Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005

Phần mở đầu. 1. Thực trạng của Việt Nam Sau khi hoà bình lập lại, dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào dồi dào và bền vững. Nhờ đó, chúng ta đã có thể tái thiết đất nước với những công nghệ hiện đại. Những nhà máy điện của ta có hiệu suất rất cao và tuân thủ những chỉ tiêu khắt khe về bảo vệ môi trường. Những nhà máy may mặc, giày dép, đồ nhựa, điện tử… ở nước ta là những nhà máy tối tân nhất trong vùng. Hiện nay, theo hãng cung cấp thông tin kinh tế EIU ở Anh thì hai lý do cản trở đầu tư trực

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1539 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiếp nước ngoài là: hạ tầng cơ sở nghèo nàn và trở ngại hành chính. Những xí nghiệp nước ngoài chủ yếu đầu tư vào nước ta ở những ngành công nghệ thấp. Dù là những ngành công nghệ thấp nhưng kỹ sư Việt Nam vẫn không có đủ kỹ năng nghiệp vụ để điều hành sản xuất. Còn những ngành công nghệ cao thì những thiết bị phức tạp được sản xuất ở nước ngoài sau đó mang vào nước ta để lắp ráp nhằm lợi dụng mức lương thấp của nguồn nhân lực thiếu kỹ năng nghiệp vụ. 2. Sự cần thiết của kế hoạch vốn đầu tư . Hoạt động đầu tư là các hoạt động làm tăng thêm quy mô của tài sản quốc gia. Tài sản quốc gia thường được phân chia thành hai nhóm là tài sản quốc gia sản xuất và tài sản quốc gia phi sản xuất. Việc nghiên cứu vấn đề đầu tư với tư cách là yếu tố nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế chỉ đặt ra khuôn khổ các hoạt động đầu tư vốn sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế. Vốn đầu tư sản xuất là toàn bộ giá trị các tư liệu sản xuất được hình thành từ các hoạt động đầu tư, nhằm bảo đảm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản sản xuất của quốc gia. Vốn đầu tư sản xuất được chia thành vốn đầu tư vào tài sản cố định và vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Vốn đầu tư vào tài sản cố định ngoài việc đáp ứng nhu cầu bù đắp hao mòn trong quá trình hoạt động của tài sản cố định nó còn đảm bảo các yêu cầu của quá trình mở rộng quy mô, dung lượng của nền kinh tế và yêu cầu cải tiến, hiện đại hoá phù hợp với yêu cầu của sự phát triển. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động một mặt đảm bảo các yêu cầu thường xuyên, ổn định các yếu tố gần như là nhu cầu hàng ngày của các ngành kinh tế, đó là nhu cầu dự trữ nguyên, nhiên liệu v.v… Mặt khác, nó giúp cho các nhà đầu tư tăng, giảm mức dự trữ hàng hoá tồn kho theo sự biến động của giá cả, một hiện tượng đặc trưng trong nền kinh tế thị trường. Tổng vốn đầu tư xã hội chính là đối tượng chủ yếu nhất của kế hoạch hoá vốn đầu tư kỳ kế hoạch của các quốc gia. Kế hoạch khối lượng vốn đầu tư là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch phát triển, nó xác định quy mô, cơ cấu tổng nhu cầu vốn đầu tư xã hội cần có và cân đối với các nguồn bảo đảm nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế trong thời kỳ kế hoạch. Trong hệ thống kế hoạch phát triển, kế hoạch khối lượng vốn đầu tư có vai trò quan trọng không những xuất phát từ vị trí của chính bộ phận kế hoạch này mà còn xuất phát từ mối quan hệ trực tiếp của kế hoạch vốn đầu tư với các kế hoạch khác. Kế hoạch khối lượng vốn đầu tư là kế hoạch một yếu tố nguồn lực có liên quan trực tiếp và là tiền đề quan trọng nhất để thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế. Kế hoạch khối lượng vốn đầu tư là kế hoạch khối lượng tài chính cần thiết để thực hiện kế hoạch tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản quốc gia, tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế và hiện đại hoá đất nước. Nhận thức vấn đề này chính là gắn chặt được ba khâu quan trọng trong quy trình tạo ra sự gia tăng của vốn đẩu tư sản xuất. đó là: Các ngành sản xuất, các yếu tố vật chất của vốn đẩu tư – nguồn vốn đầu tư – các ngành xây dựng cơ bản. Bảo đảm nguồn tiền vốn đầu tư thành vốn sản xuất vật liệu xây dựng, ngành sản xuất tư liệu