Thực trạng thu hút FDI của Hoa kỳ tại Việt Nam

Chương 1: Đầu tư quốc tế và vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Lý luận về đầu tư quốc tế: Khái niệm đầu tư quốc tế: Đầu tư quốc tế là một quá trình kinh tế trong đó các nhà đầu tư nước ngoài ( tổ chức hoặc cá nhân) đưa vốn hoặc bất kỳ hình thức giá trị nào vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận hoặc đạt được các hiệu quả xã hội. Hợp tác đầu tư quốc tê giữa các nước là xu hướng có tính quy luật trong đi

doc44 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1685 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng thu hút FDI của Hoa kỳ tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều kiện tăng cường quốc tế hóa đời sống kinh tế hiện nay Các hình thức đầu tư quốc tế: Đầu tư gián tiếp: Đây là hình thức đầu tư quốc tế mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn là hai chủ thể khác nhau.Đầu tư quốc tế được thực hiện theo các dạng sau đây: + Viện trợ quốc tế không hoàn lại: Các chính phủ, các tổ chức tài chính, kinh tế xã hội của các nước thong qua các chương trình viện trợ không hoàn lại để trợ giúp các nước chậm phát triển. Chẳng hạn như chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình nước sạch, chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc… của Việt Nam hiện nay, chương trình lương thực thế giới. + Viện trợ quốc tế có hoàn lại: Các chính phủ, các tổ chức tài chính cho các nước đang phát triển vay để phát triển kinh tế, xã hội với lãi suất thấp. + Các doanh nghiệp tư nhân của các nước phát triển cho vay (thông qua bán chịu hang hóa với giá cao hơn giá theo quan hệ mậu dịch thông thường), là việc các cá nhân người nước ngoài bỏ tiền mua trái phiếu của chính phủ, các nước nhận đầu tư để hưởng tiền lãi. Trong các hình thức đầu tư gián tiếp trên đây thì viện trợ không hoàn lại hoặc viện trợ có hoàn lại với lãi suất thấp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước nhận đầu tư. Các nước nhận đầu tư có thể nhận được những khoản vốn lớn đủ cho phép giải quyết dứt điểm từng vấn đề phát triển kinh tế xã hội của nước mình một cách nhanh chóng (Hàn Quốc, Thái Lan và một số nước khác là những ví dụ điển hình) Tuy nhiên hình thức đầu tư này thường gắn với sức ép về chính trị, buộc các nước nhận đầu tư phải chấp nhận một sự rang buộc với nước chủ đầu tư. Nước nhận đầu tư phải trả giá về mặt chính trị, chí ít cũng là sự lên tiếng ủng hộ nước chủ đầu tư khi cần thiết. Đầu tư trực tiếp (FDI): Đây là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu tư và người sủ dụng vốn là một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài (các chủ đầu tư) trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, sử dụng vốn đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi vốn đã bỏ ra. Trong thực tiễn đầu tư trực tiếp được thực hiện dưới các dạng sau đây: + Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh: Đây là một loại hình đầu tư trong đó các bên tham gia hợp đồng ký kết thỏa thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư, trên cơ sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho các bên tham gia. Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm quyền của các bên hợp danh ký. Thời gian có hiệu lực của hợp đồng do các bên thỏa thuận và được cơ quan có thẩm quyền của nước nhận đầu tư chuẩn y. + Doanh nghiệp liên doanh: Do các bên nước ngoài với nước chủ nhà cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn góp. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật nước nhận đầu tư. Mỗi bên liên doanh chiu trách nhiệm đối với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn của mình trong vốn pháp định. Tỷ lện góp vốn của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài do các bên liên doanh thỏa thuận. + Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo luật pháp nước chủ nhà. Một vài dạng đặc biệt của hình thức đầu tư 100% vốn đầu tư nước ngoài là: Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyen giao (BOT), hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT). Đây là các dạng đầu tư được áp dụng đối với các công trình xây dựng cơ sỏ hạ tầng. Khu vực tập trung FDI Khu chế xuất là khu vực lãnh thổ có ranh giới địa lý xác định do chính phủ nước nhân đầu tư cho phép thành lập, trong đó có thể có một hoặc nhiều xí nghiệp sản xuất hang hóa chủ yếu phục vụ xuất khẩu hoặc thay thế nhập khẩu. Trong khu chế xuất, áp dụng chế độ tự do thuế quan, tự do mậu dịch. Để khu chế xuất hoạt động có hiệu quả, nước sở tại cần phải đảm bảo một số điều kiện nhất định về địa điểm đặt khu chế xuất, công tác quản lý, thủ tục hành chính, về dịch vụ cung cấp cho khu chế xuất, về môi trường hấp dẫn đầu tư. Nguyên nhân của đầu tư quốc tế: Theo những biến động về tình hình di chuyển vốn quốc tế về vốn, đề tài đã rút ra được những nguyên nhân chủ yếu sau: Sự phát triển của thương mại quốc tế từ lẩu đã đạt tới mức đòi hỏi phải có sự phát triển của đầu tư quốc tế, phải dựa vào đầu tư quốc tế mới có hiệu quả và tiếp tục phát triển trong tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường thế giới. Sự phát triển của các phương tiện giao thông, thông tin, liên lạc… đã giúp cho các chủ đầu tư mở rộng không gian đầu tư. Thể chế chính trị, kinh tế - xã hội của các quốc gia đã có nhiều thay đổi phù hợp với xu thế quốc tế hóa lực lượng sản xuất. Tình hình an ninh quốc tế ngày càng tốt hơn, đặc biệt là thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, cùng với toàn cầu hóa là xu hướng khu vực hóa kinh tế thế giới. Vai trò của đầu tư trực tiếp FDI đối với nước nhận đầu tư và nước đi đầu tư: Vai trò đối với nước nhận đầu tư Tác động tích cực: Tăng trưởng kinh tế: FDI tác động tích cực đến các yếu tố quan trọng quyết định đến sự tăng trưởng: bổ sung vốn trong nước và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và phát triể khả năng công nghệ nội địa, phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm, thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận với thị trường thế giới, tạo liên kết giữa các ngành công nghiệp. FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn, ngoại tệ của các nước nhận đầu tư đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Hầu hết các nước đang phát triển đều rơi vào "vòng luẩn quẩn" đó là: thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp rồi hậu quả lại là thu nhập thấp. Tình trang luẩn quẩn này chính là "điểm nút" khó khăn nhất mà các nước này phải vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo tăng trưởng kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng trì trệ của sự nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo được một điểm đột phá chính xác một mắt xích của "vòng luẩn quẩn" này. Trở ngại lớn nhất để thực hiện điều đó đối với các nước đang phát triển đó là vốn đầu tư và kỹ thuật. Vốn đầu tư là cơ sở để tạo công ăn việc làm trong nước, đổi mới công nghệ, kỹ thuật, năng suất lao động… Từ đó tạo tiền đề để tăng thu nhập, tăng tích lũy cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên để tạo vốn cho nền kinh tế nếu chỉ trông mong vào tích lũy nội bộ thì hậu quả khó tránh khỏi sẽ là tụt hậu trong sự phát triển chung của xã hội. Do đó, vốn đầu tư nước ngoài là "cú hích" góp phần đột phá cái vòng luẩn quẩn đói nghèo của các nước đang phát triển. Đặc biệt FDI là một nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu hụt vốn mà không gây nợ cho nước nhận đầu tư. Hơn nữa luồng vốn có lợi thế hơn vốn vay ở chỗ: thời hạn trả nợ vốn vay thường cố định và đôi khi quá ngắn đối với một dự án đầu tư, còn thời hạn FDI thì thường linh hoạt hơn. Như vậy FDI không những là một nguồn quan trọng không chỉ để bổ sung nguồn vốn nói chung mà cả sự thiếu hụt về ngoại tên nói riêng bởi FDI góp phần nhằm tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng xuất khẩu của nước nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ các công ty nước ngoài, thu ngoại tệ từ các hoạt động dịch vụ phục vụ cho FDI. FDI giúp phát triển khả năng công nghệ của nước chủ nhà, điều này thể hiện qua hai khía cạnh là chuyễn giao công nghệ có sẵn có từ bên ngoài và phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ nhà. Đây là những mục tiêu quan trọng được nước chủ nhà mong đợi từ các nhà đầu tư nước ngoài. Chuyền giao công nghệ thông qua FDI thường được thực hiện chủ yếu bởi các tập đoàn xuyên quốc gia (transnational corporations – TNCs) và chuyển giao giữa các chi nhánh của các TNCs. Những năm gần đây, các hình thức này thường đan xen nhau với các đặc điểm rất đa dạng, Phần lớn công nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của TNCs sang nước đang phát triển ở hình thức 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh có phần lớn vốn nước ngoài, dưới các hạng mục chủ yếu như những tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ, công nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công nghệ marketing. Nhìn chung các TNCs rất hạn chế chuyển giao những công nghệ mới có tính cạnh tranh cao cho các chi nhánh của chúng ở nước ngoài vì sợ lộ bí mật hoặc mất bản quyền công nghệ do việc bắt chước, cải biến hoặc nhái lại công nghệ của công ty nước chủ nhà. Bên cạnh việc chuyển giao công nghệ sẵn có, thông qua FDI các TNCs còn góp phần tích cực đối với tăng cường năng lực nghiên cứu và phát triển công nghệ của nước chủ nhà. Các hoạt động nghiên cứu và phát triển của các chi nhánh TNCs ở nước ngoài đó là cải biến công nghệ cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương. Dù vậy, các hoạt động cải tiến công nghệ của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều mối quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sỏ nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trong nước. Nhờ đó đã gián tiếp tăng cường năng lực phát triển công nghệ địa phương. Mặt khác, trong quá trình sử dụng công nghệ nước ngoài, các nhà đầu tư và phát triển công nghệ trong nước học được cách thiết kế, chế tạo…công nghệ nguồn, sau đó cải biến cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương và biến chúng thành công nghệ của mình. Nhờ những tác động tích cực trên, khả năng công nghệ của nước chủ nhà được tăng cường, vì thế nâng cao năng suất các thành tố, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng. Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm: FDI ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tạo ra công ăn việc làm thông qua việc cung cấp việc làm trong các hang có vốn đầu tư nước ngoài. FDI còn tạo cơ hội việc làm trong các tổ chức khác khi các nhà đầu tư nước ngoài mua hàng hóa dịch vụ từ các nhà sản xuất trong nước, hoặc thuê họ thông qua các hợp đồng gia công chế biến. Thông qua trợ giúp tài chính hoặc mở các lớp đào tạo nghề, FDI còn góp phần quan trọng đối với phát triển giáo dục của nước chủ nhà trong lĩnh vực giáo dục đại cương, dạy nghề, nâng cao năng lực quản lý. Tóm lại, FDI đem lại lợi ích về công ăn việc làm. Đây là một tác động kép: tạo thêm việc làm cũng có nghĩa là tăng thêm thu nhập cho người lao động, từ đó tạo điều kiện tăng tích lũy trong nước. Tuy nhiên trong sự đóng góp của FDI đối với việc làm trong các nước nhận đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và khả năng kỹ thuật của nước đó. FDI thúc đẩy xuất khẩu và tiếp cận thị trường thế giới FDI giúp liên kết các ngành công nghiệp: được biều hiện chủ yếu qua tỷ trọng giá trị hàng hóa, dịch vụ trao đổi trực tiếp từ công ty nội địa trong tổng giá trị trao đổi của các công ty nước ngoài ở nước chủ nhà. Ngoài ra FDI còn tác động đến cạnh tranh và độc quyền góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế có hiệu quả, giúp cơ cấu kinh tế nước chủ nhà chuyển dịch theo hướng hợp lý hơn đó là tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp khai thác trong GDP, thúc đẩy sự hòa nhập vào khu vực và quốc tế của nước chủ nhà. Tác động tiêu cực: Khi tiếp nhận FDI có nghĩa là nước chủ nhà đã mở cửa giao lưu với nền văn hóa các dân tộc trên thế giới, do đó ngoài việc tiếp thu những điều tốt đẹp không thể tránh khỏi việc du nhập những lối sống không tốt cho nền văn hóa dân tộc… FDI có thể là mối đe dọa đến an ninh kinh tế của nước chủ nhà thông qua thao túng một số ngành sản xuất quan trọng, những hàng hóa thiết yếu hoặc đẩy mạnh đầu cơ, buôn lậu, rút chuyển vốn đi nơi khác… Hơn thế nữa, vì mục tiêu theo đuổi lợi nhuận cao, không loại trừ việc các tập đoàn xuyên quốc gia TNCs có thể can thiệp gián tiếp vào các vấn đề chính trị của nước chủ nhà. Các nước đang phát triển có nguy cơ trở thành bãi rác công nghệ do chuyển giao công nghệ cũ, công nghệ không phù hợp với điều kiện của các nước đang phát triển, giá cả đắt hơn thực tế làm cho phía nước chủ nhà bị thiệt thòi trong quá trình chia lợi nhuận do định giá công nghệ quá cao so với giá trị thực tế của nó. Sàn xuất và quảng cáo sàn phẩm ảnh hưởng xấu tới sức khỏe con người như: rượu bia, thuốc lá, thực phẩm sử dụng nhiều hóa chất. Coi thường lao động, xúc phạm lao động trong một số trường hợp, khai thác cạn kiệt sức lao động của người làm thuê, làm tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các cá nhân, giữa các vùng… Vai trò của FDI đối với nước đi đầu tư: Đối với các nước đi đầu tư, vai trò của FDI chủ yếu thể hiện ở những tác động tích cực, cụ thể ở một số khía cạnh như sau: Khi thị trường trong nước đã bão hòa về một lọa sản phẩm nào đó thì việc đầu tư ra nước ngoài vẫn đem lại một khoản lợi nhuận cao về loại sản phẩm đó do nhu cầu về loại sản phẩm đó ở các nước đang phát triển vẫn là rất lớn. Việc đầu tư ra nước ngoài ở các công ty có thể tránh được tình trạng cạnh tranh gay gắt diễn ra ở trong nước đi đầu tư. Các công ty xuyên quốc gia đi đầu tư có thể tận dụng được những yếu tố mà ở trong nước họ không thể có được, ví dụ như: nguồn lao động rẻ, nguồn tài nguyên phong phú mà quốc gia họ không có, thị trường tiêu thụ rộng lớn hơn… Tại thời điểm khi mà một loại công nghệ có thể đã lỗi thời ở quốc gia họ thì ở các quốc gia đang phát triển đó lại là những công nghệ mới, hiện đại, FDI giúp các nước đi đầu tư tiếp tục thu được ích lợi từ những công nghệ mà nếu sử dụng trong nước không có tác dụng gì nữa. Mặt khác, trong quá trình đầu tư ra nước ngoài thì các nhà đầu tư có thể tận dụng thêm được những công nghệ từ các nước nhận đầu tư hoặc có thể cải biến để những công nghệ mới trở nên có giá trị. Đặc điểm và xu hướng của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới hiện nay: Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài: Các chủ đầu tư nước ngoài phải góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, tùy theo luật đầu tư nước ngoài (tại Việt Nam khi liên doanh số vốn góp của bên nước ngoài phải lớn hơn hoặc bằng 30% vốn pháp định). Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Đối với doanh nghiệp liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh thì quyền quản lý doanh nghiệp và quản lý đối tượng hợp tác tùy thuộc và vốn góp của các bên khi tham gia, còn đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì người nước ngoài (chủ đầu tư) toàn quyền quản lý doanh nghiệp. Lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ vốn góp. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau. Đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà còn gắn liền với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý và tạo ra thị trường mới cho cà phía đầu tư và phía nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài hiện nay gắn liền với các hoạt động kinh doanh quốc tế của các công ty đa quốc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ít chịu sự chi phối của Chính phủ và do các nhà đầu tư hoặc doanh nghiệp tư nhân thực hiện, đặc biệt ít bị phụ thuộc vào mối quan hệ giữa nước của chủ đầu tư và nước gián tiếp nhận đầu tư so với các hình thức di chuyển vốn khác như ODA. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo một nguồn vốn dài hạn cho nước chủ nhà. Do đó, nước chủ nhà sẽ được tiếp nhận một nguồn vốn lớn bổ sung cho vốn đầu tư trong nước mà không phải lo trả nợ. Trong đầu tư trực tiếp nước ngoài quyền sở hữu và quyền sử dụng gắn liền với chủ đầu tư. Thành viên của hội đồng quản trị và việc điều hành, quản lý quá trình sản xuất kinh doanh được phân theo tỷ lệ vốn góp. Quyền lợi của chủ đầu tư được gắn liền với lợi ích do đầu tư mang lại. Xu hướng của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới: 2.1.Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới chủ yếu vận động trong nội bộ các nước công nghiệp phát triển nhưng hiện nay tỷ trọng của dòng vốn này giảm dần: Các nước công nghiệp phát triển có trình độ công nghệ cao, cạnh tranh gay gắt nhưng sức mua lớn, môi trường kinh tế tăng trưởng và ổn định. Mặt khác, một nước không bao giờ sản xuất được tất các sản phẩm tốt với hiệu quả cao nhất, vì vậy dòng vốn vận động chủ yếu trong nội bộ các nước công nghiệp phát triển. Vào cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90, nền kinh tế các nước công nghiệp phát triển đi vào suy thoái, môi trường đầu tư kém lợi nhuận, trong khi do quá trình quốc tế đời sống kinh tế thế giới, các nước đang phát triể ban hành các chính sách tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Kết quả là, xu hướng đầu tư vào các nước phát triển giảm dần, đầu tư vào các nước đang phát triển tăng lên. Ngoải ra, do cuộc khủng hoảng cách mạng khoa học kỹ thuật đã làm cho nhu cầu thay thế và đổi mới công nghệ lạc hậu được đưa sang các nước đang phát triển và chậm phát triển để thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, đây là một nhân tố làm tăng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước đang phát triển và chậm phát triển. 2.2. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới chủ yếu vận động trong nội bộ các nước cùng khu vực: Xu hướng này xuất hiện là do quá trình hình thành các liên kết kinh tế - chính trị trong các khu vực như: khu vực ASEAN, khu vực tự do Bắc Hoa Kỳ (NAFTA), EU… Các liên minh, liên kết này có những chính sách phát triển kinh tế thống nhất và khuyến khích đầu tư cùng khối, cùng khu vực. Ngoài ra, các nước cùng khu vực có sự tương đồng về văn hóa cho nên dòng vốn chu chuyển giữa các quốc gia cùng khu vực chiếm tỷ trọng rất lớn. 2.3. Có sự thay đổi lớn về tương quan lực lượng các chủ đầu tư trên thế giới: Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, các chủ đầu tư lớn tập trung ở các nước Anh, Hoa Kỳ, nhưng từ năm 1980 đến nay vai trò của các chủ đầu tư Anh, Hoa Kỳ giảm dần. Trong đó sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và sự tăng giá của các đồng tiền, vai trò của các chủ đầu tư Nhật, Pháp, Đức… có xu hướng tăng lên (đặc biệt là các chủ đầu tư Nhật Bản) 2.4. Có sự thay đổi về cơ cấu và lĩnh vực đầu tư: Hiện này, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một số ngành có xu hướng tăng như: Công nghệ chế biến, công nghệ cao, dịch vụ, ngân hàng…Còn các ngành như: Thực phẩm, khai thác tài nguyên thiên nhiên, sử dụng nhiều lao động có xu hướng giảm dần. Các chủ đầu tư thường tập trung vào các dự án có quy mô nhỏ, tài nguyên chất lượng, có sự ưu đãi của chính phủ và tận dụng thị trường nước sở tại 2.5. Khu vực Đông Á và Đông Nam Á đang trở thành nơi hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Khu vực Đông Á và Đông Nam Á có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và ổn định. Các quốc gia trong khu vực ban hành chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài tạo ra môi trường đầu tư ổn đinh, thông thoáng. Ngoài ra, sự tăng giá của đồng Yên Nhật và chính sách đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản và một số quốc gia khác