hiện hành. Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8/2003;
Tiêu chuẩn về hoạt động của hệ thống quản lý thuê. Tạp chí Tài chính số 3/ 2003;
Phương hướng hoàn thiện hệ thống chính sách thuế đến 2010. Tạp chí tài chính số 4/ 2003;
Thực trạng và hướng hoàn thiện quản lý thuế. Tạp chí quản lý nhà nước số 12/ 2003;
Cải cách thủ tục hành chính đói với thuế xuất nhập khẩu. Tạp chí quản lý nhà nước số 12/ 2003;
Hoàn thiện chính sách thuế trong tình hình hội nhập WTO. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 7/2003;
Mười năm cải cách chính sách thuế nhà nước thành công và những bát cập. tạp chí nghiên cứu kinh tế số 4/ 2003;
Thuế xuất nhập khẩu Việt Nam trong xu thế hội nhập và tự do hoá thương mại quốc tế. Tạp chí phát triển kinh tế số 112/ 2000;
Thuế xuất nhập khẩu hợp lý sẽ khuyến khích sản xuất trong nước. Tạp chí công nghiệp số 24/ 2000;
Xuất nhập khẩu của Việt Nam trong 10 năm đầu của thế kỷ mới. Tạp chí công nghiệp số 20/ 2000.
Sách tham khảo:
Giáo trình quản lý thuế. Nxb. Thống kê – TS. Nguyễn Thị Bất; TS. Vũ Duy Hào.
Nghiệp vụ ngoại thương. NXB. Thống kê
Các trang web tham khảo bài viết:
Http//: Customs.gov.vn;
Http//: Mof.gov.vn;
Http//: Mpi.gov.vn;
Http//: Moi.gov.vn.
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5514.doc