sản xuất sẽ trực tiếp góp phần thực hiện được kế hoạch khối lượng vốn đầu tư. Như vâỵ, trong hệ thống kế hoạch phát triển, kế hoạch khối lượng vốn đầu tư là bộ phận kế hoạch biện pháp quan trọng. Nó có liên quan trực tiếp đến việc thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế, kế hoạch xây dựng cơ bản. 3. Vai trò vốn đầu tư FDI ở Việt Nam. Với mục tiêu thoát khỏi nước kém phát triển trước năm 2010 và cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 của nước ta đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư khổng lồ. Bên cạnh việc đẩy mạnh khai thác vốn trong nước, còn phải thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư nước ngoài có nhiều nguồn: nguồn đầu tư trực tiếp(FDI), nguồn vốn đầu tư hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), nguồn đầu tư gián tiếp thông qua thị trường chứng khoán ... Trong các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nguồn ODA tuy có lãi suất thấp, thời gian vay dài, lại có mười năm ân hạn, nhưng thực chất là nguồn vốn đi vay, mà có vay có trả, nếu sử dụng không hiệu quả thì nợ nần để lại cho con cháu cho tương lai sẽ lớn và trên thực tế từ năm 2003 đã phải trả lãi của những món vay từ cách đó mười năm. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường chứng khoán thời gian qua đã góp phần làm cho chỉ số chứng khoán tăng mạnh, đồng thời kiềm chế sự đao xuống của chỉ số này, nhưng lại có đặc điểm là nguồn tài chính ngắn hạn, đưa vào nhanh và rút ra cũng nhanh, đã từng gây bất ổn nếu nó rút ra ồ ạt. Nguồn FDI là nguồn đầu tư dài hạn, nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi, đóng góp đối với nền kinh tế về vốn, về thu hút lao động làm việc, đóng góp ngân sách, chuyển nhượng công nghệ ... nên nguồn vốn nay mang tính phổ biến và được nhiều nước ưa chuộng. Dòng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó không những giúp chúng ta giải quyết được vấn đề thiếu vốn đầu tư mà còn có tác dụng nhiều mặt như: Giải quyết việc làm, lao động; mở rộng các mặt hàng trên thị trường và đây còn là một kênh có hiệu quả để thực hiện chiến lược chuyển giao công nghệ ở Việt Nam. Chương I. Cơ sở lý lụân và thực tiễn về kế hoạch vốn FDI. 1.Các khái niệm. Vốn đầu tư là các chi phí bỏ ra để làm gia tăng quy mô của vốn sản xuất. Vốn đầu tư sản xuất là toàn bộ giá trị các tư liệu sản xuất được hình thành từ các hoạt động đầu tư, nhằm bảo đảm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản sản xuất của quốc gia. Kế hoạch vốn đầu tư là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch phát triển, nó xác định quy mô cơ cấu, tổng nhu cầu vốn đầu tư xã hội cần có và cân đối với các nguồn bảo đảm nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế trong thời kỳ kế hoạch. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hoặc công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quả lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. Các hình thức của vốn FDI phân theo tính chất dòng vốn: Vốn chứng khoán: Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do một công ty trong nước phát hành. Vốn tái đầu tư: Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh trong quá khứ để đầu tư thêm. Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ: Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp. 2. Các lợi ích của vốn FDI. 2.1. FDI bổ sung nguồn vốn trong nước. Cũng như các nước đang phát triển và có nền kinh tế chuyển đổi, Việt Nam đang đứng trước hai vấn đề quan trọng có liên quan đến có liên quan đến vốn đầu tư để đảm bảo tốc độ tăng trưởng. Tỷ lệ huy động vốn trong nước thong qua kênh tiết kiệm và các khoản thu của Nhà nước không đáp ứng được nhu cầu vốn đầu tư. Hàng chục năm qua, tỷ lệ huy động của Việt Nam dưới mức 20%GDP, trong khi đó, tỷ lệ huy động phải từ 30%GDP trở lên. Khoản chênh lệch ít nhất 10% này nếu không tìm được nguồn thì sẽ tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng. Tình trạng nhập siêu không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của