cũng góp phần không nhỏ trong việc làm tăng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực này. Đồ thị : tốp 10 quốc gia thu hút nhiều FDI nhất Châu Á Theo đồ thị thì trong 10 quốc gia thu hút FDI nhiều nhất Châu Á thì có tới 5 quốc gia thuộc khi vực Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Kinh nghiệm của Trung Quốc: Trung Quốc được coi là một quốc gia thành công trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Từ thập kỷ 80, Trung Quốc đã xuất hiện trong danh sách 10 nước đang phát triển đứng đầu thế giới về thu hút FDI. Đặc biệt, trong những năm gần đây với lượng FDI tiếp nhận trung bình mỗi năm khoảng gần 50 tỷ USD. Trung Quốc đã trở thành nước thu hút FDI nhiều nhất Châu Á và là một trong 5 nước thu hút được nhiều FDI nhất thế giới. So sánh với Việt Nam Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng cơ bản về điểu kiện phát triển và lựa chọn mô hình kinh tế chuyển đổi. Hơn nữa, Việt Nam đã chậm hơn so với Trung Quốc gần 10 năm trong việc thu hút FDI. Vì vậy, việc xem xét học tập kinh nghiệm thu hút FDI phục vụ quá trình hiện đại hóa của Trung Quốc sẽ rất bổ ích đối với nước ta. Kết quả mà Trung Quốc đạt được thể hiện đường lối đúng đắn của Chính phủ trong việc hoạt động thu hút và sử dụng vốn FDI. Có thể nói hơn 20 năm qua, Trung Quốc đã tuần tự hình thành cục diện mở cửa, đó là: Khu vực ưu đãi thuế quan, đặc khu kinh tế, khu khai phát ngành nghề kỹ thuật, khu khai phát ngành nghề kỹ thuật cao – mới, thành phố mở cửa ven biển, thành phố mở cửa ven sông, nội địa và biên giới. Sau khi gia nhập WTO tháng 11/2001, Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra hàng loạt chính sách, cơ chế nhằm cải thiện môi trường đầu tư. Đó là Thực hiện miễn thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng cho các thiết bị sản xuất nhập khẩu Khuyến khích thành lập công ty buôn bán với nước ngoài, mở cửa thêm một số lĩnh vực mà trước đây người nước ngoài không được đầu tư như viễn thông, bảo hiểm. Ngăn ngừa các khoản chi phí bất hợp lý, bảo đảm khoản thu hợp phap của doanh nghiệp. Mở rộng quyền hạn cho từng địa phương, khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao. Một trong những nguyên nhân khiến Trung Quốc thu hút FDI nhiều và liên tục là về công nghiệp phụ trợ trong nước của họ kết nối tốt với khu vực FDI, điều mà các nhà đầu tư rất cần vì họ có thể tiết kiệm được chi phí đầu tư. Như vậy, với hàng loạt các chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài cùng với những tiềm năng vốn có của đất nước Trung Quốc đã được đánh giá là nước có môi trường đầu tư thuận lợi nhất Châu Á. Vì vậy, nhằm thu hút được các dự án đầu tư mới từ Hoa Kỳ và giành được sự tin cậy từ những doanh nghiệp đã đầu tư vào Viêt Nam thì cần phải cải thiện môi trường đầu tư để không thua kém so với Trung Quốc và các nước trong khu vực. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA MỸ TẠI VIỆT NAM I. Tác động của hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ đến đầu tư FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam 1. Nội dung chủ yếu về hoạt động đầu tư giữa Việt Nam và Hoa Kỳ theo tinh thần Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ: Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) có hiệu lực tháng 12.2001 Những nội dung chủ yếu về quan hệ đầu tư giữa Việt Nam và Hoa Kỳ được trình bày trong Chương 4 gồm 15 điều của Hiệp định. Ngoài ra, nội dung về quan hệ đầu tư còn được trình bày ở Phụ lục H và I; các thư trao đổi của đại diện 2 phía tham gia ký kết hiệp định thương mại về chế độ cấp giấy phép đầu tư; và ở Điều 1, Điều 4 Chương 7 của Hiệp định. Nội dung về quan hệ đầu tư giữa Việt Nam và Hoa Kỳ thể hiện trong Hiệp định là hai Bên cam kết dành thuận lợi cho các nhà đầu tư được hoạt động kinh doanh đầu tư trên thị trường của nhau phù hợp với các thông lệ và quy định của quốc tế. Theo đó, Việt Nam phải bảo đảm môi trường đầu tư mang tính minh