CNH đất nước, dẫn đến thiếu hụt ngoại tệ trong nhiều năm. Có thể giải quyết các vấn đề trên bằng cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có vốn FDI. Nhiều công trình nghiên cứu của thế giới đã chỉ ra rằng, FDI nói chung và nhất là FDI từ các công ty xuyên quốc gia có tác động: Kích thích các công ty khác tham gia đầu tư vào nước chủ nhà; Là một tác nhân để thu hút vốn viện trợ phát triển (ODA) từ các nước và các tổ chức quốc tế; Gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế và do đó tăng tỷ lệ huy động vốn trong nước. So với đầu tư gián tiếp và vay thương mại thì FDI là dòng vốn ổn định hơn lại được các nhà đầu tư cam kết lâu dài, mà vịêc trả các khoản tiền vay quốc tế cũng thuận lợi hơn đối với nước chủ nhà. Hoạt động FDi cũng có quan hệ với thị trường vốn trong nứơc. FDI cung cấp phương tiện để kích thích thị trường vốn hoạt động, đồng thời hoạt động của các doanh nghiệp FDI thúc đẩy thương mại quốc tế, tạo ra các nguồn ngoại tệ thặng dư cho thị trường vốn trong nước; hơn nữa, nếu có chính sách đúng đắn, cho các doanh nghiệp FDI tham gia vào thị trường chứng khoán sẽ tạo diều kiện cho thị trường này mở rộng nhanh chóng. 2.2. FDI với việc nâng cao năng lực sản xuất và công nghệ. Một trong định hướng quan trọng cho nền kinh tế thị trường cho nền kinh tế ở Việt Nam hịên nay là tăng nhanh tiềm lực kinh tế bằng cả chiều rộng và chiều sâu, vừa tăng them sản lượng của các năng lực sản xuất hiện có, xây dựng mới nhiều xí nghiệp với quy mô thích hợp, mở thêm nhiều ngành nghề mới vừa đổi mới nhanh chóng công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng năng suất lao động, hạ thấp chi phí sản xuất. FDI có thể tác động đến cả chiều rộng và chiều sâu của quá trình tăng trưởng, nếu Việt Nam hình thành được chính sách kinh tế vĩ mô thích hợp tạo được môi trưòng đầu tư và kinh doanh đủ sức thu hút vốn FDI, nhất là từ các công ty xuyên quốc gia. Theo nghiên cứu của một số chuyên gia kinh tế vào năm 1995, đã đánh giá tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh tế trên cơ sở dữ liệu của các dòng chảy FDI từ các nước công nghiệp phát triển sang 69 nước đang phát triển trong vòng hai thập niên, đã đưa ra ba kết luận: FDI là một phương tiện để chuyển giao công nghệ, đóng góp cho tăng trưởng tương đối nhiều hơn so với đầu tư trong nước. FDI có tác dụng làm tăng tổng mức đầu tư trong một nền kinh tế hơn là tăng từng phần; điều đó nói lên địa vị ưu thế của tính bổ sung đối với các công ty trong nước. FDI có thể tạo ra năng suất cao hơn đầu tư trong nước nếu nước chủ nhà có nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu. Những kết luận naỳ rất phù hợp với thực tế Việt Nam trong 15 năm qua. FDI không chỉ góp phần cải tạo mốt số năng lực sản xuất hiện có thông qua việc thiết lập các liên doanh giữ nhà đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước, chủ yếu là thuộc quốc doanh; những doanh nghiệp này vốn có công nghệ lạc hậu, sản xúât không hiệu quả; từ khi đưa vào liên doanh hầu như đã đổi mới cơ bản hoặc toàn bộ công nghệ, tạo ra năng suất cao hơn và sản phẩm có chất lượng hơn. Trong thời gian khoảng một thập kỷ, Việt Nam đã hình thành đựơc một số ngành kinh tế quan trọng có công nghệ hiện đại như thăm dò, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông, cơ khí điện tử, công nghệ phần mềm … nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã có đủ năng lực tham gia nhiều công trình đòi hỏi công nghệ cao của nước ngoài. 2.3. FDI với việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Trong thập kỷ 90 của thế kỷ trước, mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam hàng năm bình quân khoảng 25%, thuộc vào loại cao nhất trong khu vực. Chỉ tính riêng lĩnh vực xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo, nếu năm 1991 chỉ có 158 triệu USD, năm 1995 là 2.864 triệu USD và năm 2000 là 5.850 triệu USD, bằng 37 lần năm 1991. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nứơc ngoài đã góp phần quan trọng gia tăng nhanh chóng kim ngạch xuất khẩu. Trong những năm đầu thời kỳ đổi mới và mở cửa, phần lớn các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực chế tạo có khuynh hướng sản xuất cho thị trường trong nước. Thời kỳ 1988-1990, chỉ có khoảng 20% dự án được phê chuẩn có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu trên 50%; Thời kỳ 1991-1997, tỷ lệ này tăng dần và sau năm 1997 đã đạt đến trên 70% dự án FDI có sản phẩm xuất khẩu từ 50% trở lên. 2.4. FDI với việc làm và nguồn nhân lực. Việt Nam đã có trên 45 vạn người lao động có việc làm trực tiếp trong các doanh nghiệp FDI với mức thu nhập trung bình cao hơn 2 lần so với các doanh nghiệp khác cùng nghành nghề. Đó là chưa kể hàng triệu việc làm được tạo ra trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, dịch vụ cung ứng hàng hoá, phân phối sản phẩm, tiếp thị… Vấn đề việc làm cần được nghiên cứu trong tổng thể mục tiêu thu hút FDI, bao gồm cả việc chuyển giao công nghệ, hình thành một cơ cấu kinh tế hiện đại. Không thể đạt được nhiều mục tiêu trong cùng một dự án đầu tư, mà phải tuỳ thuộc vào lĩnh vực, ngành nghề để điều chỉnh các mục tiêu, tạo ra sự hài hoà giữa các mục tiêu của dự án đầu tư. Vấn đề có liên quan đến việc làm là tạo nguồn nhân lực cho đất nước trong quá trình công nghiệp hoá. Con số trên 45 vạn người chưa phải là nhiều so với nhu cầu cần có việc làm mỗi năm từ 1.2 -1.3 triệu người ở Việt Nam. Nhưng quan trọng hơn là só lao động này được tiếp cận với công nghệ hiện đại, đáp ứng được tiếp cận với công nghệ hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của phương thức sản xúất tiên tiến, có kỷ luật lao động cao, một số chuyên gia trong nước đã có thể thay thế dần và có hiệu quả trong quản trị doanh nghiệp, trong tiếp thị, làm chủ các quy trình công nghệ … 2.5. FDI với hiệu quả kinh tế - xã hội tổng quát Ngoài những tác động đối với các vấn đề cụ thể trên đây, FDI còn có liên quan đến những chỉ tiêu tổng quát về kinh tế - xã hội, như tăng năng suất lao động xã hội, cán cân thanh toán quốc tế, các định chế tiền tệ, tín dụng, đóng góp vào nguồn thu của ngân sách, góp phần làm thay đổi phương thức làm việc, cải thiện môi trường sống của xã hội. FDI có tác động tăng năng suất lao động xã hội trong trường hợp: Các doanh nghiệp FDI được xây dựng nhà máy có quy mô thích hợp nhằm đạt được hiệu quả tối đa. Các sản phẩm được xuất khẩu trên thị trường rộng lớn của thế giới.Cũng có trường hợp sản phẩm chỉ được tiêu thụ trên thị trường nội địa, nhưng quy mô của sản xuất bảo đảm suất đầu tư có hiệu qủa, có nghĩa là dung lượng thị trường nội địa về loại sản phẩm đó không quá ít. Đối với các nước đang phát triển như nước ta thì FDI có tác động đến cán cân thanh toán quốc tế lớn hơn nhiều so với các nước công nghiệp phát triển. Là nước nhận đầu tư, một lượng vốn hàng năm 2-3 tỷ USD đã được đưa vào nước ta, một phần bằng máy móc, nguyên vật liệu nhập khẩu để hình thành doanh nghiệp, một phần không dưới 30% bằng ngoại lệ mạnh để trang trải các chi phí ban đầu ở trong nước. Quá trình kinh doanh nhờ vào gia tăng kim ngạch xuất khẩu vượt quá kim ngạch nhập khẩu, các doanh nghiệp FDI đã tạo một nguồn ngoại tệ tham gia vào việc cân bằng cán cân thanh toán. FDI đóng vai trò kích thích việc cải cách và hoàn thiện thể chế tiền tệ, tín dụng, ngoại hối ở nước ta. FDI đóng góp ngày càng quan trọng vào nguồn thu ngân sách từ các khoản thuế trực tiếp do doanh nghiệp nộp, cho đến các khoản gián tiếp do FDI tạo ra cho các hoạt động dịch vụ, thương mại, thuế thu nhập của người lao động. Tác động quan trọng nhất của FDI trong gần 20 năm qua là góp phần làm thay đổi bộ mặt đát nước, làm cho ngừơi Việt Nam tiếp cận các chuẩn mực quốc tế trong các lĩnh vực hoạt động. trong những năm qua, thu nhập của dân cư tăng lên khá nhiều, tỷ lệ đói nghèo giảm đi rõ rệt. 3. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Trung Quốc và bài học cho Việt Nam. 3.1. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Trung Quốc. a. Kết quả đạt được Trong thời kỳ 1992-1995 là thời kỳ Trung Quốc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với tốc độ cao. Nguyên nhân của tình hình này là do Đại hội 14 Đảng Cộng Sản Trung Quốc (1992)đã quyết định thực hiện đẩy mạnh tốc độ cải cách và mở cửa, đẩy mạnh các hoạt động tài chính – tiền tệ Châu Á làm cho vốn đăng ký theo dự án giảm, nhưng vốn thực hiện vẫn tăng; tuy mức tăng thấp hơn các năm trước. Từ khi Trung Quốc cải cách mở cửa, các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư dưới ba hình thức doanh nghiệp: doanh nghiệp hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Quy mô dự án đầu tư chủ yếu là vừa và nhỏ, nhưng từ những năm 1993, các dự án lớn ngày càng tăng. bảng1 vốn bình quân cho dự án thời kỳ 1993- 1998 đơn vị: Triệu USD Năm 1993 1994 1995 1998 vốn 1.336 1.714 2.403 3.000 Nguồn: Niên giám thống kê của Tổng cục thống kê Trung Quốc Các dự án đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc mang tính sản xuất chiếm tỷ trọng lớn trong đó tập trung ở lĩnh vực nông nghiệp là chủ yếu.Từ năm 1986, Trung Quốc có sự điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Các dự án công nghiệp có hiệu quả chiếm hơn 90% tổng số và trên 70% tổng vốn nước ngoài đầu tư vào. Từ những năm 90, tuy tình hình đầu tư nước ngoài có sự thay đổi nhưng cơ cấu đầu tư cho công nghiệp vẫn được đảm bảo. Đến cuối năm 1998, tỷ trọng các dự án đầu tư vào ngành công nghiệp là57.1% các ngành nông nghiệp, nghề rừng, chăn nuôi gia súc, nghề cá, bảo vệ nguồn nước là 5%, dịch vụ là36%. Trước đây vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào khu vực duyên hải miền Đông, còn miền Tây và miền Trung vẫn rất hạn chế. Hiện nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài đang có chuyển dịch vào nội địa, đặc biệt là vào khu vực miền trung và miền tây, sau khi có một loạt chính sách khuyến khích của Chinh phủ Trung Quốc. b. Những chủ trương, chính sách, biện pháp đã áp dụng nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc * Mở rộng địa bàn thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từng bước, nhiều tầng, ra mọi hướng. Trung Quốc đã tiến hành mở cửa từng khu vực, bắt đầu từ việc thành lập 5 lập đặc khi kinh tế, sau đó là việc mở cửa thành phố ven biển, 13 thành phố ven biên giới nhằm mở rộng thương mại và đầu tư vùng biên. * Môi trường luật pháp. Cho đến nay Trung Quốc đã ban hành trên 500 văn bản gồm các bộ luật và pháp quy liên quan đến thương mại và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Luật pháp được xây dựng trên nguyên tắc: Bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng tập quán quốc tế. * Tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các chủ trương, biện pháp được hướng vào cải tạo cơ sở hạ tầng, thực hiện các ưu đãi ( như ưư đãi thuế đối với khu vực đầu tư, ưu đãi thuế theo kỳ hạn kinh doanh và ưu đãi thuế trong tái đầu tư), đa dạng hoá các hình thức đầu tư và chủ đầu tư. 3.2. Vận dụng kinh nghiệm của Trung Quốc vào việc hoàn thiện chính sánh thu hút FDI của Việt Nam. - Sự kiên định trong cải cách, mở cửa, sự nhất quán trong quan điểm và chiến lược phát triển kinh tế Trung Quốc đã tạo ra sự đồng bộ giữa hệ thống chính sách mở cửa hội nhập, thu hút FDI là cơ sở của một hệ thống chính sách thu hút FDI “tích cực, hợp lý, hữu hiệu” ở Trung Quốc. Từ điều này cho thấy muốn hoạt động FDI của Việt Nam trong những năm đầu gia nhập WTO đạt hiệu quả, thì chúng ta cũng phải tiếp tục kiên định đường lối đổi mới và mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đánh giá đúng vị trí, vai trò của FDI. - Sự thành công vượt trội của Trung Quốc trong thu hút FDI cũng xuất phát từ sự điều chỉnh chính sách linh hoạt. Đối với Việt Nam, việc gia nhập WTO đã đặt nền kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam đứng trước sự cạnh tranh gay gắt hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Chính vì vậy chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư, có định hướng đầu tư thích hợp, đặt trọng tâm vào việc làm cho môi trường đầu tư mang tính cạnh tranh hơn, xoá bỏ mọi ưu đãi vượt quá nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO theo hướng: + Tiếp tục xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên chế độ sở hữu đa dạng, phát triển kinh tế thị trường, tạo động lực và gây áp lực để tạo mọi chủ thể trong nền kinh tế không ngừng tự hoàn thiện vươn lên để có thể tham gia vào một sân chơi bình đẳng với các đối tác nước ngoài. Đối với hoạt động FDI, củng cố và hoàn thiện chế độ sở hữu đa dạng là một sự bảo đảm để khẳng định tư cách pháp lý và pháp nhân của nhà đầu tư nước ngoài thông qua quá trình luật hoá. Kinh nghiệm của Trung Quốc giúp ta nhận thức rằng, mở cửa kinh tế và thừa nhận sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đã tạo ra năng lực sản xuất mới cho các nền kinh tế chuyển đổi. + Chúng ta cũng cần tiếp tục hoàn thiện các công cụ tài chính ngân hàng, công cụ tiền tệ theo hướng tham gia vào việc quản lý và bình ổn kinh tế vĩ mô. +Tiếp tục hoàn thiện và ổn định hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư, làm cho luật pháp Việt Nam nhất quán, động bộ và phù hợp với luật pháp quốc tế, các quy định của WTO. +Tiếp tục đẩy mạnh việc chuyển sang điều tiết nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy việc xác lập thể chế thị trường là điều không thể thiếu trong mở cửa thu hút FDI. +Chúng ta cũng cần phải tiếp tục cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng và dịch vụ phụ kèm cho đầu tư, nâng sức cạnh tranh của nền kinh tế, vì điều này liên quan đến chất lượng của dòng vốn đầu tư, đến khả năng dung nạp FDI của nền kinh tế. + Trung Quốc rất thành công trong phát triển công nghệ phụ trợ và dịch vụ kèm đầu tư. Điều đó chỉ ra cho chúng ta hướng đi để tận dụng xu thế phát triển của thế giới, biến mình thành một mắt khâu trong mạng lưới sản xuất quốc tế, tham gia vào quá trình phân đoạn sản xuất; lợi dụng phân công lao động quốc tế để chuyển giao công nghệ, phát triển lực lượng sản xuất, tạo việc làm phù hợp với trình độ của lao động Việt Nam. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam trở thành một thị trường bổ sung cho thị trường nước lớn. Chúng ta cần có những biện pháp thích hợp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có chiến lược đào tạo nhân lực theo hướng đa dạng về chất lượng, đáp ứng yêu cầu ở nhiều công đoạn sản xuất từ thấp đến cao. - Chúng ta cần tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào việc phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong đó đặc biệt coi trọng thu hút FDI vào vào các ngành, các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, nhất là công nghệ cao, công nghệ nguồn, xây dựng kết cấu hạ tầng. Trong chính sách cơ cấu thu hút FDI cũng phải chú trọng đặc điểm về trình độ của người lao động Việt Nam để có định hướng đầu tư thích hợp, tạo việc làm, khai thác lợi thế so sánh về nguồn lao động giá rẻ, kết hợp phát triển các ngành nhiều lợi thế, có tính truyền thống bản địa với các ngành công nghệ cao để có thể sử dụng nhiều tầng công nghệ. Vì vậy Nhà nước cần tạo ra môi trường để các doanh nghiệp tự do lựa chọn công nghệ, khuyến khích tạo điều kiện nhập khẩu máy móc hiện đại, lựa chọn mua bán công nghệ, đẩy mạnh công tác tư vấn và định hướng phát triển công nghệ cho các doanh nghiệp. Vốn đầu tư của nhà nước nên tập trung để nâng cấp cơ sở hạ tầng tương thích cho sự thu hút FDI vào những ngành có hàm lượng cồng nghệ cao. - Nhằm chống đỡ những rủi ro phát sinh trong quá trình hội nhập, giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực của FDI, chúng ta cần kết hợp chính sách kinh tế, chính sách thu hút FDI với các chính sách xã hội, bảo vệ môi trường, an ninh quốc gia, giữ gin bản sắc dân tộc … - Từ kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc phát huy tinh thần dân tộc của Hoa kiều thì Việt Nam cũng cần có những chính sách ưu đãi hơn