bạch: các luật lệ, chính sách, thủ tục hành chính… có liên quan đến hoạt động đầu tư phải được đăng công khai. Cam kết chung - Dành bảo hộ không bị sung công đối với đầu tư Mỹ ở Việt Nam - Quyền giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư với nhà nước, quyền được chọn nhân sự điều hành cao cấp - Cho phép tự do chuyển tiền trên cơ sở đãi ngộ quốc gia Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) Việt Nam sẽ loại bỏ dần các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại không phù hợp với WTO (ví dụ yêu cầu về hàm lượng nội địa) trong 5 năm, và các TRIMs khác (yêu cầu xuất khẩu sản phẩm) trong khung thời gian tương tự. Đãi ngộ quốc gia - Việt Nam cam kết dành đãi ngộ quốc gia chung, có một số ngoại lệ. Phân luồng đầu tư - Sẽ dần dần loại bỏ hoàn toàn cho hầu hết các lĩnh vực trong thời hạn 2, 6, hoặc 9 năm (tuỳ thuộc vào ngành đầu tư, ví dụ đầu tư vào khu công nghiệp hoặc đầu tư vào lĩnh vực chế tạo), nhưng Việt Nam bảo lưu quyền phân luồng đầu tư trong một số ngành. - Bỏ hạn chế góp vốn trong liên doanh. - Sau 3 năm sẽ xoá bỏ yêu cầu Mỹ trong liên doanh phải đạt tối thiểu 30%, xoá bỏ yêu cầu bán phần góp vốn của Mỹ cho đối tác Việt Nam và thay bằng quyền được mua trước. Hoạt đông của liên doanh. - Sau 3 năm sẽ xoá bỏ yêu cầu một số thành viên Hội đồng Quản trị phải là người Việt Nam, và hạn chế số vấn đề cần phải đạt được sự đồng thuận trong Hội đồng Quản trị (tức là những vấn đề mà thành viên Việt Nam được quyền phủ quyết). Phân biệt giá. - Loại bỏ dần mọi phân biệt về giá đối với các nhà đầu tư hoặc cá nhân Mỹ (về điện nước, giao thông, thuê nhà cửa, v.v...) ngay hoặc sau 2-4 năm tuỳ theo loại giá. Quan hệ đầu tư giữa hai Bên Hoa Kỳ và Việt Nam về cơ bản được thiết lập dựa trên 2 nguyên tắc: Đối xử quốc gia và đối xử Tối huệ quốc. Ø      Nguyên tắc Đối xử quốc gia trong hoạt động đầu tư được hiểu là các khoản đầu tư như: việc thành lập, mua lại, mở rộng, quản lý, điều hành, vận hành, bán hoặc định đoạt đầu tư bằng các cách khác, mỗi Bên dành cho Bên khi họ hoạt động đầu tư trên đất nước mình sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các khoản đầu tư của công dân hoặc công ty của nước mình. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp trong nước được hưởng những quyền lợi và nghĩa vụ nào trong hoạt động đầu tư thì các nhà đầu tư nước ngoài cũng có những nghĩa vụ và quyền lợi tương tự, hay nói cách khác, các nhà đầu tư Việt Nam được hưởng những ưu đãi và thuận lợi nào trong hoạt động đầu tư thì cũng phải dành cho công dân và các công ty Mỹ những ưu đãi và điều kiện tương tự (thực hiện bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước). Ø      Nguyên tắc Tối huệ quốc trong hoạt động đầu tư được hiểu là các khoản đầu tư như: việc thành lập, mua lại, mở rộng, quản lý, điều hành, vận hành, bán hoặc định đoạt đầu tư bằng các cách khác mỗi Bên dành cho Bên kia khi họ hoạt động đầu tư trên đất nước mình sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các khoản đầu tư của công dân hoặc công ty của nước thứ ba trên lãnh thổ của mình. Điều đó có nghĩa là Việt Nam đã dành những ưu đãi thuận lợi nào cho công dân hoặc công ty của một nước thứ ba khi họ đầu tư vào Việt Nam, thì cũng phải dành những ưu đãi tương tự cho công dân và các công ty Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ở Khoản 2 Điều 2 Chương 4 của Hiệp định cũng cho phép mỗi Bên có thể ban hành hoặc duy trì những ngoại lệ trong một số các lĩnh vực hoặc một số vấn đề nêu rõ trong Phụ lục H. Các quy định áp dụng cho một số lĩnh vực cụ thể được tóm tắt như sau: Quy định về bãi bỏ chế độ thẩm định cấp giấy phép đầu tư nước ngoài tại Việt Nam:    TRỪ một số ngoại lệ, Việt Nam cam kết chuyển từ chế độ cấp giấy phép đầu tư sang chế độ đăng ký hoạt động đầu tư đối với các dự án đầu tư của phía Hoa Kỳ vào Việt Nam, theo lộ trình tính từ ngày Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực như sau: Các dự án của Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam Thời hạn áp dụng kể từ HĐ có hiệu lực 1. Các dự án đầu tư vào khu công nghiệp và khu chế xuất; các dự án có vốn đầu tư đến 5 triệu USD Sau 2 năm 2. Các dự án đầu tư vào sản xuất có vốn đầu tư đến 20 triệu USD Sau 6 năm 3. Mọi dự án đầu tư nước ngoài TRỪ những dự án ngoại lệ nêu trong Phụ lục H Sau 9 năm 2. Đánh giá tác động Đánh giá tác động sau 5 năm thực hiện Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ đối với thương mại, đầu tư và cơ cấu kinh tế của Việt Nam, các chuyên gia của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) nhận định, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng mạnh, nhất là trong những lĩnh vực mà Việt Nam có thể mạnh xuất khẩu. Chuyên gia Steve Perker của Dự án Hỗ trợ thúc đẩy thương mại (Star - Việt Nam) của USAID cho biết, tác động kinh tế trực tiếp nhất của BTA là việc trao Quy chế quan hệ thương mại bình thường (MFN) cho hàng Việt Nam. Thị trường Hoa Kỳ vừa được mở cửa là một lối thoát cho lợi thế cạnh tranh bị dồn nén của Việt Nam, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước đầu tư vào các ngành nghề có nhiều khả năng xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Minh chứng cho làn sóng đầu tư này là ngay khi Hiệp định được kấ nháy ở cấp độ kỹ thuật vào năm 1999, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào các lĩnh vực này đã tăng mạnh. Riêng trong giai đoạn 1999 - 2005, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ba lĩnh vực quần áo và hàng dệt may, giày dép, chế biến gỗ và đồ gỗ đã tăng bảy lần, từ 120 triệu USD trong năm 1999 lên tới 851 triệu USD trong năm 2005 và sau đó tăng gần gấp đôi lên 1,5 tỷ USD trong năm 2006. Tỷ lệ của các lĩnh vực này trong tổng vốn đầu tư được đăng kấ tăng từ chỉ 3% trong năm 2006 lên đỉnh điểm là 27% trong năm 2003, trước khi quay trở về mức 12% trong năm 2006, khi đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các lĩnh vực khác bắt đầu tăng trưởng mạnh hơn, cũng là khi tác động chung của Hiệp định và các hoạt động cải cách khác bắt đầu có tác dụng đối với toàn bộ nền kinh tế. Chuyên gia của Star - Việt Nam cũng cho rằng, thời điểm của sự gia tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài rất quan trọng. Do hậu quả của cuộc khủng hoảng tại châu á, sự gia tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài liên quan đến BTA bắt đầu trở nên mạnh mẽ vào năm 1999, chiếm gần như toàn bộ sự tăng trưởng trong tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong các giai đoạn từ 1999 đến 2003 và đó là một nguồn kích thích cực kỳ quan trọng đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam nói chung. Trong giai đoạn từ 2000 đến 2005, đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ba lĩnh vực này chiếm 16% trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được đăng ký, so với mức 5% của năm 1999. Sự tăng trưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tác động mạnh mẽ đến cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu của hàng Việt Nam sang Hoa Kỳ đã tăng 8 lần trong giai đoạn 2001 - 2006, trong đó đáng chú ý là tỷ lệ tăng trưởng này là nhờ đa dạng hoá các nhóm hàng chế tác. Năm 2001, khi chưa có Hiệp định, 78% hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ là hàng sơ chế, chủ yếu là tôm và các sản phẩm dầu khí. Chỉ hai năm sau khi thực hiện Hiệp định, các mặt hàng xuất khẩu chế tác đã chiếm 72% tổng giá trị xuất khẩu sang Hoa Kỳ, sau đó chững lại ở mức 74 -75%. Sự gia tăng ban đầu chủ yếu là hàng may mặc, nhưng sau từng năm, các hàng chế tác ngoài may mặc cũng đã gia tăng mạnh mẽ. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đã phải trả giá không nhỏ cho sự gia tăng này. Do đầu tư nước ngoài vào hàng xuất khẩu tăng mạnh, nhu cầu nguyên liệu đầu vào cũng tăng theo trong ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4751.doc
Tài liệu liên quan