nhằm mục đích sử dụng nguồn lực từ Việt kiều có hiệu quả. Giới lãnh đạo Trung Quốc đã xây dụng, điều chỉnh chính sách FDI một cách linh hoạt nên nó được đánh giá là hợp lý, đem lại hiệu quả cao, thể hiện ở hoạt động FDI tại Trung Quốc luôn mang lại nhiều tác động tích cực đối với nền kinh tế và mọi mặt của đời sống. Việc học tập kinh nghiệm của Trung Quốc để xây dựng, điều chỉnh chính sách thu hút FDI cho mình là việc làm rất cần thiết đối với Việt Nam. Đó cũng là cách để chúng ta khẳng định: đổi mới luôn gắn liền với mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ cơ hội mà thời đại dành cho những nước đi sau thông qua các hoạt động kinh tế đối ngoại như thương mại quốc tế và đầu tư, tham gia vào cạnh tranh quốc tế với tư cách tích cực. Với tư cách là thành viên của WTO, Việt Nam cần có những động thái tích cực nhằm tiếp tục cải thiện môi trường, thể chế đầu tư để có thể thu hút và sử dụng FDI ngày càng hiệu quả, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá, thực hiện các cam kết với WTO. Chương II thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam giai đoạn 2001-2005 I . Kết quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2001-2005 1. Đặc điểm tình hình chung của giai đoạn 2001-2005 1.1. Thuận lợi Về trong nước: - Tình hình kinh tế chính trị xã hội nước ta tiếp tục ổn định và nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh đã tạo ra thế và lực mới cho nền kinh tế Việt Nam. Giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao. GDP tăng bình quân 7.4% /năm, riêng năm 2005 đạt mức tăng trưởng 8.4%, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16.5%, giá trị sản xuất ngành dịch vụ tăng 8.7%, tổng khả năng xuất khẩu tăng 20% , tạo thêm được 1.6 triệu việc lam mới. Năm 2005, khu vực kinh tế này đóng góp khoảng 15.5%GDP, 37%giá trị sản xuất công nghiệp và 55%khả năng xuất khẩu của cả nước. - thể chế kinh tế thị trường đang hình thành và vận hành có hiệu quả, nhiều cơ chế, chính sách đi vào cuộc sống. Tiến trình hoàn thiện môi trường pháp lý đang được đẩy nhanh để đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thóáng, hấp dẫn. - Nhiều văn bản pháp luật quan trọng được ban hành trong thời gian gần đây như Luật đầu tư, luật doanh nghiệp áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, luật đấu thầu; đồng thời Quốc hội sê xem xét thông qua một số đạo luật mới. - Việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng đã tăng lên đắng kể, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tiến hành các hoạt động kinh doanh. - Chủ trương tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI tiếp tục được khẳng định trong các văn kiện của Đảng, nhất là từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Đặc biệt đầu năm 2005, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 13/2005/CT- TTg ngày 8/4/2005 về một số giải pháp nhằm tạo chuyển biến mới trong việc thu hút FDI tại Việt Nam. - Trong năm qua, Chính phủ đã chỉ đạo cán Bộ ngành, địa phương tăng cường cải thiện môi trường đầu tư trên cả phương diện quản lý, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao cơ sở hạ tầng, chống tham nhũng và đào tạo cán bộ. Về quốc tế - Nằm trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương phát triển năng động, Việt Nam có nhiều cơ hội thu hút các nguồn lực quốc tế cho đầu tư phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. - Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng. Đến nay, Việt Nam đã ký kết Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 49 nước, Hiệp định tránh đánh thuế trung với 40 nước. Đặc biệt về cơ bản đã kết thúc việc đàm phán gia nhập WTO đã tạo ra cơ hội lớn về mở rộng thị trường xuất khẩu và khả năng thu hút FDI của Việt Nam. - Vốn FDI đã chuyển mạnh sang các nền kinh tế đang phát triển, đặc biệt là các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh, và các nền kinh tế mới nổi để giảm chi phí đầu tư và tiếp cận đến các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang tăng giá đột biến trên thị trường thế giới để khai thác phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh tại các nền kinh tế đó. 1.2. Khó khăn Về trong nước - Là giai đoạn đầu thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010. Mục tiêu phát triển đặt ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn này khó thực hiện hơn giai đoạn trước vì những yếu tố phát triển nền kinh tế theo chiều sâu. - Là giai đoạn Việt Nam hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Mức độ cạnh tranh ở thị trường trong nước ngày càng gay gắt, gây bất lợi cho các doanh nghiệp FDI. - Thiên tai dịch bệnh ảnh hưởng không nhò đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp FDI. - Một số Nghị định của Chính phủ ban hành và có hiệu lực ban hành trong thời gian gần đây đã bắt đầu gây ra một số khó khăn cho hoạt động FDI Về quốc tế - Sức ép cạnh tranh quốc tế gia tăng cùng với tiến trình hội nhập là thách thức to lớn đối với nền kinh tế còn yếu về tiềm lực kinh tế và sức cạnh tranh như Việt Nam. - Biến động bất thường của thị trường thế giới về giá cả một số nguyên liệu nhập khẩu đã ảnh hưởng khá lớn đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp FDI. Những đặc điểm trên cũng ảnh hưởng đồng thời lên hoạt động thu hút và triển khai các dự án FDI ở Việt Nam. 2. Kết quả thu hút vốn FDI tại Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005. 2.1. Các chỉ tiêu thu hút Nghị định số 09/2001/NĐ – CP ngày 28/8/2001 về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả FDI giai đoạn 2001-2005 đã xác định mục tiêu thu hút mới cho giai đoạn này là 12 tỷ USD (trung bình mỗi năm thu hút 2.4 tỷ USD). Trong đó, Bộ kế hoạch đầu tư xác định vốn FDI thu hút mới trong năm 2005 là 4.5 tỷ USD. 2.2. Kết quả thực hiện thu hút vốn FDI * Về quy mô và tốc độ thu hút - Đây là thời kỳ phục hồi chậm chạp của hoạt động FDI tại Việt Nam. Trong giai đoạn này, Việt Nam đã thu hút được 20.8 tỷ USD vốn FDI, trong đó năm 2001 đã thu hút được 30 tỷ đồng chiếm 17.6% tổng vốn đầu tư xã hội, năm 2002 đã thu hút được 34.5 tỷ chiếm 17.3% tổng vốn đầu tư xã hội, năm 2003 đã thu hút được 37.8 tỷ đồng chiếm 16.3% tổng vốn đầu tư xã hội, năm 2004 đã thu hút được 44.2 tỷ đồng chiếm 16.1% tổng vốn đầu tư xã hội, năm 2005 đã thu hút được 53 tỷ đồng chiếm 16.3% tổng vốn đầu tư xã hội. Bảng1. kết quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2001-2005 Giá hiện hành chỉ tiêu đơn vị 2001 2002 2003 2004 2005 tổng vdtxh nghin đồng 170.5 199.1 231.6 275 326 vốn FDI nghin đồng 30 34.5 37.8 44.2 53 %tỏng vdt xh % 17.6 17.3 16.3 16.1 16.3 nguồn: kế hoạch phát triển kt –xh 5 năm 2006-2010 Vốn đăng ký (vdk) năm 2001 bằng 123% so với năm 2000. Hai năm tiếp theo vốn tiếp tục giảm: năm 2002 vdk chỉ bằng 88% so với năm 2001, năm 2003 chỉ bằng 96.6% so với năm 2002. Chỉ sang năm 2004 FDI mới thực sự bắt đầu phục hồi đạt hơn 4.2 tỷ USD nhưng vẫn chưa đạt được con số của năm 1998, và đến cuối năm 2005, FDI tăng gần 40% đạt 5.9 tỷ USD nhưng vẫn chỉ xấp xỉ con số của năm 1997 (đây là năm FDI chịu tác động rõ rệt của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực). Giai đoạn 2001-2005, cả nước đã thu hút được khoảng gần19.3 tỷ USD vốn FDI mới, giảm 24% so với 25.37 tỷ USD giai đoạn 1996-2000. Trong đó, vốn cấp mới chỉ bằng có 60% giai đoạn 1996-2000, tăng vốn gấp 1.7 lần và vốn giải thể chỉ bằng 75%so với giai đoạn trước. Vốn còn hiệu lực tính cho đến cuối năm 2005 là khoảng 50 tỷ USD. Nếu tính chung cho cả vốn cấp mới và tăng vốn thì thời kỳ 2001-2005 chỉ hơn thời kỳ 1996-2000 gần 3%. Sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn FDI năm 2005 tằng 21%, cao hơn mức tăng trưởng chung của công nghiệp cả nước là 16.5%. Thành quả này có được chủ yếu là do thị trường xuất khẩu của một số sản phẩm công nghiệp được mở rộng, giá dầu thô tăng cao và có thêm nhiều doanh nghiệp FDI mới đi vào h._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0199.doc
Tài liệu liên quan